Lời nói đầu
ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào, pháp luật luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Nó là tiêu chuẩn pháp lý cho mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Trong hệ thống pháp luật đó có pháp luật về hợp đồng kinh tế, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Hiện nay, khi đã chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thì pháp luật về hợp đồng kinh tế đã và đang l
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hợp đồng thuê nhà xưởng tại Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRT), chế độ pháp lý và thực tiễn áp dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à một vấn đề hết sức phức tạp . Nền kinh tế càng phát triển thì các quan hệ kinh tế càng đa dạng và phức tạp hơn nhiều, nó không chỉ dừng lại ở các quan hệ kinh tế trong nước mà còn có sự tham gia bởi các nhân tô nước ngoài.
Song cho đến nay, pháp luật hiện hành về chế độ hợp đồng kinh tế của chúng ta vẫn là pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 cùng với các văn bản cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành pháp lệnh. Thực tế cho thấy pháp lệnh này còn có nhiều điểm chưa phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế hiện nay. Những hạn chế và thiếu sót đó đã gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế và đồng thời cũng gây trở ngại cho h của các cơ quan quản lý về hợp đồng kinh tế.
Bên cạnh đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, Bộ luật dân sự và Luật thương mại là hai văn bản rất quan trọng đã được thông qua và có hiệu lực đã đáp ứng được những đòi hỏi trong đời sống xã hội. Trong khi đó pháp lệnh hợp đồng kinh tế sau mọt thời gian dài không còn phù hợp, không còn đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sôi động của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những điểm hạn chế và đưa ra phương hướng sửa đổi bổ sung là rất cần thiết.
Xuât phát từ những đòi hỏi đó, bằng những kiến thức đã được trang bị cùng với nhận thức về thực tiễn trong quá trình thực tập tại Công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI), tôi chọn đề tài : "Hợp đồng thuê nhà xưởng tại công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRT), chế độ pháp lý và thực tiễn áp dụng" để làm đề tài chuyên đề thực tập cho mình, nhằm nghiên cứu và góp phần vào công cuộc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế.
Đề tài được kết cấu thành 3 chương :
Chương I : Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế.
Chương II : Thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế áp dụng với việc thuê nhà xưởng tại công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI)
Chương III : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà xưởng tại công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI)
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc các anh chị trong công ty quan hệ quốc tế - đầu tư sản xuất cùng với các thầy cô giáo trong Bộ môn Luật kinh tế, đặc biệt chất lượng là thầy giáo TS. Nguyễn Hợp Toàn và cô giáo Phạm Thị Phương Thuỷ đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành bài viết này.
Chương I
Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
I. Đặc điểm hình thành và phát triển của hợp đồng kinh tế
Do đặc điểm của nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau mà đặc điểm hình thành và phát triển của hợp đồng kinh tế cũng khác nhau trong các giai đoạn sau :
1. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ khôi phục nền kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân (1954 - 1959)
Thời kỳ này nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế hoạt động đan xen lẫn nhau. Vì thế, chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế được thực hiện theo nghị định số 738/TTg ngày 10/4/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về lập hợp đồng kinh doanh, qui định mối quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh giữa các đơn vị kinh doanh của Nhà nước, hợp tác xã, công ty hợp doanh và tư doanh.
Đặc điểm của hợp đồng kinh doanh là rất coi trọng ý chí tự do, tự nguyện, bình đẳng, thật thà, cùng có lợi của các đương sự tham gia hợp đồng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan Nhà nước như : hợp đồng phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quyền huỷ bỏ hợp đồng bị hạn chế.v.v....
2. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung (1960 - 1974)
Là thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân đã căn bản hoàn thành. Nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế theo kế hoạch , chịu sự điều hành của Nhà nước. Vì thế, chế độ hợp đồng kinh doanh cũng được thay đổi. Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế do Chính phủ ban hành theo Nghị định số 004/TTg ngày 4/1/1960 quy định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước.
Đặc điểm của điều lệ tạm thời là nhằm tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Coi ký kết hợp đồng kinh tế là kỷ luật Nhà nước trong quan hệ kinh tế và chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, đồng thời cũng không được tự ý thương lượng điều chỉnh hợp đồng kinh tế nếu không có sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.... Do đó, chế độ hợp đồng kinh tế được chia làm hai loại : hợp đồng nguyên tắc và hợp đồng cụ thể.
Bên cạnh đó, Điều lệ tạm thời - cũng qui định việc thành lập Hội đồng trọng tài với tư cách là cơ quan tài phán Nhà nước có chức năng giải quyết các tranh chấp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Như vậy, chế độ hợp đồng kinh tế thường kỳ này là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, với bản chất mang đậm yếu tố kế hoạch còn yếu tố tài sản là thứ yếu.
3. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ thực hiện chủ trương cải tiến quản lý kinh tế (1975 - 1988)
Đây là thời kỳ nền kinh tế thực hiện việc quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Để tương ứng với nó chính phủ đã ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ, qui định kiểu hợp đồng kinh tế mới, thay thế cho bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế trước đó.
Đặc điểm chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này là : Hợp đồng kinh tế được ký kết ngay sau khi có sổ kiểm tra kế hoạch và sau đó được điều chỉnh lại khi Nhà nước gao chỉ tiêu kế hoạch chính thức, việc ký kết hợp đồng kinh tế căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ , kế hoạch hoặc văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên, bên cạnh đó các đơn vị kinh tế còn có thể ký kết các hợp đồng kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp lệnh, vì thế mà chủ thể của hợp đồng kinh tế được mở rộng hơn, thể loại hợp đồng cũng được đa dạng hơn nhiều....
4. Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1989 đến nay)
Sau đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế cũng được chuyển đổi hoàn toàn theo nền kinh tế. Chính vì thế, chế độ hợp đồng kinh tế - cũng được chuyển đổi. Tren cơ sở đó, pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng Nhà nước , thông qua ngày 25/9/1989 được ban hành.
Đặc điểm của pháp lệnh hợp đồng kinh tế gồm :
+ Hợp đồng kinh tế được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi và không trái pháp luật.
+ chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế là tất cả các pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh, ngoài ra còn được mở rộng trong một số trường hợp đặc biệt
+ Chủ thể có quyền tự quyết trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế
+ Thể loại hợp đồng kinh tế được đa dạng hoá, bên cạnh đó còn qui định một số hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước giao và chính phủ cũng có văn bản qui định riêng (Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng)
Như vậy, những điểm đổi mới của chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này đã đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chế độ hợp đồng kinh tế theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989.
II. Khái quát về hợp đồng kinh tế
1. Khái niệm hợp đồng kinh tế
Trong các mối quan hệ xã hội có những quan hệ được các bên thoả thuận thiết lập nhằm mục đích làm phát sinh những đổi thay chấm dứt quyền và nghĩa vụ - giữa các bên với nhau. Những mối quan hệ thuộc loại này được gọi chung là quan hệ hợp đồng. Cũng như vậy quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế được gọi là quan hệ hợp đồng kinh tế . Trong khoa học pháp lý, hợp đồng kinh tế thường được hiểu theo hai nghĩa. Đó là nghĩa khách quan và chủ quan.
- Theo nghĩa khách quan (tức là dưới góc độ ý chí Nhà nước ) : hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các bên chủ thể kinh doanh với nhau (còn gọi là chế độ hợp đồng kinh tế hay pháp luật về hợp đồng kinh tế). Chế độ hợp đồng kinh tế của nước ta mang đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa nó bao gồm các quy phạm pháp luật về nguyên tắc ký kết tư cách chủ thể tham gia; trình tự và thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế; các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng như các nguyên tắc và nội dung thực hiện; các điều kiện và cách thức giải quyết hậu quả của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ và thanh lý hợp đồng kinh tế; quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế; trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế , sự thay đổi của quan hệ kinh tế, chế độ hợp đồng kinh tế cũng được thay đổi và phát triển.
- Theo nghĩa chủ quan (tức là theo ý chí của các bên ký kết hợp đồng) : "Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu , ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự qui định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình" (Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989). Theo nghĩa này, hợp đồng là sự thống nhất ý chí của các chủ thể hợp đồng kinh tế.
Như vậy, xét về thực chất hợp đồng kinh tế , cũng như các loại hợp đồng khác, đều là sự thay đổi giữa các chủ thể về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ cụ thể. Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau giữa hợp đồng kinh tế với các loại hợp đồng khác về tư các chủ thể, mục đích, hình thức ký kết, thực hiện....
2. Đặc điểm hợp đồng kinh tế
Những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế cũng như chế độ quản lý kinh tế theo sự thay đổi những qui định của chế độ hợp đồng kinh tế để phù hợp với tình hìh diễn biến mới trong các quan hệ kinh tế. Vì thế, những qui định của pháp luật về hợp đồng kinh tế hiện nay có các đặc điểm để chúng ta phân biệt với những qui định hợp đồng kinh tế trước đây. Đồng thời cũng phân biệt với các loại hợp đồng khác. Những đặc điểm đó là :
2.1 Đặc điểm về mục đích của hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm mục đích kinh doanh. Mục đích này được thể hiện trong nội dung công việc mà các bên thoả thuận trong hợp đồng như là : thực hiện hoạt động sản xuất , trao đổi hàng hoá, dịch vụ.... Điều đó có nghĩa là hợp đồng kinh tế phải gắn với quá trình sản xuất và tái sản xuất của các chủ thể kinh doanh, trong đó ít nhất một bên ký hợp đồng phải có mục đích kinh doanh còn bên kia có thể không có mục đích kinh doanh nhưng không có mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt. Đặc điểm này dùng để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự, hơn nữa mục đích kinh doanh là đặc trưng của các quan hệ kinh tế.
2.2 Đặc điểm về chủ thể hợp đồng kinh tế :
Theo Điều 2 - pháp lệnh hợp đồng kinh tế, thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên : pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật. Như vậy theo qui định này thì chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải là chủ thể có điều kiện tổ chức, phải là pháp nhân và luôn phải là một bên ký kết, còn bên kia có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2.3 Đặc điểm về hình thức hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế có thể ký kết dưới hình thức văn bản hợp đồng hoặc tài liệu giao dịch (như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đặt hàng). Ngoài ra các bên có thể ký kết các văn bản phụ lục hợp đồng cụ thể hoá các điều kiện trong hợp đồng hoặc biên bản bổ sung những điều khoản mới thoả thuận vào văn bản hợp đồng. Phụ lục hợp đồng và biên bản bổ sung có giá trị pháp lý như hợp đồng kinh tế.
3. Phân loại hợp đồng kinh tế
Dựa trên những căn cứ khác nhau mà hợp đồng kinh tế được phân thành nhiều loại khác nhau.
3.1 Căn cứ và tính chất của quan hệ hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm các loại sau:
* Hợp đồng kinh tế mang tính chất đền bù :
Là loại hợp đồng mà theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên tương xứng nhau (quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại). Trong quan hệ hợp đồng, một bên có nghĩa vụ giao hàng hoá, thực hiện dịch vụ hoặc kết quả công việc đã thoả thuận, bên kia có nghĩa vụ nhận hàng hoá hoặc kết quả đó và thanh toán tiền. Đây là loại hợp đồng phản ánh quan hệ hàng hoá - tiền tệ với bản chất là quan hệ ngang giá và được sử dụng trong các lĩnh vực như la trao đổi hàng hoá; vận chuyển hàng hoá.....
* Hợp đồng kinh tế mang tính tổ chức :
Là loại hợp đồng được xác lập trên cơ sở sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể kinh doanh có thể thoả thuận với nhau lập ra một cơ sở kinh tế - kỹ thuật mới để thực hiện mục đích chung. Hợp đồng này không phản ánh quan hệ hàng hoá tiền tệ, không mang tính chất đền bù. Các bên chủ thể có thể thoả thuận góp vật chất, góp sức lao động để lập ra cơ sở kinh doanh mới. Song chủ thể của loại hợp đồng này phải có tư cách pháp nhân đầy đủ. Tuỳ theo tính chất của tổ chức, hợp đồng không chỉ có 2 bên chủ thể mà có nhiều bên cùng tham gia.
3.2 Căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng, hợp đồng kinh tế chia làm 2 loại :
* Hợp đồng kinh tế dài hạn :
Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở lên nhằm thực hiện kế hoạch dài hạn
* Hợp đồng kinh tế ngắn hạn :
Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở xuống, gồm hợp đồng năm, nửa năm, quý, tháng để thực hiện kế hoạch năm và những phần kế hoạch trong năm.
Như vậy, tuỳ theo đối tượng của hợp đồng, tính chất của mối quan hệ, giá cả thị trường.... mà các chủ thể có thể ký kết hợp đồng ngắn hạn hay dài hạn.
3.3. Căn cứ vào tính kế hoạch của hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm:
* Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh :
Là những hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao cho các doanh nghiệp Nhà nước. Việc ký kết hợp đồng kinh tế giữa những đơn vị kinh tế được giao nhiệm vụ kế hoạch là nghĩa vụ, là kỷ luật của Nhà nước. Hợp đồng này mang tính kế hoạch cao, vì thế, tính tự nguyện và bình đẳng giữa các chủ thể của hợp đồng bị hạn chế. Tuy nhiên, trong cơ chế mới loại hợp đồng này không còn được áp dụng phổ biến nữa mà chỉ những doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích mới thực hiện nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao.
* Hợp đồng kinh tế thông thường :
Loại hợp đồng này được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi . Việc ký kết hợp đồng là quyền tự do ý chí của các đơn vị kinh tế , không một tổ chức hay cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho các đơn vị kinh tế khác. Trong cơ chế mới này, loại hợp đồng này được áp dụng rất phổ biến.
3.4 Căn cứ vào nội dung giao dịch của quan hệ hợp đồng gồm:
* Hợp đồng mua bán hàng hoá
Là hợp đồng mà theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá và quyền sở hữu đối với hàng hoá đó cho bên mua theo đúng điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và thanh toán tiền hàng. Quan hệ hợp đồng này là quan hệ trao đổi hàng hoá, gọi là quan hệ hàng hoá - tiền tệ
* Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
Là hợp đồng mà theo đó bên vận tải hàng hoá có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá nhất định đến địa điểm đã ấn định để giao cho bên nhận hàng, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cho bên vận tải một khoản tiền nhất định gọi là cước phí vận chuyển.
* Hợp đồng xây dựng cơ bản :
Là hợp đồng kinh tế trong đó bên nhận thầu có nghĩa vụ xây dựng và bàn giao cho bên giao thầu toàn bộ công trình theo đúng đồ án thiết kế và thời hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng, còn ben giao thầu có nghĩa vụ bàn giao mặt bằng xây dựng , các bản thiết kế và đầu tư xây dựng đúng tiến độ đồng thời có nghĩa vụ nghiệm thu công trình và thanh toán cho bên nhận thầu. Hợp đồng này mang tính chất đền bù.
* Hợp đồng dịch vụ :
Là hợp đồng kinh tế theo đó bên cung cáp dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện hành vi nhất định phù hợp với ngành nghề đã đăng ký để thoả mãn nhu cầu của bên thuê dịch vụ và được hưởng khoản tiền công nhất định gọi là phí dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả dịch vụ và thanh toán cho bên thuê dịch vụ phí như đã thoả thuận.
Tóm lại, trên đây là những hợp đồng kinh tế cụ thể được áp dụng phổ biến trong thực tiễn đời sống kinh tế của nước ta hiện nay.
4. Nguồn văn bản hiện hành của chế độ hợp đồng kinh tế
1- Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1960 ban hành điều lệ về hợp đồng kinh doanh.
2- Nghị định 04/TTg ngày 04/1/1960 ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước.
3- Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế
4- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989
5- Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng qui định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế
6- Quyết định 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
III. Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
1. Chế độ ký kết về hợp đồng kinh tế
1.1 Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế
Theo điều 3 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế : "Để bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo vệ lợi ích của xã hội, việc ký kết hợp đồng kinh tế được pháp luật quy định, phải tuân theo những nguyên tắc nhất định được quy định trong chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế" thì ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân thủ các nguyên tắc sau :
1.1.1 Nguyên tắc tự nguyện
Nguyên tắc này là quyền tự do ý chí (tự do khế ước) của các chủ thể kinh doanh được pháp luật cho phép để làm phát sinh quan hệ hợp đồng kinh tế mà không có sự áp đặt ý chí của các bên với nhau hoặc của tổ chức, cá nhân khác nhau. Việc tham gia hợp đồng hay không là do các bên toàn quyền định đoạt. Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng kinh tế giữa bên này đối với bên kia - đều làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu.Do đó, tự nguyện là nguyên tắc bắt buộc phải có và cũng là nguyên tắc của hầu hết các loại hợp đồng. Theo nguyên tắc này , việc ký kết hợp đồng kinh tế phải là mong muốn thực sự của các bên tham gia nhằm đạt được mục đích nhất định. Theo đó, các bên có quyền lựa chọn bạn hàng, lựa chọn địa chỉ cung ứng vật tư, thời điểm ký kết hợp đồng cũng như nội dung ký kết.... Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ được coi là hình thành và có giá trị pháp lý nếu có sự thoả thuận giữa các bên được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên.
Tại điều 4 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế qui định : "Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho đơn vị kinh tế khi ký kết hợp đồng. Không một đơn vị nào được phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật". Đây là một quy định thể hiện sự đổi mới rõ rệt của chế độ hợp đồng kinh tế , nhằm đảm bảo thực sự quyền tự chủ, tự do ký kết hợp đồng, đó là "quyền của các chủ thể - chứ không phải là "nghĩa vụ" của họ như trước đây.
Nguyên tắc này không áp dụng đối với hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, bởi vì theo loại hợp đồng này bị chỉ tiêu pháp lệnh chi phối rất cao. Và hiện nay, quyền tự do giao kết hợp đồng kinh tế chỉ bị giới hạn bởi các điều kiện sau :
- Việc ký kết hợp đồng kinh tế phải phục vụ hoạt động kinh doanh đã đăng ký, tức là các chủ thể chỉ được hoạt động kinh doanh trong phạm vi chức năng của mình.
- Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật , có nghĩa các bên không được làm những gì mà pháp luật cấm.
- Việc ký hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là bắt buộc, tức là các đơn vị kinh tế Nhà nước giao cho chỉ tiêu pháp lệnh thì có nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đó.
Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay Nhà nước chỉ can thiệp vào các quan hệ hợp đồng kinh tế bằng pháp luật chứ không dùng mệnh lệnh hành chính như trước đây nữa.
1.1.2 Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
Theo nguyên tắc này, khi ký kết hợp đồng kinh tế , các chủ thể hợp đồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau mà pháp luật qui định để thoả thuận những vấn đề mà các bênquan tâm nhằm đạt được mục đích cuối cùng là thiết lập quan hệ hợp đồng kinh tế, hay nói cách khác , các chủ thể có vai trò như nhau dù họ có địa vị pháp lý khác nhau.
Biểu hiện của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên được thể hiện ngay trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Các bên đều có quyền đưa ra yêu cầu của mình và cũng có quyền chấp nhạn hay không chấp nhận ý kiến của bên kia. Thực hiện nguyên tắc này không phụ thuộc quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của các chủ thể hợp đồng, bát kể họ thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý, thì khi ký hợp đồng điều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ được coi là hình thành khi các bên thống nhất ý chí với nhau về tất cả các điều khoản trong hợp đồng.
Tuy nhiên, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ở đây phải song hành với tư tưởng hai bên cùng có lợi nhưng không nhất thiết các bên phải lợi ích như nhau mà mỗi bên đều có lợi ích riêng theo mục đích của mình, đồng thời, nó đòi hỏi các bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau, không thể để lợi ích của bạn hàng lấn át lợi ích của mình và ngược lại không để lợi ích của mình lấn át lợi ích của bạn hàng. Vì thế, đây chính là tư tưởng giúp cho quan hệ được làm ăn lâu dài.
1.1.3 Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm vật chất và không trái pháp luật
- Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản có nghĩa là nếu có vi phạm hợp đồng kinh tế, thì bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm trả tiền phạt và bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra) cho bên bị vi phạm bằng chính tài sản của mình mà không phụ thuộc vào cơ quan, tổ chức, cá nhân có lỗi đã gây ra vi phạm đó, trừ các trường hợp miễm giảm trách nhiệm vật chất. Có nghĩa là, khi hợp đồng kinh tế được ký kết thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Nguyên tắc này được qui định trong Điều 29 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 21 Nghị định 17/HĐBT đã dẫn. Đây là một điểm mới của hợp đồng kinh tế theo pháp luật hiện hành. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp, nếu trong quan hệ hợp đồng kinh tế mà có vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm không chịu trách nhiệm với bên kia mà chịu trách nhiệm trước Nhà nước như là một hình thức vi phạm kỷ luật Nhà nước.
- Nguyên tắc không trái pháp luật đòi hỏi chủ cụ thể, hình thức thủ tục ký két và nội dung hợp đồng kinh tế phải hợp pháp (tuân thủ đúng các quy định của pháp luật). Mọi vấn đề kể trên mà trái vơi squy định của pháp luật đều làm cho hợp đồng đó trở thành vô hiệu và có thể gây ra thiệt hại về mặt vật chất cho các bên và cho cả Nhà nước. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự kỷ cương pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế. Các bên được tự do thoả thuận ý chí nhưng điều đó không có nghĩa các bên muốn thoả thuận với nhau về điều gì cũng được. í chí đó phải phù hợp với pháp luật
1.2 Chủ thể hợp đồng kinh tế
Những tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật tham gia hợp đồng kinh tế có quyền và nghĩa vụ đối với nhau gọi là chủ thể hợp đồng kinh tế. Theo điều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế , chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong quan hệ hợp đồng kinh tế pháp nhân là một bên chủ thể ký kết hợp đồng, còn ben kia có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Pháp nhân phải là tổ chức có các điều kiện sau :
+ Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận.
+ Có cơ cấu tổ chức thống nhất.
+ Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật môt cách độc lập (điều 94, Bộ luật dân sự)
Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đó là các hộ kinh doanh cá thẻ được qui định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ, hoặc các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh theo quy định của luật doanh nghiệp 12/6/1999.
Như vậy, những hợp đồng được ký kết giữa các cá nhân với nhau không được gọi là hợp đồng kinh tế và nếu tranh chấp xẩy ra sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, theo qui định tại điều 42 , 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và thông tư số 11/TT/PL ngày 25/5/1992 của Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế mở rộng điều kiện cho phép pháp nhân có thể xác lập hợp đồng kinh tế với tổ chức, cá nhân nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam, các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh) , hộ kinh doanh cá thể, người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ nông dân, ngư dân ca thể nếu nội dung của hợp đồng không nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dùng, thuê lao động.
Để hình thành quan hệ hợp đồng kinh tế thì phải có sự tham gia ký kết của các bên chủ thể hợp đồng kinh tế . Thay mặt cho các bên chủ thể hợp đồng kinh tế đó cần phải có một người đại diện để ký kết hợp đồng kinh tế. Theo điều 9 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì đại diện ký kết hợp đồng kinh tế có hai loại :
* Đại diện thương nhân :
Đó là người đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh . Đối với pháp nhân, đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và hiện đang giữ chức vụ gì đó (Điều 52 Nghị định 17/HĐBT ) . Đối với doanh nghiệp tư nhân là chủ doanh nghiệp hoặc người được doanh nghiệp thuê làm giám đốc. Đối với cá nhân là chính người đó, đối với hộ kinh doanh cá thể, hộ kinh tế gia đình là chủ hộ.
Người đứng tên đăng ký kinh doanh là người đứng tên xin cấp giấy phép đăng ký kinh doanh , được cấp giấy kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có tên.
* Đại diện theo uỷ quyền
Là người được đại diện đương nhiên uỷ quyền thay mình ký kết hợp đồng kinh tế theo quy định của pháp luật . Việc uỷ quyền này phải được thể hiện bằng văn bản. Trước khi ký kết hợp đồng kinh tế , người được uỷ quyền phải trình giấy uỷ quyền cho bên đối tác kiểm tra uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc thường xuyên. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về việc uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền chỉ được hành động trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.
1.3. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế
Để tuân thủ pháp luật, đảm bảo sự quảnlý của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của các bên ký kết hợp đồng, theo Điều 10 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì việc ký kết hợp đồng kinh tế phải dựa vào các căn cứ sau :
1.3.1 Định hướng kế hoạch Nhà nước, các chính sách , chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành.
Đây là những mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc từng ngành kinh tế kỹ thuật hoặc cho từng địa phương xác định cho từng thời kỳ, và cũng là căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hay nói cách khác đây là căn cứ mang tính pháp lý thể hiện sự tuân thủ pháp luật của hợp đồng kinh tế.
1.3.2. Nhu cầu thị trường, đơn chào hàng, đơn đặt hàng của bạn hàng
Các hoạt động kinh tế , quan hệ kinh tế trong nền kinh tế bị quy luật giá trị, quy luật cung cầu chi phối. Điều đó đòi hỏi hợp đồng kinh tế phải luôn luôn phù hợp với thị trường thì mới phát huy được vai trò của nó. Là cái cầu nối giữa sản xuất với thị trường; giúp cho sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường tức là giúp cho cung cầu gặp nhau. Vì vậy, đòi hỏi các chủ thể hợp đồng kinh tế khi ký kết hợp đồng kinh tế phải lấy nhu cầu thị trường để làm căn cứ nội dung hợp đồng cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là căn cứ mang tính thực tiễn thể hiện nhu cầu thực sự của việc ký kết hợp đồng kinh tế, bảo đảm tính khả thi của hợp đồng.
1.3.3 Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mình.
Nhà nước qui định căn cứ khả năng phát triển sản xuất kinh doanh để tránh tình trạng các chủ thể kinh doanh ký kết hợp đồng kinh tế chỉ vì lợi ích riêng mà bất chấp pháp luật, bất chấp khả năng và thực lực của mình . Đây cũng là căn cứ vào khả năng về vốn, vật tư, năng suất lao động hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ để làm cơ sở quyết định cho những cam kết trong hợp đồng được thực hiện.
Căn cứ vào chức năng hoạt động kinh tế tức là căn cứ vào nội dung hoạt động trong các ngành nghề , lĩnh vực mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh.
- Như vậy, đây là căn cứ để chứng minh địa vị pháp lý hợp pháp của các tổ chức kinh tế, đồng thời khẳng định tính thực tiễn bảo đảm của hợp đồng.
1.3.4. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo tài sản của cac bên cùng ký kết.
Căn cứ này chứng minh hoạt động của các bên chủ thể tiến hành không trái với quy định của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc trực tiếp, chịu trách nhiệm tài sản theo qui định của pháp luật. Đây là căn cứ rất quan trọng đối với việc đảm bảo hiệu lực của hợp đồng kinh tế , tránh tình trạng vi phạm hợp đồng, chiếm dụng vốn của nhau.
1.4. Nội dung của hợp đồng kinh tế
Nội dung của hợp đồng kinh tế là toàn bộ những gì mà hai bên thoả thuận, thể hiện và nghĩa vụ của các bên ràng buộc với nhau trong quan hệ hợp đồng.
Thông thường về mặt pháp lý, nội dung của hợp đồng kinh tế được thể hiện ở ba loại điều khoản.
Một là, điều khoản thường lệ - Là những điều khoản mà nội dung đã được pháp luật qui định mà nếu các bên không ghi vào hợp đồng thì coi như mặc nhiên thừa nhận và phải có trách nhiệm thực hiện các qui định đó như đã thoả thuận . Ngược lại nếu ghi vào hợp đồng thì không được thoả thuận trái ._.với quy định đó. Ví dụ : Điều khoản về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, về bồi thường thiệt hại.v.v....
Như vậy, các bên tham gia có thể thoả thuận hay không thoả thuận các điều khoản thường lệ thì hợp đồng vẫn hình thành khi đã có đủ các điều khoản chủ yếu.
Hai là, điều khoản chủ yếu : Là những điều khoản cơ bản quan trọng nhất của hợp đồng mà bắt buộc các bên phải thoả thuận và ghi vào hợp đồng, nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý. Theo điều 12 pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đã dẫn) các điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm :
- Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên; họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh.
Điều khoản này gọi là điều khoản hình thức của hợp đồng, là điều khoản chủ yếu mà thiếu nó thì văn bản hợp đồng không có giá trị pháp lý, mà vấn đề pháp lý nổi bật nhằm đảm bảo cho hợp đồng các bên ký kết tuân theo chế độ hợp đồng kinh tế đó là điều kiện về địa vị pháp lý của các bên tham gia hợp đồng kinh tế.
- Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận: Điều khoản này nhằm trả lời câu hỏi cái gì? và bao nhiêu? khi các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế.
- Chất lượng, chủng loại, qui cách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc, theo các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm thì chất lượng sản phẩm bao gồm các mặt như phẩm chất, qui cách , chủng loại, bao bì đóng gói kể cả màu sắc. Như vậy, các hàng hoá, công việc trong hợp đồng đã được xác định bởi các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, qui cách và chủng loại của Nhà nước thì các bên tham gia phải lấy đó làm cơ sở của việc ký kết, nếu thấy khác thì cần phải lấy đó làm cơ sở của việc ký kết, nếu thấy khác thì cần phải sửa đổi còn đối với các sản phẩm, hàng hoá, công việc trong hợp đồng mà chưa có tiêu chuẩn chất lượng cụ thể thì nhất thiết phải ghi rõ trong hợp đồng việc thoả thuận về chất lượng hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật công việc.
- Giá cả: Điều khoản này là điều khoản mà các bên thoả thuận về đơn giá, các phụ phí, tỷ lệ phần trăm hoa hồng. Khi thoả thuận điều khoản này các bên có thể thoả thuận cả khả năng điều chỉnh giá khi đó biến động giá cả của thị trường.
Trừ trường hợp, sản phẩm, hàng hoá đó do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quy định giá hoặc khung giá thoả thuận trong hợp đồng kinh tế.
- Phương thức thanh toán :
Đây là điều khoản các b ên cần thoả thuận về các hình thức và thể thức thanh toán cũng như thời hạn thanh toán trong hợp đồng kinh tế.
Ngoài ra, các điều khoản khác liên quan trực tiếp đến đặc điểm của từng loại hợp đồng kinh tế cũng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế đó.
Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế, đặc biệt là điều khoản về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, công việc và về giá cả phải được ghi rõ ràng, cụ thể theo quy định của pháp luật.
Ba là, điều khoản tuỳ nghi: Là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi chưa có quy định của pháp luật hoặc đã có quy định nhưng các bên được vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của mình mà không trái pháp luật. Chẳng hạn, điều khoản về bảo hành đối với những sản phẩm, hàng hoá, công việc chưa có quy định của Nhà nước về bảo hành; điều khoản về điều kiện nghiệm thu, giao nhận sản phẩm, công việc; điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế; điều khoản có hiệu lực của hợp đồng kinh tế.... Điều khoản tuỳ nghi là điều khoản phụ nó không ảnh hưởng đến việc hình thành hợp đồng kinh tế mà chỉ là các điều khoản nhằm kích thích hoàn thiện về nghĩa vụ hợp đồng kinh tế.
Như vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế thể rhiện ý chí tự nguyện của các bên nhưng không được trái với quy định của pháp luật. Những hợp đồng kinh tế rơi vào trường hợp sau đây là hợp đồng trái pháp luật và coi là vô hiệu
- Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật
- Một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc và thoả thuận trong hợp đồng.
- Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo.
1.5. Hình thức của hợp đồng kinh tế
Theo Điều I và Điều II pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản hoặc bằng tài liệu giao dịch. Những văn bản, tài liệu giao dịch này có chữ ký xác nhận của các bên về nội dung thoả thuận, thể hiện dưới dạng công văn điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ cho những hợp đồng kinh tế được ký kết dưới hình thức văn bản, tài liệu giao dịch, nhằm để ghi nhận một cách đầy đủ rõ ràng các cam kết của các bên bằng "giấy trắng mực đen". Đây là cơ sở pháp lý để các bên tiến hành thực hiện các cam két trong hợp đồng. Cũng đồng thời để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng , giải quyết các tranh chấp , xử lý các vi phạm nếu có.
Cùng với văn bản chính là hợp đồng, các bên còn có thể ký kết các văn bản phụ lục hợp đồng để cụ thể hoá các điều khoản của hợp đồng kinh tế ký kết hoặc có thể là ký kết biên bản bổ sung những điều khoản mới thoả thuận vào bản hợp đồng. Phụl ục hợp đồng và văn bản bổ sung có giá trị kinh tế chính.
Theo quy định tại Điều 7 khoản ghi trong Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì những loại hợp đồng mà pháp luật qui định phải đăng ký hoặc công chứng thì các bên phải thực hiện những quy định đó. Khi đó các bên sẽ được cấp chứng thư hợp đồng kinh tế, là sự xác nhận các bên đã ký kết hợp đồng kinh tế tại một cơ quan công chứng Nhà nước (nếu không có cơ quan công chứng thì làm chứng thư cơ quan có đăng ký kinh doanh). Hợp đồng kinh tế được ký kết mà pháp luật đòi hỏi phải có đăng ký thì không được ký kết theo sự uỷ quyền.
Như vậy, đây cũng là một điểm khác so với hợp đồng dân sự (không bắt buộc phải ký bằng văn bản)
1.6. Trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế :
Trình tự , thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế được hiểu là cách thức các bước mà các bên tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thiết lập quan hệ hợp đồng kinh tế. Các bên có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết sau:
* Cách ký kết trực tiếp : là cánh mà theo đó người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí về xác định nội dung của hợp đồng là cùng ký tên các văn bản hợp đồng. Hợp đồng kinh tế được coi là hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên đã ký vào văn bản, trừ trường hợp hợp đồng kinh tế phải đăng ký thì mới có hiệu lực. Hợp đồng được ký theo cách này được hình thành một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
* Cách ký kết gián tiếp : là cách mà theo đó các bên thoả thuận với nhau những vấn đề về nội dung hợp đồng bằng cách gửi cho nhau dự thảo hợp đồng hoặc tài liệu giao dịch có chứa đựng nội dung cần giao dịch. Theo cách này việc ký kết hợp đồng thông thường phải theo hai bước sau :
Bước 1 : Đề nghị lập hợp đồng : Bên đề nghị đưa ra những điều khoản chủ yếu của hợp đồng (hàng hoá, hoặc dịch vụ, số lượng , chất lượng, thời gian, giá cả....), thời hạn trả lời và ký trước vào bản dự thảo hợp đồng sau đó gửi cho bên kia xem xét và có quyết định lập hợp đồng hay không. Thời hạn lập hợp đồng ràng buộc pháp lý đối với bên đề nghị: trong thời hạn đó bên đề nghị không được đề nghị lập hợp đồng với một người thứ ba nếu đề nghị được chấp nhận thì bên đề nghị không được thay đổi ý kiến.
Bước 2 : Chấp nhận đề nghị : Bên được đề nghị có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho bên đề nghị trong thời gian đề nghị. Nếu thống nhất hoàn toàn với bên đề nghị thì gọi là chấp nhận đề nghị và hợp đồng kinh tế được hình thành và có hiệu lực pháp lý từ khi bên được đề nghị thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
Trường hợp bên được đề nghị đưa kèm theo những đề nghị khác thì coi như bên đó từ chối đề nghị và trở thành người đề nghị mới. Đề nghị mới phải được người đề nghị trước đó đồng ý thì mới hình thành hợp đồng.
Vì thế, lựa chọn phương thức nào để ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các bên trên cơ sở điều kiện thực tế của mỗi bên.
2. Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế
2.1. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế
Sau khi hợp đồng kinh tế được ký kết và đã có hiệu lực pháp lý, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Trong quá trình này các bên phải tuân thủ theo những nguyên tắc do pháp luật quy định . Theo điều 288 - Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995 và điều 22 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đã dẫn) những nguyên tắc chỉ đạo việc thực hiện hợp đồng kinh tế bao gồm :
- Nguyên tắc chấp hành thực hiện : là các bên phải thực hiện đúng những điều đã cam kết trong hợp đồng: đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác, không được tự ý thay đổi đối tượng trong hợp đồng.
- Nguyên tắc chấp hành đúng: là nguyên tắc thực hiện một cách trung thực , đầy đủ, chính xác nghĩa vụ đã cam kết tỏng hợp đồng, nhằm đảm bảo tính hợp tác và tin cậy lẫn nhau .
- Nguyên tắc chấp hành trên tinh thần hợp tác cùng có lợi :
Là nguyên tắc đòi hỏi các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế phải hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi , giúp đỡ lẫn nhau để khắc phcụ các khó khăn nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Ngay cả khi có tranh chấp xẩy ra các bên đều phải chủ động gặp gỡ để bàn bạc, cùng nhau tìm ra phương án giải quyết tối ưu . Các bên tôn trọng lợi ích của nhau, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
2.2. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế
Trong trường hợp , hợp đồng đã ký kết mà một bên (ben có nghĩa vụ) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng sẽ ảnh ưhởng trực tiếp tới quyền lợi của bên kia (bên có quyền). Do vậy yêu cầu đặt ra cần phải có những biện pháp bảo đảm quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. Theo điều 324 Bộ luật dân sự và điều 5 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng bao gồm : cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh...
2.2.1 Cầm cố tài sản :
Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thoả thuận để bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho người thứ ba giữ. Việc cầm cố tài sản được lập thành văn bản, có thể lập riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Văn bản cầm cố phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Đối với tài sản mà pháp luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu thì việc cầm cố tài sản đó cũng phải được đăng ký.
Người giữ vật cầm cố bảo đảm nguyên giá trị của hiện vật cầm cố; không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản có hiệu lực.
Khi nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đã thực hiện xong, việc cầm cố tài sản chấm dứt thì tài sản cầm cố, giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu được hoàn trả cho bên cầm cố.
2.2.2. Thế chấp tài sản:
Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ hợp đồng kinh tế dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu cua rmình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Việc thế chấp tài sản được lập thành văn bản (văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính) và phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền . Nếu bất động sản có đăng ký quyền sở hữu thì việc thế chấp phải được đăng ký.
Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp còn có hiệu lực.
Khi đã thế chấp tài sản, bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế.
Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đã thực hiện xong; lúc đó cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã đăng ký việc thế chấp xác nhận việc giải trừ thế chấp.
2.2.3. Bảo lãnh tài sản :
Là biện pháp bảo đảm hợp đồng trong đó có cá nhân hay tổ chức (người bảo lãnh) có sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để chịu trách nhiệm tài sản thay thế cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản bảo lãnh không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảolãnh.
Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản có chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà nước và xác nhận về giá trị tài sản của ngân hàng nơi người được bảo lãnh giao dịch.
Việc bảo lãnh chấm dứt khi nghĩa vụ hợp đồng kinh tế được bảo lãnh đã hoàn thành.
2.3. Thực hiện hợp đồng kinh tế
Thực hiện hợp đồng kinh tế là các bên thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Nội dung thực hiện hợp đồng kinh tế bao gồm :
2.3.1. Thực hiện đúng điều khoản về đối tượng của hợp đồng
Thực hiện đúng điều khoản về đối tượng của hợp đồng kinh tế là một trong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Bên có nghĩa vụ giao đầy đủ số lượng, trọng lượng, khối lượng hàng hoá hoặc khối lượng công việc cho bên có quyền theo thoả thuận trong hợp đồng kinh tế.
Nếu sản phẩm là hàng hoá giao không đúng số lượng, công việc không thực hiện đúng khối lượng thì bên nhận chỉ nhận và thanh toán theo số lượng thực nhận, số còn lại sẽ yêu cầu bên có nghĩa vụ giao tiếp sau đó, ngoài ra có quyền đòi phạt phần thiếu và đòi đền bù thiệt hại (nếu có)
Đối với trường hợp sản phẩm được giao không đồng bộ và không sử dụng được thì bên nhận có quyền từ chối tiếp nhận và từ chối thanh toán cho tới khi hoàn thành đồng bộ. Trường hợp giao hàng hoá không đồng bộ , bên nhận có quyền lựa chọn một trong hai cách xử lý sau :
- Yêu cầu bên vi phạm phải hoàn thành đồng bộ rồi mới tiếp nhận. Bên vi phạm phải bị phạt giao hàng chậm.
- Nhận sản phẩm hàng hoá, công việc chưa đồng bộ với điều kiện bên vi phạm chịu phạt vi phạm hợp đồng vì không hoàn thành đồng bộ và trả các chi phí cần thiết để hoàn thành đồng bộ.
Trong khi giao nhận hàng hoá, các bên phải kiểm tra về mặt khối lượng, số lượng và phải nộp biên bản, chứng từ bàn giao để làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp xảy ra (nếu có)
2.3.2. Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng
Điều khoản về chất lượng cũng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế. Bên có nghĩa vụ giao hàng phải giao hàng đúng chất lượng , có nghĩa là hàng hoá được giao phải đảm bảo khả năng sử dụng theo tiêu chuẩn chất lượng, bảo đảm đúng phẩm chất, bao bì, đóng gói, quy cách, chủng loại theo quy định của Nhà nước. Của ngành, của đơn vị cơ sở hoặc theo sự thoả thuận của hai bên. Khi giao nhận các bên phải tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá , công việc.
Trong trường hợp hàng hoá, công việc được giao không đúng chất lượng, bên bị vi phạm có quyền :
- Không nhận hàng hoá, công việc được giao không đúng chất lượng, đòi tiền phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
- Nhận hàng hoá , công việc nhưng yêu cầu giảm giá hoặc sửa chữa sai sót trước khi nhận và đòi bồi thường thiệt hại.
Trường hợp mà hợp đồng có điều khoản bảo hành thì trong thời hạn, nếu bên nhận hàng phát hiện có sai sót về chất lượng thì phải thông báo kịp thời bằng văn bản cho bên kia biết để cùng xác minh. Nếu do lỗi của bên bảo hành thì phải sửa chữa sai sót về chất lượng hoặc các bên có thể thoả thuận thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá hoặc đổi lấy hàng hoá khác.
2.3.3. Thực hiện đúng điều khoản về thời hạn
Thời hạn giao nhận hàng hoá có thể là thời hạn hoặc thời điểm nhất định do hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Vì việc giao nhận hàng hoá, công việc đúng thời gian là yếu tố rất quan trọng để các bên thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình.
Nếu một bên giao thực hiện không đúng thời gian qui định thì bên nhận có quyền nhận hoặc không nhận hàng hoá công việc nhưng buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm tài sản (nếu giao hàng hoá hoặc thực hiện công việc chậm trễ so với thời gian quy định); hoặc chưa tiếp nhận hay tiếp nhận với điều kiện bên giao phải chịu các khoản phí tổn bảo quản trong thời gian chưa đến thời điểm giao nhận theo thoả thuận (nếu giao hàng hoá hoặc thực hiện công việc trước thời hạn).
Nếu bên tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá hoặc công việc vi phạm điều khoản thời hạn tiếp nhận thì bên giao có quyền đòi bên tiếp nhận phải chịu trách nhiệm tài sản về vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận hoặc đòi bên vi phạm trả các khoản chi phí về chuyên chở, bảo quản, .... do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận.
2.3.4. Thực hiện đúng điều khoản về địa điểm, phương thức
Địa điểm giao nhận hàng hoá, dịch vụ là nơi mà tại đó bên giao hàng thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Địa điểm giao nhạn do các bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng cụ thể.
Việc xác định địa điểm giao nhận có vai trò rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí vận chuyển và rủi ro khi vận chuyển.
Phương thức giao nhận là cách để các bên tiến hành giao nhận hàng hoá.
Địa điểm và phương thức giao nhận do các bên thoả thuận sao cho có lợi cho các bên. Nếu một trong các bên thực hiện không đúng điều khoản này thì coi như vi phạm hợp đồng kinh tế và phải chịu trách nhiệm tài sản đối với bên còn lại
2.3.5. Thực hiện đúng điều khoản về giá cả thanh toán
Giá cả hàng hoá, dịch vụ do hai bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng. Vì thế, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng những gì đã thoả thuận. Đối với những sản phẩm, hàng hoá do cơ quan Nhà nước có từng quy định giá trị giá thoả thuận trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Thanh toán là nghĩa vụ trả tiền theo phương thức và thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. Phương thức thanh toán có thể bằng tiền mặt hoặc séc, uỷ nhiệm thu...
Về thời hạn thanh toán, nếu không ghi trong hợp đồng thì thời hạn đó là 15 ngày kể từ ngày nhận được hoá đơn, giấy đòi tiền.
Nghĩa vụ trả tiền được coi là hoàn thành từ khi chuyển đủ tiền lên tai khoản của mình tại ngân hàng cho bên đòi hoặc khi bên đòi trực tiếp nhận đủ số tiền mặt theo hoá đơn hoặc bên đòi tiền chấp nhận trả bằng hiện vật, hoặc tài sản thế chấp, cấm cố, bảo lãnh có giá trị tương đương với số tiền phải trả. Và việc trả đó đã được thực hiện xong.
Nếu bên có nghĩa vụ thanh toán mà vi phạm điều khoản này thì bị phạt vi phạm hợp đồng theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc mức lãi suất tín dụng quá hạn của ngân hàng Nhà nước kể từ ngày hết hạn thanh toán.
2.4. Sửa đổi, đình chỉ , thanh lý hợp đồng kinh tế
2.4.1. Sửa đổi, đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế
Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, do sự biến động của thị trường, của kinh tế xã hội, sự thoả thuận trước đó trong hợp đồng không còn phù hợp nữa, các bên có quyền thoả thuận để sửa đổi, huỷ bỏ hoặc đình chỉ việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Sự thoả thuận đó phải được lập bằng văn bản và ghi rõ hậu quả pháp lý của việc sửa dổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng gây ra . Hậu quả pháp lý đó như lãi suấtà : phí tổn không thu hồi được do việc thực hiện hợp đồng kinh tế, phí tổn về nguyên vật liệu bị hao hụt trong quá trình chuẩn bị thực hiện hợp đồng kinh tế; tiền phạt hay tiền bồi thường thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng, hoặc thay đôỉ, huỷ bỏ , đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế.
Ngoài việc sửa đổi nội dung hợp đồng kinh tế thì có thể thay đổi chủ thể của hợp đồng. Tức là trong trường hợp một bên chủ thể vì một lý do nào đó mà phải chuyển giao toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ thực hiện hợp đồng kinh tế hco một chủ thể thứ ba khác. Người được nhận chuyển giao phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế được chuyển giao.
Nếu người nhận chuyển giao không đủ điều kiện để thực hiện hợp đồng kinh tế được chuyển giao thì yêu cầu người chuyển giao thanh lsy hợp đồng trước khi nhận chuyển giao.
Một bên có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế khi có đủ các điều kiện sau :
- Có sự vi phạm hợp đồng kinh tế của bên cùng ký kết và bên đó đã thừa nhận thôngqua chứng từ, văn bản hoặc được cơ quan Nhà nước có kết luận bằng văn bản.
- Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế đó không đem lại lợi ích bên bị vi phạm như mực đích ký kết hợp đồng kinh tế.
2.4.2. Thanh lý hợp đồng kinh tế
Thanh lý hợp đồng kinh tế là hành vi pháp lý của cá bên để chấm dứt các quan hệ hợp đồng kinh tế. Khi thanh lý hợp đồng kinh tế các bên phải gựp nhau để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng, đánh giá những kết quả đạt được và chưa đạt được, trên cơ sở đó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong thời gian kế tiếp.
Theo điều 28 pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các bên thanh lý hợp đồng kinh tế được giải quyết.
- Hợp đồng kinh tế đã thực hiện xong, nhưng còn có hậu quả chưa được giải quyết.
- Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế đã hết và không có thoả thuận kéo dài thời gian đó.
- Hợp đồng kinh tế bị đình chỉ thực hiện hoặc huỷ bò.
- Hợp đồng kinh tế không được tiếp tục thực hiện khi thay đổi chủ thể mà không chuyển giao được nghĩa vụ hợp đồng kinh tế cho chủ thể mới. Như vậy, trong trường hợp hợp đồng kinh tế đã được thực hiện và các bên đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thoả thuạn của hợp đồng thì hợp đồng kinh tế đó coi như đã được thanh lý.
Thời hạn quy định để các bên thanh lý hợp đồng kinh tế là 10 ngày kể từ ngày phát sinh các sự kiện bắt buộc phải thanh lý hợp đồng kinh tế. Việc thanh lý hợp đồng kinh tế phải được làm thành văn bản riêng. Tại điều 20 khoản 2 - Nghị định số 17/HĐKINH Tế (đã dẫn) thì văn bản thanh lý hợp đồng kinh tế phải có những nội dung chủ yếu sau:
- Xác nhận mức dộ thực hiện nội dung công việc đã thoả thuận trong hợp đồng của các bên, từ đó xác định nghĩa vụ của các bên khi thanh lý.
- Xác định các khoản thuộc trách nhiệm tài sản, hậu quả pháp lý của các bên trong quan hệ hợp đồng (nếu có) do phải thanh lý trước khi hợp đồng kinh tế hết hiệu lực. Kể từ thời điểm các bên ký vào biên bản thanh lý, quan hệ hợp đồng coi như chấm dứt. Riêng quyền và nghĩa vụ của các bên được xác nhận khi thanh lý vẫn có hiệu lực cho đến khi mỗi bên hoàn thành nghĩa vụ của mình.
3. Trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng kinh tế
3.1. Khái niệm và căn cứ xác định
3.1.1. Khái niệm trách nhiệm tài sản
Trách nhiệm tài sản là biện pháp pháp lý áp dụng cho các hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế đã quy định sẵn trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều 19 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: "Các bên phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với nhau về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng kinh tế. Bên vi phạm phải trả cho bên bị vp tiền phạt vp hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật".
Về mặt khách quan: Trách nhiệm tài sản trong hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy định pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội phát sinh của các chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế.
Về mặt chủ quan: Trách nhiệm tài sản được hiểu là sự gánh chịu hậu quả vật chất bất lợi cho bên có hành vi vi phạm hợp đồng.
3.1.2. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm tài sản
Bên vi phạm hợp đồng kinh tế phải chịu trách nhiệm tài sản khi việc vi phạm hội đủ các căn cứ mà pháp luật quy định: Có hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm là có lỗi, viẹc vi phạm hợp đồng đã gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm.v.v...
Bên bị vi phạm và toà án cũng dựa trên căn cứ này để áp dụng trách nhiệm tài sản đối với bên vi phạm.
Căn cứ này bao gồm:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Đó là hành vi vi phạm thoả thuận trong hợp đồng. Các hành vi này thông thường là không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng với các cam kết trong hợp đồng.
- Có thiệt hại xẩy ra những thiệt hại này phải là thiệt hại vật chất tính toán được và thiệt hại phải có thực. Nội dung thiệt hại vật chất bao gồm: Những khoản mất mát hao hụt về mặt vật chất; những khoản chi phí bên bị thiệt hại bỏ ra ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại; những khoản thất thu. Ben vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm đã gây thiệt hại cho mình.
- Bên vi phạm có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của bên vi phạm hợp đồng kinh tế, thể hiện ở sự vô ý hoặc cố ý trong việc thực hiện hành vi vi phạm. Bên bị vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm có lỗi. Nếu hành vi vi phạm hoàn toàn do nguyên nhân khách quan thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xẩy ra: Đây là mối quan hệ biện chứng giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xẩy ra. Thiệt hại xẩy ra phải là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế.
3.1.3. Căn cứ miễn, giảm trách nhiệm tài sản
Như đã trình bày ở trên, bên vi phạm hợp đồng kinh tế chỉ phải chịu trách nhiệm tài sản khi lỗi dù là lỗ vô lý hay cố ý. Còn việc vi phạm hợp đồng kinh tế hoàn toàn là do khách quan không thể khắc phục được thì bên vi phạm hợp đồng không phải chịu trách nhiệm.
Theo pháp luật hiện hành, để được miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản thì bên vi phạm hợp đồng kinh tế phải có căn cứ để chứng minh được những vi phạm đó là do:
- Gặp thiên tai, địch hoạ hoặc trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp để khắc phục;
- Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền do Thủ tướng Chính phủ, trưởng ban chỉ huy chống bão lụt trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra lệnh.
- Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản do các trường hợp trên (thiên tai, địch hoạ... và thi hành lệnh khẩn cấp). Việc vi phạm hợp đồng kinh tế của một bên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự vi phạm hợp đồng của bên kia.
3.2. Nội dungtn tài sản
Trách nhiệm tài sản (hay trách nhiệm vật chất phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. Trách nhiệm tài sản bao gồm:
3.2.1. Phạt vi phạm hợp đồng
Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài phạt bằng tiề áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng. Phạt vi phạm mang tính chất trừng phạt vật chất đối với bên vi phạm. Phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng cho tất cả các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kinh tế mà không cần chứng minh có hoặc chưa có thiệt hại xẩy ra.
Tiền phạt vi phạm hợp đồng do các bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng kinh tế dựa trên cơ sở khung tiền phạt do pháp luật quy định. Tại điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định mức phạt chung đối với các loại vi phạm hợp đồng kinh tế từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài ta, tại điều 13 Nghị định 17/HĐKT (đã dẫn) quy định cụ thể khung hình phạt riêng cho từng loại vi phạm hợp đồng.
3.2.2. Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là chế t ài vật chất được dùng nhằm mục đích bù đắp, khôi phục lại những thiệt hại thực tế về tài sản cho bên bị vi phạm. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là bồi thường toàn bộ những thiệt hại và những thu nhập bị bỏ lỡ mà lẽ ra bên bị vi phạm có thể thu được do sự vi phạm hợp đồng kinh tế gây ra.
Căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ các căn cứ cho luật định.
Theo quy định của chế độ hợp đồng kinh tế bên có hành vi vi phạm chỉ phải bồi thường những thiệt hại thực tế xảy ra gồm giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng kể cả tiền lãi phải trả cho ngân hàng; các chi phí cần thiết mà bên vi phạm phải trả; Các khoản thu nhập mà lẽ ra trong điều kiện bình thường thì bên bị vi phạm sẽ thu được tổng số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và hoa lợi đáng lẽ được hưởng.
4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
Theo quy định tại điều 12, khoản 1 pháp lệnh thủ tuch giải quyết các vụ án kinh tế do Uỷ ban thường vụ Quôc shội thông qua ngày 16/3/1994 thì tranh chấp hợp đồng kinh tế là những tranh chấp phát sinh giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Hay nói cách khác, là những tranh chấp phát sinh giữa các be en chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế. Đó là việc trong từng thực hiện hợp đồng kinh tế do một hay hai bên tham gia hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ của mình đã cam kết trong hợp đồng dẫn đến những vi phạm hợp đồng. Những vi phạm hợp đồng kinh tế này là do lỗi của bên vi phạm. Từ đó mà dẫn đến việc tranh chấp trong hợp đồng kinh tế.
Tranh chấp hợp đồng kinh tế là một trong các dạng tranh chấp kinh tế do dó nó có các phương thức giải quyết sau:
- Tự hoà giải (thương lượng) là do tự chủ thể của các b ên tham gia hợp đồng kinh tế tự giải quyết mà không có sự tham gia của người thứ ba. Có nghĩa là các bên trực tiếp gặp nhau để thương lượng, thoả thuận để tìm ra biện pháp thích hợp nhắt nhằm giải quyết các bất đồng do việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng gây ra. Đây là phương thức đơn giản không tốn kém và đặc biệt là đảm bảo được quan hệ hợp đồng giữa hai bên, đồng thời thể hiện tinh thần hợp tác, giữ uy tín đảm bảo bí mật kinh doanh cho nhau trong hoạt động kinh doanh.
Phương thức này cũng phải căn cứ vào luật pháp, vào các sự việc cụ thể xẩy ra trên cơ sở thiện chí của các bên. Hiện nay trong điều kiện nền kinh tế của nước ta,phương thức này được coi là phương thức giải quyết phù hợp đối với các tranh chấp hợp đồng kinh tế cũng như các tranh chấp kinh tế khác.
- Hoà giải: là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế với sự hiện diện của người thứ ba với tư cách là trung gian để giúp đỡ các bên thoả thuận. Với trình độ kinh tế chuyên môn, kỹ thuật và uy tín của người trung gian, nhờ đó các bên tranh chấp trong hợp đồng có thể dung hoà được những lợi ích có tranh chấp và thực hiện được việc hoà giải thành.
- Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài: Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp được pháp luật quy định, theo đó, thông qua hoạt động của trọng taif viên, việc tranh chấp hợp đồng kinh tế được giải quyết bằng một phán quyết mà hai bên quan hệ hợp đồng có tranh chấp phải thực hiện. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế mà các bên tham gia áp dụng khi việc giải quyết bằng phương thức thương lượng hoặc hoà giải không thành. Theo phương thức này, các bên được đảm bảo quyền tự do định đoạt như: lựa chọn tổ chức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên.v.v...
- Giải quyết tranh chấp bằng Toà án: Phương thức này được quy định trong pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 ._.luật hợp đồng kinh tế
Từ thực tế áp dụng pháp lệnh hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế nước ta thời kỳ qua và từ thực tiễn quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế về việc thúc nhà xưởng tại công ty Quan hệ Quốc tế - đầu tư sản xuất (CIRI), cùng với những kiến thức chuyên nghành đã được trang bị tôi thấy : để phát huy được vai trò của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế thì cần phải sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã dẫn theo một số nội dung sau:
2.1. Cần phải xác định rõ đối tượng điều chỉnh và mục đích của pháp lệnh hợp đồng kinh tế
2.1.1. Khái niệm hợp đồng kinh tế
Trong Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đã dẫn): "Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình".
Theo quy định này, nó chỉ mang tính liệt kê không báo biết những lĩnh vực cần điều chỉnh, không phản ánh rõ đặc trưng chủ yếu của hợp đồng kinh tế. Bởi các mối quan hệ như trao đổi hàng h oá cung ứng dịch vụ (như là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, các hình thức mua bán, cho thuê...), các nghiên cứu ứng dụng, khoa học kỹ thuật.v.v... được điều chỉnh bởi ba nguồn luật: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Luật thương mại và Luật dân sự. Đây là sự trùng lặp về đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế với đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại và Luật dân sự. Chính vì thế mà gây nên sự nhầm lẫn trong việc xác định các quan hệ hợp đồng, hợp đồng nào là hợp đồng kinh tế do pháp lệnh hợp đồng kinh tế điều chỉnh, hợp đồng nào là hợp đồng dân sự do Luật dân sự điều chỉnh.
ở đây chúng ta muốn đề cập đến những quan hệ hợp đồng mà trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế lại có cả trong luật thương mại và Luật dân sự.
Với lý do đó, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải sửa chữa và đưa ra một khái niệm khái quát thể hiện được các mối quan hệ kinh tế mang tính chất đặc trưng cơ bản nhất của hợp đồng kinh tế.
2.1.2. Mục đích của hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế là quan hệ xã hội trong kinh doanh, do đó nó phải có mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Đây là mục tiêu hàng đầu của các bên chủ thể khi thiết lập quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Tại Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định mục đích kinh doanh trong quan hệ hợp đồng kinh tế nhưng chưa qui định những mục đích kinh doanh đòi hỏi cả hai bên hay chỉ cần một bên có lợi là đủ. Chính điều này mà Pháp lệnh hợp đồng kinh tế có quy định nguyên tắc " cùng có lợi" trong ký kết hợp đồng kinh tế. Nếu trong trường hợp hai bên ký kết hợp đồng mà các điều khoản thoả thuận với nhau trong hợp đồng không trái pháp luật nhưng chỉ có một bên có lợi ích kinh tế còn bên kia thì không
Trường hợp này hợp đồng kinh tế vẫn không coi là hợp đồng vô hiệu
Ví dụ: Một công ty cung cấp thiết bị điện có tư cách pháp nhân ký kết một hợp đồng với trường ĐHKTQD. Hà Nội về việc bán các thiết bị điện để phục vụ cho việc học tập . Trong quan hệ này sẽ có câu hỏi đặt ra là: Quan hệ này có được coi là quan hệ hợp đồng kinh tế hay không? Rõ ràng chỉ có công ty cung cấp thiết bị điện ký hợp đồng vì mục đích kinh doanh.
Do vậy, pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Theo tôi, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nên sửa đổi như sau: "Một hoặc các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế nhằm mục đích kinh doanh". Quy định này có thể phù hợp hơn với thực tế. Để xác định rõ hơn về đối tượng điều chỉnh và mục đích của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, chúng ta cần phải xem xét đến cả những qui định sau:
2.2. Chủ thể hợp đồng kinh tế
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hiện nay quy định chủ thể tham gia hợp đồng một cách bắt buộc và rất hạn chế . Đó là, hợp đồng kinh tế luôn phải có ít nhất một bên chủ thể là pháp nhân.
Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh nhằm mục đích lợi ích kinh doanh. Mà tất cả các chủ thể kinh doanh hoạt động sản xuất kinh doanh cũng chỉ vì mục đích đó .Thế thì tại sao một số chủ thể khi xác lập các quan hệ hợp đồng vì mục đích lợi ích kinh doanh laị không được coi là quan hệ hợp đồng kinh tế? Đó là trường hợp quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật như doanh nghiệp tư nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật như doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh. v.v...
Thực tế đó đã không được công nhận trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Vậy thì họ phải được coi như là chủ thể của hợp đồng kinh tế. Mặt khác, chúng ta vẫn lấy chỉ tiêu chỉ mục đích kinh doanh trong hợp đồng kinh tế để phân biệt với hợp đồng dân sự. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chỉ công nhận một hợp đồng là hợp đồng kinh tế khi có mục đích kinh doanh và ít nhất phải có một bên là pháp nhân. Quy định như vậy đã dẫn đến đối tượng điều chỉnh của pháp lệnh hợp đồng kinh tế bị thu hẹp, một số hợp đồng mang bản chất kinh tế nhưng lại bị loại khỏi phạm vi điều chỉnh của văn bản này.
Như vây, quy định về chủ thể trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế như hiện nay là không phù hợp nữa. Bởi vì xoay nền kinh tế hiện nay, mọi chủ thể kinh doanh đều bình đẳng trước pháp luật và nó không phụ thuộc vào quy mô, hình thức tổ chức.
Hơn nữa, việc giải quyết tranh chấp xảy ra trong quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể là cá nhân có đăng ký dinh doanh vì mục đích kinh doanh bằng thủ tục tố tụng dân sự thực ra không được thích hợp cho lắm.
Vì vậy, việc sửa đổi quy định về chủ thể hợp đồng kinh tế trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũng rất cần thiết.
2.3. Thủ tục ký hợp đồng kinh tế
Pháp luật hợp đồng kinh tế hiện nay có quy định hai hình thức ký kết hợp đồng kinh tế là ký kết theo thủ tục trực tiếp và ký kết theo thủ tục gián tiếp. Trong đó vấn đề quy định thủ tục ký kết gián tiếp hợp đồng kinh tế trong pháp lệnh còn có nhiều điều cần phải sửa đổi.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không quy định sự ràng buộc trách nhiệm của các bên trong hình thức ký kết hợp đồng gián tiếp khi một trong các bên tham gia hợp đồng đề nghị hợp đồng (chào hàng hoặc đặt hàng) và thời hạn trả lời để bên kia xem xét là có quyết định hợp đồng hay không. Trong thời hạn lập hợp đồng đó chỉ ràng buộc pháp lý đối với bên đề nghị là không được đề nghị lập hợp đồng với một người thứ ba nhưng lại không quy định trách nhiệm đối với bên đề nghị hợp đồng trong trường hợp ngược lại (nếu có). Tức là trong trường hợp bên đề nghị hợp đồng tuỳ tiện bỏ lời đề nghị hợp đồng hoặc trong cùng thời hạn quy định trong đề nghị hợp đồng mà họ có thể gửi nhiều lời đề nghị tới các đối tác khác thì trách nhiệm của họ như thế nào? Điều này chưa được đề cập tới trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Một vấn đề nữa là thời điểm hình thành hợp đồng kinh tế trong thủ tục gián tiếp. Tại điều II – pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: hợp đồng kinh tế được coi là đã hình thành và có hiệu lực từ thưòi điểm các bên nhận được giao dịch, thể hiện sự thống nhất những điều khoản chủ yếu của hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Quy định như vậy cũng chưa được chặt chẽ lắm. Bởi vì, trong thực tế có thể xảy ra một số trường hợp các bên đã thoả thuận được các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng nhưng lại có một số điều khoản tuỳ nghi lại chưa thống nhất được. Trong khi đó, pháp luật quy định những hợp đồng kinh tế đó đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Điều này gây lúng túng cho các bên khi họ không biết giải quyết như thế nào nếu không thống nhất được các điều khoanr tuỳ nghi. Vì thế nó ảnh hưởng tới quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cảu các bên.
Bên cạnh đó, vấn đề bác bỏ đề nghị hợp đồng và thời điểm bác bỏ đề nghị của bên đề nghị như thế nào cho hợp lý khi mà bên được đề nghị đã chấp nhận đề nghị hợp đồng.
Như vậy, về trình tự thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải có sự sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn. Hiên nay, trong bộ luật dân sự đã có quy định rất rõ ràng và chặt chẽ về thủ tục ký kết hợp đồng dân sự. Từ đó, nên chăng lấy những quy địh đó để áp dụng cho việc sửa đổi trình tự thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Theo tôi, vấn đề này có thể quy định như sau:
- Sau khi gửi lời đề nghị cho bên kia, bên đề nghị phải có nghĩa vụ chờ bên kia trả lời trong thời hạn mà bên đề nghị đưa ra hoặc do hai bên tự thoả thuận. Trong thời gian chờ bên kia thì bên đề nghị không được mời người thứ ba giao kết hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình.
- Bên đề nghị có quyền rút lại lời đề nghị khi bên được đề nghị chưa nhận được lời đề nghị, hết thời hạn trả lời đề nghị mà bên được đề nghị chưa trả lời hoặc khi có thoả thuận trong lời đề nghị.
- Nếu sau thời hạn nói trên bên được đề nghị mới trả lời, đưa ra lời chấp nhận hoặc thêm những nội dung đề nghị mới (nếu có) thì lời chấp nhận này có thể coi như một lời đề đối với bên kia.
- Sự im lặng của bên được đề nghị sẽ không được coi là chấp nhận ký kết, nếu các bên không có thoả thuận khác.
- Thời điểm hợp đồng kinh tế có hiệu lực là thời điểm bên đề nghị nhận được dự thảo đã được chấp nhận.
2.4. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế
Điều 5 – Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chỉ quy định ba biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế: thế chấp tài sản, cầm cố tài sản và bảo lãnh tài sản. Cũng vấn đề này, trong Bộ luật dân sự quy định đầy đủ, rõ ràng và đa dạng hơn. Ngoài ba biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì trong Bộ luật dân sự còn có các biện pháp bảo đảm khác như đặt cọc, ký cược, ký gửi. Vấn đề muốn nói ở đây là các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng càng đa dạng thì việc xác lập các loại hợp đồng kinh tế cũng được diễn ra nhiều hơn và vì thế sẽ giúp cho các chủ thể kinh tế hoạt động một cách năng động hơn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì thế nên chăng trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải đa dạng hoá các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế.
Một vấn đề nữa là thoả thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế chỉ là các điều khoản tuỳ nghi: “Các bên ký kết hợp đồng kinh tế có quyền thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế: thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản theo quy định của pháp luật”. Điều đó có nghĩa là các bên có quyền thoả thuận và chỉ khi nào thoả thuận được với nhau thì mới là nộ dung của hợp đồng. Tuy nhiên khi đã là nội dung của hợp đồng, pháp luật hợp đồng kinh tế lại không quy định rõ một nội dung cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện hợp đồng này. Đây là một vấn đề đang có nhiều tranh cãi hiện nay. Vì vậy, trong việc sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải làm rõ nội dung cũng như quyền hạn và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng kinh tế trong vấn đề này, chẳng hạn, khi một bên không thực hiện hợp đồng kinh tế như đã thoả thuận thì bên bị vi phạm có quyền sở hữu phần tài sản được bảo đảm của bên kia theo tỷ lệ thiệt hại gánh chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra.
2.5. Trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng kinh tế
Khoản 2 Điều 29 – Pháp lệnh hợp đồng kinh tế về mức tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra là chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Trong Điều 378 Bộ luật dân sự quy định mức phạt tiền không quá 5% giá trị phần nghĩa vụ vi phạm. Còn trong Điều 228 Luật thương mại quy định mức tiền phạt do các bên thoả thuận nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ vi phạm.
Như thế, so sánh với hai nguồn luật trên thì mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kinh tế nên chăng quy định theo hướng của Luật thương mại là hợp lý hơn đối với nền kinh tế thị trường hiện nay. Cụ thể là: “Mức tiền phạt vi phạm hợp đồng không quy định thì mức tiền phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ vi phạm”.
Tại khoản 1, Điều 29 có ghi: “Các bên phải chịu trách nhiệm tài sản trực tiếp với nhau về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng kinh tế”. Đồng thời tại Điều 5 – pháp lệnh hợp đồng kinh tế lại thừa nhận bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, tức là khi hợp đồng kinh tế bị vi phạm thì người nhận bảo lãnh phải chịu trách nhiệm tài sản đối với người bị vi phạm do hành vi vi phạm của người được bảo lãnh gây ra. Rõ ràng, đây không phải hai bên chịu tài sản trực tiếp với nhau mà là chịu trách nhiệm tài sản thuộc về người thứ ba. Như vậy, tại Điều 29 và Điều 5 – Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã mâu thuẫn nhau. Vì thế, trong Điều 29 nên có mở ngoặc “trừ trường hợp có bảo lãnh của người thứ ba”
2.6. Hợp đồng kinh tế vô hiệu
Để xem xét tính vô hiệu của hợp đồng ta phải xem xét tới vấn đề có hiệu lực của hợp đồng.
2.6.1. Hiệu lực hợp đồng
Hiệu lực hợp đồng kinh tế chưa được quy định rõ ràng trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế, mà chỉ được thể hiện gián tiếp qua các quy định về hợp đồng vô hiệu (theo Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã dẫn)
Việc quy định các điều kiện để hợp đồng kinh tế có hiệu lực sẽ làm cho các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng ít mắc sai lầm, đồng thời cũng giúp cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp xảy ra (nếu có) đực dễ dàng hơn và nhanh hơn.
Vì vậy, cần phải có một sự quy định cụ thể về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Chẳng hạn như một số điều kiện sau.
- Hợp đồng có nội dung phù hợp với pháp luật đạo đức và trật tự xã hội.
- Chủ thể tham gia hợp đồng phải đủ điều kiện theo quy định của phap luật.
- ý chí của các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế hoàn toàn tự nguyện.
- Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
- Hợp đồng chỉ có thể sửa đổi hoặc hỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
- Hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác …..
- Có như vậy thì việc xử lý hợp đồng vô hiệu cũng dễ dàng hơn.
2.6.2. Xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu
Tại điểm C khoản 2 Điều 39 – Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “thiệt hại phát sinh các bên phải chịu” Quy định như trên là không được hợp lý đối với một số trường hợp như hợp đồng được ký kết khi bị lừa dối, gian lận của một bên tham gia. Trong trường hợp này hợp đồng kinh tế được coi là vô hiệu như vậy các thiệt hại phát sinh từ hợp đồng được xử lý như thế nào? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại rõ ràng thuộc về bên có lỗi gây ra sự vô hiệu của hợp đồng. Chính vì thế cần phải có sự sửa đổi cho phù hợp vấn đề xử lý trách nhiệm tài sản trong trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu. Chẳng hạn: “Bên có lỗi trong việc ký kết hợp đồng kinh tế vô hiệu phải chịu mọi thiệt hại phát sinh và phải bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại”.
Mặt khác việc xử lý tài sản trong trường hợp tài sản không còn để thanh toán hoặc đối tượng của hợp đồng kinh tế vô hiệu phải được tính vào thời điểm nào? Đây cũng là vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Chính vì vậy cần phải xác định có giá trị tài sản được tính vào thời điểm nào khi hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Như vậy, việc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu cũng cần phải có sự bổ sung và sửa đổi.
Từ những quy định trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế hiện nay nó đã không đáp ứng được hết những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó những quy định trong luật thương mại lại đáp ứng được điều kiện hiện nay của pháp lệnh hợp đồng kinh tế khi nó chỉ là một loại của hợp đồng kinh tế.
Như vậy, sự cần thiết để đưa một văn bản pháp lệnh hợp đồng kinh tế lên thành một văn bản có giá trị cao hơn là một điều tất yếu. Điều đó nhằm tách biệt các văn bản pháp luật có giá trị cao để điều chỉnh trong các lĩnh vực riêng biệt và nhằm tránh sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật.
Trên đây là một số kiến nghị của tôi về việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế. Sau đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng thuê nhà xưởng tại Công ty quan hệ quốc tế - đầu tư sản xuất.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc ký kết vàa thực hiện hợp đồng thuế nhà xưởng tại Công ty quan hệ quốc tế. Đầu tư sản xuất (CIRI)
Sau khi nghiên cứu và xem xét về hợp đồng thuê nhà xưởng tại Công ty, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau:
3.1. Công tác ký kết hợp đồng
Hợp đồng kinh tế sau khi ký kết sẽ phát sinh hiệu lực và ràng buộc pháp lý giữa hai bên tham gia. Công ty phải coi trọng hơn nữa công tác chuẩn bị cho việc ký kết từng loại hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng thuê nhà xưởng nói riêng, tránh tình trạng chưa có sự chuẩn bị chu đáo đã tiến hành ký kết hợp đồng sau đó lại phải sửa lại. Điều đó sẽ gây nên nhiều rắc rối, phức tạp và lại tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc.
Hiện nay, Công ty đã soạn thảo một hợp đồng mẫu về việc thuê nhà xưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc soạn thảo hợp đồng chính thức. Tuy nhiên, các thủ tục chuẩn bị đàm phán và đám phán khi ký kết hợp đồng là rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Bởi giai đoạn này là tiền đề tạo ra sự thuận lợi cho quá trình thực hện hợp đồng sau này. Hơn nữa, hợp đồng thuê nhà xưởng không những xác lập quan hệ hợp tác sản xuất kinh doanh mà nó còn liên quan tới vấn đề quyền sở hữu, quyền sử dụng nữa. Từ đó, sẽ dẫn tới các vấn đề khác (như môi trường, trật tự an ninh….) trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Chính vi thế, trong công việc tìm hiểu, nghiên cứu thị trường thuê mua, thu thập thông tin từ phía cho thuê là rất quan trọng trong công tác ký kết hợp đồng thuê nhà xưởng tại Công ty. Công ty nên đẩy mạnh hơn nữa trong việc xác lập quan hệ kinh tế với đối tác dựa trên quan hệ lâu năm và uy tín của nhau để đảm bảo cho việc ký kết cũng như việc thực hiện hợp đồng sau này.
3.2. Công tác thực hiện hợp đồng
Công ty nên tổ chức chặt chẽ hơn nữa trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sự liên kết giữa các phòng ban nghiệp vụ, phân xưởng, cơ sở sản xuất của Công ty để bảo đảm cho tiến độ thực hiện hợp đồng. Trong quá trình thực hiện, các bộ phận phải thường xuyên liên kết với nhau để thực hiện đúng các điều khoản trong nội dung hợp đồng, tránh những phát sinh không đáng có (như vi phạm hợp đồng) ,đồng thời đẩy nhanh tiến độ cho việc thực hiện hợp đồng nhằm phục vụ mục đích kinh doanh. Bởi việc xác lập quan hệ hợp đồng thuê nhà xưởng của Công ty là nhằm phục vụ cho các công đoạn sản xuất kinh doanh của Công ty (sản xuất, lắp ráp che gắn máy, ô tô….) trong tiến trình hoạt động kinh doanh của Công ty.
Chính vì lý do đó mà việc thực hiện tốt công tác thực hiện hợp đồng thuê nhà xưởng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty. Nếu trong quá trình thực hiện có xảy ra các tranh chấp thì Công ty cần phải tìm ra những biện pháp nhanh chóng tối ưu nhất để giải quyết khắc phục những khó khăn đó một cách nhanh nhất, hợp lý nhất và hữu hiệu nhất. Các phương án giải quyết đó nên dựa trên tinh thần tự nguyện hợp tác, xây dựng và thiện chí là chính, tránh tình trạng phải nhờ đến sự giải quyết của trọng tài hoặc toà án.
3.3. Kiến nghị về phía các cán bộ nghiệp vụ
Sự thành công hay thất bại trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng thuê nhà xưởng nói riêng là do chính những con người đã trực tiếp tiến hành trong công tác ký kết và thực hiện hợp đồng.
Bởi, trình độ năng lực của những người này sẽ thể hiện rõ trong chất lượng của công tác ký kết và thực hiện hợp đồng, nó được thể hiện như việc đàm phán nhanh, thực hiện tốt những gì mà thuộc về trách nhiệm của mình liên quan tới việc xác lập hợp đồng.
Muốn có được điều đó thì Công ty phải có những chính sách, đầu tư cụ thể như: khuyến khích, động viên cán bộ công nhân viên của Công ty trực tiếp và liên quan đến công tác ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế ở Công ty. Trong đó, đề ra những tiêu chuẩn khen thưởng, định mức vật chất cần thiết cho mỗi mức độ tiêu chuẩn mà cán bộ công nhân viên đạt được, bện cạnh đó cũng có những quy định khắt khe về kỹ thuật, hình phạt bằng vật chất đối với những cán bộ công nhân viên không thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Công ty nên thường xuyên cử cán bọ đi học các lớp bồi dưỡng, nhằm đào tạo và nâng cao kiến thức nghiệp vụ, chuyên môn phục vụ cho công tác ký kết và thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, cũng phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, bậc thợ cho cán bộ công nhân viên toàn Công ty, nhằm góp phàn thực hiện các nhu cầu hoạt động kinh doanh của Công ty.
3.4. Kiến nghị với Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông
Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 8 là đơn vị trực tiếp quản lý Công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất do đó Tổng Công ty phải có những chính sách, chiến lược, đầu tư cho việc phát triển của Công ty, nhằm khắc phục những khó khăn và yếu kém của Công ty như vốn, thị trường kinh doanh.
Việc hoạch định những chiến lược phát triển của Công ty, việc tài trợ (cung cấp) vốn cho Công ty của Tổng Công ty sẽ góp phần cho Công ty thực hiện tốt các phương án kinh doanh lập các phương án có hiệu quả, đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc chuyển giao công nghệ mới nhằm tân trang các nhà xưởng, máy móc, thiết bị, để phục vụ cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh…
Kết luận
Công ty quan hệ Quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI) là đơn vị thành viên của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 8. Cũng là một trong các doanh nghiệp Nhà nước khác trong giai đoạn nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hiện nay, Công ty gặp một số khó khăn nhất định nhưng vẫn đứng vững và đóng góp một phần cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
Công tác ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà xưởng tại Công ty là một giai đoạn rất quan trọng trong quá trình phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên quá trình này vẫn còn nhiều khuyết điểm mà nguyên nhân của nó không chỉ từ phía Công ty mà còn từ phía những quy định của pháp luật hợp đồng kinh tế.
Là một sinh viên chuyên ngành và thông qua quá trình thực tập và nghiên cứu thực tế tại Công ty, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế cũng như quá trình ký kết và thực hiện. Hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà xưởng tại Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất.
Tuy nhiên vì thời gian và trình độ có hạn nên trong phạm vi bài viết của mình không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong có sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo trong Bộ môn Luật kinh tế cũng như bạn đọc quan tâm đề tài này.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo T.S Nguyễn Hợp Toàn, cô giáo Phạm Thị Phương Thuỷ cùng với các anh chị cán bộ phòng kinh tế của Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI) đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này.
Phụ lục
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------------***-------------
Hợp đồng thuê nhà xưởng
(Để liên kết sản xuất kinh doanh, sản xuất lặp ráp phụ tùng xe máy)
Số: 05/2001/CIRI – MNN
- Căn cứ pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989
- Căn cứ Nghị định số 17/HĐBT ngày 18/11/1990 của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Căn cứ vào khả năng và nhu cầu của hai bên.
Hôm nay, ngày 25/2/2001, chung tôi gồm:
Bên cho thuê (Bên A): Công ty máy kéo và máy công nghiệp
Địa chỉ: Phố Chu Văn An – Thị xã Hà Đông – tỉnh Hà Tây
Điện thoại: 034.824448 Fax: 04.8542747
Đại diện: Ông Nguyễn Tiến Thanh – Giám đốc
Bên thuê: (Bên B): Trung tâm Quan hệ quốc tế - Đầu tư (CIRI)
Địa chỉ: 508 Đường Trường Chinh - Đống Đa – Hà Nội
Điện thoại: 8533410 Fax: 5631780
Đại diện: Ông Phạm Thành Công – Giám đốc
Hai bên cùng thoả thuận và nhất trí hợp đồng thuê nhà xưởng với những điều khoản cụ thể sau:
Điều I: Đối tượng cho thuê: Nhà xưởng, sân bãi
Bên A đồng ý cho bên B thuê nhà xưởng trên diện tích tối thiểu 2000m2 nhà xưởng + 3000m2 sân bãi thuộc Công ty máy kéo và máy nông nghiệp tại phố Chu Văn An – thị xã Hà Đông – tỉnh Hà Tây để dùng vào mục đích liên kết kinh doanh sản xuất lắp ráp phụ tùng và lắp ráp xe máy/
Điều II: Thời gian thuê:
- Thời gian tối thiểu 7 năm
- Thời gian thuê được tính từ ngày bên thuê nhận bàn giao nhà xưởng.
Điều III: Giá cả và điều kiện thanh toán
3.1. Giá cả:
- Tiền thuê nhà xưởng bao gồm:
Đơn giá thuê: 17.000đ/m2/tháng = (2000m2 x 17.000đ) = 34.000.000đ/tháng.
Các chi phí khác 1.000.000đ/tháng
- Tiền thuê đất (sân bãi, tập kết vật tư) là: 12.000đ/m2/tháng
= (3000m2 x 12.000đ) = 36.000.000đ/tháng.
- Tổng số tiền viết bằng chữ: (Bốn mươi chín triệu đồng/tháng)
3.2. Điều kiện thanh toán:
Trong vòng 03 ngày khi ký kết hợp đồng bên B trả 50% số tiền thuê và sau khi nhận bàn giao nhà xưởng, sân bãi bên thuê thanh toán tiếp cho Công ty máy kéo và máy nông nghiệp 50% còn lại của 06 tháng đầu tiên.
- Thời gian được tính từ khi cải tạo xong nhà xưởng bước vào sản xuất
- Thời gian bàn giao mặt bằng: chậm nhất 02 tuần kể từ khi bên thuê thanh toán.
- 10 ngày trước khi kết thúc thời gian của 06 tháng đầu, bên thuê sẽ phải thanh toán cho bên cho thuê 03 tháng tiếp theo và sẽ áp dụng phương thức thanh toán như vậy cho đến khi hết hạn hợp đồng.
- Thanh toán bằng tiền mặt, séc hoặc chuyển khoản
Giá trị hợp đồng được thanh toán theo số m2 thực tế sau khi hai bên có biên bản nghiệm thu bàn giao nhà xưởng.
- Trong trường hợp phía Công ty máy kéo và máy nông nghiẹp cần vốn sản xuất phía CIRI sẽ hỗ trợ vốn với lãi suất ưu tiên (nhỏ hơn lãi suất ngân hàng theo sự thoả thuận của hai phía trên cơ sở liên kết hợp tác)
Điều IV: Trách nhiệm của các bên
4.1. Trách nhiệm của bên cho thuê
- Giải phóng mặt bằng, dọn dẹp sửa sang nhà xưởng đảm bảo điều kiện để lắp dây chuyền sản xuất, lắp ráp xe gắn máy.
- Tạo điều kiện cho bên thuê tiếp nhận mặt bằng và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
- Khi cần thiết tạo điều kiện cho bên thuê cải tạo, xây dựng nhà xưởng khi cần mở rộng sản xuất.
- Nếu quan hệ đến môi trường bên cho thuê sẽ làm việc, giải quyết với cơ quan có chức năng, thẩm quyền liên quan.
- Cung cấp điện nước đầy đủ cho bên thuê để sản xuất, lắp ráp (trừ trường hợp điện nước bị mất hay không được cung cấp do khách quan)
- Ưu tiên tuyển chọn sử dụng lao động của bên B được 2 bên thoả thuận.
- Toàn bộ chi phí trên bên B giám sát để thanh toán và nghiệm thu.
4.2. Trách nhiệm của bên thuê
- Sử dụng đúng mục đích thuê nhà xưởng, không được sang tên, nhượng quyền sử dụng cho người khác.
- Tự chủ động trong sản xuất kinh doanh và đảm bảo các điều kiện pháp lý về việc sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm vệ sinh môi trường khu vực theo quy định của Nhà nước.
- Thanh toán chi phí điện nước thực tế sử dụng trên đồng hồ đo + hao tổn đường dây theo giá quy định của Nhà nước.
- Tự cung cấp các thiết bị phục vụ công việc kinh doanh sản xuất lắp ráp phụ tùng xe máy của mình.
- Bảo vệ tài sản trong khu vực sản xuất của mình.
- Ưu tiên tuyển dụng công nhân, kỹ thuật của bên cho thuê theo tiêu chuẩn tuyển chọn khi hai bên thống nhất thoả thuận (có phụ lục kèm theo hợp đồng).
- Chấp hành mọi nội quy, quy định về ATLĐ, VSCN và các quy định khác của Công ty máy kéo và máy nông nghiệp.
Điều V: Huỷ hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn
5.1. Bên cho thuê có quyền huỷ hợp đồng thuê nhà xưởng khi bên thuê có một trong những hành vi sau:
- Không trả tiền thuê nhà xưởng từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng.
- Sử dụng nhà xưởng không đúng mục đích kinh doanh như quy định trong hợp đồng.
- Sang tên hoặc chuyển nhượng cho người khác mà không được sự chấp nhận của bên cho thuê bằng văn bản.
5.2. Nếu một trong hai bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn thì bên chấm dứt hợp đồng phải đền bù cho phía bên kia những thiệt hại liên quan, hợp lý.
5.3. Trong quá trình thuê hoặc hết thời hạn của hợp đồng này, hai bên tiến hành thanh lý hoặc thay đổi phương thức hợp tác kinh doanh cho phù hợp.
5.4. Hai bên có trách nhiệm bảo vệ tài sản của mình.
- Phía cho thuê: chịu trách nhiệm bên ngoài khu vực thuê
- Phía thuê: chịu trách nhiệm bên trong khu vực sản xuất.
Điều VI: Quy định chung
- Hai bên cam kết thực hiện các điều khoản ghi trong hợp đồng, mọi thay đổi trong hợp đồng đều phải được hai bên nhất trí bằng văn bản. Nếu không thống nhất sẽ đưa ra Toà án kinh tế TP Hà Nội giải quyết. Mọi quyết định của Toà án hai bên đều phải thực hiện nghiêm túc.
- Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký đến khi thanh quyết toán nếu như hai bên không có sự thoả thuận khác.
- Hợp đồng này được làm thành 04 bản, mỗi bên giữ 02 có giá trị pháp lý như nhau.
- Những sự bổ sung, thay đổi sẽ được thể hiện bằng phụ lục không tách rời hợp đồng này.
Đại diện bên cho thuê
Đại diện bên thuê
Tài liệu tham khảo
A. Các văn bản quy phạm pháp luật
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989
Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995
Luật thương mại năm 1997
Điều lệ về hợp đồng kinh doanh nghị định số 735/TTg ngày 10/04/1956.
Nghị định 04/TTg ngày 04/01/1960 ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước.
Nghị định 54/CP ngày 10/03/1975 - Điều lệ chế độ hợp đồng kinh tế.
Nghị định17/HĐBT ngàyn 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Quyết định 18/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh.
B. Các tài liệu tham khảo khác
Tìm hiểu luật kinh tế – Nguyễn Thị Khế
Tìm hiểu luật kinh tế – Lê Xuân Ngọ
Giáo trình luật kinh tế trường ĐHKTQD – PTS Nguyễn Hữu Viện – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2000.
Hợp đồng kinh tế và các hình thức giải quyết tranh chấp. Nguyễn Thị Khế – NXB Đồng Nai 1997
Nguyễn Thị Khế – Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta – Tạp chí Nhà nước và pháp luật học số 3/1998
Một số ý kiến sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế – Tạp chí luật học số 3/1998
Chuyên đề: Pháp luật về hợp đồng kinh tế – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện.
Quyết định thành lập Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất.
Điều lệ, tổ chức và hoạt động của Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất.
Báo cáo cuối năm của Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất từ năm 2000 – 2002.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23642.doc