Hợp đồng bảo hiểm

LỜI NÓI ĐẦU Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, nhu cầu bảo hiểm cũng ngày càng cao. Quá trình phát triển mấy trăm năm của bảo hiểm đã ghi nhận vai trò và những đóng góp to lớn của bảo hiểm trong việc ổn định, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội, vị thế của bảo hiểm càng được nâng cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra nhanh chóng đã làm thay đổi sâu sắc

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hợp đồng bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ mặt của ngành bảo hiểm. Những thách thức của thị trường bảo hiểm là rất khó kiểm soát, cạnh tranh ác liệt và những thay đổi lớn về cơ cấu kết hợp với nhau là những nét đặc trưng của hoạt động bảo hiểm. Ở Việt Nam hoạt động bảo hiểm phát triển khá mạnh trong vài năm gần đây từ khi chúng ta chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm. Các lĩnh vực, các nghiệp vụ và các sản phẩm bảo hiểm ngày càng được mở rộng, các hợp đồng bảo hiểm được kí kết ngày càng nhiều. Tuy vậy, bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa phát triển tương xứng qui mô của nó và cũng chưa có một qui chế pháp lý vững chắc, một hệ thống pháp luật hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh và có hiệu quả. Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu về vấn đề bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm, giúp cho các cán bộ pháp lý có thêm cách nhìn mới và hiểu rõ hơn về bản chất và những vấn đề cơ bản của hợp đồng bảo hiểm từ đó đề ra những hướng xây dựng luật cũng như áp dụng các qui phạm pháp luật về bảo hiểm một cách chính xác và hiệu quả tôi đã chọn đề tài “HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM”. Hợp đồng bảo hiểm là đề tài còn rất mới mẻ và có rất nhiều vấn đề phức tạp. Tuy đây chưa phải là một công trình nghiên cứu hoàn thiện song tôi đã cố gắng đề cập đến những vấn đề chủ yếu, then chốt nhất của hợp đồng bảo hiểm nói chung có gắn với thực tiễn cho phù hợp. Với trình độ và sự hiểu biết có hạn nên chắc chắn tôi không thể tránh khỏi những sơ suất. Rất mong được bạn đọc và các thầy cô giáo góp ý để bản Luận văn của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM A. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM I. Vì sao bảo hiểm ra đời Quá trình tồn tại và phát triển của loài người là quá trình đấu tranh để cải tạo và hoà hợp với thiên nhiên, quá trình đó chịu sự tác động của thiên nhiên theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Sự tác động tiêu cực của thiên nhiên như bão, lũ lụt, hạn hán, động đất,... là những thiên tai có thể gây hậu quả thiệt hại về con người, tài sản. Không những thiên tai mà ngay con người cũng có thể gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản cho người khác. Những thiệt hại đó gây cho con người bao nhiêu khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống và trong sản xuất. Sự tác động của thiên tai, tai biến đặt ra một nhu cầu nội tại của đời sống cộng đồng là con người phải có các biện pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục hậu quả có thể bằng các cách như: buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tổn thất trong trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của con người. · Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp được con người sử dụng do nhận thức được các qui luật của thiên nhiên để khắc phục và hạn chế thiệt hại như đắp đê chống lụt, trồng rừng phòng hộ, phòng cháy,... Mục đích của biện pháp phòng ngừa là nhằm ngăn ngừa rủi ro hoặc hạn chế hậu quả phát sinh từ rủi ro. · Biện pháp cứu trợ: là biện pháp được thực hiện để khắc phục hậu quả phát sinh từ các rủi ro. Sự cứu tế, trợ giúp của xã hội là một biện pháp tích cực. Nguồn trợ giúp có thể từ ngân sách Nhà nước hoặc từ sự đóng góp từ thiện của các cá nhân, tổ chức mang tính tự nguyện nhằm giúp đỡ các tổ chức cá nhân gặp rủi ro khắc phục các hậu quả. Biện pháp này rất hữu hiệu trong những trường hợp thiên tai xảy ra ở phạm vi một vùng, một bộ phận dân cư. · Biện pháp lập ra các quỹ dự phòng để bù đắp kịp thời tổn thất xảy ra. Trong nhiều trường hợp các biện pháp trên tỏ ra rất hiệu quả nhưng nhiều trường hợp khác chúng lại cho thấy những hạn chế trong việc khắc phục hậu quả. Đó là: Cho dù con người có chú ý đến biện pháp phòng ngừa nhưng những rủi ro, tai nạn vẫn có thể xảy ra như động đất, núi lửa. Những thiệt hại do thiên tai gây ra không thể buộc cá nhân hay tổ chức nào đó bồi thường được vì không ai có lỗi. Biện pháp cứu trợ lại kém hiệu quả đối với trường hợp thiệt hại do thiên tai gây ra quá lớn. Hay trường hợp xảy ra thiệt hại nhưng không tìm ra thủ phạm hoặc thiệt hại xảy ra do lỗi của chính người bị thiệt hại khiến họ bị đẩy vào thế suy kiệt kinh tế. Trong bối cảnh đó hình thức bảo hiểm ra đời để giải quyết cơ bản những hạn chế đó. Biện pháp bảo hiểm được thực hiện thông qua hoạt động lập và sử dụng quĩ bảo hiểm nhằm bù đắp thiệt hại, khắc phục hậu quả của các rủi ro. Vậy tại sao bảo hiểm lại có khả năng khắc phục được những thiệt hại to lớn đó. Để trả lời câu hỏi này ta tìm hiểu vai trò của bảo hiểm. II. Vai trò của bảo hiểm 1. Bảo hiểm là công cụ để xử lý rủi ro, duy trì đời sống và hoạt động bình thường của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Hoạt động bảo hiểm được thực hiện theo phương thức “lấy ít của số đông bù cho số ít” đã tập trung được một lượng của cải cần thiết có khả năng bù đắp thiệt hại cho các tổ chức và cá nhân gặp rủi ro thuộc diện được bảo hiểm. Chính vậy mà việc tham gia bảo hiểm tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong xã hội có thể duy trì đời sống và hoạt động bình thường khi gặp rủi ro. Ngay cả khi thiệt hại quá lớn hay không tìm thấy người gây thiệt hại thì bảo hiểm cũng đảm bảo được khả năng bồi thường thiệt hại. Và vì một thiệt hại khi xảy ra trong phạm vi bảo hiểm đã được chia sẻ cho nhiều người cùng gánh chịu nên tác hại của hiểm hoạ không còn lớn như khi chỉ có một số ít người phải gánh chịu toàn bộ. Vai trò to lớn của bảo hiểm trong đời sống, sản xuất kinh doanh thể hiện là: + Đem lại tâm lý an tâm về mặt tài chính trước các nguy cơ xảy ra gây thiệt hại. + Nhanh chóng được bồi thường tổn thất khi rủi ro gây thiệt hại. + Giúp doanh nghiệp, cá nhân tự tin trong việc mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc tham gia vào lĩnh vực đầu tư mới. Quĩ bảo hiểm tập trung được coi là nguồn bảo đảm tài chính vững chắc cho các tổ chức kinh tế để khắc phục hậu quả của hiểm hoạ, bảo toàn và phát triển nguồn vốn của mình. Trong kinh doanh, qui mô đầu tư càng lớn thì rủi ro càng cao. Để phân tán rủi ro, các nhà đầu tư thường tham gia bảo hiểm. Họ lựa chọn và gửi gắm doanh nghiệp của mình vào các loại hình bảo hiểm về tài sản. Còn các loại hình bảo hiểm về con người thì góp phần ổn định cả sản xuất và đời sống vì nó góp phần bảo toàn sức lao động, khôi phục sức khoẻ của con người sau cơn tai biến. Không những thế, bảo hiểm còn đóng vai trò trong quản lý Nhà nước: + Giảm gánh nặng cho ngân sách, góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách. + Tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động trong xã hội. + Góp phần đề phòng hạn chế tổn thất phát sinh. Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất và đời sống do đó góp phần ổn định “khoản thu cho ngân sách Nhà nước như thuế,...” Bảo hiểm có thể bổ sung hoặc thay thế một số khoản thu chính sách (do thiên tai hoặc tai biến xã hội). Do vậy bảo hiểm góp phần ổn định nền tài chính ngân sách tránh cho Nhà nước phải chi khoản ngân sách lớn khi có thiên tai, tai nạn xảy ra. Quĩ bảo hiểm ngày càng chiếm một tỉ trọng lớn trong toàn bộ các quĩ tập trung. Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác đã nhiều lần đề cập đến sự cần thiết khách quan phải thành lập quĩ bảo hiểm. Mác nhấn mạnh “Để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng, trong tổng sản phẩm bên cạnh phần dùng để bù đắp tư liệu sản xuất đã tiêu hao và thặng dư để mở rộng sản xuất phải có một phần để làm quĩ dự phòng hoặc quĩ bảo hiểm để đề phòng tai nạn và thiên tai” (C.Mác - Anghen tuyển tập, tập III, NXB Sự thật, Hà Nội - 10/1, Tr 604). Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng chính là góp phần lập lại sự cân đối mới cho nền kinh tế xã hội sau khi tổn thất xảy ra. Đặc biệt quĩ bảo hiểm cùng với quĩ sản xuất được coi là đảm bảo tài chính vững chắc cho sự hình thành và phát triển lâu bền của nền văn minh xã hội. Ănghen đã nói “Quĩ sản xuất và dự phòng của xã hội đã và vẫn còn là cơ sở của mọi tiến bộ xã hội, về chính trị và trí tuệ” (Ph. Ănghen: chống Duyring - NXB Sự thật, Hà Nội - 1959, Tr 957). 2. Bảo hiểm nâng cao khả năng ngăn ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả phát sinh từ rủi ro đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong nhiều loại hình bảo hiểm như bảo hiểm thương mại, lúc đầu là tập quán sau đó trở thành qui tắc xử sự được pháp luật ghi nhận, những người tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) phải thực hiện những biện pháp để phòng ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả khi xảy ra rủi ro. Pháp luật của các nước đều có các qui định về nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả. Nếu người tham gia bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì tuỳ mức độ mà bị bên bảo hiểm từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường bảo hiểm. Chính vì vậy, khi tham gia quan hệ bảo hiểm, các tổ chức và cá nhân tích cực thực hiện các biện pháp phòng tránh, hạn chế hậu quả của rủi ro. 3. Bảo hiểm là công cụ tập trung vốn Quĩ bảo hiểm được hình thành trên cơ sở phí bảo hiểm do các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm đóng và được sử dụng chi trả khi có sự kiện bảo hiểm. Do phương thức sử dụng quĩ như vậy nên tạo ra khả năng tạm thời nhàn rỗi của vốn tiền tệ. Số vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi này được các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để tham gia các quan hệ đầu tư. Như vậy, về phương diện vốn, các quĩ bảo hiểm là những tụ điểm tài chính cần được khai thác, sử dụng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế. Với tốc độ phát triển kinh tế hiện nay, bảo hiểm phải đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đầu tư bằng cách cung cấp những sản phẩm bảo hiểm có chất lượng cao và an toàn. Nhiều công trình được các cơ quan tài chính quốc tế và trong nước cung cấp tài chính đến 75-90%. Những người cho vay tiền muốn chuyển giao rủi ro càng nhiều càng tốt và điều đó đòi hỏi bảo hiểm phải có khả năng đáp ứng. Trong tình hình đó vai trò của bảo hiểm hay vai trò của chuyển giao rủi ro và sự phát triển thói quen quản lý rủi ro trở lên ngày càng quan trọng. Người ta cho rằng nền văn minh Âu Mỹ có thể phát triển mạnh và tồn tại lâu dài trong điều kiện thiên nhiên và xã hội có nhiều hiểm hoạ như hiện nay là do nền kinh tế hàng hoá cùng với bảo hiểm ở đây đã sớm hình thành và phát triển mạnh hơn các nơi khác. Trong khi ở nhiều nơi trên thế giới khái niệm bảo hiểm còn mới lạ thì ở các nước tiên tiến bảo hiểm đã trở thành một tập quán, thói quen của dân chúng, là một nhu cầu của các nhà kinh doanh, một kế sách quản lý của Nhà nước. Vai trò của bảo hiểm ngày càng quan trọng do kinh tế càng phát triển, đời sống càng cao, nhu cầu bảo hiểm càng lớn. Ngược lại bảo hiểm cũng tác động trở lại thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định đời sống xã hội. ở Việt Nam năm 1999 tổng số phí bảo hiểm chiếm 0,5% GDP (số liệu của tạp chí Bảo hiểm số 1/2000). Ngày nay sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các nước càng phát triển thì bảo hiểm càng được mở rộng. III. Lịch sử phát triển bảo hiểm trên thế giới. Bảo hiểm ra đời rất sớm trên thế giới. Hình thức lập quĩ để tự bảo hiểm xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Hơn 4000 năm trước công nguyên, ở Ai Cập những người thợ thủ công đã lập “Quĩ tương trợ” bằng sự đóng góp của các thành viên và giúp đỡ nạn nhân gặp tai nạn nghề nghiệp. Còn ở Trung Quốc các thương nhân có hàng vận chuyển trên tàu, thuyền đã biết cách phân tán hàng của mỗi người trên nhiều tàu, thuyền để tránh tình trạng một người gặp rủi ro phải gánh chịu toàn bộ tổn thất. Bảo hiểm thương mại, với loại hình đầu tiên là bảo hiểm hàng hải xuất hiện đầu tiên ở Babylone vào khoảng 1700 năm trước công nguyên. Đến thế kỷ V trước công nguyên, buôn bán rất phát triển kéo theo sự hưng thịnh của ngành vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Vào thế kỷ XII, giao lưu đường biển đã rất phát triển, tổn thất do thiên tai, cướp biển gây ra cũng càng nhiều, nên ở thời kỳ này tồn tại một hệ thống tín dụng kết hợp hoạt động cho vay với hoạt động bảo hiểm đối với hàng hoá được mua và vận chuyển bằng tiền vay. Các nhà kinh doanh đi vay vốn để mua hàng với lãi suất rất nặng. Nếu chuyến hàng gặp rủi ro tổn thất toàn bộ thì họ không phải trả người cho vay cả vốn và lãi. Lãi suất này có thể coi chính là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Sau này số vụ tai nạn ngày càng nhiều, tổn thất ngày càng lớn khiến cho nhiều nhà kinh doanh vốn lâm vào thế mạo hiểm. Và để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh này, hình thức bảo hiểm ra đời. Các nguyên tắc của hoạt động bảo hiểm cùng với hợp đồng bảo hiểm ngày càng hoàn thiện đã đem lại sự đảm bảo an toàn cao cho hoạt động bảo hiểm. Năm 1182 ở Limbardine (Bắc Ý) hợp đồng bảo hiểm sơ khai đã ra đời với tên gọi “Police” (đơn mua). Người bán đơn này ký tên dưới đơn “Coghataire” cam kết các nội dung ghi trên đơn của mình để phục vụ người mua đơn. Từ thế kỷ 14, bảo hiểm chính thức ra đời, đầu tiên là ở Phơ lo ren xơ, Genois và Flauder. Xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm mà theo đó một nhà bảo hiểm cam kết với một người được bảo hiểm qua việc nhận được một khoản phí, bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển. Khi đó ở Gene, vào năm 1336, thống đốc đã ra sắc lệnh về bảo hiểm. Ở Bồ Đào Nha, một chỉ dụ của Vua Ferdinand vào nửa thế kỷ sau thế kỷ 14, thiết lập bảo hiểm tương hỗ bắt buộc đối với chủ tàu 500 tấn trở lên. Còn ở Bruge (Bỉ) Uỷ ban BETHUNE năm 1310, thiết lập phòng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy ghi ngày 22 tháng 4 năm 1329, hiện còn lưu giữ ở Plorenxơ. Sự phát triển của bảo hiểm hàng hải gắn cùng với sự phát hiện ra Ấn Độ Dương và đương nhiên cả việc tìm ra Châu Mĩ. Vào thế kỷ 17, luật về bảo hiểm hàng hải đã ngày càng phong phú bởi các bộ luật và sắc lệnh. Đặc biệt là cuốn “sắc lệnh về hàng hải” xuất bản năm 1680 theo sáng kiến của Cobert. Tác phẩm này ấn hành vào năm 1680 mà hiện nay ta có thể tìm thấy được, đã đưa vào các nguyên tắc lớn của bảo hiểm hàng hải hiện đại, đã có ảnh hưởng rất rộng lớn tới nhiều bộ luật hàng hải. Thế kỉ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí đáng kể trong buôn bán thế giới và cũng là nơi hoạt động bảo hiểm phát triển nhất. Tiệm cà phê của Lloyd’s ở phố Tower street sau này trở thành nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm, hiện nay vẫn đang là một trong những hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới. Đến thế kỉ 20, các qui định của luật hàng hải Anh ban hành năm 1906 dưới tên gọi “Luật bảo hiểm hàng hải” đã ngự trị bảo hiểm hàng hải thế giới. Và từ bảo hiểm hàng hải, các loại hình bảo hiểm khác kế tiếp nhau ra đời xuất phát từ nhu cầu được bảo hiểm của các thương gia, người sản xuất và các tầng lớp dân cư. Có thể nói, hoạt động bảo hiểm phát triển sang nhiều lĩnh vực khác nhau: bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tín dụng,... Giai đoạn đầu bảo hiểm hàng hải rất phát triển, nên thế giới có phân ra hai loại nghiệp vụ bảo hiểm: bảo hiểm hàng hải và bảo hiểm phi hàng hải. Đến thế kỉ XVII, bảo hiểm nhân thọ ra đời và rất phát triển, bảo hiểm lại được phân chia thành bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Hai cách phân loại nghiệp vụ bảo hiểm trên hiện nay vẫn được áp dụng ở các nước. Ở Việt Nam, dưới thời thuộc địa cũng có vài chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân. Sau cách mạng tháng 8, các chế độ về bảo hiểm xã hội đã ra đời và nhiều lần sửa đổi nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi người lao động. Bảo hiểm thương mại (bảo hiểm Nhà nước) được thành lập tháng 1 - 1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Hội đồng Chính phủ. Phạm vi kinh doanh của bảo hiểm thương mại tập trung khoảng 20 nghiệp vụ trên cả ba lĩnh vực: tài sản, con người và trách nhiệm dân sự. Sau ngày 30-4-1975, tất cả các công ty bảo hiểm ở miền Nam được Quốc hữu hoá thành công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (BAVINA) và đến năm 1996, BAVINA trở thành chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn này thị trường bảo hiểm Việt Nam chịu sự chi phối độc quyền của Bảo Việt. Việc ban hành hai Pháp lệnh điều chỉnh quan hệ hợp đồng là Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29-4-1991 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989, Nhà nước đã bắt đầu thiết lập những cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Năm 1990, với sự ra đời của Bộ luật hàng hải, nhà lập pháp đã qui định hẳn một chương riêng (chương 16) dành cho hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Đến ngày 18-12-1993 Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP, theo đó thế độc quyền của Bảo Việt bị phá vỡ và thay vào đó là sự ra đời của hàng loạt doanh nghiệp bảo hiểm ở nhiều loại hình khác nhau. Và đặc biệt là Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua và có hiệu lực ngày 1-7-1996, giành hẳn Chương 2 phần 3 mục 11 qui định về hợp đồng bảo hiểm. Tiếp đó Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật để tạo ra một hành lang pháp lý cần thiết cho quan hệ hợp đồng bảo hiểm. B. KHÁI NIỆM BẢO HIỂM Bảo hiểm là hoạt động phân tán rủi ro theo qui luật số đông. Nghĩa là người tham gia bảo hiểm (người mua bảo hiểm) chuyển rủi ro cho công ty bảo hiểm theo cơ chế người tham gia bảo hiểm trả cho công ty bảo hiểm một khoản tiền (gọi là phí bảo hiểm) để khi có tổn thất do thiên tai hoặc tai nạn gây ra thì họ sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường. Chính vì có nhiều người đóng phí bảo hiểm nên sẽ tạo ra một quỹ lớn và công ty bảo hiểm sẽ lấy số tiền từ quĩ này để bù đắp tổn thất cho một số ít người tham gia bảo hiểm. Rõ ràng nếu chỉ có một số ít người tham gia bảo hiểm thì sẽ không lập được thành một quỹ lớn và nếu như rủi ro xảy ra nhiều quá mức thì cũng sẽ không thể bù đắp được thiệt hại. Nên bảo hiểm bao giờ cũng có rất nhiều người tham gia và rủi ro đó cũng không thể là những rủi ro mang tính khách quan. Bằng cách đóng phí bảo hiểm để tạo ra quĩ lớn thì tổn thất của một người, một nhóm người hay một tổ chức sẽ được chia nhỏ ra toàn thể cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. Vì thế mà một tổn thất lẽ ra rất nặng nếu chỉ có một người gánh chịu sẽ trở lên chịu đựng được đối với người bị tổn thất nhờ có sự gánh đỡ của cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. Xét trên khía cạnh kinh tế, bảo hiểm là một mối quan hệ hợp đồng còn đứng trên khía cạnh xã hội, bảo hiểm là hoạt động đảm bảo đời sống kinh tế cho các thành viên trong xã hội trước các nguy cơ bị mất an toàn về kinh tế do rủi ro gây ra. Trong bảo hiểm luôn có ba nhân tố đó là: rủi ro - chuyển giao rủi ro - chia nhỏ tổn thất. - Rủi ro: là khả năng xảy ra một tổn thất. Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro như: do thiên tai, sự phát triển của sản xuất có thể kéo theo sự thiệt hại lớn hơn khi rủi ro xảy ra; do ảnh hưởng của môi trường xã hội: thất nghiệp,...; do sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật,... Bảo hiểm chỉ xét đến mặt trái của sự phát triển khoa học kỹ thuật, sự phát triển của khoa học kỹ thuật có thể giúp con người hạn chế hoặc kiểm soát một số rủi ro nhất định, mặt khác nó cũng có thể là nguyên nhân làm cho mức độ tổn thất trở lên trầm trọng đó là chưa kể đến sự bất cẩn của con người. - Chuyển giao rủi ro: có các cách chuyển giao rủi ro: + Chuyển giao rủi ro thông qua các biện pháp phi bảo hiểm. Người ta có thể thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng qui định trách nhiệm của mỗi bên khi rủi ro xảy ra. + Chuyển giao rủi ro thông qua bảo hiểm: rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm sang công ty bảo hiểm. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân thường có tài sản có giá trị cao, qui mô sản xuất lớn, nhu cầu trong cuộc sống cao. Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi họ phải có sự tự chủ về tài chính. Chính vì vậy việc bỏ ra một chi phí nhất định để có được sự đảm bảo cho tương lai là nhu cầu của bất cứ tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân nào mà họ có thể thực hiện thông qua bảo hiểm. Ví dụ, một người có chiếc xe Toyota, có khả năng bị tổn thất lớn về tài chính khi tai nạn giao thông xảy ra. Thông qua việc mua bảo hiểm, người đó chuyển rủi ro cho công ty bảo hiểm. - Chia sẻ tổn thất: Rủi ro được chuyển từ người tham gia bảo hiểm sang công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm là người chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất nhưng thực ra tổn thất này được chia sẻ cho tất cả những người tham gia bảo hiểm, tổn thất của người này được chia sẻ cho nhiều người khác hoặc ngược lại. Bởi vì cộng đồng người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm xây dựng lên quĩ bảo hiểm gồm tập hợp số phí bảo hiểm và bồi thường thiệt hại từ quĩ đó. Hoạt động bảo hiểm luôn phải có đủ ba nhân tố trên, thiếu một trong ba nhân tố đó thì hoạt động đó không phải là hoạt động bảo hiểm. CHƯƠNG II KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM A. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM I. Khái niệm Theo điều 571 Bộ Luật dân sự Việt Nam 1996 thì hợp đồng bảo hiểm được định nghĩa là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm hiểu theo nghĩa chủ quan đó là một quan hệ xã hội được hình thành từ sự thoả thuận của các bên. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành một quan hệ hợp đồng được. Do đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì hợp đồng bảo hiểm mới hình thành. Cơ sở đầu tiên để hình thành hợp đồng bảo hiểm là việc thoả thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự “tự do” ấy phải được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Thông thường trong hợp đồng bảo hiểm có hai bên tham gia: bên bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) cũng là bên được bảo hiểm. Còn trường hợp khác có ba bên tham gia khi hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ ba. Khi đó có bên bảo hiểm - bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) - người thứ ba (bên được bảo hiểm). Người thứ ba có các quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm, trừ nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm gồm bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, các bên tự do thoả thuận về các điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm. Có thể nói đây là loại hình bảo hiểm mà ý chí của các bên có quyền định đoạt cao. Còn đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc, các điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm do pháp luật qui định. II. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm 1. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có phát sinh nghĩa vụ có điều kiện Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng phát sinh hay chấm dứt hậu quả pháp lý phụ thuộc vào sự kiện là điều kiện của hợp đồng. Khi sự kiện đó xảy ra thì hợp đồng phát sinh hay chấm dứt hiệu lực. Sự kiện được coi là điều kiện của hợp đồng do các bên thoả thuận khi xác lập hợp đồng. Nó phải là sự kiện có thể xảy ra nhưng không chắc chắn phải xảy ra trong tương lai. Điều kiện làm phát sinh hay chấm dứt hợp đồng phải hợp pháp. Có hai loại hợp đồng có điều kiện: loại thứ nhất là hợp đồng có điều kiện phát sinh là hợp đồng đã được xác lập nhưng chỉ phát sinh hiệu lực thật sự khi có sự kiện được coi là điều kiện xảy ra. Hay nói cách khác hợp đồng đã được kí kết nhưng chưa thực hiện mới hoặc chỉ có một bên phải thực hiện, nếu xuất hiện điều kiện mà các bên thoả thuận thì hợp đồng mới bắt đầu được thực hiện hoặc bên chưa phải thực hiện nghĩa vụ sẽ phải thực hiện, nếu trong thời hạn của hợp đồng mà không xuất hiện điều kiện thì hợp đồng đương nhiên chấm dứt. Loại thứ hai là hợp đồng có điều kiện huỷ bỏ. Ở đây hợp đồng đã được xác lập và phát sinh hiệu lực, đang được thực hiện nhưng khi có sự kiện là điều kiện xảy ra thì hợp đồng bị đình chỉ hiệu lực, các quyền và nghĩa vụ của các bên chấm dứt. Hợp đồng bảo hiểm thuộc loại thứ nhất, có nghĩa là chỉ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm thì hợp đồng mới được thực hiện. Do đó, hợp đồng bảo hiểm có thời điểm hiệu lực có sự khác biệt so với các hợp đồng dân sự thông thường khác ở chỗ nó có hiệu lực từ khi được kí kết nhưng chỉ có ý nghĩa về mặt hình thức vì mới chỉ có bên mua bảo hiểm phải thực hiện hợp đồng. Mà hiệu lực này chỉ có ý nghĩa rằng hợp đồng đã được xác lập và các bên đều sẽ phải có trách nhiệm với hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm còn có thời điểm hiệu lực khác mang ý nghĩa thực tế của việc thực hiện hợp đồng. Đó chính là thời điểm mà xuất hiện sự kiện bảo hiểm và lúc này người bảo hiểm bắt đầu có trách nhiệm vật chất đối với người được bảo hiểm. 2. Hợp đồng bảo hiểm cũng có thể được coi là hợp đồng có lợi cho người thứ ba. Không phải hợp đồng bảo hiểm lúc nào cũng có lợi cho người thứ ba mà chỉ khi hợp đồng có ba bên liên quan đến hợp đồng: bên bảo hiểm - bên mua bảo hiểm - bên thứ ba (bên được bảo hiểm). Ở đây việc kí kết hợp đồng chỉ diễn ra giữa hai bên: bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm và việc kí kết chỉ ra rằng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm thì người thứ ba sẽ là người được bảo hiểm chứ không phải là bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm không phải vì lợi ích của mình mà vì lợi ích của người khác (người thứ ba). Ví dụ: với loại hình bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tín dụng là bên tham gia bảo hiểm, kí kết hợp đồng bảo hiểm với bên bảo hiểm để bảo hiểm cho số tiền gửi của khách hàng tại tổ chức mình. Khi có sự kiện bảo hiểm thì người được bảo hiểm chính là các khách hàng của tổ chức tín dụng đó. Người được bảo hiểm thường có mối quan hệ với bên mua bảo hiểm chính vì vậy mà họ được người mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm vì lợi ích của mình. Nhưng giữa người được bảo hiểm và bên bảo hiểm lại gần như không có mối quan hệ nào hoặc là có nhưng rất ít. Quan hệ giữa họ với bên bảo hiểm thường bắt đầu khi bên bảo hiểm thực hiện trách nhiệm vật chất và kết thúc khi bảo hiểm thanh toán bồi thường xong cho người được bảo hiểm. B. CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM Đối với hợp đồng dân sự chủ thể của hợp đồng là những “người” tham gia vào quan hệ hợp đồng đó. Phạm vi “người” tham gia vào hợp đồng bao gồm: cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong trường hợp đặc biệt là Nhà nước. Hợp đồng bảo hiểm gồm có hai chủ thể là bên bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm (người mua bảo hiểm) cũng đồng thời là người được bảo hiểm. Trong trường hợp hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ ba thì có ba bên tham gia hợp đồng là: bên bảo hiểm - người tham gia bảo hiểm (người mua bảo hiểm) và người thứ ba (người được bảo hiểm). I. Bên bảo hiểm Bên bảo hiểm là tổ chức tham gia hợp đồng bảo hiểm thu phí bảo hiểm đồng thời chịu trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm. Sự phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay gắn chặt với sự lớn mạnh của công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Từ trước cho đến năm 1993 Bảo Việt được biết đến là bên bảo hiểm duy nhất, là người độc quyền về kinh doanh bảo hiểm. Công ty bảo hiểm Việt Nam - tiền thân của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ngày nay ra đời ngày 17 tháng 12 năm 1964 và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965. Ngày đầu Bảo Việt có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh ở Hải Phòng. Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất - nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, làm đại lý giám định và xét bồi thường cho các công ty bảo hiểm nước ngoài về hàng hoá xuất - nhập khẩu. Từ năm 1975, Bảo Việt bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động xuất các tỉnh, thành phố phía Nam. Trong những năm 80, Bảo Việt chính thức có mạng lưới cung cấp dịch vụ trên khắp cả nước, triển khai các nghiệp vụ mới. Đây cũng là thời kì Bảo Việt bắt đầu cung cấp dịch vụ bảo hiểm hành khách và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới. Năm 1982, Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa, đáp ứng cả yêu cầu kinh tế và nhiệm vụ chính trị. Cuối năm 1988 cơ cấu tổ chức của Bảo Việt gồm một văn phòng công ty với 12 phòng chức năng, 12 chi nhánh bảo hiểm địa phương. Đầu năm 1989, theo Quyết định của Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam được đổi thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam như ngày nay theo Nghị định số 195/HĐBT ngày 15/10/1989. Cơ cấu ngành cũng thay đổi: các cơ quan đại diện của Bảo Việt tại các tỉnh chuyển thành các công ty bảo hiểm tỉnh, Bảo Việt được Nhà nước xếp loại “Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt”, trở thành một trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Hiện tại, Bảo Việt có 92 đơn vị thành viên, trong đó có 29 công ty bảo hiểm nhân thọ, 61 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 1 trung tâm đào tạo, 1 đại lý ở Anh quốc và có gần 300 phòng bảo hiểm khu vực. Bảo Việt có số vốn nhiều gấp hơn hai lần tổng số vốn của tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm khác ở Việt Nam cộng lại, số quĩ dự phòng bảo hiểm trên 1.600 tỷ đồng, với số nhân viên chiếm khoảng 70% tổng số lao động toàn ngành. Bảo Việt luôn là doanh nghiệp dẫn đầu thị trường, với thị phần toàn quốc hiện tại là 66,9%. Trong giai đoạn hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã khá phát triển với sự đa dạng về các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đó là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, nó tạo ra môi trường khuyến khích và cởi mở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các vấn đề hỗ trợ đào tạo và chuyển giao công nghệ cũng như việc tiếp thu kinh nghiệm quản lý của nước ngoài đang là đòi hỏi đối với sự phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật tạo nên cơ chế pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ngày 18/12/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP, văn bản này đánh dấu cho sự ra đời một thị trường bảo hiểm hoạt động theo cơ chế thị trường, thay cho sự độc quyền của Bảo Việt là sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều chủ thể. Các chủ thể được phép tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo Nghị định này bao gồm: - Các doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh bảo hiểm, chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. - Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) là doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có chức năng chuyên kinh doanh tái bảo hiểm. - Tổ chức môi giới bảo hiểm. - Đại lý bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm muốn tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ._.phải được Bộ Tài chính cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thống kê về các công ty bảo hiểm tại Việt Nam: - Từ 1965 đến hết 1993, Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất tại Việt Nam. - Năm 1995 công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh và công ty tái bảo hiểm quốc gia được thành lập, thị trường bảo hiểm Việt Nam bắt đầu có cạnh tranh. - Từ 1996-1998 có thêm 7 công ty bảo hiểm và môi giới khác được thành lập, trong đó có 3 công ty liên doanh bảo hiểm với nước ngoài. - Năm 1999, Việt Nam chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đã có 5 công ty bảo hiểm mới được thành lập trong đó có 3 công ty 100% vốn nước ngoài, 2 công ty liên doanh. - Đến hết tháng 6 năm 2000, có tất cả 16 doanh nghiệp bảo hiểm tại thị trường Việt Nam (trong đó có 5 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ (trong đó Bảo Việt hoạt động trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ), 1 công ty tái bảo hiểm, 1 công ty môi giới và 10 công ty bảo hiểm phi nhân thọ): + 4 doanh nghiệp Nhà nước: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC) và công ty tái bảo hiểm quốc gia (VINARE). + 4 công ty cổ phần trong nước: công ty cổ phần bảo hiểm Nhà nước (Bảo Long), công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), công ty bảo hiểm cổ phần liên hiệp (VIC), công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI). + 4 công ty liên doanh với nước ngoài: công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (V.I.A), công ty tư vấn dịch vụ bảo hiểm A0N - INCHINBROK (AIB), công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc (BIDV - QBE), công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Minh - CMG. + 4 công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài mới được thành lập là: Alliauz - AGF (bảo hiểm phi nhân thọ), Chinfon - Munulife (bảo hiểm nhân thọ) và Prudential (bảo hiểm nhân thọ), AIA (bảo hiểm nhân thọ). II. Người tham gia bảo hiểm Người tham gia bảo hiểm là các tổ chức và cá nhân mua bảo hiểm do có nhu cầu bảo hiểm hoặc có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo qui định của pháp luật, là người trực tiếp ký kết hợp đồng bảo hiểm với bên bảo hiểm nhằm đảm bảo sự an toàn cho các đối tượng là tài sản, tính mạng, sức khoẻ của mình hay của người khác. Trong xã hội có nhiều loại hình tổ chức như: doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị,... tất cả các tổ chức này đều có thể trở thành chủ thể tham gia bảo hiểm mà không phụ thuộc họ có tư cách pháp nhân hay không, là tổ chức trong nước hay tổ chức nước ngoài. Đối với cá nhân để trở thành một bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và phải thoả mãn các điều kiện được qui định trong từng chế độ bảo hiểm cụ thể. Cá nhân là chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm có thể là người Việt Nam hoặc người nước ngoài. Đối với hợp đồng mà người tham gia bảo hiểm kí kết nhằm bảo vệ lợi ích của bản thân thì người tham gia bảo hiểm cũng đồng thời là người được bảo hiểm, còn đối với hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ ba thì người được bảo hiểm là người thứ ba. III. Người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm Khái niệm người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm xuất hiện khi hợp đồng bảo hiểm được kí kết vì lợi ích của người thứ ba. Người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm là người vì lợi ích, quyền lợi của người đó khiến người tham gia bảo hiểm kí kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng tạo ra hai mối quan hệ pháp lý: thứ nhất giữa người tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm, thứ hai giữa bên bảo hiểm và người thứ ba. Giao kết hợp đồng bảo hiểm vì lợi ích của người thứ ba phải đáp ứng một số điều kiện khi thì liên quan đến các bên giao kết, khi thì liên quan đến người thứ ba. Trước hết, giữa các bên giao kết phải có một hợp đồng, trong đó bên tham gia bảo hiểm đã chuyển tất cả các quyền lợi của mình do hợp đồng mang lại cho người thứ ba. Đối với người thứ ba có hai vấn đề đặt ra: - Có thể giao kết cho một người không xác định được không? Trường hợp này có thể được chấp nhận với điều kiện là người thứ ba hưởng lợi phải có thể xác định được vào ngày mà sự thực hiện hợp đồng có hiệu lực đối với họ. Vậy điều trở ngại cho sự hữu hiệu của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm vì lợi ích của người thứ ba không phải là người thứ ba không được xác định trong hiện tại mà vì người đó không thể xác định trong tương lai, hay nói cách khác đi không bao giờ có thể xác định được. Ví dụ: một tổ chức xuất khẩu hàng hoá đem bảo hiểm hàng hoá gửi đi cho một thương gia, nhưng thay vì ghi người được bảo hiểm là thương gia nọ, tổ chức này lại ghi rằng người được bảo hiểm là chủ sở hữu cuối cùng của hàng hoá với mục đích là để đề phòng khi hàng hoá bị mất hay hư hao dọc đường thì người mua lại hàng hoá đó có thể được hưởng tiền bồi thường của hãng bảo hiểm. - Có thể thực hiện hợp đồng cho một người chưa sinh ra đời không? Sự giao kết cho một người thứ bao tương lai phải coi là sự hữu hiệu nhưng hiệu lực của sự giao kết bị đình chỉ cho tới khi người thứ ba ra đời. Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ người ta có thể giao kết vì quyền lợi của con cháu đã sinh hay sắp sinh ra. C. SỰ KIỆN BẢO HIỂM Bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện hợp đồng bảo hiểm tức là thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có thể hiểu là những rủi ro gây ra tổn thất thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm đã được các bên kí kết hợp đồng bảo hiểm thoả thuận. Điều 575 Luật dân sự định nghĩa: Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật qui định mà khi có sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm. I. Rủi ro bảo hiểm. Rủi ro là khả năng có thể gây ra hư hỏng, thiệt hại hoặc huỷ hoại cho đối tượng được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm có thể do thiên tai hoặc do con người gây ra và rủi ro đó phải có khả năng gây ra thiệt hại. Các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm bao giờ cũng đặc biệt quan tâm đến thoả thuận về sự kiện bảo hiểm trong đó có rủi ro được bảo hiểm vì nó có ý nghĩa quyết định cho vấn đề có bồi thường hay không bồi thường. Quá trình lịch sử phát triển của bảo hiểm đã ngày càng hoàn thiện những nguyên tắc của hoạt động bảo hiểm trong đó việc xác định những rủi ro được bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng vì nó phải làm sao bảo đảm lợi ích của khách hàng mà lại đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của bên bảo hiểm. Xin được nêu ra một số nguyên tắc bảo hiểm mà được coi là nền tảng của hoạt động bảo hiểm: - Nguyên tắc bảo hiểm đối với rủi ro khách quan: theo nguyên tắc này, chỉ những rủi ro tham gia bảo hiểm mới có thể được bảo hiểm. Những rủi ro do người được bảo hiểm cố ý gây ra không thuộc sự kiện bảo hiểm vì rõ ràng hành vi cố ý đó là một sự gây thiệt hại cho xã hội không đúng với mục đích, ý nghĩa của bảo hiểm. Đây là một nguyên tắc mà nghiệp vụ bảo hiểm nào cũng ghi nhận. Điều 5 khoản 1 - Qui tắc bảo hiểm tai nạn con người (ban hành kèm theo Quyết định số 391/TCBH ngày 20/9/1991) qui định: “Hành động cố ý tự gây ra tai nạn của người được bảo hiểm hoặc của người thừa kế hợp pháp đều không thuộc phạm vi bảo hiểm”. Và ở Điều 11 - Qui tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba cũng qui định: “Bảo Việt sẽ không bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất liên quan đến hành động cố ý của người được bảo hiểm hay người đại diện của họ”. Cần hiểu rằng không phải mọi trách nhiệm đều đổ hết lên công ty bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm cũng phải có trách nhiệm trong việc không để xảy ra rủi ro hoặc hạn chế hậu quả của rủi ro trong phạm vi khả năng của mình do đó khi họ cố ý gây ra rủi ro để hưởng bảo hiểm thì đó là hành vi trục lợi và họ đã không thực hiện trách nhiệm của mình do vậy mà chính họ phải gánh chịu rủi ro đó. - Nguyên tắc bảo hiểm đối với rủi ro có tính ngẫu nhiên: điều đó có nghĩa là những rủi ro được bảo hiểm không phải là những rủi ro xảy ra có tính tất yếu trên thực tế. Những rủi ro đã biết trước chắc chắn sẽ gây ra thiệt hại không thuộc sự kiện bảo hiểm vì bảo hiểm chỉ có thể nhận bảo hiểm những rủi ro mang tính chất bất ngờ không lường trước được. Điều 6 - Qui tắc bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu đối với tàu thuyền hoạt động trên sông hồ, vùng nội thuỷ (ban hành kèm theo Quyết định 254/TCQD ngày 25/5/1990 của Bộ Tài chính) có qui định: “Bảo Việt không chịu trách nhiệm bồi thường nếu tổn thất xảy ra do nguyên nhân tàu không đủ khả năng hoạt động”. Trên thực tế nếu rủi ro phát sinh do hành vi của chính người tham gia bảo hiểm thực hiện thì rủi ro đó phải được xem xét trong mối liên hệ với lỗi và động cơ của người thực hiện hành vi mới được coi là rủi ro được bảo hiểm. Ví dụ, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì Bảo Việt sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất xảy ra do chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng điều lệ giao thông đường bộ như: xe không có giấy phép lưu hành; lái xe không có bằng lái hoặc có bằng lái không hợp lệ; lái xe uống rượu bia, sử dụng ma tuý hoặc các chất kích thích khác trong khi điều khiển xe; xe chở chất cháy, chất nổ trái phép; xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách qui định; xe đi vào đường cấm hoặc đi đêm không có đèn (theo qui tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ban hành kèm theo Quyết định 504/TCBH ngày 20/11/1991 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). Chỉ trong một số loại bảo hiểm cá biệt, bên bảo hiểm mới chịu trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi rủi ro do chính hành vi của họ gây ra với lỗi cố ý. Điều này được qui định rõ trong từng hợp đồng bảo hiểm cụ thể, căn cứ vào đặc điểm của loại bảo hiểm đó, đặc điểm của đối tượng bảo hiểm. Ví dụ: theo chế độ bảo hiểm nhân thọ thời hạn 5 năm và 10 năm thì đối với trường hợp người được bảo hiểm chết do tự tử, nhiễm vi rút HIV, nếu hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên thì bên bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm theo mức qui định. Sự kiện bảo hiểm là một yếu tố không thể thiếu của hợp đồng bảo hiểm và do tính chất quan trọng của nó mà các công ty bảo hiểm thường xây dựng các qui tắc bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có hai vấn đề then chốt là phạm vi bảo hiểm và các điểm loại trừ bảo hiểm. Các khách hàng cũng có thể thoả thuận cùng doanh nghiệp bảo hiểm về những điểm riêng biệt để đáp ứng nhu cầu đa dạng của mình. Phạm vi của bảo hiểm chính là những sự kiện được bên bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Bên bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm khi và chỉ khi rủi ro xảy ra đó thuộc phạm vi bảo hiểm. Hay nói đúng hơn là có sự lựa chọn nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Không phải mọi nguyên nhân gây ra rủi ro đều được bảo hiểm mà chỉ một số nguyên nhân nhất định mà gây ra rủi ro mới được bên bảo hiểm bồi thường. Ví dụ phạm vi bảo hiểm trong bảo hiểm tai nạn con người là những trường hợp người được bảo hiểm bị chết hay thương tật do tai nạn bất ngờ hoặc do có hành vi cứu người, tài sản của Nhà nước, của cá nhân hoặc tham gia chống các hành động phạm pháp. Trong bảo hiểm hoả hoạn bên bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường nếu tài sản được bảo hiểm bị hư hỏng hoặc huỷ hoại do bị cháy. Nếu do những nguyên nhân khác thì bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm. Các điểm loại trừ bảo hiểm (hay còn gọi là những sự kiện không thuộc sự kiện bảo hiểm) cũng được qui định cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm nhằm làm rõ ràng hơn ranh giới trách nhiệm của bên bảo hiểm và để giúp khách hàng hiểu rõ được phạm vi quyền lợi của mình. Nó sẽ chỉ ra những thiệt hại, những nguyên nhân, những lĩnh vực hoạt động, những vùng địa lý,... mà công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm. Bởi lẽ những điều này trước hết để đảm bảo an toàn cho hoạt động quá lớn vượt quá khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, hay những nguyên nhân mà làm mất đi nguyên tắc bảo hiểm khách quan, ngẫu nhiên,... Bên cạnh đó nó còn có mục đích nhằm hạn chế bớt những rủi ro tương đối rộng có thể xảy ra cho đối tượng bảo hiểm từ đó mà giữ được phí bảo hiểm ở mức hợp lý. Bởi lẽ công ty bảo hiểm khi đưa ra mức phí bảo hiểm bao giờ cũng phải tính toán trên cơ sở xác suất xảy ra rủi ro. Nếu rủi ro càng cao thì phí bảo hiểm càng lớn và khi đó sẽ có rất ít người chịu được mức phí cao như vậy. Những điểm loại trừ làm giảm khả năng xảy ra rủi ro nên tất nhiên phí bảo hiểm cũng được giảm xuống. Trong các hợp đồng bảo hiểm, những rủi ro xảy ra do các nguyên nhân chiến tranh, bạo loạn thường được liệt vào những điểm loại trừ vì những rủi ro này có tính chất thảm hoạ tàn khốc và hậu quả rất lớn mà một mình công ty bảo hiểm không thể gánh chịu (riêng đối với bảo hiểm hàng hải có ngoại lệ là các rủi ro trên có thể trở thành rủi ro được bảo hiểm nếu người tham gia bảo hiểm có thoả thuận bảo hiểm thêm những rủi ro này). II. Tổn thất Nhìn chung những rủi ro khi xảy ra đều gây tổn thất nhưng cũng có khi rủi ro lại không dẫn đến tổn thất. Sự kiện bảo hiểm là những rủi ro gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm. Hơn nữa, tổn thất đó phải là hậu quả của rủi ro, rủi ro là nguyên nhân chính, trực tiếp của tổn thất. Tổn thất có thể hiểu là những thiệt hại, sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực của đối tượng bảo hiểm. Một tổn thất khi muốn được bảo hiểm thì phải thoả mãn những điều kiện chính: sự thiệt hại phải chắc chắn, phải chưa được bồi thường và phải là hậu quả trực tiếp của các rủi ro được bảo hiểm. Sự thiệt hại phải chắc chắn: điều đó không có nghĩa là bắt buộc thiệt hại đó phải đã xảy ra, một sự thiệt hại tương lai cũng có tính chắc chắn nếu nhất định sẽ xảy ra và có thể ước lượng được. Trái lại một sự thiệt hại không chắc chắn sẽ xảy ra hoặc chỉ có tính cách giả định thì không thể được bồi thường. Ví dụ một người kí hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm tính mạng của mình, khi người này bị tai nạn nhưng không chết ngay mà theo kết quả giám định do công ty bảo hiểm tiến hành thì sau một tháng nữa người đó chắc chắn sẽ chết. Trường hợp này thiệt hại (tính mạng) chưa xảy ra nhưng cũng chắc chắn và như vậy phải được bồi thường. Sự thiệt hại phải chưa được bồi thường hoặc bồi thường chưa đủ. Có ba loại bảo hiểm là bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con người và bảo hiểm tài sản. Đối với bảo hiểm trách nhiệm, dĩ nhiên nạn nhân đã được công ty bảo hiểm bồi thường thì không thể kiện người gây ra tai nạn để đòi bồi thường thêm một lần thứ hai, vì khi bồi thường cho nạn nhân, công ty bảo hiểm đã đại diện cho người gây ra tai nạn. Hoặc khi người gây ra tai nạn đã bồi thường đầy đủ cho nạn nhân thì nạn nhân cũng không có quyền đòi công ty bảo hiểm bồi thường nữa. Sự thiệt hại phải là hậu quả trực tiếp của rủi ro được bảo hiểm. Nếu thiệt hại là do những nguyên nhân khác thì cũng không được bảo hiểm. Ví dụ: một chủ tàu bảo hiểm cho tàu của mình, khi đi trên biển gặp bão và tàu bị đắm nhưng thiệt hại này không phải do bão gây ra mà là do tàu đã quá cũ không còn khả năng đi biển do vậy sẽ không được bồi thường. Việc tính toán mức tổn thất đều phải dựa vào giá trị thiệt hại thực tế của tai nạn, tổn thất. Trong một số hợp đồng bảo hiểm tài sản, đặc biệt là bảo hiểm hàng hải người ta còn phân biệt tổn thất chung, tổn thất riêng, tổn thất toàn bộ, tổn thất bộ phận. Việc phân biệt này có ý nghĩa trong giải quyết bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. - Căn cứ vào qui mô và mức độ tổn thất: tổn thất được chia thành tổn thất toàn bộ và tổn thất bộ phận. + Tổn thất bộ phận: là việc hàng hoá bị mất mát hoặc giảm giá trị và giá trị sử dụng ở một mức độ nhất định. Các trường hợp hàng hoá bị mất mát thì dễ xác định giá trị tổn thất còn sẽ rất khó xác định chính xác đối với hàng hoá bị giảm giá trị và giá trị sử dụng. Cũng cần phân biệt tổn thất bộ phận với sự hao hụt tự nhiên của hàng hoá. Có nhiều hàng hoá có đặc tính bị hao hụt một cách tự nhiên. Ví dụ: xăng có thể bị bay hơi, muối có thể bị chảy nước,... đó hoàn toàn là do đặc tính tự nhiên của hàng hoá không phải là rủi ro và do đó không được tính số hao hụt tự nhiên vào tổng số tổn thất để đòi bảo hiểm bồi thường. Các bên khi bảo hiểm hàng hoá có hao hụt tự nhiên thường thoả thuận khấu trừ theo một tỷ lệ nào đó để loại trừ hao hụt tự nhiên ra khỏi tổn thất được bồi thường. + Tổn thất toàn bộ: là hàng hoá bị mất hết hoặc bị phá huỷ hoàn toàn làm cho mất hẳn giá trị sử dụng. Tổn thất ở đây là mức độ lớn nhất không có khả năng khôi phục lại. Tổn thất toàn bộ khác tổn thất toàn bộ ước tính. Tổn thất toàn bộ ước tính là dạng tổn thất không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế hay vì chi phí cứu hàng, tu bổ lại hàng hoá, tài sản có thể vượt quá giá trị bảo hiểm (giá trị của tài sản, hàng hoá đó). Trong trường hợp xác định tổn thất toàn bộ ước tính thì chủ hàng (người được bảo hiểm) có quyền tuyên bố từ bỏ hàng để được bồi thường như tổn thất toàn bộ. Người bảo hiểm phải bồi thường toàn bộ giá trị tài sản, hàng hoá đồng thời được quyền sở hữu hàng hoá đó. - Căn cứ vào các quyền lợi có mặt: có hai loại là tổn thất riêng và tổn thất chung. + Tổn thất riêng: là tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ ngẫu nhiên gây ra chỉ liên quan đến từng quyền lợi bảo hiểm riêng biệt. Tổn thất riêng chỉ gây ra thiệt hại cho quyền lợi của một vài chủ hàng, chủ tài sản trong số rất nhiều chủ hàng, chủ tài sản. Tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ phận, có thể là tổn thất toàn bộ. Tổn thất riêng rơi vào chủ hàng nào thì chủ hàng đó phải gánh chịu. Tổn thất riêng có thể được bảo hiểm hoặc không được bảo hiểm tuỳ thuộc vào điều kiện bảo hiểm. + Tổn thất chung là những tổn thất về tài sản vật chất và những chi phí phát sinh do hành động bảo vệ lợi ích chung của con người trong những tình huống, điều kiện cấp bách để cứu tàu và hàng hoá. Tổn thất chung được phân bổ cho tất cả các quyền lợi có mặt cùng gánh chịu bao gồm thiệt hại về vật chất và các chi phí có liên quan. Các yếu tố xác định tổn thất chung: · Tình huống phải đặc biệt cấp bách, có nguy cơ thực sự đe doạ chuyến hàng. · Nguyên nhân của tổn thất phải do hành động hy sinh cố ý để bảo vệ lợi ích chung của con người. · Tổn thất phải nhằm mục đích cứu vãn cả hành trình. · Tổn thất và chi phí bỏ ra phải hợp lý, phải phù hợp với hoàn cảnh. Ví dụ: như hành động hy sinh quyền lợi của một số ít để đảm bảo quyền lợi chung của các chủ hàng trong hành trình. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu những hy sinh dưới đây được coi là tổn thất chung: · Tàu gặp bão hay bị địch đuổi phải vứt một số hàng xuống biển làm nhẹ tàu cho tàu chạnh nhanh thoát nạn, hàng vứt xuống biển là tổn thất chung. · Tàu bị cạn, muốn ra khỏi cạn phải thúc máy chạy quá sức bị nổ nồi hơi được coi là tổn thất chung. · Tàu bị nạn thiếu nhiên liệu phải lấy bàn ghế của tàu để đốt thay nhiên liệu là tổn thất chung. · Tàu bị cháy phải bơm nước để dập tắt, hàng bị hỏng do ngấm nước. Nguyên nhân dẫn đến tổn thất trong những trường hợp trên mang tính chủ quan, hoàn toàn là ý chí tự nguyện của con người. Song có thể hiểu rằng việc làm này là rất cần thiết để cứu cho chuyến hàng khỏi cơn nguy hiểm đe doạ cả tính mạng và hàng hoá. Nó được coi là sự hy sinh chứ không phải là một hành động có hại vì nếu không hành động như vậy thì tổn thất sẽ lớn hơn. Những trường hợp này được công ty bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm theo mức đóng góp vào tổn thất chung. D. ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM Khái niệm: đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là những thực thể có thể bị rủi ro xâm hại (con người, tài sản) hoặc là trách nhiệm pháp lý do rủi ro mà phát sinh nghĩa vụ dân sự về đền bù vật chất (trách nhiệm dân sự). Chính vì sự an toàn hay bảo toàn cho đối tượng này mà các bên kí kết hợp đồng bảo hiểm. Điều 573 Bộ Luật dân sự qui định: đối tượng của bảo hiểm bao gồm con người, tài sản, trách nhiệm dân sự và các đối tượng khác theo qui định của pháp luật. 1. Đối tượng bảo hiểm là tài sản. Không phải tất cả các loại tài sản đều có thể là đối tượng được bên bảo hiểm nhận bảo hiểm. Bởi vì trong đời sống xã hội, trong nền kinh tế có nhiều loại tài sản. Đó có thể là tài sản hữu hình hoặc là tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là tài sản có hình thái vật chất cụ thể, có thể xác định được giá trị theo các cách thức thông thường. Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, được biểu hiện dưới các hình thức như bản quyền nhãn hiệu hàng hoá, các quyền lợi tài chính,... việc xác định giá trị rất khó khăn, phức tạp. Bởi vậy bên bảo hiểm thường chỉ nhận bảo hiểm đối với những tài sản có thể xác định chính xác giá trị. Trong thực tế, các hợp đồng bảo hiểm tài sản có đối tượng bảo hiểm thường có giá trị lớn và nguy cơ bị rủi ro xâm hại cao. Đối với những tài sản có giá trị quá lớn như tàu biển, máy bay thì người ta có thể chỉ bảo hiểm đối với một bộ phận của vật như thân tàu, thân máy bay,... vì như vậy thì khách hàng mới có thể trả được phí bảo hiểm không quá cao và cũng đảm bảo khả năng bồi thường của công ty bảo hiểm. Bảo hiểm tài sản phát triển mạnh trên thế giới và ở Việt Nam, các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản ngày càng đa dạng, mở rộng ứng với sự đa dạng của các đối tượng là tài sản. Ví dụ trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì đối tượng bảo hiểm là chiếc xe cơ giới. Hiện nay ở Việt Nam phổ biến là các loại bảo hiểm tài sản sau: - Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. - Bảo hiểm thân tàu, thuyền. - Bảo hiểm về đầu tư, xây dựng, lắp đặt. - Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi. - Bảo hiểm về tín dụng. - Bảo hiểm cháy. - Bảo hiểm trộm cướp,... 2. Đối tượng bảo hiểm là con người Con người là thành phần cơ bản của đời sống xã hội. Chính vì vậy, con người là đối tượng của nhiều loại bảo hiểm và bảo đảm xã hội. Con người là đối tượng của bảo hiểm được xem trên các phương diện: tính mạng, sức khoẻ, khả năng hoạt động của con người. Vì đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khoẻ của con người nên không thể xác định được giá trị của đối tượng bảo hiểm. Ở Việt Nam hiện nay chỉ riêng Bảo Việt đã có tới 24 sản phẩm bảo hiểm con người và đang có xu hướng mở rộng gồm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật. Đặc biệt lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ là lĩnh vực mới đang phát triển rầm rộ và được coi là sản phẩm khai thác chiến lược, xuất hiện nhiều ngôi sao khai thác ở hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và doanh số của loại hình này tăng vùn vụt. Ở các nước khác trên thế giới, các công ty bảo hiểm còn nhận bảo hiểm các bộ phận trên cơ thể con người với số tiền nhiều khi rất lớn. Những nhân vật nổi tiếng như các ca sĩ, diễn viên điện ảnh, ngôi sao bóng đá,... có thể tham gia bảo hiểm cho đôi chân, giọng hát, khuôn mặt,... của mình. 3. Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý mà pháp luật qui định áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật hay có lỗi gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường thiệt hại. Khi người gây thiệt hại cho người khác phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thì có thể ảnh hưởng đến đời sống hoặc hoạt động bình thường của người đó hoặc là việc bồi thường vượt quá khả năng tài chính của họ. Bởi vậy chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một biện pháp xử lý rủi ro cho người có trách nhiệm dân sự khi họ phải thực hiện hành vi bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy vậy, không phải tất cả các loại trách nhiệm dân sự đều là đối tượng của bảo hiểm. Xuất phát từ lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và mục tiêu của hoạt động bảo hiểm mà pháp luật của các nước đều qui định, chỉ những trách nhiệm dân sự phát sinh có nguyên nhân là rủi ro khách quan mới có thể là đối tượng bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam qui định, trách nhiệm dân sự là đối tượng của bảo hiểm gồm có hai loại: trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba (trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) và trách nhiệm dân sự trong hợp đồng phát sinh do rủi ro khách quan. Theo chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng thì đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba là người có lợi ích bị xâm hại. Vì vậy trong quan hệ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm đối với phần trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm. Mặt khác giữa bên bảo hiểm, bên được bảo hiểm trách nhiệm dân sự với người thứ ba không có quan hệ hợp đồng mà giữa họ chỉ có mối quan hệ phụ thuộc phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm giữa bên bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Mối quan hệ phụ thuộc giữa bên bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm với người thứ ba chỉ trong phạm vi thanh toán tiền bảo hiểm. Ví dụ: trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bên bảo hiểm sẽ bồi thường thay cho bên tham gia bảo hiểm khoản tiền mà bên tham gia bảo hiểm có trách nhiệm pháp lý phải bồi thường những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của bên thứ ba do sự hoạt động của xe cơ giới gây ra. Trách nhiệm dân sự của các tổ chức, cá nhân trong hợp đồng phát sinh do nhiều nguyên nhân như hành vi cố ý vi phạm hợp đồng, do rủi ro khách quan,... nhưng theo quy định của pháp luật thì đối tượng bảo hiểm chỉ gồm những trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm phát sinh do nguyên nhân là những rủi ro khách quan. Ví dụ: doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với trách nhiệm dân sự của bên vận chuyển hành khách đối với hành lý của hành khách do phương tiện giao thông gặp tai nạn. E. PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM Dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau mà hợp đồng bảo hiểm được phân làm nhiều loại: I. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm gồm có ba loại cơ bản: - Hợp đồng bảo hiểm con người. - Hợp đồng bảo hiểm tài sản. - Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. 1. Hợp đồng bảo hiểm con người. Hợp đồng bảo hiểm con người là những hợp đồng mà đối tượng bảo hiểm là sinh mạng, sức khoẻ, khả năng lao động của con người. - Đặc điểm: + Đối tượng bảo hiểm là sinh mạng, sức khoẻ của con người nên không thể xác định được giá trị của đối tượng bảo hiểm. Do đó số tiền bảo hiểm do các bên thoả thuận trước trong hợp đồng. + Hợp đồng bảo hiểm con người được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. + Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc thế quyền (chuyển yêu cầu bồi hoàn) nghĩa là bên bảo hiểm sau khi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm thì không có quyền yêu cầu đối với người thứ ba. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo uỷ quyền của họ. Nếu bên được bảo hiểm chết thì tiền bảo hiểm được trả cho người thừa kế của bên được bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm con người được phân làm hai loại là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người khác. a. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Là loại hình bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ của con người. Đây là một hình thức kết hợp tiết kiệm với bảo hiểm. Tính chất tiết kiệm thể hiện ở chỗ người tham gia bảo hiểm chắc chắn nhận được tiền bảo hiểm vào thời điểm kết thúc hợp đồng. Ngoài ra nếu công ty bảo hiểm đầu tư có lãi thì người tham gia bảo hiểm sẽ được chia lãi từ kết quả đầu tư. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết của người được bảo hiểm không phải là người sở hữu đơn bảo hiểm khi được người đó đồng ý bằng văn bản. Doanh nghiệp bảo hiểm bị cấm ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết của trẻ em dưới 16 tuổi trừ trường hợp cha mẹ người bảo trợ hợp pháp đồng ý bằng văn bản. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có 5 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cùng hoạt động và cạnh tranh: đó là Bảo Việt, Bảo Minh - CMG (liên doanh), Peudeutial, Chinfon - Munulife và AIG (100% vốn nước ngoài) với các loại hình bảo hiểm nhân thọ như: bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm 10 năm; bảo hiểm trẻ em; bảo hiểm niên kim nhân thọ; bảo hiểm nhân thọ trọn đời. b. Hợp đồng bảo hiểm con người khác. Gồm có ba nhóm: - Hợp đồng bảo hiểm tai nạn hoặc sinh mạng con người nói chung. - Hợp đồng bảo hiểm tai nạn hoặc sinh mạng một số đối tượng đặc biệt. Ví dụ: học sinh, hành khách tham gia giao thông trên các phương tiện giao thông, thuyền viên của các tàu thuyền đánh cá,... - Hợp đồng bảo hiểm khách du lịch. Người tham gia bảo hiểm chỉ trở thành người được bảo hiểm khi người đó có tên trong giấy chứng nhận bảo hiểm do bên bảo hiểm cấp và được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 2. Hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản là những hợp đồng mà có đối tượng bảo hiểm là tài sản. Phổ biến các hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bảo hiểm tự nguyện vì trước hết nó gắn với quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Tuỳ nhu cầu bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm chủ động chọn những rủi ro cần bảo hiểm cho tài sản của mình cũng như mức phí bảo hiểm cần nộp cho bên bảo hiểm để được đền bù khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Điều 583 Bộ Luật dân sự qui định: trong trường hợp quyền sở hữu đối với tài sản bảo hiểm được chuyển cho người khác, thì chủ sở hữu mới đương nhiên thay thế chủ sở hữu cũ trong hợp đồng bảo hiểm, kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản. Chủ sở hữu cũ là bên mua bảo hiểm phải báo cho chủ sở hữu mới về việc tài sản đã được bảo hiểm, báo kịp thời cho bên bảo hiểm về việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản, nếu là bảo hiểm tự nguyện thì chủ sở hữu mới có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng. Các hình thức bảo hiểm chủ yếu đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản gồm có: - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam. - Bảo hiểm thân máy bay. - Bảo hiểm tàu, thuyền. - Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. - Bảo hiểm công trình xây dựng. - Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. - Bảo hiểm trộm, cướp. - Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi,... Tính đến hết tháng 4/2000 hoạt động kinh doanh bảo hiểm tài sản trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tăng trưởng cao. Trong đó các nghiệp vụ bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu tăng mạnh, còn nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe mô tô, bảo hiểm thân tàu lại giảm. Tình hình thị trường bảo hiểm thân tàu trên thế giới cũng cho thấy các nhà bảo hiểm thân tàu đang gặp khó khăn về tài chính, với những số liệu kinh doanh bất lợi vì tỉ lệ tổn thất ngày càng tăng cao trong khi phí bảo hiểm lại có xu hướng giảm. Các chủ tàu thích được ký hợp đồng bảo hiểm dài hạn đầy lợi lộc với những nhà khai thác bảo hiểm khờ dại. Hợp đồng bảo hiểm tài sản mang tính chất là hợp đồng bồi thường. Nguyên tắc chung đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0039.doc
Tài liệu liên quan