Hợp đồng gia công phần mềm và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Sao Mai

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình tr

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2017 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Hợp đồng gia công phần mềm và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần Sao Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội. Sự phát triển về công nghệ thông tin là một bước đột phá trên trường quốc tế. Ảnh hưởng của nó tới tất cả các nước là một điều tất yếu. Việt Nam tuy đã có nhiều thành tựu trong kinh tế, kĩ thuật nhưng với Công nghệ thông tin vẫn còn là những bước đi mới mẻ. Bởi vậy, trong giai đoạn này, phát triển hoạt động gia công phần mềm sẽ giúp cho Việt Nam tiếp cận sâu hơn lĩnh vực này. Để thực hiện hoạt động gia công phần mềm, các bên phải kí kết với nhau hợp đồng gia công. Đó là cơ sở xác lập mối quan hệ gia công giữa hai bên. Do vậy, việc nghiên cứu kĩ các quy định pháp luật đối với vấn đề thực hiện gia công nói chung và gia công phần mềm nói riêng là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ Hợp đồng gia công phần mềm và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Sao Mai” làm đề tài nghiên cứu. Công ty Cổ phần Sao Mai tuy không lớn nhưng là một công ty khá tiêu biểu cho lĩnh vực gia công phần mềm với các đối tác chủ yếu là Nhật Bản. Quá trình thực tập ở Công ty đã giúp em hiểu sâu sắc về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Văn Nam đã hướng dẫn em rất nhiều trong quá trình viết bài. Tuy nhiên do kiến thức hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô! CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG PHẦN MỀM I_HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ HỢP ĐỒNG NÓI CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI 1. Các khái niệm về thương mại theo Luật thương mại 1997 1.1. Khái niệm thương mại Trước năm 1986, thương mại chỉ được đề cập đến ở phạm vi hẹp, nghĩa là sự buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các thương nhân.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế-xã hội xuất hiện ngày càng nhiều thì khái niệm thương mại cũng dần được mở rộng hơn. Nó được đề cập đến không chỉ đơn thuần là quan hệ quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hoá mà còn bao gồm cả các quan hệ có liên quan như quan hệ trong giao nhận, chuyên chở hàng hoá, trong thanh toán, bảo hiểm… Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế ( UNCITRAL ) đã quy định : “ Thương mại là một hoạt động nảy sinh từ tất cả các mối quan hệ mang bản chất thương mại, cho dù nó có mang bản chất hợp đồng hay không. Các mối quan hệ bao gồm nhưng không hạn chế bởi những giao dịch sau: Bất kì những giao dịch thương mại nào nhằm cung cấp, trao đổi hàgn hoá hay dịch vụ: thoả thuận; đại diện thương mại hay cơ quan thương mại; sản xuất; thuê; xây dựng công trình tư vấn; chế tạo; cấp giấy phép đầu tư; tài chính ngân hàng; bảo hiểm; hợp đồng chuyển nhượng hay khai thác; liên doanh hoặc các hình thức hoạt động công nghiệp hay kinh doanh khác; chuyên chở hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hay đường bộ.” Luật thương mại 1997 quy định: “thương mại là sự trao đổi, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại nhằm mục đích thu lợi nhuận.” Chủ thể của các quan hệ thương mại là các thương nhân. Ở mỗi quốc gia, thương nhân có khái niệm khác nhau.Thương nhân theo bộ Luật Thương mại Pháp là người thực hiện những hành vi thương mại và đó là nghề nghiệp thường xuyên của họ. Luật thương mại Pháp còn làm rõ thêm là một người muốn được xác định là thương nhân thì không những họ phải thực hiện hành vi thương mại mà đó còn là nghề nghiệp thường xuyên của họ. Thương nhân theo Điều 104.2 Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ là “ những người thực hiện các nghiệp vụ đối với một loại hàng hoá nhất định, hoặc thực hiện những nghiệp vụ bằng cách nào đó và xét về tính chất nghiệp vụ của mình họ được coi là nhưng người có kiến thức hoặc kinh nghiệm đặc biệt trong những nhiệm vụ hoặc đối với những hàng hoá là đối tượng của các hợp đồng thương mại”. (( ) Giáo trình Luật thương mại Quốc tế .(Trang 14) ) Theo Luật thương mại một số nước còn đưa thêm một dấu hiệu của thương nhân là phải thực hiện các hành vi thương mại nhân danh mình và vì lợi ích của bản thân mình. Còn theo Điều 5 luật Thương mại 1997 ở Việt Nam: “ thương nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng kí kinh doanh và hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên”. Mặc dù mỗi nước có khái niệm khác nhau về thương nhân nhưng đều có chung đặc điểm là đều tham gia hoạt động thương mại và thực hiện các hành vi thương mại. Thương mại bao gồm hai bộ phận là thương mại trong nước và thương mại quốc tế.Với thương mại trong nước thì quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá hay cung ứng dịch vụ thương mại được thiết lập giữa các thương nhân trong nước với nhau; còn thương mại quốc tế, quan hệ được thiết lập là giữa các thương nhân có quốc tịch khác nhau tại các quốc gia khác nhau. Tại Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 31-7-1998 trong mục về kinh doanh xuất nhập khẩu đã quy định: “ Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng kí trogn giấy chứng nhận kinh doanh”. Như vậy thương nhân có thể được hiểu là các cá nhân và pháp nhân kinh doanh được thành lập theo quy định của pháp luật để được hưởng các quyền và nghĩa vụ nhất định trong các quan hệ trao đổi thương mại với các thương nhân nước ngoài. 1.2. Phân loại hành vi thương mại Tương tự khái niệm thương nhân, hành vi thương mại cũng được các nước phân loại khác nhau. Bộ luật thương mại Pháp thì quan tâm tới mặt khách thể của hành vi, theo bộ luật này hành vi thương mại có thể chia thành 2 loại Hành vi thương mại bản chất: là hành vi xét về bản chất đã hàm chứa tính thương mại trong đó (như mua bán, trao đổi); hoặc vì hình thức của nó đương nhiên được coi là biểu tượng thương mại( như kí hối phiếu là hình thức của hành vi thương mại bất kể người kí hối phiếu có phải là thương gia hay không) Hành vi thương mại phụ thuộc: đó là các hành vi trở thành hành vi thương mại do chúng phụ thuộc vào hoạt động thương mại.Là những hành vi xét về bản chất là dân sự( không phải thương mại) nhưng hành vi đó do thương nhân thực hiện trong khi hành nghề hay do nhu cầu nghề nghiệp ( ví dụ thương nhân mua máy vi tính để trang bị cho phòng làm việc của mình) ((1 ) Giáo trình Luật thương mại Quốc tế ( Trang 12) ) Bộ luật thương mại Đức lại coi thương nhân là điểm mấu chốt cho các quy định ( quan tâm đến mặt chủ thể hành vi). Theo Bộ luật này thì một hành vi được coi là hành vi thương mại hay không phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi có phải là thương nhân hay không.Có thể thấy hành vi thương mại theo pháp luật của Đức được hiểu ở phạm vi rộng, bao gồm hành vi của tất cả các thương gia thực hiện trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Bộ luật thương mại của Nhật Bản cũng chỉ liệt kê các giao dịch thương mại thông qua các giao dịch thương mại này ở mức độ khái quát có thể chia hành vi thương mại thành hai loại: Những giao dịch thương mại thuần tuý : Ví dụ: những giao dịch nhằm mục đích mua bán bất động sản, động sản, vật có giá trị để kiếm lời, những hợp đồng cung ứng động sản hoặc những vật có giá trị cần mua từ những người khác... Những giao dịch thương mại phụ thuộc: là những giao dịch được thực hiện bởi một thương gia nhằm phục vụ công việc kinh doanh của người đó. ((2 ) Bộ luật thương mại Nhật Bản (Điều 501,502,503) ) Giống như Bộ luật của Pháp, Nhật Bản, Bộ luật thương mại và dân sự của Thái Lan cũng chỉ liệt kê các hành vi được coi là hành vi thương mại bao gồm các hành vi trong mua bán hàng hoá, thuê tài sản, mua tài sản, vận tải, đại lí, đại diện, môi giới, bảo hiểm, hoạt động của các hội kinh doanh và công ty. Có thể thấy rằng luật các nước không đưa ra một khái niệm nào về hành vi thương mại song đã liệt kê khá chi tiết các hành vi được coi là hành vi thương mại bao trùm hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế. So với pháp luật thương mại các nước thì hành vi được coi là thương mại được đề cập đến trong Luật thương mại 1997 Việt Nam có phạm vi hẹp hơn. Điều 5.1 Luật thương mại 1997 quy định: “ Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân với các bên có liên quan.” Điều 45 liệt kê các hành vi thương mại gồm 14 loại sau: Mua bán hàng hoá Đại diện cho thương nhân Môi giới trong thương mại Uỷ thác mua bán hàng hóa Đại lí mua bán hàng hoá Gia công trong thương mại Đấu giá hàng hóa Đấu thầu hàng hoá Dịch vụ giao nhận hàng hoá Dịch vụ giám định hàng hoá Khuyến mại Quảng cáo thương mại Trưng bày, giới thiệu hàng hoá Hội chợ, triển lãm thương mại Như vậy, hành vi thương mại trong Luật thương mại 1997 gắn liền với thương nhân, đó là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại, tuy nhiên vẫn còn bị bó hẹp trong giới hạn 14 hành vi kể trên. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các hành vi kinh doanh ngày càng xuất hiện phong phú và đa dạng nhưng không phải hành vi nào cũng được coi là hành vi thương mại. Muốn vậy chúng phải có những đặc điểm sau đây: Hành vi đó phải là hành vi do thương nhân thực hiện. Đây là đặc điểm cơ bản giúp phân biệt hành vi thương mại với các hành vi khác. Đã là hành vi thương mại thì hành vi đó phải do thương nhân thực hiện.Một hành vi dù có tính thương mại nhưng không do thương nhân thực hiện thì đó không được coi là hành vi thương mại. Hành vi đó do thương nhân thực hiện trong hoạt động thương mại. Nếu như đặc điểm trên chú trọng đến dấu hiệu chủ thể hành vi thì đặc điểm dưới lại chú trọng tới tính thương mại của hành vi. Không phải mọi hành vi do thương nhân thực hiện đều được xác định là hành vi thương mà chỉ những hành vi do thương nhân thực hiện trong hoạt động thương mại mới được coi là hành vi thương mại. Hành vi đó được thương nhân thực hiện với mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Bên cạnh mục đích lợi nhuận, hành vi thương mại còn có thể nhằm thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội. Điều này là do nền kinh tế thị trường của Việt Nam là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Vì vậy để quản lí nền kinh tế theo định hướng của mình, Nhà nước vẫn phải sử dụng đến một lực lượng đáng kể các thương nhân là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trên một số ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng.Các thương nhân này, khi thực hiện các hành vi thương mại, bên cạnh mục tiêu lợi nhuận vẫn còn phải hướng tới thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội do Nhà nước giao( Ví dụ: hoạt động của các công ty Môi Trường, Chiếu sáng đô thị…) 1.3. Hoạt động thương mại Điều 5.2 Luật thương mại 1997 quy định : “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận, hoặc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội”. Theo khái niệm trên, hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm hoạt động: đó là các hoạt động mua bán hàng hoá, các hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại ( dịch vụ gắn liền với mua bán hàng hoá) và các hoạt động xúc tiến thương mại ( hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy quan hệ mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại).Sở dĩ hoạt động thương mại chỉ gồm ba nhóm kể trên là do xuất phát từ quan niệm hành vi thương mại theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong 14 hành vi mà chủ yếu là hành vi liên quan đến mua bán hàng hóa. Về điểm này các nước có quy định rộng hơn, hoạt động thương mại bao gồm bốn lĩnh vực chủ yếu là thương mại hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động có đầu tư liên quan đến thương mại và sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại. 1.4. Những đóng góp của Luật Thương mại 1997 Sau khi Luật Thương mại 1997 đi vào cuộc sống, Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 đã đạt được những thành tựu nhất định, ghi nhận một mốc quan trọng trong thời kỳ dấu Việt Nam chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Luật Thương mại đã góp phần thể chế hoá đường lối đổi mới và hội nhập của Đảng và Nhà nước, tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho hoạt động thương mại, đông thời tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành tổng cộng 14 nghị định và hàng loạt các thông tư, văn bản khác của các ban ngành hướng dẫn thi hành. Qua Luật Thương mại, lần đầu tiên nghề “thương mại” của các chủ thể thương nhân được ghi nhận là một nghề quan trọng trong xã hội và được pháp lý công nhận, thương nhân được quyền bình đẳng trước pháp luật trong mọi hoạt động thương mại, được quyền tự do cạnh tranh hợp pháp, đồng thời luật cũng góp phần bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Luật cũng quy định các mối quan hệ thương mại với nước ngoài vì thế tạo ra nhiều thuận lợi cho DN trong việc xuất nhập khẩu hàng hóa. Nhờ Luật Thương mại, đến nay cả nước có hàng triệu hộ kinh doanh, hàng vạn DN trong và ngoài quốc doanh tham gia xuất nhập khẩu. Luật Thương mại năm 1997 cũng giúp khâu lưu thông hàng hóa nội địa được thuận tiện, góp phần không nhỏ trong việc đưa giá trị lưu thông hàng hóa nội địa tăng lên hằng năm. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2003, giá trị hàng hóa lưu thông trong nước đạt 148 ngàn tỷ đồng, dự kiến cả năm sẽ là 300 ngàn tỷ đồng; xuất khẩu 6 tháng đạt hơn 9,7 tỷ USD, dự kiến cả năm sẽ đạt trên 19 tỷ USD, tăng 14% so năm 2002. Theo ông Diệp Thành Kiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may TP. Hồ Chí Minh, mặt tích cực của Luật Thương mại năm 1997 được thể hiện, với DN, thời gian đăng ký kinh doanh được rút ngắn hơn, chỉ còn 15 ngày; với giao thương quốc tế, các DN tham gia xuất khẩu tăng nhiều và có điều kiện hội nhập kinh tế thế giới; với nội thương, hàng hóa được cân bằng giá cả ở thành thị và nông thôn, người dân vùng sâu, vùng xa được có những sản phẩm như người thành thị ..((1 ) Báo kinh tế đối ngoại của Bộ thư ơng mại ( số 13 ngày 29/3/2005) ) 1.5. Mặt hạn chế Không thể phủ nhận, Luật thương mại năm 1997 đã mang lại nhiều tiến bộ, phát triển cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, đến nay luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế, một số quy định trở nên lạc hậu và không thích ứng với thông lệ thương mại quốc tế, nhất là khi Việt Nam tham gia đàm phán song phương, đa phương về thương mại với các tổ chức kinh tế, các quốc gia khác trên thế giới. Theo Bộ Thương mại, hạn chế của Luật Thương mại hiện hành là  khái niệm thương mại còn được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm trong 14 hành vi thương mại (mua, bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hóa, gia công trong thương mại, đấu giá hàng hóa, dịch vụ giao nhận hàng hóa, dịch vụ giám định hàng hóa, khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa, hội chợ - triển lãm thương mại), trong khi các định chế quốc tế và pháp luật các nước lại hiểu thương mại theo nghĩa rộng vượt quá 14 hành vi thương mại trên như: đầu tư, cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm, hợp đồng khai thác hoặc đặc nhượng, giá trị quyền sử dụng đất, các quyền về tài sản, cổ phiếu, trái phiếu, các hoạt động cung ứng, thuê bao dịch vụ... Bà Hella Weeke, chuyên gia dự án Star tại Việt Nam cho biết, dù Việt Nam công nhận công ước phán quyết của tòa án quốc tế trong tranh chấp thương mại, nhưng do định nghĩa thương mại chỉ giới hạn trong 14 lĩnh vực hoạt động vì thế ở các lĩnh vực khác như đầu tư Việt Nam không công nhận phán quyết của toàn án quốc tế. Điều này cản trở rất nhiều cho Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương mại song phương và đa phương với các tổ chức thương mại quốc tế hay với các quốc gia khác trên thế giới. Tiến sĩ Phạm Văn Trắc, giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế đối ngoại TP.HCM đưa ra vài dẫn dụ khiếm khuyết: Cùng thu lợi nhuận trong việc mua bán nhà đất, các DN đăng ký kinh doanh nhà đất thì nằm trong phạm vi quản lý của Luật Thương mại, nhưng cá nhân thì không. Luật xác định được thế nào là một DN và cho phép đăng ký kinh doanh nhưng chưa có tiêu chí xác định thế nào là một doanh nhân vì thế cũng chưa cho phép đăng ký doanh nhân. Theo ông Trắc, nên có Luật Hợp đồng riêng, luật này không thuộc Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, cũng không thuộc Luật Thương mại để giải quyết các tranh chấp thương mại, tránh tình trạng khi có tranh chấp thương mại liên quan đến sự việc nằm ngoài Luật Thương mại thì phải  áp dụng Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, thậm chí vận dụng cả Luật Dân sự như bao lâu nay, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý Nhà nước. Ông Diệp Thành Kiệt, thực tế hơn, đưa ra những thiếu sót của Luật Thương mại 1997. Theo ông, đến nay việc kiểm tra sau đăng ký kinh doanh của DN còn rất yếu (khi thực hiện các hợp đồng kinh tế, các DN phải tự kiểm tra sự tồn tại của đối tác); việc chống hàng gian, hàng giả, hàng nhái chưa được thực thi một cách triệt để (tự thân DN phải thuê người đi điều tra và khi có vi phạm thì việc xử lý lại không đủ sức răn đe); tự do đăng ký vốn điều lệ đang tạo kẽ hở cho việc kinh doanh không lành mạnh (đăng ký ít để có lợi khi tranh chấp thương mại hoặc ngược lại); các ràng buộc trong giao dịch thương mại điện tử chưa mang tính pháp lý (giao dịch xong không bán, không giao hàng); chưa xác định rõ trong trường hợp nào Nhà nước can thiệp vào hoạt động của DN và cơ quan nào được phép can thiệp (tránh tình trạng bị lợi dụng nhũng nhiễu như đã từng xảy ra); các DN độc quyền như điện, nước, viễn thông... không thực hiện nghiêm túc hợp đồng khi đột nhiên ngừng cung cấp sản phẩm làm thiệt hại cho DN, trong khi lại có biện pháp chế tài ngay khi khách hàng không thanh toán đúng hạn.. Ông Trương Trọng Nghĩa, Phó Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại - đầu tư TP.HCM cho rằng, Luật Thương mại mới cần định nghĩa rõ thế nào là hàng hóa cho từng chủng loại để các cơ quan chức năng dựa vào xét xử khi có tranh chấp, kiện tụng. Theo ông, luật hiện hành ít chương, ít điều nên DN xem trọng các thông tư, nghị định dưới luật hơn trong các hoạt động kinh doanh sản xuất của mình và bên cạnh việc tham khảo ý kiến trong nước, các nhà soạn luật mới cũng nên tham khảo Luật Thương mại, Luật Hợp đồng mua bán hàng hóa của các nước... ((1 ) Báo kinh tế đối ngoại của Bộ thư ơng mại ( số 13 ngày 29/3/2005) ) Tóm lại, trong quá trình thực hiện, Luật Thương mại đã bộc lộ những hạn chế sau: Thứ nhất, Luật Thương mại xác định chưa đầy đủ và phù hợp với đối tượng và phạm vi điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh theo Luật Thương mại bao gồm 14 hành vi thương mại và không xác lập đầy đủ và hoàn chỉnh những tiêu chí về đối tượng điều chỉnh làm cho phạm vi điều chỉnh của Luật bị hạn hẹp, không đáp ứng yêu cầu của kinh tế  thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại thể hiện ở hai khía cạnh: - Một là, về khái niệm “thương mại” theo các chế định của WTO và theo Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thì “thương mại” bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại trong đầu tư và thương mại trong sở hữy trí tuệ. Hiện nay, pháp luật thương mại của nhiều nước cùng quan niệm thương mại theo nghĩa rộng như WTO. Trong khi đó, Luật Thương mại 1997 của Việt Nam chỉ quan niệm thương mại theo nghĩa hẹp, thực chất chỉ là “thương mại hàng hoá”, hơn nữa, “thương mại hàng hoá” chủ yếu chỉ được hiểu là mua bán hàng hoá và một số dịch vụ liên quan đến việc mua bán hàng hoá, được thể hiện trong 14 hành vi thương mại. - Hai là, về khái niệm “hàng hoá” thuật ngữ “hàng hoá” được sử dụng phổ biến trong pháp luật thương mại của các nước, cũng như trong các điều ước quốc tế về thương mại. Theo đó, hàng hoá được hiểu theo nghĩa rộng, dựa trên hai thu ộc tính là “có thể đưa vào lưu thông” và “có tính thương mại”. Nhìn chung, hàng hoá thường được hiểu là tất cả các đối tượng được đem trao đổi, mua bán trên thị trường. Khái niệm “thương mại” và “hàng hoá” được quan niệm theo nghĩa hẹp đã làm cho phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại 1997 rất hạn chế. Từ đó chi phối đến việc xác định số lượng và nội dung các chế định pháp lý cơ bản trong giao dịch thương mại và tạo ra sự khác biệt giữa pháp luật Thương mại Việt Nam so với pháp luật thương mại quốc tế. Thứ hai, hạn chế trong quy định về chủ thể của hành vi thương mại. Luật Thương mại Việt Nam 1997 mới chỉ quy định điều kiện để trở thành thương nhân là có đủ điều kiện kinh doanh  thương mại, có yêu cầu hoạt động thương mại chứ không quy định tính chất cửa thương nhân, ái không phải là thương nhân. Trong khi đó, pháp luật thương mại của các nước trên thế giới thường quy định một dấu hiệu pháp lý đối với thương nhân là “sản nghiệp thương mại”. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để xác định một thương nhân. Thứ ba, về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá. Pháp luật của các nước trên thế giới đều quy định những nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại có quan điểm cho rằng trong hợp đồng mua bán hàng hoá “càng nhiều điều khoản chủ yếu thì càng dễ thực hiên” và khi có tranh chấp sẽ có cơ sở để giải quyết. Luật Thương mại 1997 quy định các điều khoản chú yếu của hợp đồng là các điều khoản về tên háng, số lượng, chất lượng, giá xả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Điều này có thể phù hợp với thời kỳ Việt Nam mới phát triển kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập, nhưng hiện nay cần phải sửa đổi tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ tư, về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hoá. So với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại đã bổ sung thêm hai hình thức chế tài là: Buộc thực hiện hợp đồng và huỷ hợp đồng. Sự bổ sung này là cần thiết, song trên thực tế, hai chế tài này hầu như không được áp dụng, bởi Luật Thương mại 1997 chỉ dựng lại ở những quy định chung, chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện và không phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế. Theo công ước Viên 1980 thì khi áp dụng chế tài huỷ hợp đồng, không có nghĩa là các bên chấm dứt mọi nghĩa vụ theo hợp đồng mà các điều khoản về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó là để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ các bên sau khi thực hiện huỷ hợp đồng. ((1 ) Website Bộ công nghiệp : www.moi.gov.vn ) 1.6. Hoàn thiện Luật Thương mại Việt Nam để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế Trước tình hình đó, Luật Thương mại cần được hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn thương mại nhất là thương mại quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế  khu vực và quốc tế. 1. Về phạm vi điều chỉnh: Theo kinh nghiệm của các nước, để xác định một hành vi thương mại, người ta thường dựa vào các tiêu chí sau: - Bản chất của hành vi là nhằm mục đích kiếm lời, chẳng hạn việc mua hàng hoá để bán lại, gia công hàng hoá cho người khác, thực hiện cung ứng các loại dịch vụ để đạt mục đích lợi nhuận. - Hình thức của hành vi, tức là hình thức hoạt động mà một chủ thế tiến hành, có thể xác định trên cơ sở là hành vi của các chủ thể mà khi thành lập, chủ thể đó đã được cói là người hoạt động thương mại. - Tính phụ thuộc của hành vi đối với các hoạt động thương mại, đặc trưng nhất là các dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hoá hay các hoạt động xúc tiến thương mại. Ngoài ra, ở một số nước người ta cũng dựa vào các hành vi được thực hiện ngay trong hoạt động của một doanh nghiệp  để xác định đó là những hành vi thương mại như việc cho thuế nhà xưởng, kho tàng, mở hệ thống đại lý. Vì vậy, Luật thương mại Việt Nam cần xác định các tiêu chí để phân định hành vi nào là hành vi thương mại vì từ đó mới có thể xác định rõ đối tượng điều chỉnh của Luật Thương mại và đưa ra các quy định phù hợp. 2. Về chủ thể của hành vi thương mại: Thực tế nghiên cứu pháp luật ở các nước cho thấy, họ thường xác định thương nhân dựa vào những đặc điểm sau: - Có những tổ chức, cá nhân đương nhiên được coi là thương nhân khi họ thực hiện những hành vi thương mại nhất định như mua bán hàng hoá, giấy tờ có giá, sản xuất  hoặc gia công hoá cho người khác mà không phụ thuộc vào việc họ có đăng ký vào danh bạ thương mại hay không. - Có những tổ chức, cá nhân xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của mình mà đăng ký trở thành thương nhân, bao gồm đăng ký bắt buộc và đăng ký tự nguyện. - Có những tổ chức, cá nhân chủ động thành lập công ty thương mại để hoạt động thương mại thì đương nhiên được coi là thương nhân. - Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân kinh doanh  với quy mô nhỏ, không đòi hỏi phải có cơ sở kinh doanh  như một thương nhân bình thường, không bắt buộc phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của thương nhân (có tên thương mại, trụ sở) nhưng trong hoạt động thương mại họ được hưởng những quyền và gánh vác những nghĩa vụ như một thương nhân đầy đủ thì cũng được coi là thương nhân.è Luật thương mại Việt Nam nên mở rộng chủ thể của hành vi theo pháp luật quốc tế. 3. Về điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá: Mặc dù các nước không quy định hoàn toàn giống nhau, song đa số pháp luật thương mại của các nước và pháp luật thương mại quốc tế như công ước Viện 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đều xác định những điều khoản chủ yếu của hợp đồng là: tên hàng, số lượng, giá cả... èVì vậy, Luật Thương mại Việt Nam cần sửa đổi về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm góp phần thúc đẩy các hoạt động thương mại, đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá và mở rộng giao lưu thương mại với các nước. 2. Sự mở rộng phạm vi khái niệm của Luật thương mại 2005 Trong nỗ lực hội nhập quốc tế để chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngày 14/06/2005, Quốc hội Việt nam đã thông qua Luật thương mại sửa đổi, thay thế cho Luật thương mại cũ ban hành năm 1997. Luật thương mại 2005 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006. Bố cục của Luật Thương mại (sửa đổi) gần như được đổi mới hoàn toàn so với Luật Thương mại năm 1997. Sự đổi mới đó chủ yếu là do việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật, không chỉ điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hoá mà còn điều chỉnh cả các hoạt động cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại. Các nhóm hoạt động thương mại cùng tính chất được tập hợp trong chương riêng: Chương IV quy định về "Xúc tiến thương mại" hay Chương V về "Các hoạt động trung gian thương mại"... Luật Thương mại 2005 được áp dụng đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân khác có các hoạt động liên quan đến thương mại. Riêng đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh thì căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ sẽ quy định cụ thể bằng văn bản dưới luật. Luật Thương mại 2005 đã mở rộng đối tượng áp dụng, không chỉ bao gồm thương nhân hoạt động thương mại như cũ mà còn áp dụng cho cả tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Luật Thương mại 2005 có điểm khác biệt với Luật Thương mại 1997 ở chỗ đối tượng thương nhân đã được mở rộng khái niệm để bao trùm toàn bộ những chủ thể có hoạt động thương mại. Luật Thương mại 2005 quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự 2005 cũng như thực tiễn hoạt động thương mại tại VN. Việc mở rộng khái niệm thương mại đã giúp hài hoà nguyên tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của VN với chuẩn mực quốc tế. Cụ thể, khái niệm hoạt động thương mại của VN hiện đã bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở hữu trí tuệ. Việc mở rộng này còn giúp cho việc giải quyết các tranh chấp quốc tế được thực hiện dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho VN thực thi được cam kết cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài liên quan đến thương mại tại VN. Việc Luật Thương mại 2005 thừa nhận và thể chế những nguyên tắc như: nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại; tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại; áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên; bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng; thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại... đã giúp xác định rõ cơ chế quản lý hoạt động thương mại cũng như giúp các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại biết rõ nguồn quyền và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu là cơ sở pháp lý quan trọng để VN có thể triển khai thương mại điện tử trong thời gian tới. Ngoài ra, Luật Thương mại 2005 xác định các hình thức và quyền hoạt động thương mại của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. So với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại 2005 bổ sung thêm hai hình thức hoạt động bao gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Sự bổ sung này là phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Mặt khác, các hoạt động khuyến mãi trước đây chỉ có 6 điều trong Luật Thương mại 1997 nay đã được bổ sung và sửa đổi thành 14 điều; Quảng cáo thương mại tăng từ 12 (Luật Thương mại 1997) lên 15 điều; Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ tăng từ 10 lên 12 điều; Hội chợ, triển lãm thương mại tăng từ 11 lên 12 điều. Nhiều nội dung mới được đưa vào như: bổ sung các hình thức khuyến mãi, làm rõ các thông tin phải thông báo công khai trong hoạt động khuyến mại; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo thương mại; ghi nhận thêm hoạt động dịch vụ cũng được giới thiệu và bổ sung hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ qua Internet; trách nhiệm của các bên trong hoạt động hội chợ, triển lãm... Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung một số quy định về nguyên tắc đấu giá, người tổ chức đấu giá, người bán hàng và các quyền, nghĩa vụ của họ; quy định cụ thể những người không được tham gia đấu giá; thời hạn niêm yết việc bán đấu giá và trình tự tiến hành cuộc đấu giá... (1) Cần nhắc lại rằng việc ban hành Luật thương mại năm 1997 đánh dấu một mốc quan trọng trong chương trình cải cách kinh tế và pháp luật tại Việt nam. Luật thương mại 1997 quy định khung pháp luật tương đối hoàn chỉnh để điều tiết các mối quan hệ kinh doanh và là cơ sở pháp lý cho việc thiết lập các hợp đồng kinh tế. Trong 7 năm qua, Luật thương mại 1997 đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội tại Việt nam, dần dần đưa hoạt động thương mại vào khuôn khổ pháp luật, khuyến khích và nâng cao nhận thức pháp luật trong các hoạt động thương mại. Tuy nhiên, sau 7 năm thực hi._.ện, Luật thương mại 1997 không còn theo kịp tốc độ phát triển kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Vì thế cần phải có những thay đổi căn bản nhằm làm thu hẹp khoảng cách giữa luật Việt nam và luật quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia vào hoạt động thương mại tại Việt nam. Sự thay đổi đó được cụ thể hoá như sau: 2.1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng Mở rộng phạm vi điều chỉnh Phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 2005 được mở rộng hơn so với Luật thương mại 1997. Luật thương mại 2005 không giới hạn hoạt động thương mại trong 14 loại hình như luật cũ, mà quy định hoạt động thương mại là tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lời, không chỉ giới hạn trong các giao dịch mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan khác, mà bao gồm cả các hoạt động cung cấp dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động thương mại khác. Luật thương mại 2005 không chỉ điều chỉnh các hoạt động thương mại diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam mà còn điều chỉnh cả các giao dịch thương mại thực hiện ở nước ngoài. Các bên tham gia giao dịch có thể thoả thuận về việc áp dụng luật này hoặc một luật thương mại nước ngoài hoặc một hiệp ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Ngoài ra, đối với các hoạt động phi thương mại, các bên tham gia có thể lựa chọn hoặc Bộ luật dân sự hoặc luật này để điều chỉnh các các hoạt động không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997. Giải quyết vấn đề chồng chéo giữa các văn bản pháp luật Một trong những cản trở chính cho việc áp dụng Luật thương mại 1997 là mối quan hệ phức tạp của nó với một số văn bản pháp luật khác, cụ thể là Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế và Bộ luật Dân sự. Đây chính là nguyên nhân làm cho các cơ quan thuộc toà án cũng như các bên liên quan gặp khó khăn trong việc xác định luật nào điều chỉnh các giao dịch của họ. Luật thương mại 2005 giải quyết các vấn đề chồng chéo giữa các văn bản pháp luật, cụ thể như sau: Các hoạt động có tính chất thương mại, nếu được quy định tại một luật riêng thì sẽ được điều chỉnh bởi luật đó, và các hoạt động không được quy định trong Luật thương mại và cũng không được quy định trong một luật riêng khác, thì sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự. 2.2. Về hoạt động thương mại Mở rộng khái niệm về hàng hoá và dịch vụ thương mại Theo Luật thương mại 1997, hàng hóa được xác định bao gồm máy móc, thiết bị, vật liệu thô, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các tài sản lưu động khác, nhà cho thuê, nhà để mua hoặc bán hoặc cho mục đích kinh doanh khác. Khái niệm hàng hóa theo Luật thương mại 2005 được mở rộng bao gồm tất cả các loại động sản bao gồm cả tài sản sẽ có trong tương lai và tất cả các tài sản liên quan đến đất đai. Việc mở rộng khái niệm thương mại đã giúp hài hoà nguyên tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của Việt Nam với chuẩn mực quốc tế. Cụ thể, khái niệm hoạt động thương mại của Việt Nam hiện đã bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch và các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở hữu trí tuệ. Việc mở rộng này còn giúp cho việc giải quyết các tranh chấp quốc tế được thực hiện dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho Việt Nam thực thi được cam kết cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài liên quan đến thương mại tại Việt Nam. Theo Luật thương mại 1997, dịch vụ thương mại bị giới hạn là các hoạt động liên quan đến mua và bán. Khái niệm dịch vụ thương mại được mở rộng bao gồm tất cả các dịch vụ mà pháp luật không cấm.. 2.3 Lựa chọn các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Với Luật thương mại 1997 các doanh nhân nước ngoài muốn hoạt động thương mại tại Việt nam chỉ có thể thành lập văn phòng đại diện và chi nhánh. Luật thương mại 2005 cho phép họ có nhiều lựa chọn hơn. Theo luật mới này, họ có thể thành lập một số loại hình doanh nghiệp khác như công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài. 2.4. Thừa nhận và thể chế các nguyên tắc Việc Luật 2005 thừa nhận và thể chế những nguyên tắc như: Bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại; Tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại; áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên; Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng; Thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại... đã giúp xác định rõ cơ chế quản lý hoạt động thương mại cũng như giúp các tổ chức,cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu là cơ sở pháp lý quan trọng để VN có thể triển khai thương mại điện tử trong thời gian tới. .((1 ) Website www.dnlaw.com.vn ) Tóm lại, việc xây dựng Luật Thương mại 2005 được thực hiện trên cơ sở: Tổng kết 5 năm thực hiện Luật Thương mại 1997; các cam kết quốc tế của Việt Nam, thực tiễn hoạt động thương mại trên thị trường Việt Nam. Vì được xây dựng trên cơ sở đó nên Luật năm 2005 đạt được những mục tiêu quan trọng. Thứ nhất, khắc phục những bất cập trong điều tiết hoạt động thương mại trên thị trường. Thứ hai, xử lý những chồng lấn giữa những văn bản pháp luật cùng điều chỉnh hoạt động thương mại. Thứ ba, đưa những quy định điều chỉnh hoạt động thương mại của Việt Nam tiếp  cận với những chuẩn mực quốc tế. Thứ tư, kịp thời đưa ra quy định điều chỉnh những hoạt động thương mại mới và nâng một số quy định đang điều chỉnh hoạt động thương mại lên thành luật. Thứ năm, kịp thời xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. 3. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng trong hoạt động thương mại 3.1. Khái niệm Hợp đồng trong hoạt động thương mại có thể được hiểu là sự thoả thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hành vi thương mại. Hay có thể hiểu hợp đồng trong hoạt động thương mại là sự thoả thuận về xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại giữa thương nhân với thương nhân hoặc thương nhân với các bên liên quan. 3.2. Đặc điểm Từ khái niệm trên ta thấy hợp đồng thương mại có những đặc điểm sau: Về mục đích: Hợp đồng trong hoạt động thương mại được kí kết nhằm mục đích kinh doanh Về chủ thể: chủ thể của hợp đồng trong hoạt động thương mại là các thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh.((1 ) Điều 6.1 Luật thương mại 2005 ) Như vậy, chủ thể của hợp đồng trong hoạt động thương mại là khá rộng, chỉ cần có đăng kí kinh doanh, dù là pháp nhân hay không cũng có thể trở thành chủ thể. Về hình thức: Hợp đồng trong hoạt động thương mại không nhất thiết phải là văn bản, trừ trường hợp pháp luật quy định. Việc quy định này là hoàn toàn phù hợp bởi tính chất gọn nhẹ, nhanh chóng trong một số mối quan hệ làm ăn lâu dài của các thương nhân. Trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, họ có thể thoả thuận bằng miệng với nhau mà không cần thiết lập bằng văn bản. II_KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG 1. Khái niệm gia công Gia công là sự cải thiện đặc biệt các thuộc tình của các đối tượng lao động( nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm), được tiến hành một cách có sáng tạo, có ý thức nhằm đạt được một số giá trị sử dụng nào đờnh sức lao động và công nghệ máy móc thiết bị của nhà gia công. 2. Hoạt động gia công 2.1. Nội dung Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó, bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên vật liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu cảu bên đặt gia công để hưởng thù lao. ((1 ) Điều 178 Luật thưong mại 2005 ) Bên đặt gia công giao một phần hoặc toàn bộ nguyên vật liệu, có khi là bán thành phẩm, công nghệ sản xuất cho bên nhận gia công.Việc gia công có thể là gia công thành phẩm, cũng có thể chỉ là gia công một chi tiết nào đó của bán thành phẩm. Bên nhận gia công thì tiếp nhận hay mua nguyên vật liệu, tổ chức gia công theo đúng yêu cầu của bên đặt hàng gai công và nhận khoản tiền từ bên đặt gia công gọi là thù lao. 2.2. Đặc điểm của hoạt động gia công Là hoạt động sản xuất gắn liền với hoạt động tiêu thụ hàng hoá, bên đặt hàng là người cung cấp nguyên vật liệu đồng thờì cũng là người chịu trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm. Là hình thức kinh doanh sử dụng nhiều lao động Nguyên vật liệu do bên đặt gia công cung cấp con bên nhận gia công chỉ việc sản xuất ra sản phẩm theo đúng mẫu và bằng chính nguyên vật liệu được cung cấp từ bên đặt gia công Trong một số trường hợp máy móc thiết bị cũng do bên đặt gia công cung cấp dưới hình thức thông qua hợp đồng mượn hoặc cho thuê máy móc thiết bị. Hết thời hạn bên nhận gia công có trách nhiệm xuất trả lại cho bên đặt gia công. 3. Hợp đồng gia công 3.1. Khái niệm Hợp đồng gia công là sự thoả thuận giữa các bên, theo đố bên nhận gia công thực hiện một công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, còn bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền công. ((1 ) ĐIều 547 Bộ luật dân sự 2005 ) Theo định nghĩa trên, hợp đồng gia công là sự thoả thuận giữa các bên, nó xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự nguyện bình đẳng không trái pháp luật. 3.2. Đặc điểm Việc gia công trong thương mại phải được xác lập bằng hợp đồng. Hợp đồng gia công trong thương mại phải được lập thành văn bản giữa bên nhận gia công và bên đặt gia công. Nội dung hợp đồng gia công trong thương mại, quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công và bên đặt gia công được áp dụng theo quy định về hợp đồng gia công của Bộ luật dân sự. (( 2 ) Điuề 131 Luật thương mại 2005 ) 4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng gia công 4.1. Quyền và nghĩa đối với bên đặt gia công Bên đặt gia công có các nghĩa vụ sau: Cung cấp nguyên vật liệu theo đúng số lượng, chất lượng, thời hạn và địa điểm cho bên nhận gia công, trừ trường hợp có thoả thuận khác; cung cấp các giấy tờ cần thiết liên quan đến việc gia công; Chỉ dẫn cho bên gia công thực hiện hợp đồng; Trả tiền công theo đúng thoả thuận Bên đặt gia công có các quyền sau: Nhận sản phẩm gia công theo đúng số lượng, chất lượng, phương thức, thời hạn và địa điểm đã thoả thuận; Đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên nhận gia công vi phạm nghiêm trọng hợp đồng; Trong trường hợp sản phẩm không đẩm bảo chất lượng mà bên đặt gia công đặt gia công đồng ý nhận sản phẩm nhưng yêu cầu sửa chữa họăc bồi thường mà bên nhận gia công không thể sửa chữa được trong thời hạn thoả thuận thì bên đặt gia công có quyền huỷ h ợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại.((1 ) Điều 549, 550 Bộ luật Dân sự 2005 ) 4.2. Quyền và nghĩa vụ đối với bên nhận gia công Bên nhận gia công có các Bnghĩa vụ: Bảo quản nguyên vật liệu do bên đặt gia công cung cấp; báo cho bên đặt gai công biết để đổi nguyên vật liệu khác nếu nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng; từ chối thực hiện gia công nếu việc sử dụng nguyên vật liệu có thể tạo ra sản phẩm gây nguy hại đến xã hội; trường hợp không báo, không từ chối thì phải chịu trách nhiệm về sản phẩm đã tạo ra. Giao sản phẩm cho bên đặt gai công theo đúng số lượng, chất lượng, phương thức, thời hạn và địa điểm thoả thuận; Giữ bí mật các thông tin về quy trình gia công và sản phẩm tạo ra; Chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm trừ trường hợp sản phẩm không đảm bảo chất lượng do nguyên vật liệu bên đặt gia công cung cấp hoặc do sự chỉ dẫn không hợp lí của bên đặt gia công. Hoàn trả nguyên vật liệu còn lại cho bên đặt gia công sau khi hoàn thành hợp đồng. Bên nhận gia công có các quyền: Yêu cầu bên đặt gia công giao nguyên vật liệu đúng số lượng, chất lượng , thời hạn và địa điểm đã thoả thuận; Từ chối sự chỉ dẫn không hợp lí c ủa bên đặt gia công, nếu thấy sự chỉ dẫn đó có thể làm giảm chất lượng sản phẩm nhưng phải báo ngay cho bên đặt gia công; Yêu cầu bên đặt gia công thanh toán tiền công theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận. ((2 ) Điều 551, 552 Bộ luật Dân sự 2005 ) III_ KHÁI QUÁT VỀ SẢN PHẨM PHẦN MỀM 1. Khái niệm Sản phẩm phần mềm là các phần mềm được phân phối cho khách hàng cùng với các tài liệu mô tả phương thức cài đặt và cách thức sử dụng chúng. 2. Phân loại Sản phẩm tổng quát: Đây là các phần mềm đứng riêng, được sản xuất bởi một tổ chức phát triển và bán vào thị trường cho bất kỳ khách hàng nào có khả năng tiêu thụ. Sản phẩm chuyên ngành: là phần mềm được hỗ trợ tài chính bởi khách hàng trong chuyên nghành. Phần mềm được phát triển một cách đặc biệt cho khách hàng qua các hợp đồng. Cho đến thập niên 1980 hầu hết sản phẩm phần mềm đều làm theo đơn đặt hàng riêng (đặc biệt hóa). Nhưng kể từ khi có PC tình hình hoàn toàn thay đổi. Các phần mềm được phát triển và bán cho hàng trăm ngàn khách hàng là chủ các PC và do đó giá bán các sản phẩm này cũng rẻ hơn nhiều. Microsoft là nhà sản xuất phần mềm lớn nhất hiện nay.((1 ) Website: www.aptech.edu.vn (ng ày 2/3/2007) ) Thuộc tính của sản phẩm phần mềm Thuộc tính của một sản phẩm phần mềm là các đặc tính xuất hiện từ sản phẩm một khi nó được cài đặt và được đưa ra dùng. Các thuộc tính này không bao gồm các dịch vụ được cung cấp kèm theo sản phẩm đó. Thí dụ: mức hiệu quả, độ bền, khả năng bảo trì, khả năng dùng ở nhiều nền là các thuộc tính. Các thuộc tính biến đổi tùy theo phần mềm. Tuy nhiên những thuộc tính tối quan trọng bao gồm: Khả năng bảo trì: Nó có khả năng thực hành những tiến triển để thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Khả năng tin cậy: Khả năng tin cậy của phần mềm bao gồm một loạt các đặc tính như là độ tin cậy, an toàn, và bảo mật. Phần mềm tin cậy không thể tạo ra các thiệt hại vật chất hay kinh tế trong trường hợp hư hỏng. Độ hữu hiệu: Phần mềm không thể phí phạm các nguồn tài nguyên như là bộ nhớ và các chu kì vi xử lý. Khả năng sử dụng: Phần mềm nên có một giao diện tương đối dễ cho người dùng và có đầy đủ các hồ sơ về phần mềm.((1 ) Website: www.aptech.edu.vn (ng ày 2/3/2007) ) è Với các thuộc tính như vậy, việc sản xuất ra các sản phẩm phần mềm đòi hỏi kĩ thuật cao và tốn nhiều nhân lực.Chính vì vậy xu hướng thuê gia công phần mềm ngày càng tăng để giảm thiểu chi phí . CHƯƠNG II_THỰC TIỄN KÍ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG GIA CÔNG PHẦN MỀM Ở CÔNG TY CỔ PHẦN SAO MAI I_KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN SAO MAI 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 1.1. Quá trình hình thành và phát triển Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Nhà nước đã có nhiều biện pháp, chính sách thúc đẩy đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích các công dân Việt Nam tự do thương mại , tự do kinh doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2002, nắm bắt kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như xu thế thị trường bấy giờ, ba cổ đông đã cùng chung vốn và chung sức sáng lập nên Công ty Cổ phần Sao Mai. Với bầu nhiệt huyết sôi nổi của tuổi trẻ cùng sự quyết tâm khẳng định mình trên lĩnh vực kinh doanh, ba vị lãnh đạo ấy đã dẫn dắt Công ty Sao Mai hình thành và phát triển. Trải qua bao khó khăn trong thị trường mở cửa, trong những cơ hội mà không chỉ riêng mình nắm bắt, với những đối thủ cạnh tranh lâu năm, Công ty Sao Mai đã không chỉ tồn tại mà còn phát triển nhanh với quy mô mở rộng, với tên tuổi đã bắt đầu được nhắc đến. Sau đây là một vài nét khái quát về Công ty Cổ phần Sao Mai: Tên Công ty : Công ty Cổ phần SAO MAI Tên giao dịch đối ngoại : SAO MAI Joint Stock Company Tên giao dịch viết tắt : SMC.,JSC Trụ sở chính : Số 2/B3 tổ 45 Tập thể công ty Thiết kế Điện I, Phường Thanh Xuân Nam, Quận Thanh Xuân, Hà Nội Điện thoại : 04 554 2120 Fax : 04 554 2119 E-mail : smc@saomai-vn.com Website : www.saomai-vn.com Tên chi nhánh : Chi nhánh Công ty Cổ phần SAOMAI Địa chỉ chi nhánh : Tầng 7, số 3 Lô B đường Nguyễn Tuân, Phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Hà Nội. Mồng 2 tháng 8 năm 2002 Công ty Sao Mai chính thức được cấp giấy phép kinh doanh. Ngay sau đó, Công ty đã gia nhập thị trường với những ngành nghề kinh doanh đầu tiên là kinh doanh phần cứng. Khi đó công ty mới chỉ có 5 người. Đây là giai đoạn khó khăn nhất, tất cả mọi thành viên đều phải cố gắng tối đa, nỗ lực hết mình hoàn thành công việc. Ổn định thị trường phần cứng, cuối năm 2003, Công ty Sao Mai bắt đầu bước vào lĩnh vực phần mềm. Đây là một quyết định sáng suốt của ban lãnh đạo, một sự nhìn nhận kinh doanh đã mang lại cho Công ty một bước ngoặt lớn. Bởi lĩnh vực phần mềm bắt đầu từ đây đã thổi cho Công ty một bộ mặt mới. Công ty Sao Mai từng bước, từng bước xâm nhập vào thị trường phần mềm Việt Nam. Dù giai đoạn này tiến không nhanh do mới đi vào hoạt động nhưng đó là tiền đề cho Sao Mai phát triển sau này. Năm 2004, Chính sách “đa dạng hóa, đa phương hoá” quan hệ quốc tế đã giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới và khu vực. Nếu như trước năm 1990, Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 40 nước, thì nay nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, làm bạn, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước trên thế giới, ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với trên 80 quốc gia, thực hiện chế độ tối huệ quốc với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những nước và khu vực có nguồn vốn lớn, công nghệ cao và thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU và các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở Đông Á. Nắm bắt cơ hội đó, Công ty Sao Mai bắt đầu xâm nhập vào thị trường nước ngoài. Công ty đã chọn Nhật Bản làm đối tác chủ yếu bởi Nhật Bản là quốc gia có nền công nghệ hiện đại, nhu cầu sử dụng phần mềm rất lớn và đặc biệt Giám đốc Công ty là người rất thông thạo ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản. Trong suốt những năm 2004, 2005, 2006, Công ty Sao Mai đã thực hiện những hợp đồng Phần mềm có giá trị lớn, và từ đây, lĩnh vực phần mềm đã trở thành hoạt động chính , nguồn thu nhập chính cho Công ty. Để phát triển được như vậy, phần không nhỏ phải kể đến sự nỗ lực của Ban Giám Đốc Công ty. Giám đốc Nguyễn Văn Tuyến đã mang về cho Công ty rất nhiều đối tác Nhật Bản với những Hợp đồng giá trị. Và Phó Giám đốc Nguyễn Quang Hưng - người rất thông thạo lĩnh vực Công nghệ thông tin đã trực tiếp chỉ đạo thực hiện hợp đồng một cách có hiệu quả. Sự kết hợp của hai vị lãnh đạo này đã giúp Sao Mai không những tồn tại mà còn không ngừng phát triển. Năm 2005 đánh dấu mốc phát triển về doanh thu đối với Công ty Sao Mai. Đây là tiền đề để năm 2006, Sao Mai mở rộng thêm hai lĩnh vực là Photoshop và Trung tâm đào tạo nguồn nhân lực. Hai lĩnh vực này tuy mới mẻ nhưng lại gặp rất nhiều thuận lợi do Công ty có nhiều người biết tiếng Nhật và giỏi lập trình. Và cho đến thời điểm này, hoạt động Công ty được coi là ổn định và được đánh giá có triển vọng trở thành một ngôi sao sáng của ngày mai. 1.2. Địa vị pháp lí của công ty Cổ phần Sao Mai Công ty Cổ phần Sao Mai có: Tư cách pháp nhân kể từ ngày 2-8-2002 Tên gọi bằng tiếng Việt : Công ty Cổ phần SAO MAI Tên giao dịch đối ngoại : SAO MAI Joint Stock Company Tên giao dịch viết tắt : SMC.,JSC Trụ sở chính : tại Hà Nội Vốn điều lệ : 530 000 000 đồng – chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp. Cổ phần : Công ty có hình thức cổ phần duy nhất là Cổ phần phổ thông. Công ty tham gia thị trường chứng khoán khi có đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật chứng khoán. Công ty có con dấu riêng và mở tài khoản tại ngân hàng theo quy định của pháp luật Việt nam. 2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Công ty Cổ phần Sao Mai có chức năng cung cấp phụ kiện, máy vi tính, đào tạo tin họa văn phòng; dịch vụ Internet; Dịch vụ biên phiên dịch. Dịch vụ in ấn và thiết kế kiểu mẫu in . Kinh doanh lữ hành nội địa, lữ hành quốc tế.Tư vấn cung cấp phần mềm; Kinh doanh hàng tiêu dùng Hoá, mỹ phẩm; Kinh doanh bất động sản; Tư vấn chăm sóc sắc đẹp (không bao gồm hoạt động gây chảy máu); Sản xuất kinh doanh thiết bị viễn thông;Kinh doanh dịch vụ gia công xuất khẩu phần mềm. Với những chức năng trên, công ty Cổ phần Sao mai có nhiệm vụ: Công ty có phải nộp cho Nhà nước Việt nam: Thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm Thuế Giá Trị Gia Tăng, Công ty phải nộp thuế GTGT cho Nhà nước = VAT đầu ra – VAT đầu vào Thuế môn bài Các loại thuế khác theo quy định hiện hành tại thời điểm nộp thuế hàng năm. Công ty phải trả tiền thuê mặt bằng và phí sử dụng hạ tầng kỹ thuật cho Công ty TNHH AN&HUY. Trong quá trình hoạt động, Công ty phải tuân thủ pháp luật Việt nam, các quy định của Giấy phép đầu tư, các điều khoản của Điều lệ Công ty. Công ty phải thực hiện đầy đủ các biện pháp xử lý chất thải; bảo vệ môi trường, môi sinh, phòng - chống cháy nổ và an toàn lao động theo quy định của Nhà nước Việt nam. 3. Cơ cấu tổ chức, điều hành hoạt động cơ sở 3.1. Cơ cấu Công ty Cổ phần Sao Mai Công ty Cổ phần Sao Mai có Hội đồng quản trị, được điều hành bởi Giám đốc và bộ máy các phòng chuyên môn. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lí Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty. Do số lượng thành viên Hội đồng quản trị là 3 người nên Công ty không thành lập Ban kiểm soát Giám đốc Công ty là ông Nguyễn Văn Tuyến kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị; là người điều hành hoạt động hàng ngày của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội Đồng Quản Trị về việc thực hiện các nghĩa vụ và quyền được giao. Phó Giám Đốc Công ty là ông Nguyễn Quang Hưng; là người giúp Giám Đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động của Công ty và chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được phân công thực hiện. Kế toán trưởng Nguyễn Thị Duyên giúp Giám đốc chỉ đạo, thực hiện Công tác kế toán, thống kê của Công ty, có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Các phòng chuyên môn thực hiện các nghiệp vụ thuộc lĩnh vực mình phụ trách, giúp việc Hội đồng quản trị và Giám đốc trong quản lí, điều hành hoạt động Công ty Sơ đồ tổ chức Bộ máy quản lí Công ty Cổ phần Sao Mai: GIÁM ĐỐC NGUYỄN VĂN TUYẾN PHÓ GIÁM ĐỐC NGUYỄN QUANG HƯNG P.Phần cứng Trưởng phòng 2 Nhân viên P.Phần mềm Trưởng phòng 26 nhân viên P.Kế toán Kế toán trưởng Kế toán viên Phiên dịch P.Kinh doanh Trưởng phòng 2 nhân viên Photo shop Trưởng nhóm 2 nhân viên P.Đào tạo Trưởng phòng 5 nhân viên Trưởng nhóm Trưởng nhóm Trưởng nhóm 3.2. Tổ chức Bộ máy quản lí Ban Giám Đốc : 02 người Ban giám đốc: Là bộ máy lãnh đạo cao nhất của Công ty có chức năng điều hành mọi hoạt động của Công ty một cách độc lập và chịu trách nhiệm trước tổng Công ty và pháp luật. Phòng phần cứng : 03 người Phòng phần cứng: Kiểm tra, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị của Công ty; thực hiện bảo trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị cho khách hàng Phòng phần mềm : 27 người Phòng phần mềm: với các lập trình viên thông thạo viết nhiều loại ngôn ngữ lập trình, nhiệm vụ chủ yếu của phòng phần mềm là gia công phần mềm theo đơn đặt hàng.Các phần mềm gia công gồm nhiều loại như phần mềm quản lí xưởng in, phần mềm thể dục dụng cụ, phần mềm kế toán…Ngoài ra còn cung cấp một số loại phần mềm theo yêu cầu của khách hàng. Phòng kế toán : 03 người Phòng kế toán: Quản lý theo dõi tình hình biến động tăng giảm tài sản, thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước, khai thác và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả, tiếp nhận các hoá đơn chứng từ của từng hợp đồng, giải quyết các vấn đề tài chính có liên quan đến việc thanh toán của từng hợp đồng, tổ chức và thực hiện công tác kế toán, tài chính, báo cáo cho ban giám đốc về tình hình tài chính của Công ty. Phòng kinh doanh : 03 người Phòng kinh doanh: Theo dõi, tìm kiếm thông tin, phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường,chăm sóc và đáp ứng nhu cầu của các khách hàng truyền thống. Mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, gửi các bản chào hàng tới khách hàng. Báo cáo tình hình kinh doanh với ban giám đốc. Photoshop : 03 người Photoshop: thiết kế, chỉnh sửa hình ảnh, lập trình hình ảnh động theo yêu cầu khách hàng. Phòng Đào tạo : 06 người Phòng đào tạo: đào tạo nguồn nhân lực, trước hết là cho nhân viên công ty, sau đó nhận đào tạo, cung ứng cho thị trường nguồn nhân lực có trình độ tin học và ngoại ngữ cao đặc biệt là ngôn ngữ Anh và Nhật. Nhìn chung, bộ máy quản lý của công ty Cổ phần Sao Mai được tổ chức hợp lý, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả. 4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty 4.1. Ngành nghề kinh doanh: Căn cứ vào đang kí kinh doanh số 0103001255 ngày 29/11/2005 (thay đổi lần 3) do Sở kế hoạch và đàu tư thành phố Hà Nội cấp, Công ty Sao Mai kinh doanh những ngành nghề sau: Kinh doanh phụ kiện và máy tính văn phòng, đào tạo tin học văn phòng. Dịch vụ Internet (quảng cáo trên mạng, phổ cập Internet, Cafe Internet...) Buôn bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng chủ yếu là hàng gia công mỹ nghệ, gốm sứ, mây tre đan... Buôn bán thiết bị Văn phòng , văn phòng phẩm. Kinh doanh dịch vụ ăn uống. Dịch vụ biên phiên dịch. Dịch vụ in ấn và thiết kế kiểu mẫu in . Kinh doanh lữ hành nội địa, lữ hành quốc tế. Tư vấn và cung cấp phần mềm. Kinh doanh hàng tiêu dùng Hoá, mỹ phẩm. Kinh doanh bất động sản. Tư vấn chăm sóc sắc đẹp (không bao gồm hoạt động gây chảy máu). Sản xuất kinh doanh thiết bị viễn thông. Kinh doanh dịch vụ gia công xuất khẩu phần mềm. Tư vấn, đào tạo cung ứng nhân lực có tay nghề trong nước (không bao gồm môi giới, tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động) 4.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty Sao Mai Trong 20 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quân 3,9%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã phục hồi, hàng năm đều tăng ở mức năm sau cao hơn năm trước (năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng 7,7%, năm 2005 tăng 8,4%. Việt Nam đã dần thay thế được cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, bằng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng năng động, đạt tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao từ 7% đến 8%/năm, tăng nhanh tốc độ công nghiệp hóa, mở rộng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, tăng nhanh giá trị ngoại thương, nhất là xuất khẩu, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và các khoản thu ngoại tệ khác. Góp phần tăng cao GDP của đất nước, không thể không kể đến các doanh nghiệp Việt Nam.Trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 danh nghiệp đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn trị giá 182 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%. Công ty cổ phần Sao Mai tuy số vốn điều lệ không nhiều, chỉ hơn nửa tỷ đồng nhưng từng bước tăng trưởng trong doanh thu của Công ty đã cho thấy từ sự tích lũy nhỏ bé của các doanh nghiệp đã làm nên bước tăng trưởng mạnh mẽ cho GDP Việt Nam. Sau một năm hoạt động, năm 2003 Công ty Sao Mai đạt được doanh thu là 449 416 122 đồng. Ở thời điểm này Công ty mới chỉ có 10 thành viên. Toàn bộ doanh thu đạt được là nhờ hoạt động phần cứng. Công ty đã thiết lập được nhiều hợp đồng cung cấp máy tính, thiết bị; thực hiện các dịch vụ bảo trì máy tính, máy in, máy photocopy…Đây vẫn là giai đoạn Công ty đang tự hoàn thiện và bắt đầu chuyển tiếp sang lĩnh vực phần mềm. Năm 2004 là giai đoạn quan trọng và đặc biệt khó khăn đối với Công ty Sao Mai. Chính thức đưa lĩnh vực phần mềm đi vào hoạt động, Công ty không đầu tư vào phần cứng nhiều mà chỉ tập trung vào phát triển phần mềm. Nhưng doanh thu chưa tăng, thậm chí có giảm một chút so với năm 2003, cụ thể là 432 468 475 đồng. Trong đó doanh thu chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là 187 926 625 đồng, và doanh thu được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp là 244 541 850 đồng. Bắt đầu từ năm 2004, Công ty có phần doanh thu được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp là do chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước đối với việc đầu tư vào các lĩnh vực mới. Công nghệ thông tin ngày càng phát triển, đòi hỏi các quốc gia càng phải chú trọng vào lĩnh vực phần mềm nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng dám đầu tư. Bởi lĩnh vực này chi phí phát sinh nhiều mà chưa thấy doanh lợi ngay trước mắt. Ở giai đoạn này, Công ty Sao Mai mới chỉ cung cấp một số phần mềm chủ yếu cho Việt Nam với giá trị từ 3 đến 11 triệu đồng như: Thiết kế phần mềm cho TT Y Tế môi trường lao động công nghiệp; thiết kế phần mềm cho Công ty Cổ phần Vận tải & Thương mại Đường sắt; Thiết kế website cho Công ty CP TM Quốc tế Á Châu… Năm 2005 là năm đánh dấu mốc phát triển cho lĩnh vực phần mềm cuả Công ty Sao Mai. Doanh thu phần mềm - tức doanh thu không chịu thuế đã tăng gấp 4 so với năm 2004, đạt 976 472 879 đồng.Lĩnh vực phần cứng vẫn duy trì và đạt doanh thu 152 102 918 đồng đưa tổng doanh thu của Công ty Sao Mai lên tới 1.128.575.797 đồng.Lúc này, các Hợp đồng Công ty gia công chủ yếu cho Nhật bản với trị giá tương đối cao hơn trước như: Gia công phần mềm cho Công ty We are Engineering; công ty Nihon Software Engineering với trị giá từ 100 triệu đến 200 triệu… Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy Công ty đã đi đúng hướng. Do mới chuyển sang phần mềm nên chi phí còn cao, đặc biệt là chi phí tiền lương và đào tạo cho lập trình viên ở trong và ngoài nước. Nhưng đó là tiền đề để bắt đầu từ đây, Công ty Sao Mai phát triển ngày một lớn mạnh.Và chúng ta hãy cùng xem xét, trong quá trình hoạt động kinh doanh, II_VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC THÀNH LẬP VÀ KINH DOANH CỦA CÔNG TY 1. Áp dụng pháp luật trong việc thành lập Công ty Công ty Cổ phần Sao Mai được thành lập trên cơ sở Luật Doanh nghiệp 1999 với những nội dung và thủ tục hoàn toàn hợp thức về mặt pháp luật.Khi đăng kí ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31979.doc
Tài liệu liên quan