Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; được Đảng, Nhà nước quan tâm phát triển trong mọi giai đoạn cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, thì HTXNN cũng được chuyển đổi cả về nội dung và hình thức hoạt động theo Luật Hợp tác xã (HTX) (ban hành năm 1996), nhằm thích ứng kịp thời với môi trư

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng sản xuất - kinh doanh mới. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, mô hình HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết năm năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật hợp tác xã mới (Luật HTX năm 2003), và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Đó là căn cứ thực tiễn và pháp lý quan trọng để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Do vậy, việc nghiên cứu kinh tế HTX vẫn là vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Do vậy, phải quan tâm phát triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp. Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX (ban hành 1996), HTX kiểu mới nói chung và HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình có bước phát triển mới, đã đáp ứng được một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh hiện nay còn yếu kém nhiều mặt, một số lớn HTX chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho các thành viên chưa nhiều, HTXNN kiểu mới phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó. Những hạn chế, yếu kém của HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cả về khách quan, chủ quan; cả về kinh tế, chính trị, xã hội; đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới HTXNN cả về nội dung và phương thức hoạt động theo Luật HTX năm 2003 cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của tỉnh. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài "Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay" làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTXNN là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, vấn đề HTXNN là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Trong đó, có những công trình tiêu biểu được công bố như: - Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: "Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đây đến khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, phác họa một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX. - Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: "Kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển", Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. - Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ: "Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các tác giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về "Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp". Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác ở Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về "Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp". Tác giả trình bày vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ thực tiễn" của Nguyễn Văn Tuất, Tạp chí Khoa học về chính trị, số 3, 2002. - "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta" của PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1, 2002. Một số bài viết của tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa, Hoàng Việt... Nhìn chung, các công trình đã nghiên cứu trên nhiều khía cạnh của kinh tế HTXNN. Trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình HTX kiểu cũ, luận giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mô hình HTX theo Luật HTX (1996); các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể nói chung theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng IX. Cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình trên, vận dụng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và cập nhật những điểm mới của Luật HTX năm 2003 vào nghiên cứu, đánh giá hoạt động của các HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX 1996) ở Thái Bình, để từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Khảo sát, đánh giá hoạt động của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ năm 1997 (khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Khái quát lại những vấn đề cơ bản về HTXNN kiểu mới: nội dung, phương thức hoạt động và tính cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới (theo Luật HTX năm 2003) ở Thái Bình hiện nay; - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của HTXNN kiểu mới ở Thái Bình từ 1997 đến nay; - Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX (năm 1996 và năm 2003). - Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 1997 (khi Luật HTX năm 1996 có hiệu lực) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài. - Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút ra kết luận. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về HTXNN kiểu mới; trên cơ sở đó, khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, xác định nguyên nhân những yếu kém tồn tại; từ đó, đề xuất các giải pháp phát triển, hoàn thiện HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở đánh giá HTXNN kiểu mới ở Thái Bình, luận văn rút ra những vấn đề phù hợp và chưa phù hợp của mô hình HTXNN kiểu mới hiện nay; từ đó, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện chúng. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy ở trường chính trị tỉnh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới và sự cần thiết phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới 1.1. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới 1.1.1. Khái niệm Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới * Hợp tác: Hợp tác là sự kết hợp sức lực của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên sức mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện kém hiệu quả so với hợp tác [7, tr. 11]. Hợp tác là hình thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung, của lao động sản xuất và hoạt động kinh tế nói riêng của con người. Do vậy, sự phát triển của hợp tác gắn liền và bị quy định bởi tiến trình nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất và hoạt động kinh tế. Trong lao động sản xuất, hợp tác có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Sự phát triển của các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Hợp tác lao động được thực hiện từ khi loài người xuất hiện và ngày càng phát triển. Cùng với tiến trình phát triển xã hội, phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, nhu cầu về hợp tác lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Nó không bị giới hạn trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành, từng địa phương, trong một nước, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Hợp tác có nhiều hình thức với đặc điểm, tính chất, trình độ khác nhau: hợp tác ngẫu nhiên, nhất thời; hợp tác thường xuyên, ổn định; hợp tác lao động như Mác đã phân tích về ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp; hợp tác giữa các đơn vị, các ngành v.v... * Kinh tế hợp tác: Kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp của hợp tác, phản ánh một phạm vi hợp tác - hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất - kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên. Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, thì kinh tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế tự chủ có điều kiện phát triển. Như vậy, quan hệ kinh tế hợp tác phải được xây dựng trên nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và tính tự chủ, độc lập của các thành viên tham gia. Hợp tác trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan. Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì quá trình hợp tác mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp ứng nhu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như: phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Đặc điểm cơ bản của hợp tác kiểu này là hợp tác theo thời vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác ở trình độ thấp. Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó, nảy sinh nhu cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày công, giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành hợp tác xã. Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng. Do đó, tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn, từ kinh tế hợp tác giản đơn như các tổ, hội nghề nghiệp; các tổ, nhóm hợp tác, đến các tổ kinh tế hợp tác và hợp tác phát triển ở trình độ cao là hợp tác xã. * Hợp tác xã: Hợp tác xã là loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở trình độ cao hơn loại hình kinh tế hợp tác giản đơn. ở nhiều nước trên thế giới, HTX đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn 100 năm. Trong luật HTX của nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế đều có các định nghĩa về HTX. Liên minh HTX quốc tế (International Covperatise Alliance - ICA) được thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh, đã định nghĩa HTX như sau: "Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ". Năm 1995, định nghĩa này được hoàn thiện: "Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác" [1]. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác, phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung v.v... Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về HTX, cũng như sự khác nhau về đặc điểm, cơ chế tổ chức, phương thức hoạt động v.v. của các mô hình HTX ở các nước trên thế giới, song các loại hình HTX đều có một số đặc điểm chung sau đây: - HTX là một tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức hình thành. Hoạt động của HTX chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau (cũng là giúp đỡ chính mình). Ngoài ra, hoạt động của HTX còn mang tính cộng đồng xã hội - tương trợ, giúp đỡ cộng đồng. Do vậy, lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX. - Nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. ở các nước tư bản, kinh tế hợp tác mặc dù chỉ là dòng "Kinh tế phụ", nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với nông dân. HTX giúp đỡ các trang trại, hộ nông dân tồn tại trước những tác động của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của các tổ chức độc quyền lớn. Do vậy, ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn là loại hình kinh tế mang tính chất xã hội - nhân đạo. * Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới: ở nước ta, trong quá trình cải tạo kinh tế XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, phát triển. Thời kỳ 1958 - 1980, kinh tế HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp to lớn trong xây dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Song, trong một thời gian dài, do nhận thức chủ quan, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, chúng ta đã đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, hợp tác hóa với cải tạo XHCN; xây dựng các HTX không hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mà thực hiện bằng các biện pháp hành chính, xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi thường các bước quá độ trung gian trong cải tạo XHCN. ở thời kỳ này, vẫn có các hình thức tổ chức sản xuất ở trình độ thấp như tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, HTX bậc thấp, nhưng cũng chỉ là tạm thời, xu hướng chung là chuyển nhanh lên trình độ tập thể hóa bậc cao. Do vậy, chúng ta đã vi phạm nghiêm trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các HTX càng tập thể hóa ở trình độ cao, càng hoạt động kém hiệu quả; đã đẩy kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng, trì trệ. Khi đất nước đổi mới, mở cửa, chuyển đổi cơ chế hoạt động của nền kinh tế, hàng loạt các HTX bị đổ vỡ, giải thể, đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các biện pháp chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ, sản xuất nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ; kinh tế tập thể trong nông nghiệp cũng xuất hiện nhiều hình thức hợp tác, liên kết mới, song chưa được định hình về tổ chức. ở một số địa phương, các HTX đã tìm tòi, thử nghiệm mô hình HTX kiểu mới cho phù hợp với thực tế kinh tế. Tổng kết thực tiễn đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới - HTX cổ phần. Tháng 3-1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những HTX được thành lập và hoạt động theo Luật này được gọi là HTX kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTX trước đổi mới). Theo luật này, HTX được định nghĩa: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [7, tr. 5]. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX năm 2003). Luật này định nghĩa: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật [8, tr. 7]. Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp hoạt động theo Luật HTX năm 1996 và Luật HTX năm 2003 được gọi chung là HTXNN kiểu mới (để phân biệt với mô hình HTXNN trước đổi mới). HTXNN kiểu mới là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập lên nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa hoạt động. HTXNN kiểu mới ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ nông dân. Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, HTXNN kiểu mới có thể tổ chức theo các hình thức sau: - HTXNN làm dịch vụ: về mặt hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp được tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào (các HTX cung ứng vật tư), dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp (các HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…), dịch vụ quá trình tiếp theo của sản xuất nông nghiệp (các HTX bảo quản và tiêu thụ sản phẩm). Tuy nhiên, tùy theo tính chất của từng ngành, từng mức độ, yêu cầu của hợp tác và phân công lao động để lựa chọn các hình thức HTX cho thích hợp. Bởi vì, ngay mô hình HTX dịch vụ cũng được phân thành nhiều hình thức: HTX dịch vụ chuyên khâu và HTX dịch vụ tổng hợp. - HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ: các HTXNN loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX dịch vụ chuyên ngành gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Trong đó, trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa… - HTX sản xuất nông nghiệp thuần túy: HTX loại này giống như các HTXNN ở nước ta trước khi đổi mới. Tức là, những người sản xuất liên kết với nhau ở khâu sinh học của sản xuất nông nghiệp với mục đích tạo ra quy mô sản xuất thích hợp, nhằm chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo ra những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng như chăn nuôi cá ở các hồ, đầm lớn… Căn cứ vào những hình thức HTXNN nêu trên, cần lựa chọn mô hình HTX phù hợp với đặc điểm của từng ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân và đặc thù từng địa phương - mô hình đó hoạt động sẽ có hiệu quả. Từ khái niệm và các hình thức HTXNN kiểu mới, có thể thấy được các đặc điểm đặc thù của chúng như sau: - HTXNN là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các nước đang phát triển, do đó, có ưu thế về số lượng lao động. Lực lượng lao động ở HTXNN nếu được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công nghệ, sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn. - HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người còn nhiều hạn chế về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác. Điều này được biểu hiện ở các nước đang phát triển. Đây là hạn chế lớn nhất về kinh doanh của loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó, vai trò của Nhà nước đối với HTXNN là tất yếu về các mặt: quản lý nhà nước, giúp đỡ, hỗ trợ và quản lý HTX, HTXNN cũng không thể không liên kết, kinh doanh với các tổ chức kinh tế, xã hội khác trong quá trình phát triển. - Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi nên trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm này thường làm cho các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tích lũy ít. Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và HTXNN năng động, sáng tạo thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng hóa đặc sản có chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như thực hiện chuyên môn hóa, đa dạng hóa sản phẩm. 1.1.2. Mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới 1.1.2.1. Đặc trưng và ưu thế của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới Qua nội dung Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật HTX năm 2003, đã thể hiện những đặc điểm cơ bản của mô hình HTXNN kiểu mới và ưu thế của nó, đó là: Thứ nhất, HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân góp sức, góp vốn lập ra, hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình và được bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Bản chất của HTX là tổ chức kinh tế tập thể mang tính xã hội cao bao gồm cả thể nhân, pháp nhân (các tổ chức kinh tế - xã hội), cán bộ công chức, cả người ít vốn lẫn người nhiều vốn, nhưng phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ về gia nhập và ra khỏi, về tổ chức quản lý HTX theo luật định. Mặt khác, HTX là tổ chức kinh tế tự nguyện, có quyền tự chủ, bình đẳng với các loại hình kinh doanh khác trong quá trình hoạt động. Chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của mình đối với các tổ chức kinh tế khác theo thỏa thuận, hợp đồng đã kí kết. Điều này đã khắc phục được tư tưởng HTX nặng về tổ chức xã hội và là công cụ của chính quyền cơ sở như mô hình HTX trước đổi mới. Thứ hai, HTX tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX. xã viên có quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX. Nguyện vọng của họ được tôn trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động viên được sự nhiệt tình của các đối tượng tham gia. - Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX; những vấn để lớn trong sản xuất, kinh doanh của HTX đều phải được đại hội xã viên thảo luận dân chủ và thông qua; các xã viên đều có quyền ngang nhau trong biểu quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu như nhau, không phụ thuộc vào mức vốn góp; đồng thời, HTX phải thực hiện tốt việc công khai cho xã viên biết theo định kỳ về phương thức, kế hoạch sản xuất - kinh doanh, công khai tài chính, phân phối, thu nhập của HTX. Đây là nguyên tắc then chốt, liên quan đến sự tồn tại và phương hướng phát triển lành mạnh của HTX. - Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX là tổ chức kinh tế, hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời, coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Trong thành lập và hoạt động, HTX có quyền được lựa chọn ngành nghề sản xuất - kinh doanh phù hợp mà pháp luật không cấm, theo ý chí, nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường; liên doanh liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong phân phối lợi ích và giải quyết những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi, phải tuân thủ nguyên tắc cùng có lợi, hài hòa giữa xã viên và xã viên, giữa xã viên và HTX, HTX với lợi ích cộng đồng. Nguyên tắc này đã xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển của HTX chính là ở vai trò, trách nhiệm làm chủ của các xã viên đối với HTX; chủ động phát huy các nguồn lực, nhất là nguồn lực sẵn có của xã viên; HTX năng động tìm kiếm cơ hội kinh doanh và cạnh tranh để tồn tại và phát triển. - Hợp tác và phát triển cộng đồng: Là nguyên tắc và tiêu chí mang tính đặc trưng của HTX kiểu mới, gắn kết lợi ích kinh tế của các thành viên HTX với lợi ích xã hội và phát triển cộng đồng. HTX là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua khó khăn; tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên tham gia. Trên cơ sở đó, không ngừng nâng cao vai trò, tính chất xã hội của HTX để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần tích cực thực hiện chủ trương giải quyết công ăn, việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng kết cầu hạ tầng xã hội, tăng cường tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng, đó là nhân tố quan trọng để HTX phát triển bền vững. Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX. - Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX kiểu cũ, một đặc điểm quan trọng nhất quyết định các quan hệ khác là chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Người nông dân khi vào HTX phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu; xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, sở hữu cá nhân không được thừa nhận. Chính điều này đã làm nảy sinh tình trạng vô chủ và sự thiếu trách nhiệm của nhiều xã viên đối với tài sản của HTX. Trong HTX kiểu mới, sở hữu của HTX là sở hữu đan xen, đa dạng và linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, "dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể" [3, tr. 34]. Sở hữu của tập thể xã viên (sở hữu của HTX) là nguồn vốn tích lũy tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX và các quỹ không chia. Những vốn, quỹ, tài sản thuộc sở hữu tập thể được khuyến khích tăng thêm cùng với sự phát triển của HTX nhằm tạo điều kiện củng cố, phát triển HTX. Sở hữu thuộc cá nhân xã viên được tôn trọng, xã viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản xuất - kinh doanh. Nếu HTX có nhu cầu sử dụng các tư liệu sản xuất đó, thì phải thuê của xã viên. Vốn góp của xã viên khi vào HTX được sử dụng cho hoạt động chung của HTX và sẽ trả lại cho xã viên khi ra khỏi HTX. Như vậy, HTX không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên, tôn trọng sở hữu của các thành viên. HTX kiểu mới làm cho xã viên thực sự là chủ nhân của HTX thông qua quy định về góp vốn, góp sức xây dựng HTX; quyền lợi, trách nhiệm của xã viên gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX. - Về quan hệ quản lý: Trong cơ chế quản lý của HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc, xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, thiếu chủ động sáng tạo. Đặc trưng của HTX kiểu mới là hoạt động sản xuất - kinh doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất - kinh doanh của xã viên, mà chỉ diễn ra ở từng công đoạn, khâu công việc nhằm bổ trợ, phát huy thế mạnh của từng xã viên. Do đó, HTX kiểu mới phát huy được quyền làm chủ của họ. Xã viên trực tiếp tham gia quản lý, giám sát hoạt động của HTX theo nguyên tắc quản lý dân chủ, xã viên quyết định các công việc quan trọng của HTX một cách bình đẳng, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX được tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả, tách rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu trình độ phát ._.triển của HTX mà có thể thành lập bộ máy vừa quản lý, vừa điều hành hoặc thành lập riêng bộ máy quản lý với bộ máy điều hành. Ban quản trị HTX là bộ máy quản lý HTX do đại hội xã viên bầu trực tiếp. Trường hợp HTX không tổ chức riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý và bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX, đồng thời là trưởng ban quản trị và phải là xã viên HTX, do đại hội xã viên bầu. Trường hợp HTX tổ chức riêng bộ máy quản lý và điều hành thì người đứng đầu bộ máy quản lý là trưởng ban quản trị và người đứng đầu bộ máy điều hành là chủ nhiệm HTX; ở trường hợp này, chủ nhiệm HTX có thể là người được thuê ngoài HTX, không phải là xã viên. - Về quan hệ phân phối: Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích xã viên tích cực, hăng say lao động; xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế gia đình. HTX kiểu mới "thực hiện phân phối theo nguyên tắc công bằng, cùng có lợi", người lao động ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo mức độ tham gia dịch vụ và lợi tức cổ phần theo vốn góp. Lợi nhuận HTX càng cao, lợi tức cổ phần càng lớn, thu nhập của xã viên càng nhiều. Đây là động lực khuyến khích xã viên hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, HTX còn tạo ra các quỹ không chia; một mặt, để mở rộng sản xuất; mặt khác, tạo lên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX; kết hợp chặt chẽ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thứ tư, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với mô hình linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với đặc điểm từng ngành, từng vùng, với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến cao. Có những HTX chỉ hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu chung về một hay một số dịch vụ đầu vào đầu ra, dịch vụ chuyên ngành, dịch vụ tổng hợp đa chức năng; HTX sản xuất kết hợp dịch vụ, HTX sản xuất kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện; từ HTX phát triển thành các liên hiệp HTX. Thứ năm, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó, tác động tương hỗ, cùng nhau phát triển. Nếu như trong HTX kiểu cũ, kinh tế cá thể, hộ gia đình không được chấp nhận hoặc chỉ được coi là kinh tế phụ và bị hạn chế trong một giới hạn nhất định, thì HTX kiểu mới được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ. HTX kiểu mới không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất - kinh doanh của các thành viên, HTX chỉ làm những gì mà mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Trong nông nghiệp, hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, vừa là người chủ của HTX, là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán sản phẩm cho HTX; do đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề kinh tế thuận lợi cho sự phát triển HTX; ngược lại, HTX phát triển để hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh. Có thể khái quát đặc trưng mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới so với HTX nông nghiệp thời kỳ trước đổi mới (bảng 1.1). Bảng 1.1: So sánh HTXNN trước đổi mới và HTXNN kiểu mới HTXNN trước đổi mới HTXNN kiểu mới Cách thức thành lập áp đặt, "Từ trên xuống" Tự nguyện, "Từ dưới lên" Tính chất của tổ chức Vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ chức xã hội ở địa phương. Trước hết là tổ chức kinh tế vì sự phát triển của kinh tế hộ xã viên HTX. Cơ chế hoạt động của HTX HTX hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh, hành chính, tập trung bao cấp. Các quan hệ giải quyết đầu vào, đầu ra trong hoạt động kinh tế của HTX chủ yếu thông qua các tổ chức kinh tế nhà nước (công ty vật tư nông nghiệp, công ty lương thực, công ty giống…) tức là được độc quyền hóa và hành chính hóa. Môi trường hoạt động đã khác hẳn, quan hệ hành chính, độc quyền được thay bằng quan hệ kinh tế đa phương, tự nguyện. HTX phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự bù đắp, bảo toàn và phát triển vốn, phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nhiều thành phần, giao lưu kinh tế, từng bước phát triển trên cơ sở luật pháp của nhà nước. Thành viên tham gia Thể nhân Thể nhân, pháp nhân. Sở hữu Sở hữu tập thể trên cơ sở tập thể hóa tư liệu sản xuất. Sở hữu chung trên cơ sở góp vốn, đan xen giữa sở hữu tập thể và sở hữu cá thể của xã viên Tổ chức bộ máy quản lý HTX Chức năng quản lý và điều hành trong HTX được lồng ghép. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm: Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng ban quản trị kiêm chủ nhiệm HTX. Công tác cán bộ HTX được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy và chính quyền địa phương, các chức danh chủ chốt của HTX do Đảng ủy chỉ định và người trong nội bộ HTX nắm giữ. Chức năng quản lý và điều hành được tách biệt, rõ ràng. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, Ban chủ nhiệm. Chủ nhiệm HTX có thể do Trưởng ban quản trị kiêm nhiệm hoặc là người do HTX thuê. HTX được quyền tự chủ trong công tác cán bộ của mình, các chức danh chủ chốt không nhất thiết phải do đảng viên hay người trong nội bộ HTX nắm giữ. Phân phối Bình quân, bao cấp Theo vốn, lao động và mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. Nội dung hoạt động Trực tiếp tổ chức sản xuất, lao động tập trung, thủ tiêu sự độc lập của kinh tế hộ. Nội dung hoạt động đa dạng có thể làm dịch vụ, hoặc vừa làm dịch vụ vừa sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, song đều hướng vào hỗ trợ kinh tế hộ tự chủ phát triển. Phạm vi hoạt động Theo địa giới hành chính Không bị giới hạn bởi địa giới hành chính. Thực hiện các nguyên tắc HTX Các nguyên tắc HTX bị vi phạm Các nguyên tắc HTX được tôn trọng. Nguồn: [51]. HTXNN trước đổi mới HTXNN kiểu mới Biểu đồ 1.1: Mối quan hệ giữa HTXNN với xã viên và các tổ chức Nhà nước Các cơ quan nhà nước Hộ nông dân tự chủ HTXNN Các tổ chức kinh tế nhà nước Các tổ chức kinh tế phi nhà nước Nhà nước Các cơ quan nhà nước Xã viên HTXNN Các tổ chức kinh tế nhà nước Nguồn: [51]. 1.1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của HTXNN kiểu mới. Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế nông hộ tự chủ theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, HTX thành lập dựa trên chế độ sở hữu tập thể về tư liêu sản xuất, xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, xóa bỏ sản xuất theo hộ; xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX; tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, ỷ lại thiếu chủ động sáng tạo; dẫn đến HTX làm ăn ngày càng sa sút, kém hiệu quả, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Bước vào thời kỳ đổi mới, trong nông nghiệp thực hiện "Chính sách khoán" (theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 05- 04-1988, về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp), hộ nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn được giải phóng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế nông hộ lại nảy sinh nhu cầu hợp tác để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sức cạnh tranh trên thị trường. Vì trong nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt có nhiều hoạt động chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở có sự liên kết chung như: công tác thủy lợi, phòng trừ sâu bệnh… Đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mở cửa hội nhập, kinh tế hộ tự chủ đứng trước yêu cầu cơ khí hóa, từng bước ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) mới vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa; tổ chức bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản… dẫn đến nhu cầu hợp tác kinh tế và phát triển HTXNN kiểu mới ngày càng mạnh mẽ. Như vậy, HTX và kinh tế hộ tự chủ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại. HTX kiểu mới hình thành và phát triển trên cơ sở hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, phục vụ lợi ích cho các hộ. Hộ nông dân vừa là đơn vị kinh tế tự chủ, lại vừa là người chủ trong HTX; là người tiêu dùng các dịch vụ đầu vào và bán các sản phẩm nông nghiệp cho HTX. Do đó, kinh tế hộ càng phát triển, càng tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển HTXNN kiểu mới. Đồng thời, HTXNN kiểu mới là môi trường quan trọng để bổ sung, hỗ trợ cho kinh tế hộ phát huy hết khả năng của mình trong sản xuất - kinh doanh. Thứ hai, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khuyến khích phát triển HTXNN kiểu mới. Sự chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đã làm cho phần lớn các HTX tổ chức theo mô hình cũ lâm vào tình trạng khó khăn, lúng túng, mất phương hướng hoạt động. Kinh tế HTX suy giảm cả về số lượng và vai trò trong nền kinh tế, đòi hỏi phải có sự đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với môi trường sản xuất - kinh doanh mới. Trong suốt quá trình tìm tòi thử nghiệm, đặc biệt từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986), đã diễn ra quá trình đổi mới từng phần đến đổi mới toàn bộ, căn bản mô hình HTX cùng với cơ chế quản lý theo mô hình cũ. Trong từng bước thay đổi, Đảng ta luôn chú ý tổng kết, đánh giá và kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp, tạo bước ngoặt quyết định cho sự phát triển nông nghiệp và sự hình thành mô hình HTX kiểu mới. Sự ra đời và đi vào thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương (ban hành ngày 13- 01-1981), đã đặt nền móng cho quá trình đổi mới mô hình HTX "tập thể hóa" trước đây. Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 05- 04-1988), về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (năm 1993), kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn định lâu dài với năm quyền (chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê). Điều này thực sự đã tạo lên bước đột phá cho quá trình phát triển nông nghiệp nước ta. Đồng thời, nó cũng đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình HTX kiểu mới trên phạm vi toàn quốc (giai đoạn 1986 - 1996). Đây là bước chuẩn bị quan trọng cho sự ra đời Luật HTX được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 1-1997. Từ sau đó, đã có 9 Nghị định dưới luật được ban hành hướng dẫn việc thi hành Luật HTX. Cùng với các văn bản nói trên là hàng loạt các Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, thứ tư, thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương khóa VI; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu (lần 1) của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. Hiến pháp, luật dân sự, luật đất đai, chỉ thị số 68/BBT ngày 24-5-1996 về phát triển kinh tế HTX trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế v.v... Thực tế cho thấy, mặc dù các văn bản nói trên chưa thật sự đầy đủ, đặc biệt trong khâu hướng dẫn thi hành; song đây là lần đầu tiên kinh tế HTX ở nước ta có được khuôn khổ pháp lý rất cơ bản, tạo điều kiện cho sự vận động, phát triển của hình thức kinh tế này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (năm 1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3-2002) đã đưa ra Nghị quyết về: tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, để lãnh đạo sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX 2003) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Luật HTX mới đã hoàn thiện căn bản khuôn khổ pháp lý để HTX hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường, nên đã thúc đẩy kinh tế HTX phát triển ngày càng mạnh mẽ. Như vậy, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước là nhân tố tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển và hiệu quả kinh tế - xã hội của kinh tế hợp tác và HTX nói chung, trong đó có HTXNN. Đồng thời, đây cũng là nhân tố tạo lên bước ngoặt quan trọng cho quá trình chuyển đổi, xây dựng HTX kiểu mới trong điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hóa, tiến lên sản xuất lớn, hiện đại với sự tác động của cơ chế thị trường, hội nhập và "mở cửa" trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý HTX nhiệt tình, có trách nhiệm, có trình độ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệt tình, có trách nhiệm, có trình độ, có tinh thần vì lợi ích của nhân dân lao động, hăng hái đi tiên phong trong phong trào hợp tác, là những người sáng lập và lãnh đạo HTX là nhân tố hết sức quan trọng đối với sự phát triển của HTX. Thực tiễn đã chỉ rõ, ở đâu cán bộ tốt, có trình độ, tâm huyết, nhiệt tình và biết phát huy dân chủ, ở đó HTX ăn lên, làm ra, xã viên phấn khởi, gắn bó với HTX. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, trình độ học vấn và quản lý của cán bộ HTXNN còn thấp, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Theo báo cáo của Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, trình độ ban quản lý HTX nông nghiệp (số liệu điều tra tháng 6/2001): Chủ nhiệm HTX có 70,26% là đảng viên và 49,53% cán bộ chưa qua đào tạo; kế toán trưởng có 53,98% là đảng viên và 42,34% cán bộ chưa qua đào tạo; trưởng ban kiểm soát có 62,52% là đảng viên và 71,84% cán bộ chưa qua đào tạo. Đây là một khó khăn lớn cho việc thực hiện chủ trương phát triển HTX nông nghiệp trong điều kiện hiện nay. Thứ tư, nhận thức của hộ nông dân về HTXNN kiểu mới. Thực tiễn phát triển HTXNN kiểu mới trong thời gian qua ở cả nước nói chung và ở Thái Bình nói riêng cho thấy, có nhiều HTXNN sau chuyển đổi đã vươn lên, phát triển ngày càng mạnh mẽ; nhiều HTXNN thành lập mới hoạt động hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; nhưng cũng có những HTXNN kiểu mới hoạt động chỉ mang tính hình thức. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt động yếu kém của HTXNN là do người nông dân nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ của về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển HTXNN kiểu mới; chưa phân biệt rõ giữa HTXNN kiểu cũ và HTXNN kiểu mới; dẫn đến tâm lý hoài nghi, thờ ơ, không ủng hộ. Sở dĩ người nông dân nhận thức chưa tốt về HTXNN kiểu mới là do: - Trình độ học vấn của người nông dân nói chung là thấp (có một bộ phận nông dân không biết chữ), do vậy, khả năng nhận thức của họ rất hạn chế. - Quan điểm, chủ trương của Đảng; pháp luật, chính sách của Nhà nước về chuyển đổi và phát triển HTXNN kiểu mới chưa được phổ biến rộng rãi ở nông thôn, chưa biến thành nhận thức và hành động của người nông dân. - Đa số các hộ nông dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa thường thiếu các thông tin có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, đến kinh nghiệm phát triển HTX và các mô hình HTXNN có hiệu quả. - Do sự thiếu quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ các HTXNN phát triển. - Một bộ phận nông dân thiếu niềm tin vào HTXNN do bị ảnh hưởng của phong trào hợp tác hóa trước đây, họ sợ vào HTXNN sẽ bị tập thể hóa về tư liệu sản xuất… HTXNN có thể ra đời, tồn tại và phát triển được hay không là do các hộ nông dân quyết định. Do đó, muốn thúc đẩy HTXNN phát triển, phải làm tốt việc tuyên truyền; phải hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để người nông dân hiểu và thấy được những ưu thế của HTXNN kiểu mới trong việc khắc phục những hạn chế của sản xuất cá thể, nhỏ lẻ; những tác động xấu của cơ chế thị trường. Những nhân tố cơ bản nêu trên có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của HTXNN. Ngày nay, những nhân tố kinh tế - xã hội khác cũng có ảnh hưởng rất quan trọng. Đó là sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, trình độ dân trí, trình độ lao động thấp, sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp chưa phát triển, lượng vốn đầu tư ít; nến kinh tế đất nước tăng cường mở cửa hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt v.v... Tất cả những yếu tố đó ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của HTXNN. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta phải tác động tổng hợp nhiều biện pháp mới có thể làm cho HTXNN phát triển nhanh và vững chắc. 1.1.2.3. Xu hướng vận động của HTXNN kiểu mới ở nước ta đến năm 2020 * Số lượng HTXNN kiểu mới ngày càng tăng Phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp đặt ra yêu cầu phải tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, muốn vậy, sản xuất phải đi vào chiều sâu, ứng dụng các tiến bộ KHCN vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư nông nghiệp. Những yêu cầu đó, từng hộ nông dân cá thể không thể tự giải quyết một cách tự phát, riêng lẻ mà nhất thiết phải có sự liên kết kinh tế với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp nhà nước, kể cả về tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Dịch cúm gia cầm đầu năm 2004 đã bộc lộ những yếu kém, hạn chế của chăn nuôi gia cầm phân tán theo quy mô từng hộ gia đình, không có sự hỗ trợ của HTXNN về dịch vụ thú y, bảo hiểm. Trong tiêu thụ thóc, trái cây và các nông sản khác, các hộ nông dân cá thể cũng không có các thông tin thị trường nên rất khó khăn, có năm được mùa thì giá lại giảm. Vì vậy, muốn liên kết kinh tế giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, tất yếu phải thông qua tổ chức có tư cách pháp nhân đại diện cho kinh tế hộ. Thực tế liên kết kinh tế và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản theo Quyết định 87/2002 của Thủ tướng Chính phủ trong 3 năm qua (2002 - 2004) đã cho thấy vai trò không thể thiếu của các HTXNN trong các hợp đồng kinh tế. Như vậy, cùng với sự phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, thì nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ kinh tế ngày càng tăng và HTXNN sẽ ngày càng phát triển cả về số lượng, quy mô và trình độ. * Về mô hình Hợp tác xã nông nghiệp Phân tích thực trạng các HTXNN kiểu mới hiện nay, chúng ta thấy có hai mô hình chủ yếu đang tồn tại và phát triển theo hai hướng khác nhau. Mô hình thứ nhất, HTX kinh doanh đơn thuần dịch vụ nông nghiệp cho kinh tế hộ nông dân, bao gồm: thủy nông, bảo vệ thực vật, giống cây trồng, cung ứng vật tư, làm đất, khuyến nông… Nói chung, các HTXNN loại này không có các chức năng quản lý, điều hành sản xuất của hộ nông dân, kể cả trồng trọt và chăn nuôi. Do phạm vi hoạt động dịch vụ hẹp, một số yếu tố đầu vào và đầu ra bị khống chế (như thủy nông bị khống chế về giá điện, làm đất bị khống chế giá xăng dầu, bảo vệ thực vật bị khống chế giá thuốc trừ sâu…), nhu cầu dịch vụ của xã viên không lớn và không ổn định do quy mô ruộng đất của hộ nông dân ít, lao động dư thừa nhiều nên doanh thu dịch vụ của HTXNN vừa thấp, lại không ổn định. Mặt khác, đang xuất hiện xu hướng ngành điện sẽ tiến tới trực tiếp quản lý điện ở nông thôn, thành phần kinh tế tư nhân có thể thay thế HTX đảm nhiệm một số dịch vụ như: cung ứng vật tư, làm đất v.v... Đó là những nguyên nhân dẫn đến thu nhập của HTXNN thấp, xã viên không gắn bó với HTX ở nhiều vùng. Do vậy, dự báo trong 15 năm tới, mô hình này có khả năng thu hẹp và đến năm 2020 sẽ còn ít, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, những vùng có quy mô sản xuất hàng hóa nông nghiệp còn hạn chế. Mô hình thứ hai, HTXNN tổng hợp với nội dung hoạt động bao gồm các hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân nói chung và một số hoạt động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản. Mô hình này đã khắc phục được hạn chế của mô hình HTX dịch vụ đơn thuần, mở rộng phạm vi dịch vụ cho cả các hộ phi nông nghiệp ở nông thôn và một số hoạt động sản xuất. Do vậy, nội dung hoạt động phong phú, lao động HTX có nhiều việc làm, doanh thu của HTX và thu nhập của xã viên cao và ổn định hơn, tạo sự gắn kết giữa xã viên với HTX hơn. Dự báo đến năm 2020, mô hình này có triển vọng phát triển nhanh, nhất là các tỉnh Nam bộ - nơi sản xuất hàng hóa phát triển, kiến thức kinh tế thị trường của cán bộ HTX và xã viên cao hơn các vùng khác ở phía Bắc. Có hai yếu tố quyết định tốc độ tăng của mô hình này là nhu cầu liên kết kinh tế trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa của hộ nông dân và năng lực của cán bộ HTXNN được nâng lên. Ngoài hai mô hình chính trên đây, từ nay đến năm 2020, trong nông nghiệp và nông thôn nước ta sẽ xuất hiện một số hình thức tổ chức HTX khác với quy mô và nội dung hoạt động đa dạng, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hộ nông dân từng vùng. Đó là các HTX chuyên môn hóa cao ở một số hoạt động dịch vụ như: chuyên làm đất, chuyên thủy nông, chuyên tiêu thụ nông sản hàng hóa, v.v... Tiền thân của các HTX này là các tổ chức kinh tế hợp tác có tính chuyên môn hóa như: tổ làm đất, tổ đường nước, tổ bảo vệ thực vật, tổ khuyến nông v.v... ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế là năm 2003 cả nước đã có trên 1000 HTXNN chuyên môn hóa kinh doanh một dịch vụ, riêng đồng bằng sông Cửu Long có 354 HTX, trong đó có 309 HTX thủy nông. * Về mô hình tổ chức HTXNN Trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hai thập niên đầu thế kỷ XXI, thực hiện Luật HTX năm 2003, dự báo mô hình tổ chức HTXNN ở nước ta sẽ phát triển đa dạng. Ngoài mô hình mà các xã viên là các hộ sản xuất nông nghiệp thuần túy, sẽ xuất hiện thêm nhiều mô hình khác như mô hình các xã viên bao gồm cả doanh nghiệp không trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, mô hình HTXNN mà các xã viên của nó làm nông nghiệp còn lại rất ít, đại bộ phận sẽ chuyển sang các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Dự báo đến năm 2020, các HTXNN ở nước ta sẽ có bước phát triển mới cả về số lượng, loại hình, quy mô và chất lượng, phù hợp với yêu cầu CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. 1.2. Phát triển Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới là yêu cầu cấp thiết ở Thái Bình hiện nay 1.2.1. Vài nét về vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của Thái Bình - Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam. Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. - Tọa độ địa lý: vĩ độ Bắc 20017 - 20044; kinh độ đông 106006 - 106039. - Diện tích đất tự nhiên: 1542,24 km2 chiếm 0,5% diện tích đất đai cả nước. Từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km. - Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thành phố, trong đó có 284 xã, phường, thị trấn. - Là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1 - 2m so với mực nước biển, thấp dần từ Bắc xuống Đông Nam [5]. Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có bờ biển dài trên 50 km và có 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: phía Bắc và Đông Bắc có sông Hóa, dài 35,3 km; phía Bắc và Tây Bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km; phía Tây và Nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km; sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ Tây sang Đông dài 65 km. Đồng thời có 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm Điền, Ba lạt, Trà Lý, Lân). Các sông này đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao; mùa đông lưu lượng giảm nhiều, lượng phù sa không đáng kể. Nước mặn ảnh hưởng xấu vào đất liền (15 - 20 km). - Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 - 240C (thấp nhất là 40C, cao nhất là 380C) lượng mưa trung bình 1.400mm - 1.800mm. Số giờ nắng trong năm là 1.600 - 1.800 giờ, lượng bốc hơi 728mm/năm. Độ ẩm trung bình khoảng 80 - 90% [5]. - Đất đai Thái Bình phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng "bờ xôi, ruộng mật", do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thủy lợi tưới, tiêu thuận lợi góp phần làm nên cánh đồng lúa 14 - 15 tấn/ha và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp để xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha trở lên. - Tổng diện tích tự nhiên 153.596 ha; trong đó, diện tích cây hàng năm là 94.187 ha; ao hồ đã đưa vào sử dụng là 6.018 ha. Hầu hết đất đai được cải tạo hàng năm có thể trồng được 3 - 4 vụ, diện tích có khả năng làm vụ đông khoảng 40.000 ha [5]. Ngoài diện tích cấy lúa, đất đai Thái Bình rất thích hợp cho các loại cây: cây thực phẩm (khoai tây, dưa chuột, sa lát, hành, tỏi, lạc, đậu tương, ớt xuất khẩu v.v...); cây công nghiệp ngắn ngày (cây đay, cây dâu, cây cói v.v...); cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, ổi Bo, vải thiều, nhãn, chuối v.v...); trồng hoa, cây cảnh v.v... - Ngoài ra, tiềm năng và nguồn lợi thủy sản là một trong những thế mạnh của tỉnh Thái Bình cả về nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Có thể nói, điều kiện tự nhiên ở Thái Bình rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Chính vì vậy, Thái Bình đã sớm trở thành vựa lúa của Đồng bằng sông Hồng, là tỉnh nông nghiệp với 94.2% dân số hiện đang sống và làm việc tại khu vực nông thôn, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp chiếm 74,3% lực lượng lao động của tỉnh [5]. 1.2.2. Những yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu hình thành, phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể sống nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại cảnh, bên cạnh các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp còn gặp phải không ít khó khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố sâu bệnh, thiên tai phá hoại v.v... Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cấp, tự túc thì quá trình hợp tác mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v... nhằm đáp ứng yêu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như phòng chống thiên tai, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước v.v... Quá trình hợp tác này còn mang đặc điểm tình cảm, tâm lý truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn trong sản xuất theo vụ, việc, hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác còn ở trình độ thấp. Khi nền nông nghiệp hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thủy lợi v.v... Trong điều kiện này, nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự phát theo quy mô từng hộ gia đình riêng lẻ với kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm thấp đã mâu thuẫn với yêu cầu của sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao để tăng sức cạnh tranh trên thị trường và xuất khẩu. Từng hộ nông dân cá thể không thể tự giải quyết được mâu thuẫn đó một cách cơ bản. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng xóa độc canh cây lúa, đa dạng hóa sản xuất gắn với chuyên môn hóa và liên kết sản xuất - chế biến và tiêu thụ nông sản đã làm xuất hiện những yêu cầu mới mà từng hộ gia đình nông dân riêng lẻ không thể thực hiện được. Tình trạng tự phát trong chuyển đất lúa năng suất và hiệu quả thấp sang nuôi tôm ở nhiều địa phương ven biển, bên cạnh một số lợi ích kinh tế cục bộ, đã xuất hiện những bất cập về môi trường sinh thái và tính bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Nhiều quy hoạch tổng thể và cụ thể bị phá vỡ do tình trạng các hộ nông dân tự phát chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Vấn đề trồng cây gì, nuôi con gì để có thu nhập cao và ổn định phù hợp với quy hoạch chung của từng vùng và địa phương không thể do từng hộ nông dân riêng lẻ tiến hành tự phát, vô tổ chức, mà nhất thiết phải do Nhà nước định hướng và các HTXNN tổ chức, hướng dẫn hộ nông dân thực hiện. Do vậy, phát triển kinh tế hợp tác, nhất là HTXNN kiểu mới là đòi hỏi khách quan của các hộ nông dân trong thời kỳ CNH, HĐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sau khi ruộng đất được giao cho hộ sử dụng lâu dài và hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. 1.2.3. Đặc điểm về tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Thái Bình hiện nay và nhu cầu tham gia hợp tác xã của người lao động, hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức quản lý trong sản xuất nông nghiệp, Thái Bình đã thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII (1993), hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn định, lâu dài và hưởng 5 quyền gắn với ruộng đất, đó là: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê. Các tư liêu sản xuất khác mà tập thể quản lý sử dụng không hiệu quả, đã được hóa giá, bán lại cho hộ xã viên. HTXNN từ chỗ hỗ trợ chỉ đạo, điều hành trực tiếp kế hoạch sản xuất, chuyển sang hướng dẫn sản xuất, làm dịch vụ cho hộ xã viên. Hộ xã viên tự bố trí sản xuất, kinh doanh, tự do lao động, mua vật tư, thuê dịch vụ, bán sản phẩm và quan hệ với HTXNN bình đẳng thông qua hợp đồng kinh tế. Do vậy, đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của kinh tế hộ. Theo số liệu thống kê năm 2004, Thái Bình có 476.225 hộ sản xuất nông nghiệp. Kinh tế hộ có xu hướng phát triển mạnh mẽ và tương đối đồng đều, đời sống nhân dân được cải thiện nhanh. Theo thống kê phong trào làm kinh tế VAC của tỉnh từ năm 2000 đến nay, toàn tỉnh đã tập trung cải tạo được 4.574 ha vườn, phá bỏ cây tạp đưa vào trồng các giống cây mới thích hợp có năng suất và chất lượng tốt hơn. Một số cây trồng đã thực sự phát huy hiệu quả như nhãn, vải, xoài, cam… Từ năm 2000 đến nay, toàn tỉnh đã trồng được 6 triệu cây ăn quả các loại, tổng giá trị thu nhập từ kinh tế vườn năm 2005 đạt 249,402 tỷ đồng, tăng 43,8% so với năm 2000, bình quân đạt trên 33 triệu đồng/ha vườn/năm. Năm 2005 thu của kinh tế hộ từ làm vườn chiếm tỷ trọng 20% tổng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của kinh tế hộ gia đình. Kết quả sản xuất kinh doanh làm giàu của kinh tế hộ trong những năm qua đã xuất hiện nhiều hộ giỏi trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Toàn tỉnh đã có 158.889 hộ (bằng 33,36% tổng số hộ) đăng ký phấn đấu kinh doanh sản xuất giỏi; số được công nhận để._. phân tán, đi thẳng theo các chương trình dự án đến nông hộ, trang trại gia đình, ít liên quan đến vốn HTXNN. Như vậy, cả nguồn vốn từ bên ngoài và bên trong đều chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho các HTXNN kiểu mới hoạt động. Tình trạng thiếu vốn xảy ra ở hầu hết các HTXNN trong tỉnh, gây khó khăn cho các tổ chức kinh tế này hoạt động. Ngoài ra, nhu cầu về vốn đối với kinh tế nông hộ và trang trại gia đình cũng là đòi hỏi hết sức cấp thiết. Do vậy, thông qua chính sách đầu tư tài chính, Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông dân và các HTXNN có vốn hoạt động. Nhà nước chỉ đạo cho các ngân hàng thương mại quốc doanh tạo điều kiện thuận lợi cho HTXNN sau chuyển đổi và HTXNN mới thành lập được vay vốn bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác; các tổ chức tín dụng tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn đối với hộ nông dân, HTXNN; các HTXNN được thế chấp bằng tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cho phép các HTXNN được vay vốn từ các chương trình, dự án quốc gia và các tổ chức phi chính phủ, được làm chủ một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn để tiếp nhận và sử dụng vốn. Đồng thời, coi trọng việc củng cố và phát triển HTX, quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị ngày 13-10-2000. Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ khó khăn được vay vốn sản xuất. Cho phép HTXNN được huy động vốn và cho vay nội bộ. Tăng cường kiểm soát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Nhà nước cần dành một tỷ lệ thích đáng ngân sách đầu tư cho HTXNN như đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ HTX và lao động nông thôn, đổi mới công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn… Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, nhằm tạo điều kiện pháp lý cho thị trường tài chính ở nông thôn phát triển lành mạnh, đúng hướng, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, kinh tế trang trại gia đình và kinh doanh của các HTXNN. 3.2.6.3. Chính sách thuế Mặc dù Chính phủ có chính sách khuyến khích phát triển HTX, Bộ Tài chính đã có hướng dẫn về ưu đãi thuế đối với HTX, song hoạt động của các HTXNN hiện nay còn hạn hẹp. Hoạt động cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản phẩm đang là nhu cầu lớn của kinh tế hộ, song phần lớn HTX đều chưa đáp ứng được. Một số HTX hoạt động trong các lĩnh vực này thì gặp nhiều khó khăn trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường. Hơn nữa, hoạt động dịch vụ của HTX không phải hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế hộ xã viên. Bởi vậy, Chính phủ nên miễn thuế cho các hoạt động dịch vụ của HTX nông nghiệp, gồm cung ứng vật tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm… phục vụ sản xuất và đời sống của hộ xã viên. 3.2.6.4. Chính sách đất đai Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra, đôn đốc các địa phương khẩn trương thực hiện chính sách cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân; thực hiện giao đất không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTXNN xây dựng trụ sở, làm cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) cho nông hộ và trang trại phát triển sản xuất hàng hóa; tuyên truyền, khuyến khích và tạo điều kiện để nông dân tiếp tục dồn điền, đổi thửa, hạn chế tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Cùng với quá trình nói trên, cần đẩy mạnh việc mở mang ngành nghề để giải quyết việc làm cho lao động chuyển từ nông nghiệp sang. 3.2.6.5. Chính sách khuyến nông, khoa học và công nghệ Việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Đó là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại. Do vậy, cần tăng cường nghiên cứu, áp dụng các thành quả mới nhất của khoa học và công nghệ, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức KHCN hiện đại, các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp. Đối với các chủ thể sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản (nông hộ, trang trại, HTX, doanh nghiệp), cần hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ KHCN trong sản xuất nông nghiệp như: - Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất tín dụng…, không điều tiết thuế thu nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng thành công KHCN, giảm lãi suất tín dụng đối với nguồn vốn vay đầu tư cho việc ứng dụng KHCN; miễn, giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng KHCN; - Miễn giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện mạng lưới cán bộ khoa học - kỹ thuật làm nhiệm vụ ứng dụng, tuyên truyền phổ biến ứng dụng tiến bộ KHCN đến nông dân; - Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ HTXNN, cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức KHCN để triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án về ứng dụng tiến bộ KHCN vào nông nghiệp, nông thôn; trên cơ sở đó, giúp cho HTXNN thực sự trở thành cầu nối giữa cơ quan nghiên cứu khoa học với nông hộ, trang trại nhằm nâng cao hiệu quả quá trình chuyển giao KHCN vào thực tiễn sản xuất; - Tăng cường đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu phù hợp yêu cầu phát triển bền vững nền nông nghiệp sinh thái, trên cơ sở phát huy các lợi thế của nông nghiệp của tỉnh. Sắp xếp, củng cố hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học trên địa bàn sao cho hoạt động có hiệu quả, kết hợp với chính sách đãi ngộ thích đáng đối với kết quả nghiên cứu khoa học được áp dụng nhằm tạo động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, cụ thể như: - Tăng cường hoạt động của Trung tâm khuyến nông tỉnh trong việc hướng dẫn, phổ biến sử dụng phương pháp canh tác mới đến hộ nông dân thông qua các HTXNN; đồng thời, tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan nghiên cứu khoa học các cấp với các HTXNN, Trung tâm khuyến nông để rút ngắn thời gian chuyển giao, áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất; - Khuyến khích áp dụng đa dạng các hình thức, biện pháp chuyển giao tiến bộ KHCN phù hợp với dân trí và tâm lý nông dân; - Đối với các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển, chuyển giao ứng dụng tiến bộ KHCN vào nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước cần có cơ chế chính sách phù hợp để nâng cao trách nhiệm, khuyến khích lợi ích thỏa đáng, thực hiện quyền sở hữu trí tuệ, quyền công bố, trao đổi, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu theo quy định của pháp luật. 3.2.6.6. Chính sách thị trường Thị trường có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại; là yếu tố cơ bản, quyết định chiến lược phát triển sản xuất từng loại nông phẩm. Khi đặt vấn đề phát triển sản xuất một loại nông sản hàng hóa nào đó, trước hết, các chủ thể sản xuất phải nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa, nơi tiêu thụ... Quá trình sản xuất nông sản hàng hóa không gắn với thị trường sẽ lâm vào tình trạng sản xuất "mù quáng", "mò mẫm" và thất bại là điều khó tránh khỏi. Đó cũng là lý do tại sao nhiều dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh và một số địa phương trong những năm qua bị thất bại. Do vậy, có thể khẳng định rằng thị trường là căn cứ để tổ chức sản xuất, là cơ sở để hình các thành quyết định đầu tư. Xuất phát từ thực trạng sản xuất nông nghiệp hàng hóa của tỉnh và khả năng hoạt động của các HTXNN, để đảm bảo thị trường cho sản xuất nhằm thúc đẩy sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại, Nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: - Các cơ quan chức năng từ tỉnh đến chính quyền cơ sở, các hiệp hội ngành nghề cần hỗ trợ HTXNN xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước với hình thức phù hợp; trong đó, phải đặc biệt coi trọng việc thông tin kịp thời cho các chủ thể sản xuất nông nghiệp nắm được: thứ nhất, nhu cầu của thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, trước hết là những nông sản hàng hóa có khối lượng lớn, phục vụ nhu cầu xuất khẩu; thứ hai, tình hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến động giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế; thứ ba, những thông tin dự báo cần thiết về nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu thị trường nông sản trong nước và quốc tế; thứ tư, những thông tin về phương thức, điều kiện, yêu cầu đảm bảo tính thông suốt, tính thời gian từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ… Trên cơ sở các thông tin được cung cấp, các chủ thể sản xuất nông nghiệp có điều kiện tính toán kỹ hiệu quả kinh tế trước khi quyết định phương án đầu tư sản xuất. - Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông, thủy sản với nông dân qua các HTXNN. Nhà nước có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp cung ứng vật tư phân bón, thức ăn gia súc, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và thu mua sản phẩm cho HTXNN theo hợp đồng dài hạn đối với sản phẩm có khối lượng lớn. - Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ đông của các doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản. - Đầu tư xây dựng cơ quan nghiên cứu thị trường trực thuộc Sở Thương mại để nắm bắt thông tin, dự báo nhu cầu thị trường nông sản trên thế giới và trong nước, làm nhiệm vụ tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hóa của tỉnh, tạo ra những nông sản chủ lực đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, thông qua các HTXNN, các cơ quan này phải làm tốt nhiệm vụ thông tin, tư vấn, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại gia đình hình thành khả năng, thói quen của người sản xuất hàng hóa. - Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu nông sản hàng hóa, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. trước hết, đó là phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại. 3.2.6.7. Tăng cường hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với HTXNN ở tỉnh bao gồm: phòng Chính sách Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phòng chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện là những cơ quan tham mưu của sở và UBND huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTXNN. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống này hoạt động còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ và hiệu lực chưa cao. ở cấp huyện, cán bộ được phân công theo dõi HTXNN thường làm kiêm nhiệm nhiều việc, cán bộ đã thiếu lại không yên tâm tập trung cho công việc. Do vậy, để tổ chức quản lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp được tăng cường, cần phải: - Bố trí đủ lực lượng cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đối với phòng Chính sách Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc sở nên có từ 5 đến 7 cán bộ; phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện nên có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách về HTXNN. - Thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước đối với HTXNN thông qua đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống các trường từ tỉnh đến Trung ương, kết hợp với việc tham quan học hỏi kinh nghiệm trong nước và ngoài nước. - Nhà nước cần cấp một khoản kinh phí cần thiết cho hệ thống quản lý nhà nước đối với HTX hoạt động. Cùng với hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên minh HTX trong việc tuyên truyền vận động giúp đỡ phát triển HTXNN phù hợp với điều kiện thực tiễn và nhu cầu của nông dân ở từng cơ sở. 3.2.6.8. Xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa tổ chức Đảng, chính quyền và HTXNN trên từng địa bàn HTXNN là tổ chức kinh tế tự chủ, tự nguyện của nông dân, quyền quyết định cao nhất trong HTX là đại hội xã viên. Tuy nhiên, HTXNN nằm trên địa bàn dân cư nhất định nên sự phát triển của HTXNN có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đó. Bởi vậy, các HTXNN chịu sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, giúp đỡ của chính quyền địa phương. Đó là đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu quả. Tổ chức đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chung thông qua chủ trương, nghị quyết và vai trò gương mẫu của người đảng viên. Chính quyền địa phương có quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát HTXNN trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách luật pháp của Nhà nước, nhưng tuyệt đối không can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không làm thay chức năng của HTX, song phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ cho HTXNN hoạt động theo pháp luật. Đối với HTXNN, ngoài mục tiêu kinh tế là hàng đầu còn phải thực hiện các mục tiêu xã hội, góp phần xây dựng tính cộng đồng, đoàn kết, tương trợ trong các xã viên của mình, song không thể biến HTXNN thành tổ chức xã hội, làm thay nhiệm vụ của hệ thống chính trị ở địa phương. Việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền và HTXNN trên từng địa bàn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho HTXNN hoạt động theo đúng Luật, đạt hiệu quả, góp phần thực hiện tốt mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. 3.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng đối với sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới Để phát triển, hoàn thiện các HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các giải pháp về kinh tế, pháp lý, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước…trong đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng là một trong những giải pháp quan trọng. Tổ chức đảng ở cơ sở phải thực sự đóng vai trò là hạt nhân lãnh đạo, định hướng rõ sự phát triển HTXNN trên địa bàn mình phụ trách và là lực lượng nòng cốt của phong trào, cụ thể: - Trên cơ sở nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên về phát triển HTXNN kiểu mới, tổ chức đảng ở cơ sở phải đề ra được nghị quyết của địa phương, bám sát thực tế cơ sở để lãnh đạo HTXNN thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết vào cuộc sống; - Tổ chức đảng ở cơ sở lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động các tầng lớp nhân dân tự giác tham gia vào HTXNN theo đúng Luật HTX và thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là tấm gương cho quần chúng nhân dân noi theo trong việc tham gia phát triển HTXNN; - Tăng cường công tác kiểm tra; tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của các HTXNN; qua đó, kịp thời khắc phục những lệch lạc, giúp HTX tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cần thiết cho HTX mở rộng các dịch vụ kinh doanh phục vụ nhu cầu phát triển của kinh tế hộ và trang trại; - Cấp ủy cơ sở phải quan tâm xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật cho HTXNN; phân công cán bộ có năng lực, am hiểu về kinh tế, về HTXNN để phụ trách chỉ đạo phong trào. Chú trọng phát triển tổ chức cơ sở đảng và các đoàn thể trong HTXNN để đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với mọi hoạt động của HTXNN. Trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức thực hiện của chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng tập trung các hội viên của mình để quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động các hội viên tích cực tham gia HTXNN kiểu mới, thanh toán kịp thời các khoản phí dịch vụ, thực hiện hợp đồng cung cấp nông sản cho doanh nghiệp, thảo luận và điều chỉnh định mức kinh tế - kỹ thuật các khâu dịch vụ khi có biến động lớn về giá cả trên thị trường, giúp HTXNN hoạt động thuận lợi. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể quần chúng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và hoàn thiện HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian tới, nhu cầu phát triển của sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp đòi hỏi các HTXNN phải mở rộng các hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra, từng bước đi vào sản xuất - kinh doanh, dịch vụ tổng hợp càng đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của Đảng và các đoàn thể quần chúng nhằm kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ các HTXNN thích ứng với cơ chế thị trường và hỗ trợ một cách hiệu quả cho kinh tế nông hộ và trang trại phát triển. Kết luận chương 3 Từ tình hình chuyển đổi và phát triển HTXNN theo Luật HTX (1996) và Luật HTX mới (2003), những ưu điểm và hạn chế cần khắc phục ở HTXNN kiểu mới theo Luật HTX (2003) ở Thái Bình, quán triệt tinh thần nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật HTX năm 2003, trong chương 3, luận văn đi vào trình bày mục tiêu, nhiệm vụ, các phương hướng và giải pháp phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta khẳng định, HTXNN kiểu mới hình thành và phát triển trên nền tảng của kinh tế hộ nông dân, đi vào phát huy vai trò tự chủ, tiềm năng to lớn, vị trí quan trọng, lâu dài của kinh tế hộ nông dân; hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; hướng vào thực hiện mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù các HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh hoạt động còn nhiều yếu kém, nhưng việc củng cố, phát triển và nhân rộng mô hình HTXNN kiểu mới theo Luật HTX (2003) phải theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, tuân thủ các nguyên tắc HTX, đạt hiệu quả thiết thực; từng bước phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp, kết hợp với chuyên môn hóa theo ngành,vùng; hoạt động ngày càng gắn kết với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhà nước. Quán triệt phương hướng phát triển HTXNN kiểu mới vào thực tế, thực hiện các giải pháp phát triển và hoàn thiện HTXNN, một mặt, phải thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để ra tạo cơ sở kinh tế cho HTXNN kiểu mới phát triển. Mặt khác, phải đi sâu vào tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các ngành, các cấp, các chủ thể kinh tế về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan phải phát triển HTXNN kiểu mới trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển đa dạng mô hình tổ chức và hoạt động của HTXNN, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương; từng bước mở rộng liên kết với các thành phần kinh tế trong dịch vụ tổng hợp cho hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời nhu cầu mở rộng kinh doanh của HTXNN; đồng thời, phải tăng cường vai trò của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng nhằm tạo lập môi trường pháp lý, kinh tế, cơ chế chính sách, tâm lý - xã hội cho HTX, tổng kết thực tiễn quá trình phát triển HTXNN để nêu gương, nhân điển hình và phát triển các mô hình phù hợp để giúp đỡ và tạo điều kiện cho HTXNN trong tỉnh phát triển. Kết luận Nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa và thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế đất nước, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới cả về số lượng, chất lượng, đồng thời đa dạng hóa các mô hình tổ chức và hoạt động của HTXNN. HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, thành lập và hoạt động theo Luật HTX được gọi chung là HTXNN kiểu mới (để phân biệt với HTXNN trước đổi mới). HTXNN kiểu mới là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập, nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ, do lợi thế về quy mô và chuyên môn hóa hoạt động. HTXNN ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ nông dân. Là một bộ phận của kinh tế HTX, HTXNN kiểu mới vừa mang những đặc trưng và ưu thế của mô hình HTX kiểu mới nói chung, vừa chịu sự chi phối của các đặc điểm riêng trong lĩnh vực nông nghiệp cả về chủ thể kinh tế, đối tượng và điều kiện sản xuất, địa bàn hoạt động; do đó, có sự khác nhau nhất định giữa HTXNN với HTX hoạt động ở các lĩnh vực kinh tế khác về nhân tố tác động, đặc điểm tổ chức hoạt động, xu hướng vận động và vai trò giúp đỡ của nhà nước. Đó là căn cứ lý luận cơ bản để xác định các phương hướng và giải pháp phát triển, hoàn thiện các HTXNN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thái Bình là tỉnh nông nghiệp, kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, mang nặng tính tự cung, tự cấp, đang trong quá trình chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại, từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; do vậy, đòi hỏi phải thúc đẩy phát triển HTXNN kiểu mới để trở thành "bà đỡ" cho kinh tế nông hộ và trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Sau 5 năm chuyển đổi và phát triển theo Luật HTX (2000 - 2005), HTXNN ở Thái Bình đã được chuyển đổi về cơ bản và có bước phát triển nhất định cả về số lượng và chất lượng. Những kết quả và khởi sắc đó bước đầu đã tạo ra nhận thức mới trong đại bộ phận nông dân và cán bộ về hình thức, nội dung và vai trò của mô hình HTXNN theo Luật HTX. Chúng là tiền đề quan trọng, mở ra khả năng thực tế để xử lý vấn đề HTXNN hiện nay, tạo ra hướng đi mới cho kinh tế hợp tác trong thời gian tới. Tuy vậy, quá trình chuyển đổi và phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian qua còn chậm, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển sức sản xuất; một bộ phận HTXNN chuyển đổi còn mang tính hình thức, chưa có sự chuyển biến nhiều về nội dung hoạt động; nội lực của HTX còn yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ thấp, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hộ xã viên và đòi hỏi của thị trường. Thực trạng yếu kém trên có nguyên nhân từ trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất, nhưng phần quan trọng hơn là do những thiếu sót, khuyết điểm của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương về công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện chuyển đổi HTXNN theo Luật; sự thiếu đồng bộ, thiếu kịp thời về cơ chế, chính sách; sự chậm trễ trong việc khắc phục những tồn tại do lịch sử để lại đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của HTXNN kiểu mới. Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, luận văn đã xác định hệ thống các phương hướng phát triển và hoàn thiện HTXNN trên địa bàn tỉnh, khẳng định nền tảng phát triển của HTXNN kiểu mới là hộ nông dân, xác định vị trí, vai trò, đặc điểm về tổ chức hoạt động và yêu cầu phát triển HTXNN kiểu mới trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Đồng thời, xây dựng hệ thống giải pháp có tính đồng bộ, hỗ trợ, tương tác cho nhau; mỗi giải pháp có vị trí và tầm quan trọng riêng. Do vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện, tùy theo tình hình thực tế của mỗi loại hình HTXNN và trên từng địa bàn cụ thể trong tỉnh mà có sự vận dụng phù hợp nhằm củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTXNN kiểu mới. Danh mục tài liệu tham khảo Ban Kinh tế đối ngoại VCA (1995), Đại hội Liên minh hợp tác xã quốc tế lần thứ 31 tại Mandester - Anh. Ban Kinh tế Trung ương (2005), "Báo cáo tham luận của các hợp tác xã và các huyện", Tài liệu phục vụ: Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, Hà Nội. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương (2005), "Phát triển kinh tế tập thể, Thực trạng và giải pháp", Tài liệu tham khảo, (9). Báo Quốc tế - Bộ ngoại giao (2003), Toàn cảnh kinh tế - xã hội Thái Bình, Hà Nội. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001), Kinh tế hợp tác - hợp tác xã ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Trinh Minh Châu (2003), "Nghĩ về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong lĩnh vực thương mại đến năm 2010", Thương mại, (13). Chính phủ (1997), Nghị định 16/CP ngày 21/2 về chuyển đổi, đăng ký hợp tác xã và tổ chức hoạt động của Liên hiệp hợp tác xã, Hà Nội. Chính phủ (1997), Nghị định 43/CP ngày 29/4 về ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp, Hà Nội. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2006), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trần Ngọc Dũng (2003), "Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của hợp tác xã", Luật học, (1). Hà Đăng (2004), Đi lên từ sản xuất nhỏ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào hợp tác xã (2004), Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đạt (2002), "Nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới các hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Ninh", Tư tưởng văn hóa, (5). Nguyễn Thanh Hà (2000), Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Lâm Quang Huyên (2004), Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2005), Báo cáo của Ban Chấp hành Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa II tại Đại hội đại biểu toàn quốc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam lần thứ ba, Hà Nội. Luật hợp tác xã và văn bản hướng dẫn thi hành (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Naoto Imagawa, Chu Thị Hảo (2003), Lý luận về hợp tác xã và quá trình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Nguyễn Huy Oánh (2005), "Tìm hiểu quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể", Thông tin những vấn đề Kinh tế chính trị học, (4). Nguyễn Huy Oánh (2005), "Tìm hiểu quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể", Thông tin những vấn đề Kinh tế chính trị học, (5). Vũ Văn Phúc (2002), "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta", Lý luận chính trị, (1). Vũ Văn Phúc (2002), "Quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta", Kinh tế châu á - Thái Bình Dương, (5). Vũ Văn Phúc (2005), Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Quốc hội (1996), Luật hợp tác, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Lương Xuân Quỳ (2001), Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay - lý luận, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (2001), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình (2000), Hướng dẫn số 271/HD-NN về chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình (2006), Báo cáo kết quả tổng điều tra hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Thái Bình năm 2005, Thái Bình. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình (2006), Đề án đổi mới công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 2006 - 2010, Thái Bình. Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Võ Văn Tân (2005), Kinh tế tập thể trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Lưu Văn Tiền (2000), Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở tỉnh Vĩnh Long, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tỉnh ủy Thái Bình (2000), Nghị quyết số 11-NQ/TU về việc chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ X VI, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2005), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ X VII, Thái Bình. Bùi Sỹ Trùy (2003), Nông nghiệp nông thôn Thái Bình - Thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Văn Tuất (2002), "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ thực tiễn", Khoa học về chính trị, (3). Đỗ Thị Tuyết, Mai Văn Nam, Phước Minh Hiệp, Bùi Văn Trịnh (2002), "Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở tỉnh Cần Thơ", Nghiên cứu kinh tế, (7). ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2000), Báo cáo kết quả thí điểm đổi mới nội dung phương thức hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp và chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2000), Quyết định số 944/QĐ-UB về việc ban hành một số quy định về chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình. Khánh Vân (2002), "Chính sách cho phát triển kinh tế hợp tác xã", Nghiên cứu lập pháp, (10). Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2003), Kinh nghiệm hoạt động của một số hợp tác xã sau sáu năm thực hiện Luật hợp tác xã ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Việt (2002), "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp", Tạp chí Cộng sản, (19). Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (Chủ biên) (2005), Mô hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. phụ lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2561.doc
Tài liệu liên quan