Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu các vấn đề pháp quy và thực tiễn tại Công ty cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang

A . LỜI MỞ ĐẦU Thực tập là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đào tạo sinh viên. Nó giúp sinh viên tiếp cận với thực tiễn, học tập, đối chiếu và so sánh giữa thực tiễn và lý thuyết. Đối với sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, giai đoạn thực tập giúp bổ sung các kiến thức mà trên giảng đường không thể khái quát hết, thấy được các vấn đề pháp lý trong thực tiễn từ đó thấy được các ưu điểm và hạn chế của các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này. Trong quá trình thực tập tại công ty Cổ phần

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu các vấn đề pháp quy và thực tiễn tại Công ty cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang tôi đã được tiếp cận với thực tiễn nhiều vấn đề pháp lý như các vấn đề về lao động, thủ tục thành lập doanh nghiệp, thuế, hợp đồng ….Trong đó vấn đề mà tôi đặc biệt quan tâm đó là về hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu. Do đặc điểm ngành nghề kinh doanh của công ty lên số lượng hợp đồng thương mại chiếm một phần lớn trong số lượng hợp đồng mà công ty k‎ý kết và vấn đề pháp lý về hợp đồng cũng chiếm một phần lớn trong các vấn đề pháp lý của công ty. Tuy số lượng hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở không chiếm một số lượng lớn nhưng xét thấy đây là một vấn đề tuy không phải là mới nhưng trong thực tiễn các văn bản pháp quy quy định về các vấn đề này không nhiều trong khi đó các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này ngày càng ra tăng và nhu cầu xuất nhập khẩu của nền kinh tế ngày càng mở rộng, tính chuyên môn hóa ngày càng sâu do vậy tôi quyết định chọn đề tài: Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu các vấn đề pháp quy và thực tiễn tại công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang. Đề án này tập trung vào các vấn đề chính sau: . Các chế định pháp quy về vấn đề xuất nhập khẩu ủy thác . Tình hình thực thi các vấn đề pháp quy trong hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu . Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật trong loại hợp đồng này tại cơ sở Và đề tài này được kết cấu gồm ba phần chính Phần I: Cơ sở l‎ý luận về hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu Phần II: Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở Phần III: Những đánh giá và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện các vấn đề pháp quy trong loại hợp đồng này Trong phần một trình bày về cơ sở l‎ý luận và cơ sở pháp l‎ý của hợp đồng xuất nhập khẩu ủy thác. Tuy nhiên đề tài này chỉ đề cập đến các hợp đồng kinh tế. Trong phần hai của đề tài tập trung vào nêu khái quát tình hình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu ủy thác tại cơ sở, phân tích những thuận lợi và vướng mắc trong quá trình thực hiện loại hợp đồng này. Phần ba của đề tài nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng tính thực thi các vấn đề pháp quy trong loại hợp đồng này và nâng cao tính hiệu quả của nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác tại cơ sở Qua đây về phía nhà trường tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy Nguyễn Hợp Toàn –Trưởng khoa Luật kinh tế, thầy Nguyễn Vũ Hoàng – Giảng viên khoa Luật kinh tế trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Về phía cơ sở thực tập tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Ông Nguyễn Châu Thành – Giám đốc công ty, Ông Vũ Đình Lân – Phó giám đốc công ty cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành giai đoạn thực tập này. B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC I. Cơ sở lý luận 1.Vai trò của xuất nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân Xuất nhập khẩu là một khâu không thể thiếu đối với một nền kinh tế quốc dân bởi những yếu tố: Sự phát triển không đồng đều của các quốc gia trên các lĩnh vực công nghệ, nhân lực …do vậy xuất nhập khẩu được coi là giải pháp tốt nhất cho bài toán di tắt đón đầu rút ngắn thời gian theo kịp các quốc gia khác. Nước ta là một thí dụ điển hình, nếu bỏ thời gian và chi phí để nghiên cứu có được công nghệ sản xuất máy bay thì cần một khoảng thời gian rất dài và chi phí lớn trong khi đó ta có thể nhập khẩu công nghệ hoặc máy bay nguyên chiếc với giá cả phải chăng. Do vậy đây được coi là lời giải cho các bài toán mà khi sản phẩm sản xuất trong nước giá thành còn cao. Mỗi quốc gia đều có đặc điểm về tự nhiên, dân cư khác nhau, có các thế mạnh và điểm yếu riêng, nếu phát triển tất cả các lĩnh vực ngành nghề bao gồm cả các ngành mà chi phí sản xuất sản phẩm còn cao thì hiệu quả kinh tế không cao trong khi tập trung vào các ngành mà quốc gia mình có thế mạnh để giảm giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường và nhập khẩu các sản phẩm mà nếu sản xuất trong nước giá thành còn cao. Trở lại thí dụ ở phần trên, nước ta do đặc điểm về tự nhiên và dân cư nên có thế mạnh trong ngành nông nghiệp, công nghiệp may mặc, thủy hải sản, do đó tập trung vào các ngành nghề này giúp giảm giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh với hàng hóa cùng loại của các quốc gia khác trên các thị trường xuất khẩu và nhập về các sản phẩm mà nước ta chưa đủ năng lực sản xuất hoặc sản xuất với giá thành còn quá cao. Tuy nhiên không phải chỉ có tập trung vào các ngành nghề mà quốc gia mình có thế mạnh, bên cạnh chiến lược trên ta cũng phải gấp rút đầu tư vào nghiên cứu chế tạo các sản phẩm mà giá thành sản phẩm trong nước còn cao từ đó mở rộng phạm vi các ngành nghề có thế mạnh. Vậy xuất nhập khẩu còn được coi là giải pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sự chuyên môn hóa ngày càng cao, sự phân công và hiệp tác lao động ngày càng mở rộng và chuyên sâu, có những sản phẩm được hoàn thành sau nhiều công đoạn và mỗi công đoạn đó được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau do vậy xuất nhập đóng vai trò là một khâu trong quá trình hoàn thiện sản phẩm. 2. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu của nước ta từ năm 1990 tới nay Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, nhà nước độc quyền việc xuất nhập khẩu, do không đủ năng động nắm bắt được nhu cầu của nền kinh tế đã dẫn đến tình trạng tắc nghẽn nền kinh tế cung và cầu mất cân bằng như một số mặt hàng sản xuất ra không tiêu thụ được do thiếu đối tác, thiếu máy móc, công nghệ phục vụ cho sản xuất. Ngày nay với xu thế hội nhập kinh tế thế giới đảng và nhà nước ta đã có những chính sách cụ thể và thiết thực nhằm thúc đẩy và khai thác các lợi thế do hoạt động xuất nhập khẩu đem lại. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm(1990-2000) kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 67,3 tỷ USD vượt mục tiêu nêu trong chiến lược 10 năm (37 - 45 tỷ USD), bình quân hàng năm tăng 18,2%, trong đó, thời kỳ 1991-1995 là17,2 tỷ USD, tăng 17,8%, thời kỳ 1996-2000 là là 50,1 tỷ USD, tăng 18,6%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 gấp khoảng 5,3 lần so với năm 1990, cao hơn mục tiêu nêu trong Chiến lược là 5 lần, nhưng xuất khẩu đầu người chỉ tăng từ 36,3 USD năm 1990 lên 166 USD năm 2000, thấp hơn mục tiêu nêu trong Nghị quyết Đại hội VIII là 200 USD. Thị trường được củng cố và mở rộng. Cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990, ngoại thương Việt Nam chỉ có những bạn hàng chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ với những mặt hàng xuất khẩu manh múi, đơn điệu, chủ yếu là nông sản nguyên liệu và hàng thủ công mỹ nghệ, hàng gia công bán thành phẩm. Tuy nhiên khi thị trường khu vực này bị đột ngột thu hẹp, chúng ta đã nhanh chóng tìm kiếm, tiếp cận và mở rộng thị trường ở các khu vực khác để tránh sự hẫng hụt, tháo gỡ khó khăn. Nhờ có chính sách đổi mới đa phương hoá quan hệ kinh tế của Đảng và Nhà nước, đến cuối năm 1997 và đầu năm 1998 hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của trên 150 nước ở khắp các châu lục với những chủng loại mặt hàng đa dạng và phong phú hơn. Có một số mặt hàng đã có vị trí trên thị trường như dầu thô, gạo, hàng thuỷ hải sản chế biến, cà phê, cao su, quần áo may sẵn... Thị trường xuất - nhập khẩu của nước ta được mở rộng về phạm vi và dung lượng. Hiện nay, khu vực Châu á vẫn đang là thị trường xuất và nhập khẩu lớn nhất của nước ta, đã chiếm gần 63% tổng kim ngạch xuất khẩu và gần 74% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN là những đối tác chiếm thị phần buôn bán lớn nhất trong số các đối tác châu á. Riêng các nước ASEAN chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu và 32,4% kim ngạch nhập khẩu của nước ta trong năm 1998. Triển vọng trong những năm cuối của thập kỷ này các nước Châu á vẫn là những bạn hàng lớn nhất trong quan hệ buôn bán với nước ta. Hàng hoá của Việt Nam đã tiếp cận vào thị trường Châu Âu, Châu Mỹ, đặc biệt là thị trường các nước EU, Hoa Kỳ và Canađa. Thị trường các nước Trung Đông cũng đã và đang được khai thác triệt để, bước đầu là các mặt hàng trả nợ như gạo, chè, cà phê, cá hộp, quần áo may sẵn và một số mặt hàng tiêu dùng khác..., đến nay một số mặt hàng của Việt Nam như cà phê, gạo, chè đã có sức cạnh tranh trên thị trường này. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã tìm kiếm các giải pháp khôi phục lại thị trường các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu sau một thời gian gián đoạn, sẽ mở ra những khả năng mới trong quan hệ kinh tế và trao đổi hàng hoá khu vực này. Dung lượng hàng hoá tham gia thị trường quốc tế của Việt Nam ngày càng phát triển về cả khối lượng và chất lượng. Tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu trong những năm 1991 - 1997 tăng bình quân 25%. Tuy nhiên, năm 1998 do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á, kim ngạch xuất khẩu năm 1998 đã chững lại, chỉ tăng khoảng1,9%. Năm 1999, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đã tăng trở lại 23,1%. Kế hoạch năm 2000, dự kiến có thể tăng trên 11%. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm thuỷ sản tuy vẫn ở vị trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng có xu hướng giảm dần, từ bình quân là 48,0% thời kỳ 1991 - 1995 giảm còn 38,5% trong thời kỳ 1996 - 2000, trong khi tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp vẫn tăng tương ứng từ 21,7% lên 35,9%. Về nhập khẩu tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể từ 16,4% bình quân thời kỳ 1991 - 1995 xuống còn 8,1% vào thời kỳ 1996 - 2000, trong đó riêng năm 1999 chỉ còn 5,9%, năm 2000 dự kiến giảm còn 4,7%. Nhập khẩu trong những năm qua tuy có tăng, nhưng tốc độ chậm dần. Chúng ta tập trung chủ yếu vào nhập nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, trong khi đã cố gắng giảm dần tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng. Một số mặt hàng trước đây vẫn phải nhập khẩu nay đã được thay thế bằng sản xuất trong nước, nhờ vậy giảm tương đối thâm hụt cán cân thương mại. Kim ngạch nhập khẩu trong những năm qua cũng đã có thay đổi về cơ cấu. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, trong khi tỷ trọng nhóm nguyên nhiên vật liệu tăng lên nhanh. Thay đổi này phản ảnh chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và giảm nhập khẩu những mặt hàng đã sản xuất trong nước có thể thay thế nhập khẩu được. Giữ được tốc độ tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu, trước hết là do chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu. Việc từng bước hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật theo kinh tế thị trường và đổi mới chính sách xuất nhập khẩu đã thực sự thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu. Trong 10 năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn, giảm các thủ tục hành chính, trở ngại về thuế má, hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu, như hỗ trợ lãi suất vay vốn sản xuất và hoạt động xuất khẩu, trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu mới vào thị trường mới, chính sách khen thưởng, khuyến khích các doanh nghiệp tìm được mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường mới. Ban hành chính sách về quản lý ngoại hối, điều chỉnh tỷ giá của đồng USD so với đồng Việt Nam để khuyến khích xuất khẩu, chính sách đầu tư nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu.. Tuy nhiên, lĩnh vực xuất nhập khẩu đang đứng trước những khó khăn mới. Những hạn chế trong các khâu tạo nguồn hàng, chế biến nâng cao chất lượng đã làm cho các sản phẩm xuất khẩu của ta không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu vẫn chưa có những chuyển dịch tích cực, xuất khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô... còn chiếm tỷ trọng lớn, nên giá trị thấp. Hơn nữa, do khả năng tiếp cận thị trường kém, nhiều mặt hàng của ta còn phải xuất khẩu qua trung gian nên hạn chế kim ngạch thu được. Trong qu‎ý I năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta đạt 10,5 tỷ USD dự kiến con số này sẽ đạt 100 tỷ USD vào năm 2010.Nhưng hiện tại , khối lượng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đã được khai thác tới mức tối đa trong sản lượng sản xuất như gạo, cà phê, cao su,... do vậy, muốn tăng giá trị xuất khẩu cần phải đầu tư phát triển thâm canh, tăng năng suất và đặc biệt đầu tư vào khâu công nghiệp chế biến sâu, tăng nhanh chất lượng để đủ sức cạnh tranh và tìm kiếm thêm thị trường xuất khẩu. 3. Hoạt động xuất nhập khẩu ủy thác Xuất nhập khẩu ủy thác là một nghiệp vụ thương mại phát sinh trong nền kinh tế thị trường khi sự chuyên môn hóa về ngành nghề ngày càng cao, ngoài nguyên nhân trên, còn một số nguyên nhân chính làm phát sinh nghiệp vụ này đó là: - Thiếu năng lực xuất nhập khẩu Ngày nay, số lượng các doanh nghiệp chưa có năng lực xuất nhập khẩu chiếm một tỷ lệ không nhỏ do chưa đăng ký mã số xuất nhập khẩu với cục hải quan tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức cá nhân không phải là thương nhân, để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình khi làm ăn với các đối tác mang quốc tịch nước ngoài thì phải thiết lập một hợp đồng ủy thác xuất hoặc nhập khẩu với một doanh nghiệp có năng lực pháp lý về xuất nhập khẩu. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp có tư cách xuất nhập khẩu thì hoặc do đội ngũ nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này còn hạn chế về quân số hoặc năng lực nên để giảm thiểu thời gian, chi phí và rủi ro thì họ cũng chọn phương án là xác lập một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu cho một doanh nghiệp làm nghiệp vụ này. Mặt khác, do các thiếu cập nhật về thông tin hải quan, thị trường, và thiếu kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp xảy ra đối với các đối tác nước ngoài nên các tổ chức kinh tế và các cá nhân có nhu cầu xuất nhập khẩu thường chọn phương án ủy thác cho một đơn vị có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực này xuất hoặc nhập khẩu. - Chiếm dụng vốn Việc thực hiện một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu mất một khoảng thời gian thường là dài, và bên được ủy quyền xuất hoặc nhập khẩu là người đại diện cho bên ủy quyền thanh toán cho đối tác của bên ủy quyền bằng tài khoản của mình và bên được ủy thác xuất nhập khẩu sẽ được bên ủy thác cho mình thanh toán chi phí suất nhập khẩu, tiền hàng (nếu là nhập khẩu ủy thác) trong khoảng thời gian thực hiện hợp đồng, bên ủy thác sẽ không phải bỏ một khoản tiền mua hàng (nếu là nhập khẩu và có thỏa thuận điều này trong hợp đồng) và nhập hàng mà chỉ phải mất một khoản phí nhất định thường là rất nhỏ so với khoản tiền phải bỏ ra ngay khi mình trực tiếp là người xuất nhập khẩu - Thiếu thị trường Đối với nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác, ngoài chức năng thương mại thông thường là mang lại khoản thu từ phí ủy thác, nó còn có chức năng là một kênh tìm kiếm đối tác của các đơn vị ủy thác. Đối với những người mua nhỏ lẻ hoặc các nhà sản suất nhỏ lẻ do không có nhiều thông tin về thị trường nhập cũng như xuất hàng, họ thường tìm đến các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực này để tìm kiếm đối tác và ủy thác cho những đơn vị này xuất hoặc nhập khẩu. II. Hợp đồng và vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm và đặc diểm của hợp đồng kinh tế 1.1 Khái niệm Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình. 1.2 Đặc điểm Việc giao kết hợp đồng phải dựa trên nguyên tắc tự do giao kết nhưng không được trái pháp luật và trái với đạo đức xã hội, tự nguyện bình đẳng, thiện chí hợp tác, trung thực và ngay thẳng Hợp đồng có giá trị pháp l‎ý là biên bản xác nhận quyền và nghĩa vụ của các bên, các bên phải tuân thủ những gì đã được ký kết trên hợp đồng không được làm khác đi nếu không được sự cho phép của bên còn lại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Nếu có tranh chấp xảy ra thì hợp đồng được coi là chứng cứ quan trọng nhất để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Một hợp đồng kinh tế có những đặc điểm: - Về chủ thể của hợp đồng Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc ít nhất một trong hai bên là pháp nhân còn bên kia có thể hộ gia đình kinh doanh cá thể, các cá nhân không phải là thương nhân, hoặc các tổ chức không phải là thương nhân ...theo quy định tại điều khoản 2 Điều 2 của Luật thương mại. + Pháp nhân theo quy định tại Điều 84 của Bộ luật dân sự năm 2005 (Bộ luật dân sự) là các tổ chức thỏa mãn bốn điều kiện dưới đây: - Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận; - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; - Có tài sản độc lập với tài sản của cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; - Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân có thể là công ty, một tổ chức, một hiệp hội...thỏa mãn các điều kiện trên. + Các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân là các cá nhân và tổ chức có hoạt động liên quan đến thương mại mặc dù không phải với mục đích sinh lời (khoản 3 Điều 1 Luật thương mại năm 2005) - Về nội dung của hợp đồng kinh tế Một hợp đồng kinh tế bao gồm các điều khoản chính như: . Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên, họ, tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh; . Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận; . Chất lượng, chủng loại, quy sách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc; . Giá cả; . Bảo hành; . Điều kiện nghiệm thu, giao nhận; . Phương thức thanh toán; . Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế; . Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế; . Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế; . Các thoả thuận khác. Do hợp đồng ký kết nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh vì vậy mục đích kinh doanh luôn được thể hiện hàng đầu trong các hợp đồng kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với hợp đồng dân sự chủ yếu phục vụ mục đích sinh hoạt và tiêu dùng. 2. Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường - Đối với sự quản lý kinh tế của nhà nước Trong nền kinh tế quốc dân, sự quản l‎ý của nhà nước là không thể thiếu, nhà nước bằng các chính sách và công cụ vĩ mô điều tiết nền kinh tế đi theo đúng quỹ đạo và khuynh hướng phát triển của đất nước. Công cụ quan trọng để nhà nước quản l‎ý nền kinh tế đó là pháp luật kinh tế. Khi một tranh chấp xảy ra để có cơ sở giải quyết đúng đắn theo pháp luật kinh tế thì hợp đồng kinh tế được coi là một cơ sở quan trọng cho phán quyết cuối cùng của các cơ quan giải quyết tranh chấp. - Đối với các tổ chức kinh tế Hợp đồng kinh tế là văn bản thể hiện sự xác lập quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế, qua đó nó thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên theo đó, các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như đã ký kết. Hợp đồng kinh tế có vai trò như một cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ kinh tế. 3. Quy trình thực hiện một hợp đồng kinh tế và các vấn đề pháp quy. 3.1 Các vấn đề pháp quy về ký kết hợp đồng - Nguyên tắc giao kết hợp đồng kinh tế Tương tự như các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự, việc giao kết hợp đồng kinh tế theo quy định của Luật thương mại phải tuân thủ những nguyên tắc sau: - Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; - Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. + Nguyên tắc thứ nhất tự do giao kết hợp đồng kinh tế có nghĩa các bên xuất phát từ nhu cầu mục đích của mình có thể tự do giao kết các hợp đồng, nhà nước không can thiệp tuy nhiên phải trên cơ sở là không trái pháp luật và đạo đức xã hội + Nguyên tắc tự nguyện bình đẳng loại bỏ các hợp đồng giao kết trên cơ sở ép buộc hoặc cưỡng bức khi giao kết, khi giao kết các bên hoàn toàn bình quyền như nhau, không bên nào ở trên bên nào. + Nguyên tắc thiện chí hợp tác có nghĩa các bên khi giao kết phải dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận, cùng nhau giải quyết các bất đồng để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng + Nguyên tắc trung thực và ngay thẳng đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng kinh tế một cách minh bạch không có sự gian lận trong việc giao kết hợp đồng gây bất lợi cho bên kia. Việc giao kết hợp đồng kinh tế phải tuân thủ các nguyên tắc trên, nếu vi phạm một trong các nguyên tắc đó thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu và bên đối tác sẽ không phải thực hiện bất cứ một điều khoản nào trong hợp đồng đã ký kết. Và bên có hành vi sai phạm sẽ phải bồi thường cho bên đối tác các thiệt hại mà do thực hiện hợp đồng đó gây ra nếu có (Điều 314 Luật thương mại năm 2005) - Về chủ thể của hợp đồng kinh tế Theo điều 2 của Luật thương mại năm 2005 (Luật thưong mại) thì chủ thể của hợp đồng kinh tế có thể là thương nhân, tổ chức cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Như vậy khi hợp đồng được xác lập giũa các thương nhân với nhau thì đương nhiên hợp đồng đó do Luật thương mại điều chỉnh còn đối với loại hợp đồng được lập giữa thương nhân và các cá nhân tổ chức không phải là thương nhân thì cũng đương nhiên do luật này điều chỉnh nếu như bên không phải là thương nhân chọn áp dụng luật này (theo khoản 3 Điều 1 Luật thương mại). Điểm quan trọng ở đây khi xác định chủ thể của hợp đồng kinh tế là phải xác định hoạt động đó có nhằm mục đích thương mại hay không, vậy hoạt động thương mại là gỉ? Theo khoản 1 điều 3 của Luật thương mại thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Do đó chủ thể của hợp đồng kinh tế có thể là thương nhân, các tổ chức cá nhân không phải là thương nhân. Khi muốn ký kết một hợp đồng kinh tế nói riêng và hợp đồng nói chung, các bên phải thương lượng đàm phán với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trên cơ sở bình đẳng, trung thực và tự nguyện. Đàm phán là quá trình trao đổi ‎ kiến của các chủ thể nhằm đi tới một sự thống nhất các vấn đề như về tên hàng hóa, giá cả, chủng loại, bảo hành, khiếu nại … Đàm phán thường có các hình thức đàm phán chính : - Đàm phán qua thư tín - Đàm phán qua các phương tiện thông tin như điện thoại, internet - Đàm phán trực tiếp Sau khi đàm phán thương lượng các vấn đề về hợp đồng các bên bắt đầu soạn thảo một hợp đồng kinh tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng tự nguyện không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Nguyên tắc tự do cho phép các bên được tự do thỏa thuận thương lượng về các điều khoản của hợp đồng quyền và nghĩa vụ của các bên. Nguyên tắc này loại bỏ các hợp đồng ký kết trên cơ sở cưỡng bức, gian lận, không trung thực do vậy đây là nguyên tắc cơ bản và bắt buộc khi thực hiện việc giao kết một hợp đồng kinh tế nói riêng và hợp đồng nói chung. - Về phương thức ký kết một hợp đồng Sau khi đã thống nhất về các điều khoản được soạn thảo trong hợp đồng kinh tế thì các bên đi đến ký kết hợp đồng theo một trong các hình thức dưới đây: + Ký kết trực tiếp, đây là hình thức mà hai bên gặp gỡ trực tiếp đàm phán về các điều khoản của hợp đồng. Có thể là đàm phán không trực tiếp tuy nhiên đối với hình thức ký kết này, hai bên phải cùng trực tiếp ký vào hợp đồng + Ký kết gián tiếp, hình thức này có thể thông qua bởi các cách: Gửi bản chào hàng hay đơn đặt hàng và bên đối tác gửi lại một bản trả lời chấp nhận chào hàng hay đặt hàng. Trong trường hợp này coi như hai bên đã ký với nhau một hợp đồng hình thức và đã có sự ràng buộc pháp lý đối với mỗi bên. Hợp đồng loại này được thông qua hai bước: - Gửi bản chào hàng hoặc đơn đặt hàng, trong đó có các điều khoản mô tả về hàng hóa, giá cả, chủng loại, xuất xứ và các đặc tính khác của hàng hóa. - Chấp nhận đề nghị và ký kết hợp đồng, trong trường hợp bên nhận được chào hàng và chấp nhận chào hàng bằng cách gửi cho bên chào hàng một thông báo chấp nhận chào hàng trong khoảng thời gian ghi trong chào hàng thì coi như hợp đồng thương mại đã được ký kết kể từ khi bên chào hàng nhận được chấp nhận của bên được chào hàng. 3.2 Chế độ pháp lý về thực hiện hợp đồng Theo quy định của Bộ luật dân sự hay theo Luật thương mại đều có quy định rằng hợp đồng kinh tế phải được chấp hành theo các nguyên tắc chính: Chấp hành thực hiện Chấp hành đúng Chấp hành dựa trên tinh thần hợp tác hai bên cùng có lợi Trên cơ sở đó việc tổ chức thực hiện hợp đồng kinh tế thông thường trải qua các bước chính sau: - Kiểm tra việc thực hiện hợp đồng đối với đối tác, tiếp nhận các vấn đề liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng do phía đối tác cung cấp - Chuyển giao hoặc tiếp nhận quyền sở hữu, việc này có thể ủy nhiệm cho cơ quan hải quan hoặc do một đơn vị khác được ủy quyền - Làm thủ tục thanh toán và thanh l‎ý hợp đồng, phương thức thanh toán có thể bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, trong giai đoạn hiện nay, thanh toán bằng phương thức chuyển khoản là khá phổ biến vì tính tiện lợi của phương thức này. Tuy nhiên khi làm việc với các đối tác mang quốc tịch nước ngoài, thì điều kiện để thiết lập hợp đồng là phải mở LC tại một ngân hàng để làm bảo đảm thanh toán. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, cụ thể là thanh toán tín dụng chứng từ. Sau khi việc thanh toán hoàn thành cũng có nghĩa là hợp đồng đó được thanh lý nếu như trong hợp đồng không có điều khoản nào quy định thêm. 4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một hậu quả pháp lý bắt buộc bên vi phạm phải thực hiện đối với bên bị vi phạm để bù đắp những tổn thất do vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Theo Điều 192 của Luật thương mại thì các chế tài này bao gồm: - Buộc thực hiện đúng hợp đồng. - Phạt vi phạm. - Buộc bồi thường thiệt hại. - Tạm ngừng thực hiện hợp đồng. - Đình chỉ thực hiện hợp đồng. - Huỷ bỏ hợp đồng. - Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. + Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. + Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật thương mại. Mức phạt vi phạm do hai bên thoả thuận mhưng mức cao nhất không quá 8 % giá trị phần hợp đồng bị vi phạm (Điều 301 Luật thương mại). + Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. + Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. + Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. - Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. - Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật thương mại, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: . Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; . Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. 5. Các phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng kinh tế Theo Điều 317 của Luật thương mại thì việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng thương mại bao gồm: 1. Thương lượng giữa các bên. 2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải. 3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. * Thương lượng và hòa giải + Thương lượng là biện pháp phát sinh tranh chấp các bên gặp nhau cùng bàn bạc tìm cách tháo gỡ vấn đề, đây là biện pháp mang tính bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, kết quả của việc thương lượng được các bên tự nguyện thực hiện và không có ràng buộc về mặt pháp lý. + Hòa giải là biện pháp mang tính chất riêng tư, tuy nhiên có sự tham gia của người thứ ba gọi là hòa giải viên. Bên thứ ba giúp các bên đạt được một thỏa thuận thống nhất giải quyết vấn đề. Kết quả của hòa giải cũng được các bên tự giác chấp hành. Khi hai bên không thể giải quyết bằng các con đường trên thì theo thỏa thuận của hợp đồng hoặc hai bên tự thỏa thuận sẽ giải quyết bằng con đường Trọng tài hoặc Tòa án * Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tòa án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định (Điều 317 Luật thương mại) Theo pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH ngày 25 tháng 02 năm 2003 tại Điều 9 có quy định việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài phải được lập thành văn bản và có thể nêu trong một điều khoản của hợp đồng thương mại hoặc một thỏa thuận riêng. Thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài bị vô hiệu trong các trường hợp được quy định trong Điều 10 của pháp lệnh này bao gồm: - Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại; - Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật; - Một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung; - Thoả thuận trọng tài không được lập theo quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh này; - Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu._. cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này. Thỏa thuận trọng tài trong trường hợp được thỏa thuận dưới hình thức như một điều khoản của hợp đồng hoặc thành một thỏa thuận riêng biệt thì về nguyên tắc vẫn phải tuân theo các nguyên tắc như soạn thảo một hợp đồng  * Giải quyết tranh chấp bằng tòa án + Đối với các hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên mang quốc tịch Việt Nam thì thủ tục giải quyết sẽ do tòa kinh tế của tòa án nhân dân giải quyết. + Đối với hợp đồng ngoại thương thì tòa kinh tế trong nước không có thẩm quyền đương nhiên giải quyết một tranh chấp phát sinh. Tòa án kinh tế trong nước chỉ có thẩm quyền giải quyết khi trong hợp đồng có điều khoản thỏa thuận và trong các điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ của hợp đồng cũng không có quy định trọng tài có thẩm quyền giải quyết. III. Cơ sở pháp l‎ý của hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu 1. Cơ sở pháp l‎ý của hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu 1.1 Các vấn đề pháp quy về hợp đồng uỷ quyền Theo Điều 581 của Bộ luật dân sự thì hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định, theo đó các bên có các quyền và nghĩa vụ cụ thể: - Quyền của bên uỷ quyền (Điều 587 Bộ luật dân sự) Bên uỷ quyền có các quyền sau đây: + Yêu cầu bên được uỷ quyền thông báo đầy đủ về việc thực hiện công việc uỷ quyền; + Yêu cầu bên được uỷ quyền giao lại tài sản, lợi ích thu được từ việc thực hiện công việc uỷ quyền, nếu không có thoả thuận khác; + Được bồi thường thiệt hại, nếu bên được uỷ quyền vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 584 của Bộ luật này. - Nghĩa vụ của bên uỷ quyền (Điều 586 Bộ luật dân sự) Bên uỷ quyền có các nghĩa vụ sau đây: + Cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để bên được uỷ quyền thực hiện công việc; + Chịu trách nhiệm về cam kết do bên được uỷ quyền thực hiện trong phạm vi uỷ quyền; + Thanh toán chi phí hợp lý mà bên được uỷ quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc được uỷ quyền và trả thù lao cho bên được uỷ quyền, nếu có thoả thuận về việc trả thù lao. - Quyền của bên được uỷ quyền (Điều 585 Bộ luật dân sự) Bên được uỷ quyền có các quyền sau đây: + Yêu cầu bên uỷ quyền cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để thực hiện công việc uỷ quyền; + Hưởng thù lao, được thanh toán chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc uỷ quyền. - Nghĩa vụ của bên được uỷ quyền (Điều 584 Bộ luật dân sự) Bên được uỷ quyền có các nghĩa vụ sau đây: + Thực hiện công việc theo uỷ quyền và báo cho bên uỷ quyền về việc thực hiện công việc đó; + Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện uỷ quyền về thời hạn, phạm vi uỷ quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi uỷ quyền; + Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc uỷ quyền; + Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc uỷ quyền; + Giao lại cho bên uỷ quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc uỷ quyền theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; + Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại các khoản trên. 1.2 Cơ sở pháp lý của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu Xuất nhập khẩu ủy thác là một hoạt động thương mại và hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu là một loại hợp đồng dịch vụ do vậy trước đây nó chịu sự điều chỉnh của bộ luật khung là Luật dân sự năm 1995, luật chuyên ngành là Luật thương mại năm 1997, Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998 về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại l‎y mua bán hàng hóa với nước ngoài. Nghị định này quy định chi tiết về điều kiện thương nhân được thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác đó là các thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc đã đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Quyết định Số: 1172/TM-XNK của bộ trưởng bộ thương mại Ban hành quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước trong đó ban quy định các quy chế ủy thác xuất nhập khẩu giữa các pháp nhân trong nước ,quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ủy thác. Ngày nay, hoạt động ủy thác xuất nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của Bộ luật khung là Luật dân sự năm 2005 và luật chuyên ngành bao gồm Luật thương mại năm 2005 và Nghị số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại l‎y mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. 2. Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu ủy thác có hiệu lực pháp luật Là một hợp đồng thương mại để có hiệu lực pháp luật như đã trình bày trong phần điều kiện có hiệu lực pháp luật của một hợp đồng kinh tế ở trên thì tại Điều 17 của nghị số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 có quy định thương nhân có thể ủy thác cho các thương nhân khác xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu cho thương nhân khác trừ hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng thuộc danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu Vậy ở đây, để một hợp đồng loại này có hiệu lực pháp luật phải thỏa mãn thêm các điều kiện sau: - Chủ thể của hợp đồng, chủ thể của loại hợp đồng này đối với bên ủy thác có thể là thương nhân hoặc cá nhân tổ chức không phải là thương nhân khi có nhu cầu xuất nhập khẩu các mặt hàng phục vụ nhu cầu của tổ chức hoặc cá nhân đó. Thương nhân ở đây được hiểu là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. (Điều 6 Luật thương mại). Đối với bên nhận ủy thác thì phải là thương nhân tức phải hoạt động thương mại một cách độc lập, có đăng k‎ý kinh doanh và phải đăng ký mã số xuất nhập khẩu với cơ quan hải quan tỉnh thành phố. - Về điều kiện hàng hóa trong hợp đồng, hàng hóa phải là hàng hóa không thuộc diện cấm hoặc tạm ngừng xuất nhập khẩu, các mặt hàng cấm xuất, nhập khẩu được kê khai trong phụ lục số 02 của nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ và các hàng hóa tạm ngừng xuất nhập khẩu được kê khai trong Phụ lục số 03 của nghị định này, các danh mục hàng cấm nhập, cấm xuất, tậm ngừng xuất, nhập khẩu sẽ do chính phủ quyết định trên cơ sở xét đề nghị của các bộ quản lý chuyên ngành và danh mục này sẽ thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, chính trị xã hội của đất nước. Tại Điều 18 của nghị định này có quy định đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép quy định tại nghị định này, bên ủy thác hoặc bên nhận ủy thác phải có giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu trước khi k‎ý hợp đồng ủy thác hoặc nhận ủy thác, theo quy định này, đối với các hàng hóa xuất nhập khẩu theo giấy phép thì một điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực pháp luật là một trong hai bên phải có giấy phép của bộ quản lý tương ứng với các mặt hàng phù hợp với các quy định của nghị định số 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ. Đối với những mặt hàng không cần giấy phép xuất nhập khẩu thì điều kiện để hợp đồng uỷ thác có hiệu lực pháp luật chỉ là bên nhận uỷ thác có năng lực pháp luât về xuất nhập khẩu. 3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu Ngoài quyền và nghĩa vụ của mỗi bên như trong quy định của Bộ luật dân sự và Luật thương mại thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu được quy định chi tiết trong quyết định của Bộ trưởng Bộ thương mại số 1172/TM-XNK ngày 23/04/1994 ban hành quy chế xuất nhập khẩu uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước. Trong văn bản trên có quy định Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông tin về thị trường, giá cả, khách hàng, có liên quan đến đơn hàng uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu. Đối với bên ủy thác có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận uỷ thác phí uỷ thác và các khoản phí tổn phát sinh khi thực hiện uỷ thác. Như vậy bên nhận uỷ thác ngoài nghĩa vụ thưc hiện công việc được uỷ thác còn phải có nghĩa vụ cung cấp các thông tin về thị trường giá cả và khách hàng cho bên uỷ thác, đây là quy định nhằm loại bỏ hành vi gian lận trong hợp đồng uỷ thác trong trường hợp bên nhận uỷ thác không trung thực khi ký kết loại hợp đồng này. Bên uỷ thác phải thanh toán cho bên uỷ thác phí uỷ thác và các loại chi phí phát sinh khi thực hiện nghiệp vụ uỷ thác như cước phí vận chuyển, kho bãi, phí làm thủ tục hải quan, các loại thuế và sự chênh lệch về mức thuế do sự thay đổi của Bộ Tài chính trong quá trình thực hiện hợp đồng, một số loại chi phí hợp lý khác có chứng từ xác nhận hợp pháp. Ngoài ra, Nghị định này có quy định mở, hai bên thương lượng và ký hợp đồng uỷ thác. Quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của 2 bên do 2 bên thoả thuận và được ghi trong hợp đồng. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền tự do, bình đẳng trong giao kết hợp đồng của pháp luật, tuy nhiên các điều khoản thỏa thuận phải không trái với luật pháp và đạo đức. CHƯƠNG II HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC TẠI CÔNG TY CHÂU GIANG I Khái quát về đơn vị thực tập 1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu giang được thành lập theo giấy chứng nhận đăng k‎ý kinh doanh công ty cổ phần số: 0103001102 do Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 04/06/2002 với: - Tên giao dịch: Chau giang freight international and trading joint stock company - Tên viết tắt: C&G.JSC - Mã số thuế: 0101252363 - Địa chỉ trụ sở chính: 12 Bích Câu –Phường Quốc tử Giám –Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội - Chi nhánh tại Hải Phòng: Số 01- Ngô Quyền - Hải An - Hải Phòng - Điện thoại: 031 741 814 Nay đang trong quá trình xin chuyển địa chỉ trụ sở chính công ty về Tầng 1 –Nhà 6B- Khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính –Quận Thanh Xuân –Thành phố Hà Nôi - Danh sách các cổ đông sáng lập: STT Tên cổ đông sáng lập Nơi đămg ký hộ khẩu thường trú Số cổ phần 1 Nguyễn Châu Thành P305-C6-Giảng Võ- Ba Đình – Hà Nội 14.000 2 Dương Tuấn Cường 106B-Ngõ Xã Đàn II –Nam Đồng – Đống Đa – Hà Nội 3.000 3 Nguyễn Hạnh Phúc Số 14 – Bích Câu – Quốc Tử Giám – Đống Đa – Hà Nội 3.000 (Nguồn: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 0103001102) Công ty được thành lập trong khi nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong các năm gần đây đều đạt tỷ lệ trên 7% một năm, luôn xếp vào danh sách các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, bên cạnh đó các chính sách vĩ mô của nhà nước ngày càng được hoàn thiện theo hướng thông thoáng khuyến khích đầu tư. Đây là một môi trường kinh doanh thuận lợi đối với các doanh nghiệp, cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động nắm bắt sự biến động của nền kinh tế thị trường, đó là hai yếu tố quan trọng quyết định cho sự thành công của công ty trên thương trường và trong quá trình kinh doanh công ty đã thực hiện tốt chức năng của mình đóng góp một phần vào ngân sách nhà nước qua các loại thuế và đã tạo công ăn việc làm ổn định cho gần 30 lao động với mức lương chung bình chung đạt 1,8 triệu đồng/ người/ tháng. Ngoài ra công ty còn tạo công ăn việc làm không thường xuyên cho gần 40 lao động thông qua hình thức hợp đồng lao động thời vụ. Với quy mô có xu hướng ngày càng mở rộng công ty đang có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động và trong tương lai công ty sẽ tạo việc làm ổn định cho một số lượng lớn lao động, góp phần vào việc giảm tỷ lệ thất nghiệp thực hiện mục tiêu chung do Đảng và Nhà nước đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn mới. 2. Ngành nghề kinh doanh Là một công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải quốc tế, nghiệp vụ vận tải là một nghiệp vụ chính của công ty, bên cạnh đó công ty còn kinh doanh trên các lĩnh vực như: Đại lý vận tải và hàng không Dịch vụ làm thủ tục hải quan, khai thuê hải quan, cho thuê kho bãi Đại lý mua bán k‎ý gửi hàng hóa Ủy thác mua bán hàng hóa Mua bán hàng may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, hàng nông, lâm, thủy hải sản, lương thực, thực phẩm, đồ uống, rượu, bia, thuốc lá Mua bán máy móc, thiết bị, vật tư nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng Các ngành nghề trên là cơ sở để công ty thực hiện nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu bởi nghiệp vụ này gồm tập hợp các nghiệp vụ trên và nó phù hợp với bản đăng k‎ý nghành nghề kinh doanh của công ty. Nghiệp vụ này giúp đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của công ty. 3. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Trong những năm gần đây công ty luôn hoạt động hiệu quả và có lãi liên tiếp từ năm 2003 tới nay, tuy với doanh thu và lợi nhuận chưa phải là cao nhưng kết quả đó cho thấy khả năng đứng vững và phát triển của công ty. Để thấy được tình hình hoạt động kinh doanh của công ty ta xét bảng cân đối kế toán năm trước của công ty dưới đây: BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN Tại ngày 31 tháng 12 năm 2006 TÀI SẢN Mã Thuyết minh Số cuối năm Số đầu năm A.TÀI SẢN NGẮN HẠN 100 1,981,369,259 1,225,522,106 I. Tiền và các khoản tương đương tiền 110 810,646,148 295,932,768 1. Tiền 111 1 808,209,789 282,378,936 2. Các khoản tương đương tiền 112 1 2,436,359 13,553,832 II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 120 1. Đầu tư ngắn hạn 121 11 2. Dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư ngắn hạn (*) 129 III. Các khoản phải thu 130 800,328,394 228,455,388 1. Phải thu của khách hàng 131 2 768,508,678 223,775,388 2. Trả trước cho người bán 132 - - 3. Phải thu nội bộ 133 2 - - 4. Phải thu theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng 134 - - 5. Các khoản phải thu khác 138 2 31,819,716 4,680,000 6. Dự phòng các khoản phải thu khó đòi (*) 139 2 - - IV. Hàng tồn kho 140 - 10,229,520 1. Hàng tồn kho 141 3 - 10,229,520 2. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho (*) 149 V. Tài sản ngắn hạn khác 150 370,394,717 690,904,340 1. Chi phí trả trước ngắn hạn 151 370,394,717 676,515,451 2. Các khoản thuế phải thu 152 4 - 14,388,889 3.Tài sản ngắn hạn khác 158 - - TÀI SẢN Mã Thuyết minh Số cuối năm Số đầu năm A.TÀI SẢN DÀI HẠN 200 952,692,596 915,540,350 I. Các khoản phải thu dài hạn 210 - - 1. Phải thu dài hạn của khách hàng 211 5 - - 2. Phải thu nội bộ dài hạn 212 - - 3. Phải thu dài hạn khác 213 - - 4. Dự phòng phải thu dài hạn khó đòi 219 - - II. Tài sản cố định 210 189,069,596 151,917,350 1. Tài sản cố định hữu hình 221 6 189,069,596 151,917,350 Nguyên giá 222 320,230,017 236,563,350 Giá trị hao mòng luỹ kế (8) 223 (131,160,421) (84,646,000) 2. Tài sản cố định thuê tài chính 224 7 - - Nguyên giá 225 - - Giá trị hao mòng luỹ kế (8) 226 - - 3. Tài sản cố định vô hình 227 8 - - Nguyên giá 228 - - Giá trị hao mòng luỹ kế (8) 229 - - 4. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 230 9 - - III. Bất động sản đầu tư 240 10 - - 1. Nguyên giá 241 - - 2. Giá trị hao mòn luỹ kế 242 - - IV. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 250 11 763,623,000 763,623,000 1. Đầu tư vào công ty con 251 - - 2. Đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh 252 - - 3. Đầu tư dài hạn khác 258 763,623,000 763,623,000 4. Dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư dài hạn 259 - - Tài sản dài hạn khác 260 - - 1.Chi phí trả trước dài hạn 261 12 - - 2. Tài sản thuế thu nhập hoãn lại 262 - - 3. Tài sản dài hạn khác 268 13 - - TỔNG CỘNG TÀI SẢN 270 2,934,061,855 2,141,062,366 NGUỒN VỐN Mã Thuyết minh Số cuối năm Số đầu năm A. NỢ PHẢI TRẢ 300 904,396,786 112,751,648 I. Nợ ngắn hạn 310 904,396,786 112,751,648 1. Vay và nợ ngắn hạn 311 14 295,396,786 100,631,946 2. Phải trả cho người bán 312 15 556,402,757 18,644,720 3. Người mua trả tiền trước 313 15 - - 4. Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước 314 16 6,497,203 (6,525,018) 5. Phải trả công nhân viên 315 - - 6. Chi phí phải trả 316 17 - - 7. Phải trả nội bộ 317 - - 8. Phải trả theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng 318 - - 9. Các khoản phải trả, phải nộp khác 319 18 46,226,040 - II. Nợ dài hạn 320 - 1. Phải trả dài hạn người bán 321 - - 2. Phải trả dài hạn nội bộ 322 - - 3. Phải trả dài hạn khác 323 - - 4. Vay và nợ dài hạn 324 20 - - 5. Thuế thu nhập hoãn lại phải trả 325 13 - B. NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU 400 2,029,665,069 2,028,310,718 I. Vốn chủ sở hữu 410 2,029,665,069 2,028,310,718 1. Vốn đầu tư của chủ sở hữu 411 2,000,000,000 2,000,000,000 2. Thặng dư vốn cổ phần 412 - - 3.Cổ phiếu ngân quỹ 413 - - 4. Chênh lệch đánh giá lại tài sản 414 - - 5.Chênh lệch tỷ giá hối đoái 415 - - 6. Quỹ đầu tư phát triển 416 21 - - 7.Quỹ dự phòng tài chính 417 21 - - 8. Quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu 418 21 - - 9. Lợi nhuận chưa phân phối 419 29,665,069 28,310,718 II. Nguồn kinh phí và quỹ khác 420 - - 1. Quỹ khen thưởng, phúc lợi 421 - - 2. Nguồn kinh phí 422 22 - - Nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố định 423 - - TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN 430 2,934,061,855 2,141,062,366 ( Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006) Qua bảng cân đối kế toán trên ta thấy được tài sản và nguồn vốn của công ty tăng trưởng với tốc độ khá cao (37 %). Điều này chứng tỏ khả năng phát triển của công ty là khá lớn. Tuy nhiên, quy mô của nguồn vốn cũng như tài sản của công ty là nhỏ do vậy cần phải có các biện pháp huy động nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh. 3. Vai trò của nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác đối với công ty Là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại vận tải, ngành nghề chủ yếu của công ty là vận tải hàng hóa và doanh thu từ nghiệp vụ này chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong các nguồn thu của công ty (năm 2005 là 83%, năm 2006 là 81% ), doanh thu từ nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng doanh thu của công ty ( năm 2005 đạt 10% và năm 2006 đạt 8,3% ). Tuy nhiên đây lại là một nghiệp vụ bổ trợ cho nghiệp vụ vận tải. Một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu thông thường của công ty bao gồm cả hợp đồng vận tải. Nghiệp vụ này còn tăng thêm uy tín của công ty trên thương trường bởi tâm lý khách hàng thông thường chọn các nhà cung cấp dịch vụ trọn gói, vừa tiết kiệm được thời gian và chi phí, mặt khác khi xảy ra tranh chấp thì việc giải quyết cũng đơn giản và tiện lợi hơn rất nhiều so với việc xây dựng các hợp đồng riêng lẻ. Bên cạnh đó việc thực hiện nghiệp vụ uỷ thác xuất nhập khẩu công ty tạo điều kiện tiếp xúc với các khách hàng có nhu cầu vận tải từ đó tạo thuận lợi cho việc thiết lập các hợp đồng vận tải là ngành nghề kinh doanh chính và mang lại lợi nhuận chính cho công ty. II. Thực tiễn thực hiện hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở 1. Tổng quan về nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác Nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác trước đây chỉ do các công ty xuất nhập khẩu thực hiện nhưng hiện nay chính sách mở, khuyến khích xuất nhập khẩu của nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vận tải hàng hóa quốc tế đều thực hiện nghiệp vụ này đi kèm với nghiệp vụ vận tải. Theo thống kê của hiệp hội vận tải Việt Nam VIFFAS thì cả nước ta có tới gần 2500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải hàng hóa quốc tế, trong đó hầu hết các doanh nghiệp này đều thực hiện nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu. Những con số này cho thấy đây là một thị trường lớn giàu tiềm năng bởi các yếu tố: - Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng cao của nền kinh tế nước ta khiến việc thông thương hàng hóa trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng; - Sự cải cách trong các chế định pháp quy về xuất nhập khẩu ngày càng thông thoáng, thủ tục xuất nhập khẩu ngày càng được đơn giản và hiệu quả; - Nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế nước ta ngày càng tăng, để đáp ứng nó một cách hiệu quả nhất thì việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh và nhập khẩu những mặt hàng không có lợi thế nếu như sản xuất trong nước là một lời giải hợp lý; - Tính chuyên môn hóa ngày càng tăng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu khiến cho các quốc gia tập trung vào sản xuất các mặt hàng có thế mạnh và nhập khẩu những mặt hàng không có thế mạnh trong việc sản xuất nó, có những sản phẩm chỉ có thể hoàn thành sau nhiều công đoạn và mỗi công đoạn đó được thực hiện ở một quốc gia khác nhau. 2. Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở 2.1 Số lượng hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu công ty đã thực hiện Trong năm 2005 công ty đã ký kết và thực hiện 173 hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu, năm 2007 con số này là 182 hợp đồng, riêng trong quý I năm 2007 công ty đã thực hiện 73 hợp đồng, theo dự kiến của giám đốc công ty trong năm nay số lượng hợp đồng loại này sẽ tăng một cách đột biến bởi các yếu tố chính sau: . Nền kinh tế nước ta có tốc độ phát triển cao . Nước ta là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO . Các chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ và chiến lược kinh doanh của công ty . Hiện nay công ty có chiến lược thu hút khách hàng trong lĩnh vực này bằng các chiến lược chăm sóc khách hàng, bổ sung lực lượng marketting và đặc biệt là việc không thu phí ủy thác xuất nhập khẩu, miễn cho khách hàng một số phí hải quan, mở thêm các đại lý ở các quốc gia khác. 2.2 Các đối tác chủ yếu của công ty trong loại hợp đồng này Như trong phần I của đề tài đã nêu nên một số nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh nghiệp vụ ủy thác xuất nhập khẩu, các đối tác chính của công trong loại hình này chủ yếu là các làng nghề truyền thống. Do sản xuất không tập trung và chỉ chuyên vào sản xuất lên các làng nghề thường rất yếu trong việc thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu, không đăng k‎ý mã số xuất nhập khẩu, có khi cả trong lĩnh vực thị trường tiêu thụ sản phẩm như thông tin về đối tác, thị hiếu và quy mô của thị trường ..Do vậy các làng nghề thường ủy thác cho các đơn vị vận tải việc xuất khẩu cũng như nhờ họ tìm kiếm thị trường tiêu thụ bởi các doanh nghiệp này nắm bắt được thông tin về khách hàng qua những hợp đồng ủy thác xuất khẩu của các đơn vị cùng ngành khác. Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, các đối tác chính của công ty vận tải quốc tế Châu Giang trong nghiệp vụ này gồm: Làng nghề gốm sứ Bát Tràng + Công ty gốm sứ Minh Hải + Công ty gốm sứ Quang Minh + Công ty gốm sứ Thủy Toan Làng lụa Vạn Phúc Hà Tây + Của hàng Xuân Hương Silk + Của hàng XN dệt lụa tơ tằm Hà Đông Ngoài ra còn một số đối tác thường xuyên khác như Làng nghề Đồng Kỵ Làng nghề mây tre Chương Mỹ - Hà Tây Đồ gỗ Kinh Bắc, Mỹ Hà Làng nghề sơn mài Duyên Thái - Hà tây Làng nghề đay cói Kim Sơn – Ninh Bình Đồ đá mỹ nghệ Quảng Ninh, Đà nẵng Và một số các doanh nghiệp chuyên doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu như máy móc thiết bị vật tư như: Công ty TNHH xuất nhập khẩu thiết bị vật tư Hải Hoàng Công ty cổ phần Sunco Công ty cổ phần chè Thái Nguyên Công ty TNHH Ferroli Việt Nam Công ty cổ phần Thiên Lộc Công ty Accord Logistics Việt Nam ….. Lý do chính của các công ty này khi chọn phương án ủy thác là thiếu cán bộ chuyên trách về lĩnh vực xuất nhập khẩu và tâm lý thuận tiện trong việc thiết lập hợp đồng với một đối tác trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa, bên cạnh đó cũng có một vài đối tác do không có năng lực xuất nhập khẩu như chưa đăng ký mã số suất nhập khẩu hoặc chưa có giấy phép xuất nhập khẩu đối với một số hàng hóa trong những trường hợp nhất định 2.3 Các bước thực hiện một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu của công ty. Đối với mỗi loại hợp đồng ủy thác xuất hoặc nhập khẩu thì các bước thực hiện có sự khác biệt ở việc tổ chức thực hiện và quy trình thực hiện nhưng có thể khái quát chung các bước thực hiện loại hợp đồng này theo các bước dưới đây: Mở L/C (nếu bên ủy thác có ủy thác và trong trường hợp nhập khẩu ủy thác và hợp đồng quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, tổ chức phương tiện vận tải, làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu (nếu đơn vị thuê vận tải các đơn vị khác) mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có) 2.3.1 Mở LC (đối với hợp đồng ủy thác nhập khẩu). Nếu bên ủy thác ủy thác cho bên nhận ủy thác mở LC thì bên nhận ủy thác phải mở LC tại một ngân hàng nào đó, có thể tại một ngân hàng do bên bán hàng yêu cầu. Thời gian mở L/C, nếu hợp đồng không quy định gì, phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông thường L/C được mở khoảng 20 - 25 ngày trước khi đến thời gian giao hàng (nếu khách hàng ở Châu Âu). Căn cứ mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Khi mở L/C, công ty dựa vào căn cứ này để điền vào mẫu " Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu". Giấy xin mở tín dụng khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng và giấy phép nhập khẩu được chuyển đến ngân hàng ngoại thương cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi đã ký quỹ theo quy định về việc mở L/C là công ty - người ủy thác mở LC và một uỷ nhiệm chi nữa để trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C là bên ủy thác hoặc là công ty nếu có thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác. Khi bộ chứng từ gốc từ nước ngoài về đến ngân hàng ngoại thương đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải kiểm tra chứng từ và nếu chứng từ hợp lệ, trả tiền cho ngân hàng. Khi hoàn tất thủ tục mở LC công ty đã hoàn tất chứng từ để đi nhận hàng. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, công ty phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng việc thu đòi tiền. Chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm nhanh chóng thu hồi vốn. Nếu hợp đồng nhập khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì sau khi nhận hàng chứng từ ở ngân hàng ngoại thương, đơn vị kinh doanh nhập khẩu được kiểm tra chứng từ trong một thời gian nhất định, nếu trong thời gian này, đơn vị kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính đáng từ chối thanh toán thì ngân hàng xem như yêu cầu đòi tiền hợp lệ. Quá thời hạn quy định cho việc kiểm tra chứng từ, mọi tranh chấp giữa bên bán và bên mua về thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa các bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài. 2.3.2 Kiểm tra hàng hóa Đối với hợp đồng ủy thác nhập khẩu trước khi nhận hàng, công ty kiểm tra đối chiếu các thông số về hàng hóa như số lượng, quy cách đóng gói, các thông số bên ngoài của hàng hóa dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa mà bên ủy thác cung cấp, có quyền từ chối nhận hàng và thông báo cho bên ủy thác biết nếu hàng hóa không có các thông số như đã ghi trên hợp đồng mua bán hàng hóa được lập bởi bên ủy thác và bên bán hàng. Tuy nhiên đơn vị được ủy thác không phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa, xuất xứ của hàng hóa, tính hợp pháp của hàng hóa 2.3.3 Mua bảo hiểm Nếu bên ủy thác thỏa thuận bên được ủy thác sẽ mua bảo hiểm cho hàng hóa thì công ty sẽ tiến hành mua bảo hiểm cho lô hàng đó. Thông thường khi cần mua bảo hiểm công ty thường mua bảo hiểm tại công ty Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm bao, công ty ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng lên phương tiện vận tải công ty gửi đến công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là: "Giấy báo bắt đầu vận chuyển" khi mua bảo hiểm chuyến, công ty phải gửi đến công ty bảo hiểm một văn bản gọi là: "Giấy yêu cầu bảo hiểm ". Trên cơ sở "Giấy yêu cầu..."này, công ty và công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm. 2.3.4 Làm thủ tục hải quan Ở khâu này, công ty phải thực hiện các bước: -. Khai báo hải quan. Công ty khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Nội dung của tờ khai bao gồm những mục như: Loại hàng, (hàng mậu dịch, hàng trao đổi tiểu ngạch biên giới hàng tạm nhập tái xuất...), tên hàng, số, khối lượng, giá trị hàng, tên công cụ vận tải, xuất khẩu hoặc nhập khẩu với nước nào…(các thông số trên được cung cấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa do bên ủy thác cung cấp) tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo một số chứng từ khác, mà chủ yếu là: giấy phép xuất nhập khẩu; hoá đơn phiếu đóng gói; bảng kê chi tiết - Xuất trình hàng hoá. Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự thuận tiện cho việc kiểm soát. Ðể thực hiện thủ tục kiểm tra và giám sát chủ hàng phải nộp thủ tục phí hải quan cho cơ quan hải quan thực hiện chức năng kiểm tra hàng hóa. - Thực hiện các quyết định của hải quan Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan có thể ra những quyết định như: Cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi qua một cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại...) cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế, lưu kho ngoại quan hàng không được xuất (hoặc nhập) khẩu... nghĩa vụ của công ty là phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó và thông báo cho bên ủy thác biết về các quyết định của cơ quan hải quan kèm theo các giấy tờ xác nhận các quyết định đó của cơ quan hải quan, để làm các thủ tục thanh toán sau này. Sau khi hàng hóa được vận tải về đến địa điểm giao hàng tại địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác nhập khẩu, bên ủy thác hoàn tất thủ tục giao hàng cho bên ủy thác. 2.3.5 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Nếu bên ủy thác phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đỗ vỡ thiếu hụt, mất mát thì đối tượng khiếu nại sẽ là chính công ty bởi hợp đồng vận tải do bên ủy thác ký kết với công ty, trong trường hợp này công ty sẽ tự giải quyết với bên ủy thác bằng các con đường như đàm phán, trọng tài hoặc tòa án. Đối tượng khiếu nại là người bán, nếu hàng có chất lượng, hoặc số lượng không phù hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời hạn giao hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ, thanh toán nhầm lẫn....Ðối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá - đối tượng của bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai, tại nạn bất ngò hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên, khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm.Trong hai trường hợp này, công ty sẽ thay mặt bên ủy thác giải quyết các vấn đề trên với các đối tượng trong từng trường hợp cụ thể. Ðơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên bản giám định, hoá đơn,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31994.doc
Tài liệu liên quan