LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là một công cụ quản lý của Nhà nước, được xây dựng nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những quy tắc xử sử chung. Mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước…đều phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật. Đối với doanh nghiệp, các vấn đề pháp lý luôn tồn tại và gắn liền với doanh nghiệp từ khi thành lập, trong quá trình hoạt động cho đến khi doanh nghiệp đó phá sản hoặc giải thể. Các vấn đề pháp lý trong doanh nghiệp có thể chia th
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần hoá dầu PETROLIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành ba nhóm là: Các vấn đề pháp lý về hợp đồng trong kinh doanh - thương mại; Các vấn đề pháp lý về lao động và các vấn đề pháp lý khác (như tổ chức, quản lý, liên doanh, liên kết…).
Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh về các sản phẩm hóa dầu. Hoạt động kinh doanh thương mại của Công ty được tiến hành rất thường xuyên, liên quan đến nhiều quy định pháp luật về thương mại. Trong đó, các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại có liên quan trực tiếp đến các giao dịch kinh doanh và là cơ sở để tiến hành mọi hoạt động kinh doanh của Công ty.
Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex hiện nay đang kinh doanh ba ngành hàng chủ yếu là dầu mỡ nhờn, nhựa đường và hóa chất. Dầu mỡ nhờn là ngành hàng được Công ty tiến hành kinh doanh đầu tiên và hiện nay đang là ngành hàng chủ chốt luôn chiếm từ 67-68% tổng doanh thu tiêu thụ cả ba ngành hàng. Các hợp đồng thương mại về dầu mỡ nhờn, cụ thể là hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn, là loại hợp đồng được thiết lập và thực hiện nhiều nhất cả về mặt số lượng và giá trị.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn đối với Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex, sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty, kết hợp với những kiến thức pháp luật về kinh tế đã được học tập, em đã chọn đề tài: "HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÓA DẦU PETROLIMEX".
Trên cơ sở lí luận về hợp đồng mua bán hàng hóa và những kết quả thực tiễn trong giao kết - thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty, đề tài này xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp Công ty đạt được hiệu quả cao hơn trong giao kết - thực hiện loại hợp đồng này. Nội dung đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex.
Chương 3: Một số khuyến nghị đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty.
CHƯƠNG 1
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
1.1. Cơ sở pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Pháp luật về hợp đồng kinh tế đã có rất nhiều thay đổi trong thời gian qua, những sửa đổi, bổ sung đó là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh hội nhập hiện nay của đất nước. Đối với chế định về hợp đồng mua bán hàng hóa được điều chỉnh và hoàn thiện dần theo xu hướng của pháp luật quốc tế, nhất là phù hợp với Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán quốc tế. Việc xây dựng một chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế hoàn chỉnh đã được quan tâm đến khi nước ta bắt đầu chuyển hướng phát triển nền kinh tế.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã ra quyết định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chuyển đổi nền kinh tế hế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi phải có những chính sách, chế độ, có một công cụ pháp luật tiến bộ và phù hợp nhằm thực hiện hiệu quả việc đổi mới nền kinh tế, đồng thời mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Do vậy, ngày 25/09/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, bước đầu xây dựng một chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế. Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 cũng đưa ra những quy định về hợp đồng dân sự. Đến năm 1997, khi Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10/05/1997 cũng có những quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại. Trên thực tế cho thấy, các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại vẫn chủ yếu căn cứ vào Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989.
Có thể thấy, các vấn đề pháp lý về hợp đồng được quy định trong ba văn bản: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân sự 1995 và Luật Thương mại 1997. Trong các văn bản này lại có những quy định không thống nhất và cũng không có các quy định về mối quan hệ gữa các văn bản với nhau, do đó đã khiến cho người áp dụng và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản pháp luật về hợp đồng. Và cho đến nay, khi các hoạt động kinh tế càng phát triển và trở nên phức tạp thì các văn bản này không còn phù hợp nữa, yêu cầu hoàn thiện và đổi mới các quy định của pháp luật về hợp đồng là vấn đề hết sức cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện hiện nay.
Ngày 14/06/2005, Bộ luật Dân sự mới đã được Quốc hội khóa 11 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Bộ luật Dân sự 2005 được ban hành thay thế cho Bộ luật Dân sự 1995 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Đây được coi là đạo luật chung, áp dụng cho tất cả các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại tạo sự thống nhất về pháp luật, đặc biệt trong việc điều chỉnh những quan hệ hợp đồng. Theo đó, những quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc là nội dung cơ bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung. Còn khi các chủ thể ký kết các hợp đồng đặc thù thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành thì sẽ áp dụng các quy định trong các luật chuyên ngành.
Luật Thương mại năm 1997 cũng được thay thế bởi Luật Thương mại mới được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Đây là nguồn luật chính điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Theo Luật Thương mại 2005, hợp đồng thương mại có thể chia thành hai nhóm là hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Như vậy, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hiện hành là:
Bộ luật Dân sự 2005 là nguồn luật gốc cho tất cả các quan hệ hợp đồng
Luật Thương mại 2005 quy định những vấn đề cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa. Khi có những vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa mà Luật Thương mại không quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài trong kinh doanh, thương mại được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác nhau như luật quốc gia, các điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại 2005.
1.2.1. Khái niệm.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán; người mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán và nhận hàng hóa theo thỏa thuận của hai bên. Hoạt động mua bán hàng hóa được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong Luật Thương mại 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng có thể hiểu rằng hợp đồng mua bán hàng hóa là thỏa thuận giữa các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.2.1. Về chủ thể của hợp đồng.
Các chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tương ứng là bên mua và bên bán trong quan hệ hợp đồng này. Theo Luật Thương mại 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân.
Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách thường xuyên, độc lập.
Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng mua bán hàng hóa còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
1.2.2.2. Đối tượng của hợp đồng.
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là những hàng hóa được quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật Thương mại 2005 bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai.
Còn trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì đối tượng của hợp đồng là những hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật của nước bên mua và bên bán. Theo quy định hiện hành, thương nhân có thể mua bán, xuất nhập khẩu tất cả các hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề được ghi trong giấy phép kinh doanh, trừ những hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh. Đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh; danh mục hàng hóa, dịch vụ thương mại kinh doanh có điều kiện thì thương nhân phải thực hiện đầy đủ quy định hiện hành của pháp luật về kinh doanh các hàng hóa đó trước khi tiến hành xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của Điều 25 - Luật Thương mại.
1.2.2.3. Nội dung của hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa gồm những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng. Các bên khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng phải bảo đảm là những nội dung hợp pháp với các điều khoản rõ ràng, cụ thể, có tính hiện thực cao.
Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác nhau: điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi.
- Điều khoản chủ yếu: Các điều khoản chủ yếu nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên, làm cơ sở cho việc thực hiện mà nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi là đã được xác lập.
- Điều khoản thường lệ: Là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Dù các điều khoản này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc nhiên thừa nhận và phải thực hiện đúng như pháp luật đã quy định.
- Điều khoản tùy nghi: Là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên, căn cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số điều khoản khác. Trong khuôn khổ của pháp luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa thuận về những hành vi cụ thể. Điều đó nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng, tránh sự hiểu lầm trong quan hệ hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa cần chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản sau:
- Tên hàng;
- Số lượng;
- Quy cách chất lượng;
- Giá cả, phương thức thanh toán;
- Địa điểm và thời hạn giao hàng.
Ngoài ra hợp đồng còn phải có thêm những điều khoản để đảm bảo quyền lợi cho các bên không có chung một hệ thống pháp luật như điều khoản về chọn Luật áp dụng hay cơ quan và nơi giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có đặc điểm là các bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận, đòi hỏi nội dung của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy cần thận trọng soạn thảo nội dung hợp đồng. Chẳng hạn, đối với điều khoản về tên hàng, kèm theo tên cần có mã số và mẫu hàng; đối với điều khoản về số lượng và trọng lượng cần chọn những đơn vị đo lường thống nhất, trong trường hợp không có đơn vị thống nhất, cần có điều khoản giải thích, đối với điều khoản về thanh toán cần quy định rõ đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán…
1.2.2.4. Về hình thức của hợp đồng.
Theo quy định của Luật Thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Riêng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Phân loại.
Theo đặc điểm của các giao dịch mua bán hàng hóa có thể chia thành ba loại sau:
1.2.3.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường:
Là hợp đồng mua bán hàng hóa mà các bên chủ thể của hợp đồng thực hiện các giao dịch về mua bán hàng hóa với nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2.3.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
Là hợp đồng mua bán hàng hóa có thêm yếu tố quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Tại Điều 27 - Luật Thương mại quy định: "Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu".
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại quốc tế, cụ thể là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Do vậy, pháp luật điều chỉnh loại hợp đồng này tương đối phức tạp, bao gồm các điều ước về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại và pháp luật của các quốc gia.
1.2.3.3. Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết thông qua Sở giao dịch hàng hóa:
Quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại mới được bổ sung tại Luật Thương mại 2005, đây là một hoạt động phổ biến trong thực tiễn thương mại quốc tế nhằm bảo hiểm các rủi ro do việc biến động giá cả trên thị trường.
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai (Điều 63 - Luật Thương mại).
Theo Điều 64 - Luật Thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn:
- Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng.
- Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó.
1.3. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại văn bản có tính chất pháp lý được hình thành trên cơ sở thoả thuận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác lập, thực hiện và chấm dứt một quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1.3.1.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Nguyên tắc tự do hợp đồng cho phép các cá nhân, tổ chức được tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng và việc ký kết hợp đồng với ai, như thế nào, với nội dung, hình thức nào. Hợp đồng phải xuất phát từ ý muốn chủ quan và lợi ích của các chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận muốn được pháp luật bảo vệ khi có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ, dẫn đến tranh chấp thì phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì lợi ích của mình, các chủ thể phải hướng tới việc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội.
1.3.1.2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác trung thực và ngay thẳng.
Theo nguyên tắc này, các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa và phải bảo đảm nội dung của quan hệ đó thể hiện được sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên, bảo đảm lợi ích cho các bên chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân, tổ chức dù thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Khi hợp đồng mua bán hàng hóa đã được xác lập thì phải bảo đảm quyền và nghĩa vụ tương xứng giữa các chủ thể, có thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thì mới được hưởng quyền, nếu vi phạm phải xử lý. Sự bình đẳng được đề cập ở đây là sự bình đẳng pháp lý, sự bình đẳng trước pháp luật chứ không phải là sự bình đẳng về mặt kinh tế giữa các chủ thể.
Dựa trên cơ sở tự nguyện cùng nhau giao kết hợp đồng nhưng nếu giữa các bên không có thiện chí, thiếu sự hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thì việc xác lập hợp đồng này không mang lại lợi ích tối đa cho các bên trong quan hệ hợp đồng. Thêm vào đó trong giao kết hợp đồng các bên phải thể hiện sự trung thực, ngay thẳng thì mới có thể trở thành đối tác lâu dài của nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa cũng như các quan hệ dân sự.
1.3.2. Phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được ký kết bằng các phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp.
1.3.2.1. Ký kết bằng phương thức trực tiếp
Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng. Nếu có thỏa thuận về hình thức của hợp đồng phải được lập dưới dạng văn bản, thì sau khi thống nhất nội dung của hợp đồng các bên cùng ký tên vào văn bản hợp đồng đó. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Luật Thương mại quy định phải được thể hiện dưới hình thức là văn bản. Hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng.
1.3.2.2. Ký kết bằng phương thức gián tiếp
Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông điệp dữ liệu điện tử…trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn:
- Chào hàng
Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất định, được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoạn này, một bên đưa ra lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là chào bán hàng hoặc chào mua hàng, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng. Luật Thương mại không quy định hình thức bắt buộc của chào hàng nói chung, song để chuyển tải được những nội dung cần thiết và tránh hiểu lầm, nhất là khi các bên có tiếng nói khác nhau thì hình thức văn bản là cần thiết. Tuy nhiên, hình thức văn bản không phải là điều kiện bắt buộc để chào hàng có hiệu lực.
Bên chào hàng có trách nhiệm đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng đồng ý với toàn bộ chào hàng và trả lời chấp nhận trong thời hạn được quy định trong chào hàng thì quan hệ hợp đồng đã được hình thành. Nếu bên nhận được chào hàng có những đề nghị thay đổi nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Nếu bên được chào hàng chỉ thay đổi những nội dung không chủ yếu thì chào hàng được coi là đã được chấp nhận, trừ trường hợp người chào hàng ngay lập tức từ chối những thay đổi đó.
Chào hàng hết hiệu lực khi thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng đã hết hoặc chào hàng bị từ chối. Chào hàng cũng có thể được coi là bị từ chối nếu chào hàng này không được chấp nhận một cách vô điều kiện mà bị bên nhận được chào hàng đưa ra những yếu cầu mới. Về mặt thực tế, chào hàng đương nhiên được coi là hết hiệu lực nếu bên chào hàng, vì một nguyên nhân nào đó mà ngay khi chưa hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định, đã không tham gia kinh doanh nữa. Đó có thể là trường hợp bên chào hàng bị giải thể, bị phá sản, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Chấp nhận chào hàng
Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phải là chấp nhận vô điều kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Chào hàng chỉ được coi là được chấp nhận nếu người được chào hàng chấp nhận toàn bộ mọi sửa đổi, bổ sung do người chào hàng đưa ra.
Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng. Vì vậy, chấp nhận chào hàng có thể được thể hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là chào hàng đã được chấp nhận một cách vô điều kiện. Đó có thể là lời nói hoặc một hành vi cụ thể biểu lộ sự đồng ý với toàn bộ chào hàng. Im lặng hoặc không hành động được coi là đồng ý với chào hàng. Tuy Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng nhưng để tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp, chấp nhận chào hàng nên được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nếu các bên áp dụng hình thức ký hợp đồng một cách gián tiếp thì chấp nhận chào hàng trong trường hợp mua bán hàng hóa với người nước ngoài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản mới có giá trị pháp lý.
Bên nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định bằng một thông báo chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng được ghi trong chào hàng. Trong trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác định rõ trong chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng được Luật Thương mại quy định là ba mươi (30) ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng. Thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được chuyển đi cho bên chào hàng. Đây cũng đồng thời là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp nhận dù quá hạn.
1.3.3. Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng. Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết, chỉ bản hợp đồng này có giá trị bắt buộc đối với các bên hợp đồng, mọi thư từ giao dịch và đàm phán trước đó về hợp đồng đều hết hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
1.3.4. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu.
Vấn đề này không được đề cập trong Luật Thương mại mà nó được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật Dân sự (từ Điều 127 đến 138 - Bộ luật Dân sự). Một hợp đồng bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó trái với những quy định của pháp luật và không có đủ những điều kiện cần thiết để có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Hợp đồng bị vô hiệu trong các trường hợp sau:
- Nội dung, mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội;
- Trong giao dịch hợp đồng có sự giả tạo;
- Hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
- Trong quá trình giao dịch có sự nhầm lẫn;
- Giao dịch có dấu hiệu của sự đe dọa, lừa dối;
- Giao dịch do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình;
- Giao dịch không tuân thủ quy định về hình thức trong một số trường hợp do pháp luật quy định.
Hợp đồng vô hiệu có hai loại, đó là: Hợp đồng vô hiệu từng phần và hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Một hợp đồng bị coi là vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng đó vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại. Một hợp đồng bị coi là vô hiệu toàn phần nếu toàn bộ nội dung của nó vô hiệu.
Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ; trừ khi các bên có thỏa thuận hợp đồng chính được thay thế bằng hợp đồng phụ. Nhưng sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính trừ khi các bên có thỏa thuận với nhau.
Việc tuyên bố một hợp đồng là vô hiệu thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để yêu cầu Tòa án tuyên bố một hợp đồng có vô hiệu hay không, bên có nhu cầu cần phải làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bên có nhu cầu ở đây có thể là các bên tham gia hợp đồng hoặc các bên thứ ba có liên quan. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; vô hiệu do giả tạo không bị hạn chế. Đối với các trường hợp khác, thời hiệu này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Sau khi được tuyên bố vô hiệu, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm ký kết, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên. Nếu chưa tiến hành thực hiện hợp đồng, các bên không được phép thực hiện hợp đồng nữa. Nếu đã thực hiện hợp đồng thì các bên phải khôi phục lại trạng thái ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì các bên hoàn trả cho nhau bằng tiền. Nếu không bên nào có lỗi trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu, chi phí cho việc hoàn trả nghĩa vụ cũng như các thiệt hại thực tế xảy ra do các bên tự chịu, mỗi bên chịu thiệt hại chi phí của mình. Nếu hợp đồng vô hiệu do lỗi của một bên gây ra thì bên có lỗi gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi thường.
1.4. Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.4.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa đã được xác lập và có hiệu lực pháp lý các bên thực hiện hợp đồng theo những nguyên tắc sau đây:
- Thực hiện đúng nghĩa vụ mà mình đã cam kết trong hợp đồng;
- Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
- Thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
1.4.2. Thực hiện hợp đồng về nội dung.
Hợp đồng mua bán hàng hóa sau khi đã được giao kết, các bên cần phải thực hiện nghiêm chỉnh tất cả những cam kết trong hợp đồng, cụ thể là thực hiện theo đúng nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Luật Thương mại quy định những nội dung đặc thù về mua bán hàng hóa với tính chất là một hoạt động thương mại. Trong trường hợp cần có những quy định chuyên biệt trong những hoạt động thương mại cụ thể thì luật chuyên ngành sẽ điều chỉnh theo tính chất chuyên biệt trong hoạt động chuyên ngành theo nguyên tắc áp dụng luật thì sẽ ưu tiên áp dụng các quy định về hợp đồng chuyên ngành đó. Các quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được Luật Thương mại 2005 quy định chi tiết trên cơ sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại 1997, tham khảo Công ước Viên 1980 và các tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Một số nội dung cơ bản mới được bổ sung nhằm quy định chi tiết về quyền, nghĩa vụ của bên mua, bên bán trong việc giao hàng, thanh toán. Luật cũng bổ sung các quy định về chuyển rủi ro từ bên bán sang bên mua tương ứng với từng trường hợp giao hàng cụ thể căn cứ trên các nguyên tắc của Công ước Viên năm 1980.
Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong trường hợp hợp đồng thương mại được quy định tại Mục 2 - Luật Thương mại:
1.4.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán.
- Nghĩa vụ của bên bán
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Điều 35 - Luật Thương mại quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu có thỏa thuận khác (Điều 38 - Luật Thương mại).
Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 - Luật Thương mại. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng hình thức đã thỏa thuận.
Một trong các nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Bên bán phải chịu những khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể không biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua (Điều 44 - Khoản 5 - Luật Thương mại).
Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó, bên bán phải bảo đảm: (1) quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; (2) hàng hóa đó phải hợp pháp; (3) việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp.
Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 46 - Luật Thương mại). Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 - Luật Thương mại).
- Quyền của bên bán
Bên bán có quyền nhận tiền bán hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Nếu bên bán chậm nhận được hoặc không nhận được tiền bán hàng do lỗi của bên mua thì bên bán có quyền áp dụng các biện pháp do Luật Thương mại quy định để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Điều 306 - Luật Thương mại quy định bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Ngoài ra bên bán có thể áp dụng các hình thức chế tài theo quy định của Luật Thương mại.
1.4.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua.
- Nghĩa vụ của bên mua
Điều 50, Điều 55 - Luật Thương mại quy định bên mua có nghĩa vụ:
+ Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận.
+ Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
+ Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của._. bên bán gây ra.
Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba (Điều 45, Điều 46 - Khoản 1 - Luật Thương mại).
- Quyền của bên mua
Bên mua có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp: (1) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; (2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; (3) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục được sự không phù hợp đó.
1.4.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng.
Để ràng buộc và tăng cường trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng, các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thỏa thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng quy định tại Điều 318 - Bộ luật Dân sự như:
- Cầm cố tài sản: là việc một bên giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- Thế chấp tài sản: là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ, không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
- Đặt cọc: là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để đảm bảo giao kết, thực hiện hợp đồng.
- Ký quỹ: là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá trị khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- Bảo lãnh: là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
1.4.4. Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên có quyền thỏa thuận với nhau về việc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.
1.4.4.1. Sửa đổi hợp đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa đã được giao kết và có hiệu lực nhưng do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên mà các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi tiến hành sửa đổi hợp đồng phải giải quyết hậu quả của việc sửa đổi đó. Nó có thể là:
- Chi phí đã bỏ ra để thực hiện một phần công việc trước khi sửa đổi mà bên thực hiện không thể thu hồi được.
- Chi phí để chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng, mặc dù đã tận dụng, thanh lý chưa đủ bù đắp giá trị ban đầu của nó.
- Tiền bồi thường thiệt hại đã phải trả do sửa đổi hợp đồng.
1.4.4.2. Chấm dứt hợp đồng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa đã có hiệu lực nhưng khi tiến hành thực hiện nghĩa vụ thì các bên mới nhận thức được rằng họ cần phải chấm dứt hợp đồng vì việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích hợp lý cho một bên hoặc cả hai bên như họ kỳ vọng khi giao kết hợp đồng. Trong Điều 424 - Bộ luật Dân sự đã nêu ra các trường hợp chấm dứt hợp đồng như sau:
- Hợp đồng được chấm dứt khi hợp đồng đã hoàn thành: Toàn bộ nội dung của hợp đồng được các bên thực hiện, thông qua đó các bên tham gia hợp đồng đáp ứng được quyền dân sự của mình thì hợp đồng được coi là hoàn thành và không có lý do để hợp đồng tồn tại nữa;
- Hợp đồng được chấm dứt theo thỏa thuận của các bên: Trong trường hợp bên có nghĩa vụ gặp khó khăn không có khả năng để thực hiện hợp đồng hoặc nếu hợp đồng đó được thực hiện sẽ gây ra tổn thất về vật chất cho một bên hoặc cả hai bên, thì các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng;
- Hợp đồng chấm dứt khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà việc thực hiện hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện;
- Hợp đồng chấm dứt khi bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
- Hợp đồng chấm dứt khi hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
1.5. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng.
1.5.1. Khái niệm.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết.
Theo Khoản 12 và 13 - Điều 3 - Luật Thương mại 2005:
Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các hoặc theo quy định của Luật Thương mại.
Vi phạm hợp đồng bao gồm vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản. Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
1.5.2. Các hình thức trách nhiệm pháp lý.
Luật Thương mại 2005 (Mục 1, Chương VII) đã quy định bên vi phạm phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm các thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Các hình thức chế tài thương mại theo quy định tại Điều 292 là:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
- Phạt vi phạm;
- Buộc bồi thường thiệt hại;
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng;
- Hủy bỏ hợp đồng;
- Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với pháp luật.
1.5.2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Khi một bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ quy định trong hợp đồng thì bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh (Điều 297 - Luật Thương mại). Thông thường, đây là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi áp dụng các biện pháp khác. Chế tài này áp dụng trong trường hợp:
- Khi bên vi phạm giao thiếu hàng thì phải giao đủ hàng theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hóa hoặc giao hàng khác thay thế theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại để thay thế nếu không được sự chấp nhận của bên bị vi phạm.
- Khi bên vi phạm không thực hiện theo quy định nêu trên thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
- Bên bị vi phạm phải nhận hàng và thanh toán tiền hàng nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
1.5.2.2. Phạt vi phạm.
Điều 300 - Luật Thương mại quy định: "Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của Luật Thương mại".
Các bên có thể thỏa thuận mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (Điều 301- Luật Thương mại).
1.5.2.3. Buộc bồi thường thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại là việc buộc bên vi phạm trả tiền bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (Điều 300 và Điều 301 - Luật Thương mại).
Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng: Tất cả những hành vi không theo đúng cam kết trong hợp đồng đều bị coi là vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, không phải tất cả những hành vi ấy đều dẫn đến việc áp dụng hình thức trách nhiệm pháp lý bồi thường thiệt hại. Chỉ những hành vi nào trực tiếp dẫn đến những thiệt hại vật chất mà bên kia phải gánh chịu mới tạo thành cơ sở của hình thức bồi thường thiệt hại.
- Có thiệt hại thực tế: Những thiệt hại này phải là thiệt hại về vật chất và là những thiệt hại thực tế, tức là phải có thể tính toán và chứng minh được chứ không phải là do suy diễn mà có. Thiệt hại về khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ là những khoản thu đã được dự liệu khi ký hợp đồng hay ít ra là từ trước khi có hành vi vi phạm. Bên có thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất (Điều 304 - Luật Thương mại).
- Mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng của một bên và thiệt hại vật chất của bên kia: Hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là nguyên nhân trực tiếp và cơ bản dẫn đến thiệt hại của bên kia và thiệt hại này là kết quả không thể tránh khỏi của hành vi vi phạm hợp đồng.
Bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài buộc bồi thường thiệt hại và chế tài phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận trước đó về phạt vi phạm.
1.5.2.4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
Đây là một chế tài mới quy định tại Luật Thương mại, theo đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau:
(1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
(2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng đó vẫn có hiệu lực. Trong khi đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại.
1.5.2.5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Là một chế tài mới quy định tại Luật Thương mại, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau:
(1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
(2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Trong trường hợp một hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nữa. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại.
1.5.2.6. Hủy bỏ hợp đồng.
Điều 312 - Luật Thương mại quy định, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để hủy hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận.
Đây là một quy định mới so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 về các trường hợp áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Chế tài hủy hợp đồng mua bán hàng hóa do các bên thỏa thuận và cần phải ghi vào hợp đồng trong điều khoản: "điều kiện hủy hợp đồng". Chế tài hủy bỏ hợp đồng còn được áp dụng trong các trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng.
Việc hủy hợp đồng sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý sau:
- Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hợp đồng bị hủy sẽ không còn hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.
- Mỗi bên có quyền đòi hỏi lại lợi ích cho việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nếu do việc hủy hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ bồi hoàn thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. Nếu không thể hoàn trả được bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
- Quyền đòi bồi thường thiệt hại do hủy hợp đồng thuộc về bên bị vi phạm (Điều 314 - Luật Thương mại).
Đối với vi phạm không cơ bản thì bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
1.5.3. Các trường hợp miễn trách nhiệm.
Điều 294 - Luật Thương mại quy định trong một số trường hợp bên vi phạm được miễn trách nhiệm. Cụ thể bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận;
- Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
- Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp mình được miễn trách nhiệm.
1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.6.1. Khái niệm về tranh chấp trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên đã được ghi nhận tại Điều 238 - Luật Thương mại 1997: "Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại". Trong các loại hình tranh chấp thương mại, tranh chấp trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa là rất phổ biến.
Luật Thương mại 2005 được ban hành thay thế Luật Thương mại 1997 không quy định về khái niệm tranh chấp thương mại nói chung cũng như tranh chấp trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Tuy nhiên theo tinh thần chung của pháp luật hiện hành, có thể hiểu tranh chấp phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là sự mâu thuẫn hay xung đột về quyền và lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa, phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung hợp đồng đã thỏa thuận.
Theo tính chất của chủ thể, tranh chấp phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm hai loại là các tranh chấp không có yếu tố nước ngoài và các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài được thể hiện ở chỗ một bên hoặc các bên tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản có tranh chấp liên quan đến nước ngoài.
1.6.2. Phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được tiến hành theo nhiều phương thức khác nhau, cụ thể theo Điều 317 - Luật Thương mại 2005 có bốn phương thức sau:
- Thương lượng;
- Hòa giải;
- Giải quyết tại trọng tài;
- Giải quyết tại tòa án.
1.6.2.1. Thương lượng.
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, tìm ra các biện pháp thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải quyết các bất đồng. Thương lượng đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác, đồng thời phải có kiến thức cần thiết về chuyên môn và pháp luật. Kết quả của thương lượng thường là những cam kết, thỏa thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những bất đồng phát sinh mà các bên thường không nhận thức được trước đó.
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thường được các bên sử dụng trước tiên khi phát sinh tranh chấp. Thông qua phương thức này, phần lớn các tranh chấp trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa đã được giải quyết vì những ưu điểm là tiết kiệm được chi phí thời gian, tiền bạc, giữ được bí mật hoạt động kinh doanh và uy tín cho nhau, đáp ứng cơ hội của các hoạt động kinh doanh. Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp áp dụng phương thức này. Vì thế, các bên có toàn quyền thỏa thuận mọi vấn đề về địa điểm, thời gian, nội dung và cách thức cụ thể giải quyết tranh chấp. Pháp luật không có quy định cụ thể cho phương thức này.
1.6.2.2. Hòa giải.
Khác với thương lượng, hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột. Hòa giải viên thông thường là những cá nhân, tổ chức có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến tranh chấp phát sinh. Có hai hình thức hòa giải chủ yếu là hòa giải trong thủ tục tố tụng và hòa giải ngoài thủ tục tố tụng. Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại mới có trong pháp luật Việt Nam. Phương thức này hiện nay chỉ thường được áp dụng trong các quan hệ kinh doanh, cụ thể là quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, có yếu tố quốc tế.
1.6.2.3. Trọng tài.
Giải quyết tại trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung gian (trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày sẽ ra quyết định có tính bắt buộc đối với các bên tranh chấp.
1.6.2.4. Tòa án.
Giải quyết tranh chấp bằng con đường tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Khác với trọng tài, giải quyết tranh chấp theo thủ tục tư pháp tại tòa án gắn liền với quyền lực nhà nước.
Trong các phương thức giải quyết nêu trên thì phương thức giải quyết bằng trọng tài và tòa án đã được pháp luật quy định thành các chế độ pháp lý hoàn chỉnh. Do đó, thủ tục giải quyết tranh chấp trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa tại trọng tài, tòa án phải được tiến hành theo đúng các thủ tục tố tụng của trọng tài, tòa án do pháp luật quy định.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HƠP ĐỒNG MUA BÁN DẦU MỠ NHỜN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HOÁ DẦU PETROLIMEX.
2.1. Tổng quan về Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Cho đến đầu năm 1994, Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex vẫn chỉ là một bộ phận phòng ban chuyên kinh doanh các sản phẩm hoá dầu của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, bộ phận kinh doanh về sản phẩm hóa dầu ngày càng trưởng thành và đến năm 1994 đã thành lập Công ty Dầu nhờn, tiền thân của Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex ngày nay. Công ty Dầu nhờn được thành lập theo Quyết định số 745/TM/TCCB ngày 09/06/1994 của Bộ Thương mại, có nhiệm vụ chuyên sản xuất và kinh doanh các loại dầu mỡ nhờn phục vụ nhu cầu của nền kinh tế và xã hội. Công ty Dầu nhờn bắt đầu hoạt động từ tháng 09/1994 và là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. Sự ra đời của Công ty nằm trong chiến lược đổi mới và phát triển của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, chuyển hoạt động sản xuất kinh doanh từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa lịch sử phát triển của bộ phận hoá dầu, Công ty Dầu nhờn không ngừng lớn mạnh, công nghệ và năng lực sản xuất kinh doanh ngày càng được nâng cao và hoàn thiện, giúp Công ty cạnh tranh có hiệu quả với các hãng xăng dầu trong và ngoài nước.
Đến năm 1998, để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và chiến lược mở rộng quy mô doanh nghiệp trong xu thế phát triển và hội nhập, Công ty Dầu nhờn đã được đổi tên thành Công ty Hoá dầu (theo Quyết định số 1191/1998/QĐ-BTM ngày 13/12/1998 của Bộ Thương mại). Sự thay đổi này đã đánh dấu bước trưởng thành của Công ty, thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ đối với các sản phẩm dầu mỡ nhờn mà cả các sản phẩm hoá dầu khác.
Năm 2004, thực hiện chủ trương của Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Công ty Hoá dầu đã được chuyển đổi thành Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex theo Quyết định số 1801/2003/QĐ-BTM ngày 23/12/2003 của Bộ Thương mại. Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103003690 ngày 18/02/2004. Từ ngày 01/03/2004 công ty chính thức hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, với:
Tên tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN HOÁ DẦU PETROLIMEX.
Tên tiếng Anh: PETROLIMEX PETROCHEMICAL JOINT STOCK COMPANY.
Tên viết tắt: PLC.,JSC
Trụ sở chính: Số 1 Khâm Thiên, Đống Đa, Hà Nội.
Website: www.plc.com.vn
Vốn điều lệ: 150.000.000.000 VNĐ
Vốn điều lệ của Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex tại thời điểm ngày 26/04/2006 (thời điểm công ty chốt danh sách cổ đông để tiến hành Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2005) là 150.000.000.000 VNĐ (một trăm năm mươi tỷ đồng). Trong đó 127.5 tỷ đồng (85%) do Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam - Petrolimex nắm giữ; phần còn lại 22.5 tỷ đồng (15%) thuộc về các cổ đông khác (người lao động trong Công ty và các cổ đông bên ngoài).
Ngành nghề kinh doanh:
- Kinh doanh, xuất nhập khẩu dầu mỡ nhờn, nhựa đường, hoá chất và các mặt hàng khác thuộc lĩnh vực sản phẩm dầu mỏ và khí đốt.
- Kinh doanh, xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị chuyên ngành hoá dầu.
- Kinh doanh các dịch vụ có liên quan: vận tải, kho bãi, pha chế, phân tích thử nghiệm, tư vấn và dịch vụ kỹ thuật.
Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex có đầy đủ tư cách pháp lý theo pháp luật Việt Nam.
Để tăng cường vốn cho sản xuất kinh doanh, Công ty đã tiến hành kế hoạch phát hành cổ phiếu ra công chúng. Đến ngày 27/12/2006, cổ phiếu Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex đã chính thức lên sàn giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội với mã giao dịch là PLC.
Hiện nay, công ty cổ phần hoá dầu Petrolimex là một trong số 64 đơn vị thành viên của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, đóng góp vào quá trình xây dựng Tổng công ty thành tập đoàn Xăng dầu quốc gia lớn mạnh và năng động, nhằm giữ vững vai trò điều tiết vĩ mô, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.1.2. Nhiệm vụ, chức năng của Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex.
Là một thành viên của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam Petrolimex, cùng giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex có nhiệm vụ đáp ứng mọi nhu cầu về sản phẩm hoá dầu cho sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và phục vụ đời sống nhân dân trên phạm vi cả nước. Công ty được thành lập nhằm thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu kinh doanh dầu mỡ nhờn, các sản phẩm hoá dầu (trừ sản phẩm nhiên liệu), vật tư trang thiết bị chuyên dùng cho xăng dầu, vật tư trang thiết bị phục vụ cho công tác kinh doanh.
Theo điều lệ của Công ty, chức năng, nhiệm vụ chính của Công ty là:
- Tổ chức nhập khẩu và kinh doanh các loại dầu mỡ nhờn, các sản phẩm hoá dầu;
- Tổ chức pha chế, đóng gói các loại dầu mỡ nhờn, các loại sản phẩm hoá dầu để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và xã hội;
- Tổ chức các dịch vụ kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng, nghiên cứu sản xuất các sản phẩm hoá dầu đặc chủng theo yêu cầu của khách hàng;
- Thực hiện xuất nhập khẩu uỷ thác;
- Xây dựng và tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện có hiệu quả mọi mục tiêu đề ra về năng suất lao động, lợi nhuận, ổn định công ăn việc làm cho người lao động và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
- Tạo lập và huy động vốn, tự trang trải về tài chính, có trách nhiệm quản lý và sử dụng các nguồn vốn theo đúng chế độ tài chính. Nghiên cứu khả năng đầu tư phát triển sản xuất về công nghệ, thị trường, mặt hàng.
Tại Quyết định số 567/XD-QĐ của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam cũng xác định nhiệm vụ bổ sung của Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex là nghiên cứu, sản xuất, pha chế các loại dầu mỡ nhờn để thay thế các mặt hàng nhập khẩu thuộc phạm vi kinh doanh của Công ty. Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex có trách nhiệm hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, chủ động xây dựng, tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm hoàn thành tốt kế hoạch đề ra của Tổng công ty.
2.1.3. Mô hình và cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành.
2.1.3.1. Mô hình tổ chức
Năm 2004, thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Công ty đã có những điều chỉnh về cơ cấu phòng ban cho phù hợp với mô hình công ty cổ phần. Mô hình này đã cho thấy những hiệu quả vượt bậc trong hoạt động quản lý và kinh doanh, nhưng do yêu cầu về việc mở rộng quy mô và chuyên môn hoá trong các hoạt động kinh doanh, mô hình này cũng cần phải có những điều chỉnh phù hợp. Nghị quyết số 002/NQ-PLC-ĐHĐCĐ ngày 25/04/2005 của Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết số 022/NQ-PLC-HĐQT ngày 16/12/2005 của Hội đồng quản trị Công ty đã đưa ra đề án “Cấu trúc lại Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con”. Ngày 01/03/2006, Công ty chính thức hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con (sơ đồ 1). Theo mô hình này:
Công ty mẹ: là Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex. Công ty mẹ vừa thực hiện hoạt động đầu tư tài chính vào các công ty con, các công ty liên kết và các doanh nghiệp khác; vừa trực tiếp tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh ngành hàng dầu mỡ nhờn và các lĩnh vực khác nhưng không trực tiếp kinh doanh lĩnh vực nhựa đường và hoá chất.
Các công ty con: là các công ty do Công ty mẹ thành lập và giữ vốn góp chi phối (trên 50% vốn). Ngày 27/12/2005, Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex đã thành lập 2 Công ty con trực thuộc, là các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và sở hữu 100% vốn điều lệ của các công ty này. Trong thời gian tới, Công ty mẹ cũng có kế hoạch thành lập các công ty con khác với tỉ lệ vốn điều lệ nắm giữ trên 50%, không chỉ đối với các công ty trong nước mà còn mở rộng ra với cả các công ty ở nước ngoài.
Các công ty liên kết: là các công ty do Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex góp vốn và giữ cổ phần không chi phối, được tổ chức theo hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty liên doanh.
Đến cuối tháng 12/2006, Công ty cổ phần Hoá dầu Petrolimex có:
02 công ty con (công ty mẹ sở hữu 100% vốn điều lệ):
- Công ty TNHH Nhựa đường Petrolimex.
- Công ty TNHH Hoá chất Petrolimex.
02 công ty liên kết:
Công ty cổ phần Hoá dầu Quân đội (MPC).
Công ty cổ phần Xây dựng công trình giao thông 810 (CIENJSCO 810).
07 đơn vị trực thuộc:
Chi nhánh Hoá dầu Hải Phòng.
Chi nhánh Hoá dầu Đà Nẵng.
Chi nhánh Hoá dầu Sài Gòn.
Chi nhánh Hoá dầu Cần Thơ.
Nhà máy Dầu nhờn Thượng Lý.
Nhà máy Dầu nhờn Nhà Bè.
Kho Dầu nhờn Đức Giang.
2.1.3.2. Cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành:
Theo Điều lệ của Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex, cơ cấu tổ chức của Công ty bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, các phó Tổng giám đốc và các phòng nghiệp vụ.
Đại hội đồng cổ đông: bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều lệ Công ty.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý Công ty do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề quan trọng liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có toàn quyền và nghĩa vụ giám sát Tổng giám đốc điều hành và những người quản lý khác trong công ty. Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị do pháp luật, Điều lệ công ty, các Quy chế nội bộ của công ty và Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông quy định.
Ban kiểm soát: là cơ quan do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động quản lý của Hội đồng quản trị, hoạt động điều hành kinh doanh của Tổng giám đốc; kiểm tra tính đúng đắn, chính xác trong ghi chép sổ kế toán và các báo cáo tài chính. Ban kiểm soát hoạt động độc lập với Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc.
Tổng giám đốc: là người điều hành, quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao.
Các Phó Tổng giám đốc: giúp việc cho Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về các nội dung công việc được phân công, chủ động giải quyết những công việc được Tổng giám đốc uỷ quyền theo quy định của pháp luật và Điều lệ Công ty.
2.1.4. Một số chỉ tiêu tài chính thực hiện qua các năm.
Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex bắt đầu thực hiện việc tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh theo mô hình công ty cổ phần từ 01/03/2004. Sau ba năm hoạt động theo mô hình mới, tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty từ năm 2004 đến hết năm 2006 luôn luôn có sự tăng trưởng.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tài chính từ giai đoạn 2004 - 2006
Chỉ tiêu
ĐVT
2004
2005
2006
2006/2005
1. Tổng giá trị tài sản
triệu đồng
623.959
711.045
954.699
34,27%
2. Doanh thu thuần
triệu đồng
1.018.250
1.431.858
1.990.762
39,03%
3. Lợi nhuận trước thuế
triệu đồng
25.988
38.740
41.961
8,31%
4. Lợi nhuận sau thuế
triệu đồng
25.988
38.740
36.109
- 6,79%
5. Tỷ lệ lợi nhuận trả cổ tức
%
57,72
46,50
-
-
6. Tỷ lệ trả cổ tức
%
10
12
12
-
(Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán năm 2005 và năm 2006)
- Tổng giá trị tài sản tăng năm 2006 tăng 243.654 triệu đồng tương ứng với 34,27% so với năm 2005 và so với năm 2004 tăng 53,01%,chủ yếu do: quy mô sản xuất kinh doanh được mở rộng; giá bán sản phẩm hóa dầu của công ty tăng cũng làm tăng các khoản phải thu khách hàng; năm 2006 Công ty đã tăng thêm nguồn đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và đầu tư vào công ty liên kết.
- Doanh thu thuần năm 2006 tăng 39,03% so với năm 2005, tăng 95,51% so với năm 2004,chủ yếu do: Sản lượng tiêu thụ tăng trung bình 25% mỗi năm; cơ cấu mặt hàng tiêu thụ năm 2006 tiếp tục thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng có chất lượng cao, giá bán cao; các kênh tiêu thụ, các thị trường có giá bán cao hơn, giá xuất khẩu các loại dầu mỡ nhờn cũng được điều chỉnh tăng lên…dẫn đến giá bán bình quân tăng lên cùng với tăng sản lượng.
- Lợi nhuận trước thuế đều tăng lên do công ty đã tập trung nỗ lực hướng sản xuất kinh doanh vào mục tiêu hiệu quả; cả 3 ngành hàng chính của công ty đều kinh doanh có lãi. Tuy nhiên lợi nhuận sau thuế năm 2006 giảm xuống trong khi doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế đều tăng mạnh. Lí do là 2 năm đầu sau khi cổ phần hóa Công ty được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, đến năm 2006 Công ty phải chịu mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 14%.
2.1.5. Hoạt động kinh doanh dầu mỡ nhờn ở Việt Nam và tại Công ty.
2.1.5.1. Tổng quan về sản phẩm dầu mỡ nhờn.
Dầu mỡ nhờn là sản phẩm có thành phần chính là dầu gốc và các phụ gia. Công dụng chính của dầu mỡ nhờn: bôi trơn, tẩy rửa, làm kín, làm mát, bảo quản, truyền nhiệt, cách điện,…Dầu mỡ nhờn là loại sản phẩm thiết yếu được ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31980.doc