BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
________________
VĂN THỊ LỆ HIỀN
HỒN – TÌNH – HÌNH - NHẠC
TRONG THƠ HOÀNG CẦM
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh -2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu
Trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại
học cùng tập thể các Thầy, Cô khoa Ng
184 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2933 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ữ văn của trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phùng Quý Nhâm, người
đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt thời gian tôi học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Là loại hình nghệ thuật mang tính đặc thù, văn học thu hút sự quan tâm
nghiên cứu, sự tìm tòi, khám phám không chỉ với giới nghiên cứu mà rộng ra, với
cả những người yêu thích và biết thưởng thức văn chương. Bước vào thế giới đa
chiều văn học, mỗi người, bằng khả năng, sở trường, sự tâm đắc và niềm đam mê
của mình, sẽ bàn về văn học từ những góc nhìn khác nhau, những phương diện khác
nhau của một lĩnh vực vốn phong phú về đặc điểm và đa dạng trong sự biểu hiện.
Việc tìm hiểu, đánh giá cái hay, cái đẹp, giá trị của một tác phẩm, một tác giả, một
trào lưu văn học cần rất nhiều thời gian và công sức. Những tác giả lớn là những đài
kỉ niệm sống, được xếp hàng ngang và mỗi tác phẩm hay là một nốt nhạc riêng,
mang cung bậc và sức âm vang riêng, làm nên sự phong phú, đa dạng với vẻ đẹp
độc đáo của khu vườn văn học.
1.2. Nền văn học ta giai đoạn từ nửa sau thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX là
thời ngự trị của những đại danh hào, những giá trị cổ điển bậc nhất như: Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương…, những tên tuổi đã làm rạng danh nền văn học nước nhà. Và
giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, bên cạnh những tên tuổi như: Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử…, Hoàng Cầm là một
hiện tượng tiêu biểu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Dấn thân trên bước đường kịch nghệ và thi ca, với Hoàng Cầm, đâu chỉ là cái
duyên mà như là một thiên mệnh. Quả vậy, chất chứa trong hồn người thi sĩ Hoàng
Cầm là niềm mê đắm khôn nguôi với đời và với thơ ca. Phất cánh diều thơ từ rất
sớm, chàng thi sĩ tự nhận mình có duyên với làng quê và có nợ với thi ca ấy, trọn
đời một lòng chung thủy với nàng thơ, lấy thơ làm cứu cánh, làm mục đích và lẽ
sống cho mình. Tiếng thơ Hoàng Cầm không ồn ào mà khiêm nhường, lặng lẽ, sâu
lắng. Giọng thơ Hoàng Cầm mượt mà, đầy sức quyến rũ, bởi hơn ai hết, nhà thơ có
biệt tài trong việc khai thác chất men say của thơ và hơn thế, còn sở hữu một thế
giới nội tâm sâu thẳm và chiều sâu văn hóa làng quê Việt. Thơ ông đẹp vẻ đẹp thướt
tha mà dạt dào, hào sảng, óng ả, thanh cao mà ngọt ngào, lắng đọng. Bước vào thế
giới ấy, người đọc sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước nét bút tài hoa mà rất đỗi nguyên
khôi, một hồn thơ đặc biệt tinh tế và nhạy cảm. Vậy nên, dù gia tài văn chương thi
nhân để lại cho đời không thật nhiều song những tiếng vọng từ sâu thẳm tâm can
ông, qua thơ, lại có ấn tượng không nhỏ trong lòng người đọc.
1.3. Làm nên tên tuổi của Hoàng Cầm trên văn đàn, bên cạnh những sáng tác
thơ còn phải nói đến những tác phẩm văn xuôi và kịch thơ nổi tiếng. Đương nhiên,
chỉ với mảng sáng tạo đầy chất mộng của mình, Hoàng Cầm đã xứng đáng được
xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Giữa
mênh mông cuộc đời, tâm hồn anh minh, sâu lắng và luôn luôn rộng mở ấy, tiếng
thơ tràn đầy nhiệt huyết và giàu trải nghiệm về cuộc sống ấy đã không thể lẫn vào
đâu được, càng không thể phai mờ được. Tuy vậy, đời thơ nhiều tìm tòi, nhiều trăn
trở Hoàng Cầm, trước nay vẫn chưa có được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức. Sự
yêu thích và niềm trân trọng của người thưởng thức đối với thi phẩm ông là không
thể diễn tả hết nhưng việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những bài viết nhỏ, những
tiểu luận ngắn. Nhìn lại những cống hiến to lớn của Hoàng Cầm đối với nền thi ca
nước nhà, sẽ thấy, rất cần thiết phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu đối
với di sản thơ ca quý giá của ông, để cho, cuộc đời sáng tạo không mệt mỏi ấy được
tri ân một cách đúng nghĩa.
Với những lẽ trên, chúng tôi thực hiện luận văn nghiên cứu: Hồn – Tình –
Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm với mong muốn phát hiện ra những điểm sáng
giá trị trong thơ ông, khẳng định một lần nữa tài năng và những đóng góp nhất định
của thi nhân trong dòng chảy lớn của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Điều đó, thiết
nghĩ, có ý nghĩa không nhỏ đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ
Hoàng Cầm.
2. Mục đích nghiên cứu
Ý thức được giá trị to lớn của nguồn thơ Hoàng Cầm, nhận thấy có những
vấn đề mà các công trình nghiên cứu trước đây hoặc chỉ đề cập hoặc có quan tâm
khai thác, song vì lý do nào đó, đã chưa triển khai được một cách sâu sắc, chúng tôi
nghiên cứu mảng vấn đề: Hồn - Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm với mục
đích tìm hiểu những phần sâu hơn, khám phá được nhiều hơn chất ngọc tiềm ẩn
trong những sáng tác thơ của ông. Việc tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu
của những người đi trước trong quá trình làm luận văn nhằm hướng đến trang bị
cho người đọc những nhận thức đúng đắn, đầy đủ về di sản thơ Hoàng Cầm. Nét
văn phong riêng, sự sáng tạo đặc sắc và độc đáo của người nghệ sĩ tài hoa Hoàng
Cầm cũng được khẳng định theo đó.
Mục đích đặt ra là không nhỏ, những gì có thể làm được hẳn cũng chưa phải
là tất cả khi sự nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn. Dẫu vậy, bằng niềm say mê và
lòng nhiệt thành, chúng tôi rất mong mang lại những đóng góp mới mẻ, dù nhỏ, cho
ngành nghiên cứu văn học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nếu những vở kịch thơ và những trang văn xuôi của Hoàng Cầm bộc lộ một
bề dày văn hóa cùng những trải nghiệm về đời, về nghệ thuật sâu sắc và thấu đáo thì
suối thơ của ông chính là dòng sông tâm hồn ông – nơi luôn đầy ắp những con sóng
dạt dào, trẻ trung và ngọt mát. Quả là, ở lĩnh vực nào Hoàng Cầm cũng tạo ra được
ấn tượng đẹp trong lòng người đọc. Song có lẽ, với thi ca, sức bung tỏa của tài năng
và mạch cảm xúc bất tận trong tâm hồn ông mới thực sự tuôn trào. Luận văn không
đề cập đến toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm mà chỉ tập trung nghiên cứu phần thơ
của thi nhân. Ở đó, chúng tôi cũng không bàn đến mọi phương diện về nội dung và
nghệ thuật mà chỉ đi sâu tìm hiểu cái hay, nét đẹp của thơ ông qua những yếu tố về
hồn thơ, tình thơ, hình ảnh và nhạc điệu trong thơ.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra ấy, chúng tôi khảo sát toàn bộ
sáng tác thơ của Hoàng Cầm, cụ thể qua những tập thơ: “Mưa Thuận Thành”, NXB
Văn hóa 1991; “Bên kia sông Đuống”, NXB Văn học 1993; “Lá Diêu Bông”, NXB
Văn học 1993; “Về Kinh Bắc”, NXB Văn học 1994; “Men đá vàng”, NXB Văn
học 1995; và “99 tình khúc”, NXB Văn học 1996. Ngoài ra, Hoàng Cầm còn có
nhiều tác phẩm thơ được in trên các báo và tạp chí song chúng tôi chỉ xem đó như là
những tài liệu tham khảo hữu ích cũng như những sáng tác văn xuôi và kịch thơ vậy.
Tuy sự nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đế mà đề tài đặt ra nhưng để
những điều ấy được khai thác trọn vẹn, được làm sáng rõ, người nghiên cứu đặt
chúng trong mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm,
với cả những sáng tác văn xuôi và kịch thơ của ông. Và trong chừng mực nhất định,
sự liên hệ, đối sánh những nét độc đáo, đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm với sáng tác
thơ của một số tác giả trước, sau hay cùng thời với thi nhân nhằm khẳng định nét
đẹp riêng của tiếng thơ ông, xét thấy cũng là điều cần thiết.
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thơ Hoàng Cầm như chính con người ông, thu hút sự quan tâm của mọi
người không phải bằng sự ồn ào, làm say mê lòng người không phải từ sự trau
chuốt đến bóng bẩy bởi lớp ngôn từ nhiều phép tắc. Vẻ đẹp thơ ông toát ra từ thế
giới tâm hồn, từ tình cảm bao la mà rất mực chân thành của một nhà thơ suốt đời
tận tụy vì nghệ thuật, xem thơ là lẽ sống của mình. Sức quyến rũ kì lạ của thơ
Hoàng Cầm khiến cho những ai yêu thơ khó lòng mà dứt ra được, để rồi càng thấy
thương hơn, quý hơn tấm lòng và tài nghệ con người ấy. Tuy vậy, nhìn lại lịch sử
nghiên cứu văn học trước nay, có thể nói chưa có công trình nào nghiên cứu về thơ
Hoàng Cầm một cách toàn diện và có hệ thống. Dưới hình thức những tiểu luận,
những bài viết ngắn, giới nghiên cứu, phê bình, người giảng dạy và độc giả yêu
thích thơ Hoàng Cầm đã khám phá ra được những giá trị nhất định của thi phẩm
ông, khẳng định sự cống hiến to lớn của thi nhân trong nền văn học hiện đại.
Chính thức bước vào làng Văn từ năm 1939 và thành công với nhiều vở kịch
thơ, nhưng phải nói, thơ là lĩnh vực Hoàng Cầm thử bút sớm nhất. Cậu bé ấy năm
lên tám tuổi đã thổi hồn mình vào trang thư tình trên nền thơ lục bát trao cho người
Chị yêu dấu của mình. Tuy vậy, thi nghiệp của ông chỉ thực sự được khẳng định khi
Bên kia sông Đuống ra đời. Bài thơ đã nâng tên tuổi Hoàng Cầm lên trên đài thơ,
đứng cạnh các bậc liền anh Thế Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu…, và cùng với
những Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi…, thơ Hoàng Cầm làm say lòng độc giả bằng
cách riêng của nó, thu hút mạnh mẽ sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình văn học.
Đến với thơ Hoàng Cầm, người nghiên cứu dù đứng ở góc độ nào, bàn về
phương diện gì cũng đều nhận ra cái tài thơ với tấm lòng yêu thơ, yêu cuộc sống
hiếm thấy nơi ông, ngưỡng mộ thật sự vẻ đẹp tâm hồn, cốt cách của thi nhân. Và ở
những mức độ đậm nhạt khác nhau, các bài viết thể hiện niềm ưu ái, sự đồng cảm
và trân trọng đối với những vần thơ chan chứa tình đời, tình người, ngút đầy nỗi
nhớ, niềm thương của ông. Những bài viết ấy được tập hợp lại trong mấy quyển
sách sau đây: Quyển thứ nhất do Hoài Việt sưu tầm, biên soạn, có tên: Hoàng Cầm,
thơ văn và cuộc đời của NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1997. Quyển thứ hai
của Vũ Tiến Quỳnh, quyển Lý luận phê bình – bình luận văn học, giới thiệu các tác
giả Hồng Nguyên, Chính Hữu, Trần Hữu Thung, Quang Dũng và Hoàng Cầm,
NXB Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh, 1998. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Lạc biên soạn
quyển Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, tập sách có sự tham gia của nhiều
giáo sư, tiến sĩ, nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng và được Hội Nghiên cứu và Giảng
dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ xuất bản năm 2004. Quyển Hoàng
cầm – Tác giả, tác phẩm, tư liệu và quyển Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường,
về hai tác giả Nguyễn Đình Thi và Hoàng Cầm, được Nguyễn Bích Thuận và Lê
Lưu Oanh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn nhiều bài viết về đời và thơ Hoàng
Cầm song phần lớn đã được giới thiệu trong những sách trên. Ngoài ra, còn có một
số bài nghiên cứu nằm rải rác trên các sách, báo và tạp chí, với những cách nhìn,
cách nghĩ khác nhau, tác giả mỗi bài viết đã góp những tiếng nói đầy ý nghĩa cho
việc nhìn nhận, đánh giá về sự nghiệp thơ ca Hoàng Cầm. Trong phạm vi giới hạn
của luận văn, chúng tôi điểm qua những bài nghiên cứu, phê bình, những bài viết có
liên quan và ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu chuyên luận này.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm từ trước đến nay, có thể
thấy, thơ ông được tiếp cận theo hai hướng. Hướng thứ nhất gồm những bài giới
thiệu về cuộc đời và con người nhà thơ, những bài bình luận, đánh giá mang tính
khái quát về cái hay, nét đẹp và cả những điểm hạn chế trong thơ Hoàng Cầm.
Hướng thứ hai đi vào phân tích, thẩm bình một số tác phẩm cụ thể nhằm cung cấp
những tư liệu cần thiết, những gợi ý hữu ích cho việc khám phá, cảm thụ tác phẩm
văn học nói chung và tác phẩm trong nhà trường nói riêng. Việc trình bày sơ lược
những hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm nhằm có cái nhìn đúng đắn, toàn diện về đặc
điểm nội dung và nghệ thuật thơ ông là điều mà chúng tôi mong muốn.
Theo hướng tiếp cận thứ nhất, người nghiên cứu trên nhiều phương diện
khác nhau đã đem đến cho người đọc những ấn tượng chung nhất về thơ Hoàng
Cầm. Tác giả các bài viết ấy là những nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi tiếng,
những nhà văn, nhà thơ và những người bạn thân thiết của ông. Đó là những tên
tuổi được nhiều người biết đến như: Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Đức Hiểu, Hoài Việt,
Chu Văn Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Lai Thúy, Ngô Văn Phú, Nguyễn Xuân
Lạc…
Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên trên đất Kinh Bắc huê tình, diễm ảo, vùng đất
đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho hồn thơ Hoàng Cầm từ nhiều nguồn, nhiều phía. Nhận
định về điều này, Nguyễn Xuân Lạc viết: “Ta từng biết một Nguyên Ngọc gắn bó
với rừng xà nu Tây Nguyên, một Quang Dũng phiêu diêu trong mây trắng xứ
Đoài,… nhưng dễ thường ít có thi nhân nào lại gắn bó đến mức máu thịt với quê
hương Kinh Bắc như Hoàng Cầm... Có sự hòa hợp cộng hưởng giữa thế giới Kinh
Bắc với hồn thơ Hoàng Cầm để làm nên một gương mặt thi nhân, một người thơ
Kinh Bắc quen mà lạ, với phong cách và sắc điệu riêng, chỉ riêng ông mới có” [66,
tr.15]. Bài viết của Nguyễn Xuân Lạc về Hoàng Cầm và thơ ông tuy không thật dài
song đã bộc lộ một sự am hiểu sâu sắc về đời thơ này. Tác giả viết: “Người thơ ấy
đã đi một chặng đường thơ hơn nửa thế kỉ. Nhiều dáng thơ, kiểu thơ, lối thơ nhưng
vẫn chung một hồn thơ Kinh Bắc. Hồn thơ ấy đã lắng đọng và thăng hoa để làm nên
những nét đẹp riêng của thơ Hoàng Cầm mà dường như chỉ ông mới có” [66, tr.20].
“Những nét đẹp riêng” ấy trong thơ Hoàng Cầm được người viết nhận ra từ những
chiếc Lá Diêu Bông, từ Cây Tam Cúc, Quả vườn ổi, từ Bên kia sông Đuống…, từ cả
tập Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc..., và được khẳng định đó là “cái đẹp kì ảo”,
“lý tưởng”, là “cái đẹp của thơ siêu thực”, “thơ của cái viết tự động”.
Thơ Hoàng Cầm là vậy, làm khó ngay cả những người thật sự am hiểu và
yêu thích thi ca. Nghĩ về thơ ông, Nguyễn Đăng Mạnh băn khoăn: “Hình như có
một không gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh” [66, tr.26]. Cùng suy nghĩ
ấy, Nguyễn Xuân Lạc khẳng định: “Cái may mắn lớn nhất trong đời thơ ông là được
hút nhụt ngọt từ vườn hoa thơ diễm tình Kinh Bắc. Và vùng đất thơ ấy đã nuôi
dưỡng, ôm ấp, nâng đỡ cho hồn thơ ông bay lên” [66, tr.24]. Đây là điều không ai
có thể phủ nhận trước mỗi thi phẩm của Hoàng Cầm, mà có chăng chỉ là những
cách nói khác nhau, xuất phát từ những điểm nhìn khác nhau.
Thật vậy, Đỗ Đức Hiểu trong bài viết Hoàng Cầm, đã nói: “Tính hiện đại của
thơ Hoàng Cầm không phải là như ở thơ Vũ Hoàng Chương (nhà thơ đô thị với phố
xá đô thị, sàn nhảy đô thị, tiệm hút đô thị…), mà là một vùng cỏ cây, sông hồ nhẹ
bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực hóa thành cỏ Bồng Thi, cầu Bà Sấm, bến
Cô Mưa và lá Diêu Bông, hay những người con gái mờ ảo, những mối tình hư ảo xứ
Kinh Bắc, xóa nhòa trong mưa bụi bay” [66, tr.30]. Còn Nguyễn Đăng Điệp thì
khẳng định: “Chắc hẳn, nếu tước đi cái không khí Kinh Bắc thì có lẽ thơ Hoàng
Cầm sẽ hết thiêng! Bởi lẽ, “Kinh Bắc đã trở thành quê thiêng – quê thơ – quê tình
trong thơ Hoàng Cầm”, và “Vũ trụ thơ ấy thực chất là hồn quê Kinh Bắc rung lên
qua những sợi dây thần kinh thi ca nhạy cảm được ươm ủ từ thời ấu thơ” [66, tr.44].
Hiểu rõ điều đó, lại có diệp đi sâu nghiên cứu vườn thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng
Điệp đi đến kết luận: “Trong thơ Việt Nam thế kỉ XX, chưa một ai sánh được
Hoàng Cầm khi viết về Kinh Bắc” [66, tr.44]. Phải có một cái nhìn bao quát, sự am
hiểu sâu sắc và lòng yêu thích thực sự về thi giới Hoàng Cầm, người viết mới có thể
đưa ra được những lời nhận định đầy sức thuyết phục như vậy. Những nhận xét như
thế tuy có phần cảm tính và chủ quan nhưng kì thực bắt nguồn từ chính hồn thơ
Hoàng Cầm, từ những trang thơ giàu sức lan tỏa của ông.
Thâm nhập sâu vào thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng Mạnh
gọi đó là “phạm trù siêu thơ”. “Một thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Nó đi
hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ mông lung vô thức”
[66, tr.28]. Ông cũng cho rằng: “Sáng tạo ra thứ thơ này phải là những nhân cách
vô cùng trung thực, trung thực với mình, trung thực với người” [66, tr.28]. Chính
phẩm chất tốt đẹp ấy đã giúp Hoàng Cầm tạo nên phong cách riêng, vẻ đẹp riêng
cho thơ ông. Và cũng từ đó, nhiều sự nghiên cứu đã chú ý đến đặc điểm này của thơ
ông. Nguyễn Đăng Điệp xem Hoàng Cầm là “Người dệt thơ từ những giấc mơ”;
Nguyễn Xuân Lạc khẳng định cái đẹp trước hết trong thơ Hoàng Cầm là “cái đẹp kì
ảo, lý tưởng trong thơ tình”, và là “cái đẹp của thơ siêu thực, thơ của cái viết tự
động” [66, tr.20-21]; còn Đỗ Lai Thúy thì nhận định: “Có thể Hoàng Cầm không có
lý luận, không có tuyên ngôn như nhóm siêu thực của Bréton, nhưng trên thực tế
ông đã sáng tạo như họ” [66, tr.56]. Cũng trên quan điểm ấy, Đỗ Đức Hiểu viết về
Mưa Thuận Thành: “Mưa Thuận Thành là thế giới siêu Thuận thành, siêu Kinh Bắc,
siêu mưa” [66, tr.30].
Tìm hiểu thơ ông, nhất là những sáng tác ở giai đoạn sau, nhiều nhà nghiên
cứu, điển hình như Nguyễn Đăng Điệp, đã khẳng định: “Đó là tiếng vọng của cõi
mơ, là sự siêu thăng của vô thức” [66, tr.52]. Dễ hiểu hơn, Đỗ Lai Thúy nói: “Đó là
thơ của tiềm thức, của giấc mơ, mê sảng, của cái viết tự động…” [66, tr.56]. Một
chỗ khác, tác giả viết: “Nhà thơ chìm vào tiềm thức để cho ngòi bút tự tuôn chảy”.
Điều kì lạ mà hết sức thú vị này, chính Hoàng Cầm đã chia sẻ trong nhiều
bài viết của mình. Trong Đôi dòng tâm tưởng về thơ, thi nhân viết: “Thơ, từ những
khát vọng người, từ vùng u huyền, bí ẩn nhất, bật ra như một điệu đàn, như một
hình bóng, bất chợt, như tiếng nói các thần linh không biết tự thưở nào” [101, tr.89].
Sự thật, nhiều bài thơ của Hoàng Cầm đã ra đời như vậy, và sự thật, đó là những tác
phẩm được độc giả yêu thích trước nay. Nhà thơ tâm tình: “Nói chung, hầu hết
những bài thơ được độc giả yêu thích trong nhiều năm của tôi, bao giờ cũng bắt đầu
một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ giọng phụ nữ
lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc” [101, tr.93]. Kì thực, đó chính là tiếng nói
dội lên từ tiềm thức thi nhân, những gì tưởng đã lắng đọng thật sâu trong hồn ông
bỗng có lúc vọng về, thổn thức, khôn nguôi. Gọi là “thơ của giấc mơ”, chớ hiểu
giấc mơ theo nghĩa thông thường của nó, bởi giấc mơ ấy thật diệu kì mà chẳng mấy
ai có đuợc. Đó là kết quả của bao đêm thao thức không ngủ, là sự thăng hoa của một
hồn thơ, là sự kết tinh máu thịt của cuộc đời và tâm hồn nhà thơ. Trong “những liên
tưởng đứt đoạn, những hình ảnh rời rạc là rất nhiều các khoảng trắng, các dấu
lặng... Tất cả trôi đi trong một nhịp điệu thôi miên” [66, tr.56], Đỗ Lai Thúy viết.
Vậy nên, tìm hiểu thơ Hoàng Cầm, nhất định phải nhìn thât kĩ, thật lâu và phải thật
sâu nữa. Sẽ thấy, trên trang thơ ông, những khoảng lặng ấy chất chứa thật “nhiều
xót xa, nhiều bi kịch, không nói” [66, tr.31]. Thấy được điều này trong thơ Hoàng
Cầm xem như chúng ta đã tiếp cận được một đặc điểm thi pháp của thơ ông.
Quan tâm nhiều đến nỗi ẩn ức, khối tình nghẹn ứ đầy trong lồng ngực thi
nhân, trong bài Ấn tượng thơ Hoàng Cầm, Chu Văn Sơn viết: “Thứ tình nào làm
thành ẩn ức của nguồn thơ Hoàng Cầm? Một mối tình non? Mối tình câm? Mối tình
đau? Không, một mối tình nghẹn! Như cây lúa nghẹn đòng, như cây chuối nghẹn
buồng…Thơ Hoàng Cầm là thứ hoa trái vật vã mộng du, óng ả thanh cao mà phong
trần lận đận của nỗi nghẹn ngào đó” [151, tr.285-286]. Bài viết thuyết phục người
đọc bằng sự lý giải sâu sắc mối liên quan mật thiết giữa thế giới tinh thần, tình cảm
của nhà thơ với thi phẩm ông, bằng những viện dẫn về cuộc đời và về thơ được rút
ra từ nhiều tác phẩm của thi nhân.
Luận giải về chất thơ Hoàng Cầm, Chu Văn Sơn đề cập đến vấn đề nhạc thơ,
điệu thơ Hoàng Cầm. Cụ thể, ông nói đến tình điệu riêng trong thơ Hoàng Cầm:
“Có cảm giác điệu thơ Hoàng Cầm như con hạc đầu đình muốn bay không cất nổi
mình mà bay, nó là những sải cánh, đập cánh chới với, chơi vơi” [151, tr.289]. Nửa
sau bài nghiên cứu, phần bàn về “sự hội nhập của nghệ thuật Hoàng Cầm”, qua đi
sâu phân tích bài thơ Cây Tam Cúc, tác giả Chu Văn Sơn bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận
của mình về “bản lĩnh nghệ thuật quái kiệt” của nhà thơ này. Theo Chu Văn Sơn,
“Cây Tam Cúc là một trong những bài cao thủ nhất của Hoàng Cầm, một tìm tòi
thành công trong thi pháp của ông”, “là cái giá đã trả được của đời thơ Hoàng Cầm”
[151, tr.291-297]. Ở đó, chàng thi sĩ tài hoa, đa tình này “đã biết tiết chế tình cảm
của mình, đã nén chìm tính biểu cảm vào câu chữ, để nỗi nghẹn ngào khuất chìm
trong câu chữ đặng kí thác trọn vẹn vết thương tủi cực của số phận mình” [151,
tr.297].
Đồng cảm với Chu Văn Sơn, trong bài Đọc Mưa Thuận Thành của Hoàng
Cầm, nhà văn Phạm Thị Hoài viết: “Trước hết, tôi thấy Hoàng Cầm đẹp và xa cách.
Thật lạ lùng, là thực ra hầu hết những gì tạm gọi là chất liệu làm nên thế giới thơ
ông đều còn nguyên cả đấy, thực ra không xa vời, không siêu nhiên hoang đường gì
hết, mà hồn thơ ông vẫn là một người khách xa…” [151, tr.250]. Ngẫm về điều đó,
nhà văn cho rằng: “Hoàng Cầm có một hệ lời tinh vi và lắt léo… Cái hệ lời ới hời vi
vút sấp ngửa khép nép nghiêng ngửa mê và tê mê vời vợi ấy lại đi đôi với một âm
vận rất riêng, dường như đã được gọt rũa tính toán cho không còn một chút ngẫu
nhiên nào lọt lưới… Tất nhiên là Hoàng Cầm cầu kì. Bất kì câu nào của ông cũng
tiêu tao yểu điệu…” [151, tr.250-251].
Phạm Thị Hoài bộc lộ cảm nhận của mình: “Lần đầu đọc thơ ông, tôi hơi bối
rối trước những từ ngữ không ngờ có thể đặt cạnh nhau, những hình ảnh không ngờ
có thể nối tiếp nhau để xuất hiện những thi tứ không ngờ và một nhạc điệu không
ngờ” [151, tr.255]. Chính khả năng liên tưởng kì lạ đã “gợi về cho ông những cảm
xúc đang lang thang đâu đó, đã xâu chuỗi những hình ảnh, đã lảy ra những từ ngữ,
nhạc điệu không thể có nổi ở một trường liên tưởng nông cạn, nghèo nàn, hoặc tầm
thường hơn” [151, tr.256], Phạm Thị Hoài kết luận.
Về phương diện tình cảm trong thơ Hoàng Cầm, nhân đọc Mưa Thuận
Thành, Phạm Thị Hoài nhận xét: “Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm trong Mưa
Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa phiền muộn, yểu điệu,
yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm, nhiều nữ tính” [151, tr.253]. Còn Về Kinh Bắc thì
“cho đến bây giờ vẫn tiếp tục mang vầng hào quang riêng…, và chỉ cái tên riêng
của nó thôi đã hứa hẹn, và hơn cả hứa hẹn: đã thiết lập hẳn một không gian tinh
thần đặc trưng” [151, tr.248]. Đó chính là không gian văn hóa Kinh Bắc.
Nghĩ về hồn thơ ấy, Hoàng Như Mai viết: “Đọc thơ Hoàng Cầm, ta cảm
tưởng như nhà thơ viết một mạch, một hơi những lời từ trái tim nhà thơ rót thẳng
vào lòng người đọc, không sắp xếp, không điểm trang, như nước suối từ khe đá
tuôn ra, như hoa mọc tự nhiên ngoài đồng nội. Thơ Hoàng Cầm mang sự nguyên
trinh của tình cảm, không trải qua một sự chế biến nào, không thêm một chút phụ
gia nào” [66, tr.82]. Về điều này, Lê Hồng Lâm cho rằng: “Hoàng Cầm làm thơ
không bao giờ có chủ ý từ trước mà phần lớn bắt nguồn từ một rung cảm, một kỉ
niệm, một chuyện cũ hay một nỗi đau buồn nào đấy… Những tập thơ của ông đều
xuất phát từ những cảm xúc đó và xuyên suốt trong thơ là chất trữ tình bay bổng
của một vùng văn hóa phồn thực Kinh Bắc, của một con chim vàng với giọng hót
lảnh lót, của một cây đàn hoàng tử với âm điệu lịch lãm sang trọng ngân vang mãi
trong nền thơ Việt Nam” [152, tr.69].
Khái quát về đường thơ Hoàng Cầm, trong bài viết Đến với Hoàng Cầm,
Hoài Việt nói rằng: “Trước 1945, trong bảng phong thần của các nhà thơ mới chưa
có tên anh”. Tháng ngày qua, người ta ngỡ ngàng nhận ra “con chim có bộ lông
vàng quen nhả giọng véo von” ấy hóa ra là “một người làm vườn cần mẫn cuốc xới
trên mảnh đất hương hỏa, gieo vãi những hạt hoa nhài, hoa ngâu… xen vào hoa
păngxê, hoa tuylíp. Vườn hoa thơ ấy bỗng trở nên đẹp lạ lùng” [151, tr.7-12].
Không tình nguyện làm một “phu chữ” như Lê Đạt, nhưng Hoàng Cầm cũng
quan niệm: “Thơ là thành tựu của cả tâm lực (dụng công trong việc đầu tư chất
xám) và thần lực (như có tiếng một người nào đó từ thâm cung nội tâm hay từ cõi
mịt mờ hư ảo của xứ sở tâm linh thì thầm bên tai). Thơ là thành tựu của cả hữu thức
lẫn vô thức” [66, tr.36-37]. Cũng chẳng vướng vào bệnh cầu kì hình thức, quá xem
trọng việc mạ hình đẽo chữ trong sáng tác. “Con chữ trong tay anh như âm binh
trong tay phù thủy có tài phù phép. Anh muốn thổi hồn vào con chữ” [66, tr.38].
Thơ Hoàng Cầm do vậy có sức gợi cảm rất lớn, làm lay động cả tâm thức người
đọc. Nhận rõ điều đó, qua bài viết, Hoài Việt bày tỏ tình cảm, niềm tâm đắc của
mình về nhiều phương diện của tài thơ này.
Về vấn đề sáng tạo hình ảnh trong thơ, Hoài Việt ghi nhận: “Anh không
thuộc trường phái cấu trúc luận nhưng lại rất có duyên cấu trúc hình ảnh trong thơ”
[66, tr.38]. Về khả năng dùng chữ thì biệt tài của “con người mái tóc bụi tro này là
việc mày mò tìm ra cái lẫn đằng sau chữ, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, tạo nên
bề dày chữ nghĩa, không chỉ nổi mà còn chìm…” [66, tr.38]. Và với những gì đã có,
Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc, Men đá vàng và 99 tình khúc, Hoàng Cầm nghiễm
nhiên được coi là “một cao thủ trong làng thơ hiện đại” [151, tr.11].
Bài nghiên cứu Hoàng Cầm và 99 tình khúc của Trần Mạnh Hảo đánh giá về
thơ Hoàng Cầm trên cả hai phương diện: thành công và hạn chế, cái hay và điểm
khuyết của nó. Qua đây, một lần nữa, cái đẹp, nét duyên của đời và thơ Hoàng Cầm
được ghi nhận: “Hoàng Cầm trong đời và trong thơ vốn là một thi khách tài hoa và
một ái khách đào hoa… Nhà thơ đã lấy yêu làm nghiệp để trang trải cái nghề thơ
vốn nhiều oan khiên của mình” [109, tr.110]. Bằng sự thấu hiểu và đồng cảm, tác
giả nói tiếp: “Chừng như nhà thơ có duyên phận với nỗi đau, nên cứ đụng vào nỗi
đau, thơ ông lại được người đọc cảm thông, chia sẻ” [109, tr.115]. Tuy chỉ đi sâu
bàn về 99 tình khúc nhưng những lời nhận định của tác giả lại có ý nghĩa với mọi
thi phẩm của Hoàng Cầm và đặc biệt với mảng thơ tình của ông. Trần Mạnh Hảo
khẳng định: “Tựu trung, thơ tình Hoàng Cầm đằm thắm, nồng nhiệt, thậm chí mê
cuồng nhưng không kém phầm quằn quại đau thương” [109, tr.113].
Lại nói về chữ nghĩa trong thơ Hoàng Cầm, cũng như Hoài Việt, Trần Mạnh
Hảo cho rằng: “Hoàng Cầm rất giỏi dùng chữ nghĩa, rất sành điệu trong kĩ thuật
thơ” [109, tr.116]. Tuy vậy, cũng có khi vì quá đỗi cầu kì mà “cho chữ nghĩa chơi
son phấn, cho vần điệu lụa là quá xá rồng bay phượng múa, khiến cái Chân Mộc có
lúc bị tổn thương” [109, tr.124]. Theo Trần Mạnh Hảo, chính sự thiếu trong sáng
của những câu, những chữ quá ư cầu kì ấy đôi khi “đánh bạt” đi ý nghĩa của thơ,
“đánh hỏng” tình thơ, “người đọc không còn thấy thơ đâu nữa mà chỉ toàn những
chữ mạ kền, chữ vàng mã nhóng nhánh thông thênh…” [109, tr.117].
Chia sẻ với suy nghĩ của Trần Mạnh Hảo, Phạm Thị Hoài nhận xét: “Sự lắt
léo quá mức của ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm có khi chẳng giúp được gì… Lắm chỗ
cứ ngang phứa lên, phá kỉ lục của cả những tay chơi thượng hạng nhất, tuy có chỗ
chỉ là một sự chơi không thấm thía lắm, không làm người đọc bàng hoàng bởi một
sự phi thường nào đó phát lộ qua vài con chữ…” [151, tr.251]. Nhà văn đi đến kết
luận: “Có thể say mê Hoàng Cầm, cũng có thể khó chịu, hoặc cả hai thứ một lúc”
[151, tr.257]. Dù vậy, “cũng có thể thuần túy thán phục tài thơ ông, học ở ông, thậm
chí chịu ảnh hưởng của ông…” [151, tr.257]. Trong bài viết 75 tuổi… Hoàng Cầm,
Lê đạt phát biểu: “Trong hàng ngũ các nhà thơ kháng chiến, ngoài Tố Hữu ra có lẽ
ít người nổi tiếng như Hoàng Cầm. Cái quá nổi tiếng ấy cũng có mặt không hay. Nó
khiến một số người vội vã liệt anh vào hàng dễ dãi” [151, tr.237].
Đánh giá chung về đời thơ Hoàng Cầm, Phạm Thị Hoài cho rằng: “Hoàng
Cầm quả thật là một trong số không nhiều lắm những người lập được cho mình một
vương quốc thơ riêng, với nền móng, bản sắc và các nghi thức không thể trộn lẫn”
[151, tr.257]. Hoàng Cầm – cái tên ấy, vì thế đã được tiếp nối vào danh sách không
dài lắm những tên tuổi sống mãi trong lòng bạn đọc.
Tóm lại, những kiến giải tuy không giống nhau song trong chừng mực nào
đó, thể hiện sự thống nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá về thơ Hoàng cầm, sự
ngưỡng mộ, quý trọng đối với tài năng thơ của thi nhân. Sẽ càng có ý nghĩa nếu đời
thơ ấy nhận được ngày càng nhiều sự thấu hiểu, lòng yêu thương cùng niềm cảm
thông của người đọc.
Hướng tiếp cận thứ hai đi sâu phân tích, tìm hiểu một số tác phẩm nổi tiếng,
tiêu biểu cho hồn thơ Hoàng cầm như: Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây
Tam Cúc… Trong đó, Bên kia sông Đuống – một tác phẩm đặc sắc được chọn giảng
dạy trong nhà trường phổ thông – được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. Ở đây,
chúng tôi đề cập đến một số bài viết của những tác gia như: Hà Minh Đức, Hoàng
Như Mai, Lê Trí Viễn, Trần Đăng Xuyền, Phạm Tiến Duật…
Ngay từ lúc ra đời đã gây một tiếng vang lớn, thi phẩm Bên kia sông Đuống
thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Hoàng Như
Mai nhận định: “Bài thơ Bên kia sông Đuống là một sáng tác tiêu biểu trong thời kì
kháng chiến chống Pháp. Nó thể hiện sâu sắc, cảm động cuộc sống, tâm trạng, ước
vọng của nhân dân Việt Nam” [66, tr.91]. Trong bài Hoàng Cầm và các bài thơ Bên
kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Hà Minh Đức cũng khẳng địng giá trị bất hủ của
Bên kia sông Đuống: “Bài thơ đã nói lên được khá sâu sắc tình cảm với quê hương
đất nước, vẻ đẹp của vùng quê Kinh Bắc, tội ác của kẻ thù trên quê hương và tấm
lòng của người con nơi xa khi nghĩ về làng quê trong cảnh ngộ đau lòng đó” [132,
tr.100]. Có thể nói Bên kia sông Đuống đã mang được tấm lòng của nhà thơ đến với
quê hương.
Tâm đắc về những dòng thơ tuyệt bút trong bài Bên kia sông Đuống, về sắc
màu và âm thanh trên dòng sông thơ của Hoàng Cầm, nhà thơ Phạm Tiến Duật phát
biểu: “Trong thơ ca ta, kể từ xưa đến nay, chưa có bài thơ nào viết về quê hương
quan họ mà màu sắc văn hóa đông kết một cách xuất sắc như trong bài thơ này của
Hoàng Cầm” [66, tr.101]. Và chỉ mấy tiếng Bên kia sông Đuống thôi, theo Phạm
Tiến Duật, cũng “gợi nên một tình thế dân ca sẽ là dòng nhạc chính trong cả phức
điệu trôi xuôi”, là “âm hình chủ đạo của cả bản sônat thơ dào dạt tình đời này” [66,
tr.100]. Nhìn Bên kia sông Đuống bằng cái nhìn đậm tính nhạc và đầy chất thơ ấy,
nhà thơ thấy “dòng sông Đuống như sáng rực lên, hắt ánh sáng ngũ sắc lên quê
hương, lộng lẫy một cách xa xót và xa xót một cách lộng lẫy đến kì lạ” [66, ._.tr.101].
Bình về tính nhạc trong bài thơ, Lê Trí Viễn nói đến cái giọng, cái điệu, cái
tông, nốt, âm thanh… của nhạc phẩm thơ này. Ông nói: “Bài thơ là một âm điệu tha
thiết, đau thương sâu sắc mà vẫn là dịu nhẹ, sâu xa, không ồn ào, to tiếng” [109,
tr.226]. Cái độc đáo của bài thơ, theo giáo sư, là đã mang “một giọng điệu nghĩa
tình thấm sâu, đi thẳng vào lòng người” [109, tr.231].
Qua Bên kia sông Đuống, Trịnh Thanh Sơn đánh giá tài năng sáng tạo của
Hoàng Cầm: “Kể từ bài Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm đã tự lập nên một trường
thơ riêng, một gạch nối cực kì ngoạn mục giữa cổ điển và hiện đại, giữa đài các và
dân dã, giữa duy tâm và duy lý, vừa hiện hữu vừa thoát tục, vừa trần thế vừa bồng
lai… Hoàng Cầm như một con nhện vàng, ngày đêm miệt mài giăng tơ. Ông chăng
tơ không phải để bắt ruồi muỗi mà để bắt bóng giai nhân. Người xưa có câu thả mồi
bắt bóng là để nói về Hoàng Cầm và về thơ Hoàng Cầm là như vậy” [28, TT]. Đỗ
Lai Thúy thì cho rằng: “Hoàng Cầm là người kế tục Thơ Mới không phải như một
sự kéo dài, mà như là sự phát triển, sau một đứt đoạn. Chỗ đứt đoạn tuyệt vời ấy là
Bên kia sông Đuống” [66, tr.55].
Viết về Bên kia sông Đuống, bài nghiên cứu của Trần Đăng Xuyền thể hiện
một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Tác giả bài thơ được ngợi ca trước hết bởi
những tình cảm thật đẹp: “Tình yêu tha thiết, say mê vùng quê Kinh Bắc vốn tiềm
tàng, chất chứa bấy lâu trong hồn thơ ông, chỉ chờ một hoàn cảnh nào đấy là bùng
lên mạnh mẽ, trào ra đầu ngọn bút thành những vần thơ dòng dòng cảm xúc” [66,
tr.105]. Và Bên kia sông Đuống là ngọn lửa tình cảm cháy lên từ dòng mạch cảm
xúc cuồn cuộn bao nỗi nhớ thương, tiếc nuối, đau đớn, xót xa, căm giận… trong
lòng thi nhân. Đồng cảm sâu sắc với nhà thơ cũng như nắm bắt được linh hồn của
tác phẩm, Trần Đăng Xuyền nhận ra: “Trên một cái nền nhạc buồn, cái hồn của quê
hương, cái hồn của dân tộc phảng phất trong mỗi dòng thơ” [66, tr.112].
Cùng cảm nhận ấy, Vũ Dũng cho rằng: tìm hiểu bài thơ Bên kia sông Đuống
bên cạnh lưu ý đến chất Kinh Bắc trong hồn nhà thơ, phải thấy được tình huống,
hoàn cảnh khơi dậy mạch nguồn cảm xúc trong ông. Sẽ hiểu vì sao “Bài thơ là một
dòng thác tình cảm tuôn trào. Nó không muốn dừng lại để chọn lựa và gọt rũa từng
câu, từng chữ. Nó cứ trào ra từng đợt, từng đợt như những đợt sóng tình cảm, cảm
xúc, và mỗi đợt như thế lại gọi dậy một cách tự nhiên trong kho kí ức, hàng loạt kỉ
niệm đẹp nhất, thân thiết nhất về quê hương mình…” [109, tr.233]. Bài phân tích
khá tỉ mỉ và ấn tượng của Tạ Đức Hiền về bài thơ Bên kia sông Đuống cuối cùng
cũng đi đến kết luận: “Có thể nói cảnh sắc và con người Kinh Bắc đã tạo nên chất
tài hoa, độc đáo trong thơ Hoàng Cầm. Chất Kinh Bắc làm nên vẻ đẹp thẩm mĩ của
bài thơ Bên kia sông Đuống để ta yêu quý và trân trọng [158, tr.560].
Trong bài Bên kia sông Đuống, niềm xót xa, tiếc nhớ gửi về quê hương trong
cảnh điêu tàn, Phan Huy Dũng khẳng định: “Hoàng Cầm vốn hay nói về miền quê
Kinh Bắc cổ kính, thì ở đây, trong Bên kia sông Đuống, miền quê ấy hiện lên đầy
màu sắc” [66, tr.92]. Và theo Phan Huy Dũng: “Dòng chảy của thơ Hoàng Cầm
trước hết là dòng chảy lãng mạn. Điều đó cũng được chứng minh cụ thể qua bài thơ
này – một bài thơ của sự giãi bày miên man, của tâm trạng ứ đầy đòi hỏi phải được
bộc lộ hết” [66, tr.92]. Người viết nói tiếp: “Thơ Hoàng Cầm cũng thấp thoáng nét
tượng trưng, thậm chí siêu thực với sự xuất hiện của những câu thơ đột xuất, thần
tình, khó giải thích, ở sự khởi đầu linh diệu của nhiều bài thơ, ở sự chập chờn trong
những cơn mê không dứt. Bên kia sông Đuống không xa những điều vừa nói” [66,
tr.92]. Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Vinh dự thay cho thi sĩ Hoàng Cầm, trong cuộc
đời sáng tác hơn nửa thế kỉ của mình, đã tạo được một vài bài thơ như thế” [66,
tr.29].
Với Bên kia sông Đuống, tên tuổi Hoàng Cầm được rạng danh trên vòm trời
thơ Việt Nam hiện đại, nhưng sự thành công của đời thơ này còn ở Lá Diêu Bông,
Quả vườn ổi… Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “Hoàng Cầm của Men đá vàng, của Mưa
Thuận Thành, theo tôi nghĩ là người kế tục (xa, rất xa) Thơ Mới, với Lá Diêu Bông,
Quả vườn ổi, Cỏ Bồng Thi…” [66, tr.91]. Đó là những tác phẩm được xem như
bằng chứng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Cầm. Nói như
Nguyễn Đăng Điệp: “Nếu được quyền chọn lấy những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ
Hoàng Cầm, tôi sẽ chọn Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, Về với
ta. Bốn bài thơ mang bốn vẻ đẹp riêng nhưng bài nào cũng có Kinh Bắc, bài nào
cũng khép mở những ẩn khuất dục tình, bài nào cũng mở ra khát vọng về cái đẹp
bình dị mà thanh cao…” [66, tr.53].
Sau Bên kia sông Đuống, có lẽ, khi nói đến Hoàng Cầm, người ta nhớ đến Lá
Diêu Bông. Suy ngẫm về chiếc lá kì diệu đầy bí ẩn ấy, Hà Minh Đức nhận ra: “Ở
Hoàng Cầm, chất say thơ tựa như mối duyên tiền kiếp, nên tâm hồn dường như vừa
sống trong thực tại vừa sống trong hoài niệm, ước mơ. Trải qua bao thăng trầm thế
sự, tâm hồn ấy “được dựng nên bằng nhiều lớp kỉ niệm của tuổi trẻ gắn với một
vùng đất quê hương đẹp, giàu có, thơ mộng” [132, tr.101]. Cuộc đời nhờ đó mà có
Lá Diêu Bông! “Bài thơ đã để lại những ấn tượng đẹp, bình dị mà rất nên thơ…”
[132, tr.104]. Về ẩn ý của bài thơ, “tôi nghĩ rằng anh muốn nói đến hiện thực và mơ
ước như một bi kịch trong tình yêu lứa đôi” [132, tr.104]. Rộng ra, ấy là “bi kịch
ngàn đời của con người, là những mong ước mà con người suốt đời lặn lội tìm
kiếm”, theo Lê Tiến Dũng [66, 399].
Mai Thục khẳng định: “Lá Diêu Bông chính là ẩn ức của Hoàng Cầm về một
tình yêu đã mất” [151, tr260]. Kiến giải về điều đó, người viết cho rằng: “... càng
đọc, càng thấy âm vang tiếng vọng của ngàn xưa, thân thương gần gũi mà xa xôi
vời vợi… Lá Diêu Bông xôn xao một thế giới riêng như ảo, như thực ẩn hiện giữa
một không gian mênh mông của đồng quê Việt Nam” [151, tr.259].
Đánh giá về bài thơ Cây tam cúc, Đặng Tiến viết: “Cây tam cúc là một bài
thơ hay, tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật của Hoàng Cầm. Từ một trò chơi
dân gian khá phổ biến, tác giả đã sáng tạo nên một bức tranh trữ tình đặc sắc và
phong phú, đã vẽ lên giấc mơ hạnh phúc, giấc mộng lứa đôi…” [66, tr.60]. Phần
quan trọng của thi phẩm đã được người viết chú trọng – Không khí và văn hóa quan
họ. Chính nhờ yếu tố ấy mà bài thơ có thêm hương sắc. “Nó chuyên chở tình người,
tình quê nhiều hơn luyến ái lứa đôi” [66, tr.61].
Cùng với nội dung, phương diện nghệ thuật của bài thơ cũng được tìm hiểu
kĩ lưỡng. Đặng Tiến nhận xét: “Thơ Hoàng Cầm giàu âm điệu… Cây tam cúc là
một bài thơ ngắn dồi dào nhịp điệu vào hàng đầu trong thơ Việt” [66, tr.61]. Bên
cạnh đó, hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách tài hoa và tinh tế, từ cách chọn
chữ đặt câu, đến cách xe kết âm thanh, nhịp điệu, màu sắc, hình ảnh, tác phẩm theo
đó hiện ra trong một cấu trúc đặc biệt – “một tấm áo đẹp, một họa phẩm tuyệt vời”
[66, tr.62].
Tóm lại, đó là những tác phẩm được quan tâm nghiên cứu sâu sắc, được xem
là bằng chứng tiêu biểu cho thành tựu nghệ thuật của đời thơ Hoàng Cầm nói riêng
và của nền thơ hiện đại nói chung. Trên cơ sở phân tích, lý giải, nhận định những
giá trị nội dung và nghệ thuật của thi phẩm Hoàng Cầm, các nhà nghiên cứu đã giúp
người đọc thấy được một hồn thơ tài hoa, quyến rũ, một phong cách thơ độc đáo và
đặc sắc.
Hành trình thơ dẫu có lúc gập ghềnh, trắc trở, nhà thơ ấy đã nâng những cánh
thơ của mình lên đài vinh quang và bền bĩ đẩy chiếc xe thơ đi hết con đường thiên
mệnh của nó. Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, chúng tôi nhận thấy,
những hướng tiếp cận khác nhau tuy cũng có những điểm khác nhau trong sự đánh
giá về thơ ông song nhìn chung đều thống nhất cho rằng:
- Hoàng Cầm – một hồn thơ trữ tình, tài hoa, một nguồn thơ trong trẻo mà
nồng sâu, chung thủy.
- Hoàng Cầm – một Người thơ đa tình với tiếng thơ tha thiết, nghẹn ngào,
mê đắm. Thơ Hoàng Cầm thấm đẫm tình yêu quê hương, yêu cuộc sống, yêu cái
đẹp.
- Thơ Hoàng Cầm là thơ siêu thực kiểu Phương Đông – lối thơ siêu thực –
hiện đại – dân gian Hoàng Cầm.
- Chất thơ Hoàng Cầm đậm tính nhạc, chất say, ngôn ngữ giàu sức gợi hình,
gợi cảm, hàm súc, cô đọng.
Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu ít nhiều đã đề cập đến những
vấn đề về hồn thơ, tình thơ, hình ảnh và nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm. Tiếp nối
những gì đã được gợi ra ấy, chúng tôi – những người thực hiện chuyên luận này, hy
vọng về sự thành công và những đóng góp nhất định của một công trình nghiên cứu
một cách toàn diện và có hệ thống về thơ Hoàng Cầm. Thiết nghĩ, đề tài Hồn – Tình
– Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm tuy không thật mới lạ song sự giải mã đầy đủ,
hoàn thiện về chúng vẫn là điều quan tâm sâu sắc đối với giới nghiên cứu, phê bình
văn học cũng như những người quan tâm, yêu thích thơ ông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để việc nghiên cứu đạt được hiệu quả cao, trong quá trình thực hiện luận văn
này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp hệ thống
Đặt thi nghiệp Hoàng Cầm trong dòng chảy chung của nền thơ hiện đại để
nhận rõ và đánh giá những nét độc đáo riêng cùng những đóng góp của thi nhân
trong tiến trình thơ của dân tộc. Nhìn thế giới thơ Hoàng Cầm trong một chỉnh thể
toàn vẹn, để qua đó, thấy được thế giới tâm hồn, tình cảm và những suy nghĩ của
nhà thơ về con người và về cuộc đời, những đặc trưng nghệ thuật trong sáng tác của
ông. Vấn đề nghiên cứu cũng theo đó mà được soi sáng một cách tường tận.
5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Thao tác phân tích giúp đem lại sự cảm nhận sâu sắc, thấu đáo về một hồn
thơ vốn đầy ắp những nỗi niềm, những suy tư về nhân thế. Bên cạnh đó, các yếu tố
hình ảnh, nhạc điệu qua sự phân tích, miêu tả cụ thể, sinh động, sẽ là nền tảng, là cơ
sở thuyết phục cho những nhận định mang tính khái quát về sắc điệu riêng của thơ
Hoàng Cầm.
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Thực hiện việc thống kê, phân loại thơ Hoàng Cầm về mặt thể loại, cấu trúc
câu thơ, hệ thống những hình ảnh tiêu biểu, nổi bật, các hiện tượng ngôn ngữ mang
tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt… là việc làm cần thiết, góp phần làm sáng tỏ linh khiếu
sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của người nghệ sĩ này.
5.4. Phương pháp so sánh
Với phương pháp so sánh, nét phong cách riêng, độc đáo và đặc sắc của
Hoàng Cầm và thi phẩm ông sẽ được khẳng định và được làm nổi bật giữa những
nhà thơ khác, trước, sau và cùng thời với ông. Việc đánh giá về vị trí, sự đóng góp
của thi nhân trong nền thơ dân tộc nhờ vậy thuận tiện hơn, khách quan và đúng đắn
hơn.
6. Một số đóng góp của luận văn
Đặt vấn đề nghiên cứu những yếu tố: Hồn – Tình – Hình – Nhạc trong thơ
Hoàng Cầm, luận văn trên cơ sở khai thác, lý giải một cách sâu sắc và hệ thống
những phần cốt lõi về nội dung và nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm, hướng đến
dựng nên hình ảnh về người nghệ sĩ tài hoa, tinh anh trong cách thể hiện tâm hồn,
tình cảm và trong mĩ cảm. Chúng tôi rất mong luận văn được xem là một tài liệu
hữu ích đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về thơ Hoàng Cầm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hồn thơ Hoàng Cầm
Chương 2: Tình cảm trong thơ Hoàng Cầm
Chương 3: Hình ảnh – Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm
Chương 1
HỒN THƠ HOÀNG CẦM
1.1. Hồn thơ
Thơ là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là sự hòa điệu tâm hồn nhà thơ với
những âm vang của cuộc đời. Thơ là cuộc sống muôn màu muôn vẻ được nhìn,
được mô tả không chỉ bằng mắt, bằng tai mà bằng tâm, bằng sự linh cảm và cả tâm
hồn. Sự gặp gỡ, tri kỉ, phút tâm giao giữa nhà thơ và độc giả cũng chỉ thực sự diễn
ra ở phần hồn của tác phẩm, nơi tiếng vọng, dư ba của tác phẩm đọng lại sau câu
chữ, nơi cảm xúc hòa cùng cảm xúc và những điệu tâm hồn cứ rung lên mãi, ngân
xa mãi.
Thơ, sở dĩ có sức sống và trường tồn theo tháng năm, bởi ngoài chất trí tuệ,
chất suy tưởng, nó có chất thơ, hồn thơ. Những nhà thơ lớn vừa là những nhà tư
tưởng lớn lại vừa là những kĩ sư tâm hồn giỏi. Văn học nói chung và thi ca thực
chất là sự nhập cuộc, là quá trình thâm nhập một cách sâu sắc đời sống xã hội và thế
giới tâm hồn con người. Thi phẩm suy cho cùng là nơi nhà thơ thể hiện những trải
nghiệm tinh thần, bộc bày tâm tư, tình cảm và thố lộ những gì sâu kín nhất, chân
thật nhất, trong sáng, hồn nhiên nhất trong hồn mình. Dụng công sáng tạo nên tác
phẩm nghệ thuật, trong sâu thẳm lòng mình, người nghệ sĩ không mong muốn cảm
hóa được lòng người bằng những lời lẽ tuyên truyền, những lập luận hay lý giải mà
bằng những lay động trong tâm hồn, trong trái tim với niềm cảm xúc thực sự. Khi
tác phẩm nghệ thuật được viết ra từ chính nỗi lòng, từ niềm rung cảm mạnh mẽ,
chân thành, nó sẽ thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng: “Mang tiếng nói của mỗi
người đến cho mọi người và mang tiếng nói của mọi người đến cho từng người”
[140, tr.18]. Thi nhân phải là người biết nuôi nấng, bồi dưỡng cho hồn thơ phát
triển, bay bổng. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Marx nói rằng: “Chỉ có âm nhạc mới
thức tỉnh được cảm giác về âm nhạc của con người” [60, tr.137]. Thơ, không thể đi
vào lòng người và nhận được những sự đồng điệu khi tác phẩm chỉ là sự mô phỏng,
sao chép hiện thực một cách máy móc, khô khan, vô hồn, vô cảm.
Ngôn ngữ thơ trong những mã mĩ học đặc sắc của nó, trở thành một hữu thể
sống, là tiếng nói từ trái tim chứ không phải chỉ là những từ. Trong Sổ tay nghệ
thuật, B. Brếch viết: “Từ ngữ có linh hồn riêng của chúng. Đừng làm chúng trở
thành vô vị. Đó là cái bắt đầu của sự kết thúc” [9, tr.38]. Có lẽ, ý thức được điều đó
mà “Xuân Diệu suốt đời phấn đấu trở thành thi sĩ của tiếng mẹ đẻ, Tô Hoài thì ra
sức tìm kiếm và phục sức cái thần của tiếng nói, còn người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn
Tuân thì luôn tâm niệm Nghề văn là nghề của chữ…” [121, tr.46]. Nếu văn xuôi
thâm nhập, khám phá cuộc sống trong tầng sâu của nó để các hiện tượng đời sống
được nhìn ngắm và phân tích một cách cụ thể, sinh động, kĩ lưỡng, thì thơ thực chất
là những mảnh tâm hồn, những khoảnh tâm trạng, những nhát cắt của cảm xúc. Nói
cách khác, nếu Văn nói chuyện đời thì “Thơ chính là tiếng đời u huyền trực tiếp, là
độc bạch của nhà thơ, là tiếng nói, là tâm hồn của nhà thơ. Thơ là sự trong trẻo, vô
tư lự. Thơ là tiếng nói tri âm, là chuyện đồng điệu” [72, tr.10]. Đó là tinh hoa, là thể
chất cô đọng của trí tuệ và tình cảm của thi nhân.
Sinh thời, Xuân Diệu từng nói: “Quy luật của thơ là quy luật của cảm xúc.
Cũng như đã là nước thì có thể đục, có thể trong, nhưng không thể khô” [93, tr.12].
Thơ, không chỉ có bề mặt mà còn có bề sâu và cả bề xa nữa, theo Chế Lan Viên.
Trong thơ, mỗi con chữ đều mang trong nó hồn cốt, tình điệu riêng của nhà thơ.
Chẳng cứ phải là một tác phẩm thật hay với nhiều mĩ từ, đề cập đến những vấn đề
to tát, được vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc thì có giá trị và tạo được sự
đồng cảm với độc giả. Trái lại, làm thơ phải làm sao tạo được cái hồn cho bài thơ.
Hồn thơ thể hiện chiều sâu, chiều rộng và chiều cao tư tưởng, tình cảm trong tác
phẩm. Hồn thơ càng sâu, tác phẩm càng có nội lực với sức chứa tình ý sâu sắc, giá
trị thẩm mĩ nhờ đó sẽ càng cao.
Trước một tác phẩm văn học, đặc biệt là thi ca, nếu chỉ cố công chiếm lĩnh
tác phẩm ở mặt nội dung và hình thức nghệ thuật thôi thì chưa đủ. Phải làm sao
nhận diện cho được cái hồn cốt, thần thái của nó, thẩm thấu được dư ba vị ngọt của
thi phẩm sau từng con chữ. Có vậy, sự giao tiếp bằng thơ mới diễn ra theo đúng
nghĩa của nó và giá trị đặc biệt to lớn của tác phẩm thi ca mới được nhìn nhận, đánh
giá đúng mức. Yếu tố hồn thơ quả thực có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với một
bài thơ, một đời thơ. Dù vậy, vấn đề này trước nay vẫn chưa dành được sự quan tâm
sâu sắc và nghiên cứu như một vấn đề lý luận. Khái niệm hồn thơ xem ra còn chưa
được làm sáng tỏ và giá trị thẩm mĩ, nghệ thuật của nó vì thế cũng chỉ được nói đến
một cách chung chung, sơ sài, mờ nhạt. Vậy hồn thơ là gì? Ý nghĩa của nó trong
sáng tác thơ? Làm thế nào để nhận diện một hồn thơ?
Thơ là một trong những thành quả đẹp nhất, cao quý nhất của tâm hồn con
người. Đó “là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của
những con người lao động, phấn đấu, suy nghĩ, yêu thương, trong cái phần cao nhất,
sâu nhất của họ, tức là tâm trí” [18, tr.34]. Nói cách khác, “tác phẩm thơ được sinh
ra do sự quyện xe của thực tại khách quan với tâm hồn, trí tuệ con người” [18,
tr.33]. Đây là quy luật quan trọng trước hết của sự sáng tạo mà cả người sáng tác và
người thưởng thức đều phải hiểu và quan tâm. Để cho, một bài thơ ra đời phải chạm
được vào tâm hồn của người đọc bằng chính phần hồn của nó, phải làm cho họ rung
động, yêu thích và say mê. Muốn vậy, người làm thơ phải gửi được vào trong ấy
thật đậm, thật sâu, hương sắc tâm hồn mình. Tự nhiên, và hết sức chân thành, thơ
mang giai điệu tâm hồn của thi nhân, thể hiện cá tính sáng tạo của anh ta. Làm đuợc
điều này, nhà thơ có thể nói đã tạo được sức sống, tinh chất cho thơ, chất thơ cho
thi phẩm của mình. Có vậy, tác phẩm mới tạo được ấn tượng mạnh mẽ nơi người
đọc, làm cho người ta nhớ, nhớ mãi, và ngẫm nghĩ mãi không thôi.
Cũng như giọng điệu, từ lâu, hồn thơ đã được nói đến và được xem như một
nhân tố quan trọng để đón nhận dung mạo, xác định chân tài thi nhân. Luận về văn
chương, Nguyễn Đức Đạt viết: “Văn thâm hậu thì con người của nó trầm mà tĩnh;
văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa; văn cao khiết thì con người của nó
đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người của nó cương mà nhanh; văn uyên sâu thì
con người của thuần túy mà đứng đắn” [169, tr.189]. Văn chính là người mà thơ là
“bản tự thuật tâm trạng”. Tâm hồn nhà thơ thế nào thì sẽ bộc lộ ra thơ như thế. Xem
thơ ắt hiểu người. Sáng tác ngôn từ bao giờ cũng lưu lại đậm nét dấu ấn riêng của
người cầm bút. Dường như trong mỗi bức thông điệp thẩm mĩ mà nhà thơ gửi đến
cho đời, đậm hay nhạt, luôn có bóng dáng, cái tôi của người nghệ sĩ. Vì thế, Lê Quý
Đôn, một học giả và là một nhà thơ, sau khi đọc Nghệ An thi tập của Bùi Huy Bích,
đã viết: “ Đọc thơ ông như thấy con người ông” [45, tr.101]. Còn Trương Quang
Đản, đại học sĩ dưới triều Nguyễn, khi đọc Giá viên thi tập của Phạm Phú Thứ,
cũng nói: “Văn ông thì nhuần nhã nhưng cao đẹp, hùng biện nhưng kiên cường, đó
là cái phong cốt xui ra như vậy. Đem cái tính tình bản nhiên kết hợp với cái phong
cốt phiêu nhiên, mà cái góc cạnh bình sinh của ông ở đó” [45, tr.101]. Từ rất lâu,
người ta đã nhận ra rằng, “mỗi người đều có một cái thần thơ riêng, và mỗi thời
cũng có thơ của một thời” [45, tr.103].
Trong thực tế, thơ, cuộc đời và con người nhà thơ có quan hệ gắn bó, mật
thiết với nhau. Dù rằng, đó không phải là mối quan hệ mang nghĩa đồng nhất,
nhưng có thể nói tất cả những gì tạo nên một hồn thơ đều được nảy sinh trên mảnh
đất hồn người. Nói cuộc sống là chất liệu tạo nên thơ, nghĩa là nó phải được “đào”,
được “xới”, được “chắt lọc”, “phải được ủ thành men và bốc lên trong tâm hồn thi
sĩ” mới thành thơ được” [72, tr.74]. Và nếu nói thơ là thiên nhiên thứ hai được sáng
tạo nên từ thiên nhiên thứ nhất thì tâm hồn nhà thơ chính là đấng tạo hóa thứ hai
vậy. Thơ là cuộc sống nhưng cuộc sống chỉ thành thơ qua sự thanh lọc của tâm hồn
thi nhân.
Quả vậy, thơ, kì thực là tiếng vọng của tâm hồn thi nhân trước âm thanh đa
sắc của thế giới thực tại. Và nhà thơ, theo Coleridge, “là người đưa linh hồn của con
người vào giữa hành động bằng cách đẩy chúng kết ước tháp tùng lẫn nhau trong
cuộc phiêu du đuổi bắt chiếc bóng của giá trị và phẩm giá. Anh thả âm thanh và tinh
thần vào cùng một mảnh đất, ở đấy, chúng quấn lấy nhau, trộn lấy nhau để tạo thành
một sức mạnh toàn diện và thần diệu” [Dẫn theo 37, tr.170]. Nguyễn Địch Cát, vì
thế đã nói: “Người nào trội về nhân cách thì làm thơ hay trang nhã, người nào trội
về khí phách thì làm thơ hay hùng hồn, người nào giỏi dùng chữ đặt câu thì làm thơ
hay hoa mĩ, người nào giỏi về điển cố thì làm thơ hay vững vàng... Xem thơ thì có
thể mường tượng mà thấy được người [72, tr.34]. Với triết lý: “Cố lấy hồn tôi để
hiểu hồn người”, Hoài Thanh – người thẩm thơ và bình thơ xuất sắc nhất trong nền
văn học Việt Nam hiện đại – đã nhận ra hồn thơ của các anh tài Thơ Mới: “Chưa
bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ
màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan
Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [123, tr.37].
Hồn thơ thể hiện bản lĩnh nghệ thuật, phẩm chất thẩm mĩ và bộc lộ cảm quan
hiện thực của thi nhân. Để một hồn thơ lướt qua được sự nghiệt ngã của bao lớp
thời gian và lưu mãi trong lòng nguời, nhà thơ phải biết bứt ra khỏi khuôn hình
chung để xác lập giọng điệu riêng, sắc thái riêng cho thơ mình. Những cây bút lớn
đều có phong thái riêng và sở hữu một hồn thơ độc đáo, không nhòe lẫn giữa mọi
người. Điều đó hoàn toàn hợp với quy luật sáng tạo của nghệ thuật nói chung và
biệt là thơ ca. Bởi lẽ, thơ là tâm hồn, là sự bộc lộ tính tình và những linh cảm của
nhà thơ. Khi đưa vào tác phẩm cái tôi sáng tạo của mình, nhà thơ góp phần làm
phong phú hơn lên thế giới tinh thần, kinh nghiệm nghệ thuật của mọi người và
đồng thời khẳng định nét bản sắc sáng tạo của riêng mình. Vì cuộc sống trong tác
phẩm nghệ thuật không bao giờ có thể tồn tại ngoài cách nhìn thế giới của nhà thơ,
ngoài phương thức tư duy hình tượng và sáng tác của anh ta. Lẽ đương nhiên,
không phải tất cả những gì được thể hiện trong tác phẩm đều là sự tự biểu hiện của
bản thân nhà thơ. Bởi trong sáng tác, ngoài nhu cầu thể hiện bản thân, nhà thơ con
phải bao quát được những vấn đề lớn lao của cuộc sống, của thời đại. Duy có điều
chắc chắn rằng thơ là sự kết tụ, thăng hoa của cái đẹp. [27, 12]. Trái tim giàu yêu
thương và trách nhiệm cùng với một tâm hồn phong phú, giàu trí tưởng tượng, tinh
tế và nhạy cảm sẽ giúp nhà thơ làm nên những trang thơ lung linh màu sắc, phản
chiếu được mọi mặt của cuộc sống vốn đa chiều, phức tạp.
Hồn thơ, bên cạnh thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của thi nhân, bộc lộ
những nét nhân cách của anh ta. Điều này giải thích vì sao Lev.Tolxtoi viết “Khi
chúng ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới thì câu hỏi
chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: Nào, anh là con người
như thế nào đây? Anh có gì khác với tất cả những người mà tôi đã biết, và anh có
thể nói cho tôi một điều gì mới về việc cần phải nhìn cuộc sống của chúng ta như
thế nào?” [63, tr.90]. Văn học nghệ thuật vốn không dung nạp những cây bút
thường thường bậc trung, những tác giả không tạo được chất giọng riêng, hồn thơ
riêng cho mình. Nhà thơ sáng tạo ra tác phẩm cũng đồng thời sáng tao ra hơi thơ,
hồn thơ của mình. Nếu không có được điều đó, anh ta khó có thể trở thành một thi
sĩ thực thụ. “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống,
nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ, và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ
ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay” [72, tr.75].
Hồn thơ được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố: tố chất bẩm sinh, thiên
phú và sự dày công tìm tòi, học tập và thể nghiệm của nhà thơ. Luôn giữ cho tâm
hồn trong sáng, lung linh với những cảm xúc dào dạt, những rung động sâu xa và
gửi nó vào tác phẩm nghệ thuật là công việc suốt đời và nhiều kiếp của thi nhân.
Thế giới tâm hồn con người và đặc biệt của người nghệ sĩ vốn phong phú, đa dạng,
kỳ ảo, vô hình. Để tâm hồn thấm vào câu chữ, làm rung đông trái tim người đọc và
làm nên sự bất tử của tác phẩm văn chương, nhà thơ không chỉ là người sáng tạo mà
còn phải biết dấn thân. Sống giữa cuộc đời, giữa mọi người, anh ta phải biết đau nỗi
đau của người khác, buồn, thương, vui sướng phải nhiều hơn người khác. Mỗi tác
phẩm, với họ, là một sự hóa thân, là một phần tâm hồn, khí lực của họ. Sâu trong ấy
là những tâm nguyện, những ước muốn cao đẹp của nhà thơ về cuộc đời và về con
người. Hiện lên qua tác phẩm dù là một cái tâm trong sáng hay một miền tâm linh
kỳ ảo, một tương lai tươi sáng hay những giấc mơ mờ ảo của vùng tiềm thức xa
xôi…, hết thảy đều là những nét đẹp sâu kín trong hồn nhà thơ. Nỗi khát khao được
gửi hồn vào tác phẩm cũng là nỗi khát khao được giao cảm với thiên nhiên, đất trời
và lòng người của thi nhân. Hồn thơ, trong chừng mực nào đó, thể hiện nhân sinh
quan, thế giới quan của người nghệ sĩ.
Trong tâm hồn nhà thơ, có những phần không dễ gì chạm tới được, không
thể hiểu và lý giải được. Chỉ biết rằng đến một lúc nào đó, nó trào ra mạnh mẽ, liên
tục dưới ngòi bút nhà thơ. Ấy có thể nói là cái duyên đặc biệt mà người cầm bút nào
cũng mơ ước. Trút được tâm hồn vào thơ đã khó, cảm nhận cho đúng, cho sâu
những giao động, những cung bậc hết sức tinh tế và kì diệu của một hồn thơ lại còn
khó hơn. Người thưởng thức, ngoài lí trí, tình cảm, còn phải có tâm, và phải lắng
hồn lại, mới nghe được. Vì hồn thơ, ấy là cái tinh diệu của thơ, là chất ngọc trong
thơ. Điểm tựa của thơ ca, sức sống của thơ ca, thực ra, chính là ở cái hồn của nó.
Là một phạm trù thuộc về nội dung song hồn thơ luôn có mối liên hệ chặt
chẽ đến các phương diện hình thức và được bộc lộ qua những yếu tố có tính hình
thức. Đặc điểm này của hồn thơ bắt nguồn từ đặc trưng mang tính bản chất của thơ
ca. Thơ vốn dĩ không náu mình dưới mái nhà che chở của hình thức, bởi chính bản
thân nó đã là hình thức. Và chỉ trong một hình thức cụ thể nào đó, nó mới có lý do
để tồn tại. Chính nhờ những dấu hiệu hình thức, hồn thơ thể hiện được chiều sâu nội
cảm của tác phẩm. Trong chỉnh thể tác phẩm, hồn thơ hiện ra không phải qua những
mảnh rời rạc, chắp vá mà trong sự liền mạch, xuyên suốt của hệ thống ngôn từ được
tổ chức khéo léo và tinh vi. Với tư cách là một hiện tượng phong cách, ngôn từ nghệ
thuật đảm nhiệm một chức năng khá phức tạp, nó tạo ra hồn điệu cho bài thơ. Nhờ
vậy, qua hệ lời của tác phẩm, người ta nhận ra hồn thơ của mỗi tác giả và nhận xét
sự khác biệt giữa các hồn thơ.
Hồn thơ chi phối trực tiếp và mạnh mẽ đến sự lựa chọn và sử dụng các yếu tố
hình thức trong tác phẩm. Một thể loại phù hợp là điều kiện thuận lợi để bộc lộ
những cung điệu cảm xúc, tình cảm trong hồn thi nhân. Vì mỗi thể loại luôn hàm
chứa trong nó sức mạnh biểu cảm với những hiệu quả thẩm mĩ riêng. Hồn thơ chân
quê, thuần hậu Nguyễn Bính sống mãi bên đời một phần nhờ những đặc điểm ưu
trội của thể lục bát. Trong loại thơ 8 chữ, Thế Lữ đưa được “hồn thơ rộng mở” của
mình đến với người đọc và nhận lại biết bao niềm cảm thông, chia sẻ…
Bên cạnh đó, hồn thơ điều phối việc xây dựng các thủ pháp nghệ thuật và cả
cách xây dựng kết cấu tác phẩm. Đây thực chất là mối liên hệ bên trong của thơ, là
mối tương liên đem lại sự thống nhất, hoàn chỉnh cho tác phẩm. Không phải chỉ đến
khi tác phẩm đã hoàn tất và được cố định lại trong một hình thức nhất định mới xuất
hiện hồn thơ. Trong thực tế, hồn thơ định hình ngay từ đầu, trong tư duy, tình cảm
của nhà thơ, trong điểm nhìn nghệ thuật của anh ta. Nó can dự trực tiếp vào quá
trình sáng tạo và góp phần làm nên sự thành công cho thi phẩm. Cùng viết về làng
quê như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ…nhưng sao chỉ Nguyễn Bính đưa
được bức tranh thơ thấm tình đồng nội của mình chạm tới được cái hồn của dân
tộc? Có lẽ, vì Nguyễn Bính, nhà thơ ấy đã thổi được hồn mình vào trong thơ, và hơn
thế, đã tạo nên được tiếng thơ mới mang sắc điệu riêng, đầy biến hóa trên nền thơ
lục bát quen thuộc.
Vấn đề hồn thơ với những đặc điểm phức tạp như thế, để hiểu cho sâu sắc,
thấu đáo kỳ thực là một thử thách không nhỏ đối với thưởng thức và nghiên cứu thơ
ca. Việc chiềm lĩnh thi phẩm suy cho cùng là nhận diện hồn thơ và chỉ ra những
điểm đặc sắc, độc đáo của nhà thơ. Một nền thơ phong phú, đa dạng, phát triển cả
bề rộng lẫn bề sâu, phải là một nền thơ đa phong cách, đa sắc điệu, thực sự giàu có
về hồn điệu . Đó phải như là một bầu trời đầy sao, lung linh, lấp lánh, một khu vườn
đầy hoa thơm cỏ lạ, trăm sắc, trăm hương…Bởi vì, hồn thơ chân chính luôn luôn và
bao giờ cũng là hiện thân của cái đẹp, cái cao cả, chất nhân văn trong tâm hồn, cốt
cách con nguời. Thêm nữa, khi hồn thơ kết đọng trong nó tâm hồn nhà thơ với hồn
dân tộc, hồn đất trời, vũ trụ, nó sẽ thành bất tử với những giá trị nghệ thuật đích
thực.
1.2. Hồn thơ Hoàng Cầm
1.2.1. Dòng sông thơ trong trẻo
“Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh
nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” [66, tr.28]. Để tạo ra được những thi
phẩm có độ hướng nội sâu thẳm như thế, nhà thơ – những tài năng thiên bẩm – phải
có lòng trung thực, trung thực với người và trung thực với chính mình. Để cho,
tiếng thơ đích thực là tiếng lòng, là giai điệu ngân lên từ tâm hồn tinh tế, nhạy cảm
của thi nhân. Sáng tác ngôn từ theo đó sẽ vượt qua những nguyên tắc của cú pháp
thông thường, của sự tư duy theo logic thông thường để vươn tới lĩnh vực siêu thơ –
những tác phẩm giàu nhạc tính và men say hồn thơ.
Bước vào thi giới Hoàng Cầm, người đọc nhận ra một tấm lòng tận hiến cho
thơ, một tâm hồn đặc biệt tinh tế và nhạy cảm trước cuộc sống. Tiếng thơ ấy đẹp
như những điệu ngọc rung lên huyền diệu trên những sợi tơ vàng trong sâu thẳm
tâm hồn thi nhân. Tình yêu cuộc sống, quê hương, tình yêu cái đẹp và thi ca trong
Hoàng Cầm thiêng liêng, đầy mê đắm, không chút tính toán, so bì. Tình yêu rất đẹp
ấy đã giúp nhà thơ đánh thức được hồn quê Kinh Bắc trong cõi sâu vô thức của hồn
mình. Tiếng vọng sau câu chữ của tác phẩm ông không phải từ phép cộng các thủ
pháp nghệ thuật đơn thuần mà ở giai âm tiêu tao, sâu lắng của một hồn thơ tinh tế.
Đi đến tận cùng chiều sâu hồn mình, khát khao đến cháy bỏng được yêu trọn
đời những cảnh, những người trên đất K._.]
Thơ hiện đại, tư duy trùng điệp được sử dụng ngày càng nhiều, nó một mặt là
nhịp điệu của cuộc sống, mặt khác chính là nhịp điệu tâm hồn của bài thơ. Mưa
Thuận Thành của Hoàng Cầm có đến 29/46 câu/148 tiếng của bài thơ là mưa, nào
mưa rơi, mưa nhòa, mưa hoa nhài, mưa chèo bẻo, mưa sành sứ, mưa chuông
chùa… Thi phẩm trở thành bản hợp ca thấm đầm mưa rơi, miền tâm trạng miên
man, nhạt nhòa, sâu thẳm. Sử dụng phương tiện trùng điệp một cách có chủ ý như
thế, nhà thơ tạo nên một hiệu ứng thẩm mĩ độc đáo cho thơ mình. Trước hết, nó tạo
sự liên kết trong thơ ông, làm cho mạch tư duy của bài thơ liền lạc, chặt chẽ và
thống nhất. Thơ Hoàng Cầm vốn phát triển theo nhiều chiều, nhiều mạch, sự trùng
điệp theo đó giúp liên kết âm thanh nội tại của thi phẩm. Sự trùng điệp, có thể nói,
chính là chất liệu liên kết bài thơ.
Nhịp điệu trong thơ chính là nhịp cuộc sống hòa điệu với nhịp tâm hồn của
người nghệ sĩ. Đó là những tổ chức âm thanh đều đặn, cân đối, nhịp nhàng, uyển
chuyển được tạo ra từ những cách kết hợp từ đặc biệt, cách ngắt nhịp, phối âm, phối
thanh… Nhịp thơ chính là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên tiết tấu, giai
điệu, âm hưởng cho câu thơ, bài thơ. Nhịp thơ theo đó có ý nghĩa to lớn trong việc
biểu hiện và cảm thụ thơ, là nền tảng tạo chất nhạc cho thơ, tạo hiệu ứng cho tác
phẩm. Nhịp điệu không chỉ là một biện pháp tu từ nghệ thuật để nhà thơ xây dựng
tác phẩm, thể hiện tâm tư, tình cảm của mình mà còn tạo nên giai âm độc đáo tác
động đến tình cảm, cảm xúc người đọc.
Hiện nay, xu hướng thơ tự do và thơ văn xuôi ngày càng lấn át thơ đều chữ,
đẩy vần xuống vị trí sau và đưa nhịp lên phía trước. Trong thực chất, bất kì loại thơ
nào, nhịp điệu cũng là yếu tố quan trọng tạo nên nhạc tính, sức hấp dẫn cho thơ.
Thực vậy, cách ngắt nhịp trong câu thơ hay còn gọi là tiết tấu có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với tác phẩm thơ ca. Nó đưa được cái trật tự vào tình trạng không có
trật tự, một cách có chủ ý, qua việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ. Nó giống người ta
trong giây lát thoát khỏi sự trôi chảy đều đều của thời gian. Đó là sự độc đáo của
nghệ thuật ngôn từ vậy.
Tiểu kết:
“Nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm, bên cạnh sáng tạo ra hệ thống nhân vật,
hệ thống hình tượng, thế giới nghệ thuật... thì cũng đồng thời sáng tạo hệ thống lời
văn, lời thơ” [22, tr.139]. Tác phẩm nghệ thuật theo đó không chỉ là phương tiện
phản ánh, miêu tả, thể hiện các mặt khác nhau của cuộc sống và thế giới tâm hồn
con người mà quan trọng và trước hết, nó là một chỉnh thể thẩm mỹ, là kết quả của
quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ.
Thơ Hoàng Cầm, sau hệ thống hình ảnh lung linh vi diệu là suối nguồn nhạc
điệu tuôn trào miên man, bất tận khiến thế giới ấy trở thành một thế giới đầy nhạc
điệu. Từ cách chọn thể loại, hiệp vần, cách phối âm, điệp từ, điệp ngữ, điệp thanh…
đến những dòng thơ đầy khoảng lặng, tất cả đều hướng đến tạo chất nhạc cho mỗi
bài thơ. Nhạc thơ Hoàng Cầm, ấy là nhạc điệu toát ra từ sâu thẳm tâm hồn ông cộng
hưởng, giao hòa với âm vang của cuộc đời mà lúc nào thi nhân cũng mở hồn đón
đợi, lắng nghe và nắm bắt.
Tìm hiểu cặn kẽ cái hay, đẹp trong ngôn từ thơ Hoàng Cầm, quả có những
câu thơ chạm đến đỉnh cao thẩm mỹ của sự sáng tạo. Đó phải nói là những dòng thơ
thần diệu với sự tinh luyện về hình tượng và sự tài tình khéo léo đến chuẩn mực về
từ âm. Trước những câu thơ như thế, càng đọc, người ta càng cảm thấy ngỡ ngàng
hứng thú, say mê, cái cảm giác lâng lâng, sảng khoái như lướt qua mà kỳ thực còn
đọng mãi trong hồn những ai biết yêu thơ, yêu cuộc sống, dù chỉ một lần đọc thơ
Hoàng Cầm. Đâu chỉ hay về lời, sâu về ý, những dòng thơ ấy còn rất độc đáo ở cách
phối âm, hòa nhịp và sáng tạo hình ảnh.
KẾT LUẬN
Thơ, ở đâu và cho đến bao giờ, cũng phải là sự thể hiện những rung động
chân thành và mãnh liệt nhất trong trái tim người nghệ sĩ. Lẽ cố nhiên, trái tim ấy
phải luôn luôn rộng mở để đón nhận hết mọi âm ba của cuộc đời, để trăn trở và thổn
thức cùng lòng người theo năm tháng. Đời thơ, Người thơ Hoàng Cầm – chàng thi
sĩ tài hoa, đa tình của đất Kinh Bắc – sở hữu hết thảy những điều như thế. Con
người này dường như được sinh ra để làm thơ. Sự nghiệp sáng tác của ông dù được
mở đầu bằng những vở kịch thơ nổi tiếng, dù những trang văn xuôi ông để lại cho
đời cũng đầy giá trị, thì Hoàng Cầm trước hết vẫn là một hồn thơ – hồn thơ lung
linh, vi diệu của miền quan họ ngàn năm.
Giữa những biến động hết sức nhạy cảm của lịch sử, bao lớp nhà thơ vẫn
không thôi trăn trở tìm tòi để có một lối đi, Hoàng Cầm đã tạo được một dòng thơ
mang âm hưởng và sắc điệu riêng. Dù chỉ thành công ở những mức độ nhất định
nhưng với những gì đã có, hồn thơ ấy, tiếng thơ của lòng khát sống, của trái tim
giàu yêu thương, khát khao sáng tạo và dâng hiến ấy đã và sẽ mãi mãi nhận được sự
nâng niu, trân trọng của người đọc.
Thực vậy, trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm – người nghệ sĩ đích
thực, tài thơ độc đáo của dân tộc, giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Tiếng thơ ấy tự
nó tỏa ra một hương sắc riêng, lạ và rất đẹp, mang đến cho đời những giá trị bất hủ
và góp phần làm rạng danh cho nền thơ nước nhà. Dù vậy, vì nhiều lý do, thơ
Hoàng Cầm vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Thiết nghĩ,
đề tài nghiên cứu: Hồn – Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm sẽ mang đến
cho người đọc những nhận thức đúng đắn, đầy đủ về di sản thơ Hoàng Cầm, thấy
được nét văn phong riêng, sự sáng tạo đặc sắc và độc đáo của người nghệ sĩ tài hoa
này.
Trước hết, có thể thấy, thơ Hoàng Cầm là thơ của một tâm hồn đặc biệt tinh
nhạy, của một cái tôi khát khao giao cảm, khát khao dâng hiến. Trong cuộc chơi có
tên Trần Thế, Hoàng cầm đã sống và chơi hết mình, với tấm lòng chân thành, tha
thiết nhất. Hoàng Cầm yêu như đang làm thơ và làm thơ như đang yêu vậy. Giữa
cuộc đời đầy sóng gió ngả nghiêng, buồn đau, đắng xót, Người thơ ấy vẫn gượng
dậy được và tiếp tục nằm nghiêng nghiêng trong dáng nằm hết sức chông chênh của
định mệnh thơ mình. Níu giữ chân chàng thi sĩ đa cảm, ưa sầu và giàu lòng yêu
cuộc sống ấy, hẳn chỉ có Suối tình và Nàng thơ.
Hoàng Cầm dường như lúc nào cũng muốn đào thật sâu vào mạch nguồn thi
ca bất tận trong hồn mình, khơi thật mạnh vào trường cảm xúc ngập đầy men say
nơi trái tim mình. Hồn thơ ấy vì thế mà có sức ám ảnh rất lớn đối với người đọc.
Chu Văn Sơn bày tỏ cảm giác của mình khi đọc thơ Hoàng Cầm: “Có một cái gì
thật khó chịu, bị bó buộc, bị nhấn chìm, bị đè ngang trong câu chữ, cố thoát lên
nhưng không sao thoát được, cứ nghẹn ngào, u uất, tức tưởi” [151, tr.285]. Cảm
giác ấy, Chu Văn Sơn nói hộ cho nhiều người khi lạc vào vườn thơ Hoàng Cầm.
Tác giả hẳn cũng đồng tình với quan niệm cho rằng: “Thơ là cái gì huyền ảo, tinh
khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh bất diệt của cõi vô cùng” [170, tr.37] Thơ
Hoàng Cầm đặc biệt hội đủ những yếu tố ấy. Và như thế, sẽ hoài công cho những ai
muốn đi đến tận cùng tầng sâu những lớp nghĩa chìm ẩn trong thơ Hoàng Cầm.
Viết về một hồn thơ, sẽ không thể biết được nhiều điều thuộc về nhà thơ và
tiếng thơ của anh ta khi không đưa con người ấy trở về với quê hương, với cội
nguồn dân tộc. Huống chi, Người thơ mang tên vị thuốc đắng Hoàng Cầm lại được
sinh ra giữa vùng đất thơ ngọt ngào, được sống trong không khí dân ca quan họ. Có
thể nói, “Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng khói sương văn hóa dân gian
đã ăn sâu vào tuổi thơ Hoàng Cầm, tạo thành một phần máu thịt trong bản thể thơ
ông” [66, tr.43]. Những trang thơ viết về quê hương của Hoàng Cầm vì thế “mang
đậm âm hưởng của vùng đất Kinh Bắc huê tình, diễm lệ, đầy ắp huyền thoại và
bảng lảng một làn sương khói dân ca” [151, tr.227]. Âm điệu trong thơ ông cũng là
âm điệu của đất trời Kinh Bắc, miên man vọng vào lòng người, say đắm, thiết tha.
Nguồn thơ ấy chảy giữa đất trời Kinh Bắc, một Kinh Bắc vừa thực vừa mơ, vừa
sáng trong, vừa nhuốm màu huyền thoại. Nhưng, thơ Hoàng Cầm còn mang một
điệu hồn khác, “một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ” để “giải tỏa những
ẩn ức” [151, tr.16]. Quê hương Kinh Bắc được nhìn, được miêu tả bằng hoài vọng,
bằng nỗi nhớ và những ẩn ức của một thời đã qua, đã rất xa xôi… Chính điểm này
làm cho thơ Hoàng Cầm vượt ra ngoài vùng tư duy lãng mạn để hướng tới thế giới
bí ẩn trong tâm hồn.
Cả đời mình, Hoàng Cầm lấy thơ làm cứu cánh, làm lẽ sống, thì đổi lại, thơ
đã đem đến cho ông sức mạnh để mãi sống yêu đời, và hơn nữa, thơ cho ông cả một
thế giới để bù đắp – thế giới của riêng mình. Thế giới ấy ngập tràn hạnh phúc, tình
yêu, được dệt bằng tâm tư, tình cảm, bằng niềm tin yêu trọn vẹn mà thi nhân dành
cả cho đời. Nếu Về Kinh Bắc “dìu chúng ta qua những chùa chiền, lăng miếu, những
cầu, những bến, những cây lá, hội hè, qua những cặp mắt đa tình của những người
gái xứ quê” [151, tr.227]; thì Mưa Thuận Thành – “Cả tập hai mươi bài là một sắc
thơ mưa, là một giọng thơ mưa: mưa chiều nắng chếch, mưa trắng ngang đầu, mưa
ao nhòe nắng, mưa ngâu gõ nhịp trên thềm vắng, mưa nhung tung cánh trắng ngần
v.v… Nhưng chính thực là mưa trong lòng người, mưa trong tâm tình, trong tâm
trạng” [66, tr27]. Dòng sông cảm xúc trong hồn ông chảy giữa nguồn mạch Kinh
Bắc trên đôi bờ đầy ắp giá trị văn hóa, nối liền quá khứ với hiện tại và tương lai.
Đằng sau những dòng sông diễm lệ, núi đồi thần tiên, chùa chiền thanh tịnh, những
quê nghèo vắng hút đế những con người tình tứ hào hoa trên đất quê hương… là cả
một tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà thơ.
Đứng giữa làng thơ tình cùng những thi nhân nổi tiếng như Nguyễn Bính,
Xuân Diệu nhưng thơ Hoàng Cầm mang sắc thái và tình điệu riêng. Nói như Quang
Huy: “Ông đa tình, kiêu sang và ẩn ức… Thơ Hoàng Cầm buồn. Đôi khi pha chút
cay đắng” [151, tr.227-228]. Vị thơ Hoàng Cầm – vị đắng thấm đẫm tình đời, tình
người, được sắc lại từ lòng yêu cuộc sống, yêu nghệ thuật và cái đẹp thiết tha của
thi nhân. Tình khúc Hoàng Cầm đâu chỉ có những cung bậc khác nhau của tình yêu
nam nữ, đằng sau nó “là một tình yêu lớn rộng, đằm sâu với quê hương, nguồn cội,
với lý tưởng về cái đẹp của cuộc đời trần thế” [151, tr.299].
Hoàng Cầm là thi sĩ của tình yêu, một tình yêu đam mê và khát cháy. Tình
yêu ấy phủ đầy 99 tình khúc cùng nhiều thi phẩm khác của nhà thơ với bao khát
khao, say mê, bao nỗi nhớ thương, giận hờn, trách móc. Đọc thơ tình Hoàng Cầm,
người đọc như được bước vào một mê hồn trận của cảm xúc ái ân, một lâu đài bí
hiểm và cổ kính có tên là lâu đài tình ái. Nơi ấy, không chỉ những vật thể của người
tình được thanh cao hóa, tượng trưng hóa mà cả những âu yếm, ái ân cũng in đậm
màu sắc những lễ nghi huyền thoại… tất cả những hành vi tình yêu đều diễn ra
trong không gian tôn giáo đầy tính chất siêu hình, hư ảo, sắc sắc, không không…
Hoàng Cầm quả xứng danh là thi sĩ của tình yêu, thi sĩ của hồn quê, của
những tác phẩm mang linh hồn của vùng quê đất Việt. Tình yêu quê hương xứ sở
chính là nền tảng của tình yêu Tổ quốc. Là một thi sĩ tài hoa, Hoàng Cầm đã làm
sống dậy trong thơ mình những giá trị văn hóa dân tộc mang tính nhân văn cao cả.
Những chặng đường đời và những chặng đường thơ, chất người và chất thơ,
khái quát mà rất cụ thể, Hoàng Cầm và sự nghiệp thơ ca của ông được nói đến bằng
tất cả lòng yêu mến, sự trân trọng. Đọc, phân tích và lý giải thơ Hoàng Cầm theo sự
cảm nhận của riêng mình, Nguyễn Đăng Mạnh cũng nói: “Những vần thơ cứ ngân
nga, cứ ám ảnh hoài và nhói lên trong ta một nỗi xót xa, môt niềm thương nhớ
không nguôi” [66, tr.25]. Đâu dễ gì tạo được những vần thơ như thế nên cũng khó
để hiểu và lý giải cho tường tận và rành rẽ cái hay ẩn chứa trong nó. Hơn nữa, ở
Hoàng Cầm, có những điều chỉ có thể cảm nhận mà không sao nói cho rành mạch,
cụ thể được. Và điều đó, thật tuyệt diệu, lại góp phần tạo nên sự lung linh, hư ảo
cho thế giới thơ ông.
Thế giới ấy vốn không dễ nói hết, bởi nó “không tuân theo logic thông
thường, không nói năng bằng cú pháp thông thường. Lời lẽ, chữ nghĩa, hình ảnh
như là phi lí, vô nghĩa” [66, tr.28]. Thế giới ấy lại còn có nhiều khoảng trắng, nhiều
dấu lặng – nơi chỉ có thể lắng nghe bằng cảm xúc, bằng cả tâm linh những rung
động trong tâm hồn thi nhân, nơi chất thơ dạt dào lan tỏa. Thơ, vì có được những
đặc điểm ấy mà có khả năng truyền cảm mạnh mẽ, thấm sâu vào lòng người có khi
chỉ bằng những khoảng trống hay từ những điều tưởng như vô nghĩa. Thơ Hoàng
Cầm, vô tình mà đầy hữu ý, mang đậm những nét đặc trưng, những điểm ưu trội của
thi ca và hiện ra trong một sắc thái riêng, lạ - sắc thái Hoàng Cầm. Nguyễn Xuân
Lạc xem đó là “thơ siêu thực kiểu Phương Đông bay lên từ một vùng quê quan họ
thơ mộng trữ tình”, là “lối thơ siêu thực – hiện đại – dân gian Hoàng Cầm”
[66, tr.23].
Hoàng cầm không phải là một thi sĩ thời thế và những trang thơ ông không
đơn giản chỉ có những nỗi đau đời. Ông làm nghệ thuật bằng tất cả tài năng, tâm
huyết và lòng say mê bất tận của mình, nhưng trong cuộc đời sáng tạo, Hoàng Cầm
không bàn về lý luận, cũng không có tuyên ngôn nào, chỉ vì ông không muốn như
thế. Suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp cho đời và cho thơ nhưng ông cũng không chỉ
bảo cho ai, rằng thực ra cái đẹp trốn ở đâu. Chỉ biết rằng, cái đẹp trong thơ ông, dù
không dễ nhận ra, cũng không thể nói hết.
Hoàng Cầm và thi phẩm ông đã và đang tỏa sáng trên thi đàn, tỏa sáng trong
tâm hồn người Việt. Thi nhân trở thành một trong những tên tuổi thơ ca lớn, là tinh
hoa của văn hóa Kinh Bắc, tinh hoa của dân tộc. Người nghệ sĩ tài hoa vĩ đại là
người có những đóng góp không thể thay thế trong lịch sử văn học nước nhà. Thì
Hoàng Cầm, người con ưu tú của xứ Kinh Bắc huê tình ngàn năm sẽ là một trong số
những nghệ sĩ ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2001), Tìm hoa quá bước (tiểu luận phê bình), NXB Văn học,
Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”,
Tạp chí văn học, (1).
3. Aristotle (2007), Nghệ thuật thơ ca, NXB Lao động, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2004), Hoàng Cầm – Tác phẩm, Văn xuôi, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm – Tác phẩm, Truyện thơ, Kịch,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
6. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn), Hoàng Cầm – Tác phẩm, Thơ, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Bính (1992), Thơ Nguyễn Bính chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội.
9. B.Brếch (1976), Nhật ký 1920, 1922, NXB Bá Linh và Vaima, Hà Nội.
10. M. M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân
gian Trung cổ và Phục hưng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ Thơ, NXB Văn hóa – Thông tin, hà Nội.
12. Hoàng Cầm (1996), 99 Tình khúc, NXB Văn học, Hà Nội.
13. Hoàng Cầm kể, Lưu Khánh Thơ ghi (1991), “Chuyện về Lá Diêu Bông và bài
thơ Bên kia sông Đuống”, Tạp chí Văn học.
14. Mai Ngọc Chừ (1986), “Bước đầu tìm hiểu những biện pháp làm tăng thêm sức
mạnh biểu đạt ý nghĩa của vần thơ Việt Nam”, Tạp chí văn học, (2).
15. Mai Ngọc Chừ (1991), “Những đặc điểm của âm tiết Tiếng Việt và vai trò của
nó trong thơ ca”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
16. Nguyễn Dương Côn (1994), “Phác thảo về quan hệ giữa ảo và phi lý trong thơ”,
Tạp chí Sông Hương, (8).
17. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học.
18. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, NXB Văn học, Hà Nội.
19. Xuân Diệu (1978), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy, NXB Tác phẩm
mới, Hà Nội.
20. Xuân Diệu (1978), “Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống”, Tạp chí
văn học, (1).
21. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình Lý luận văn học, phần Tác phẩm văn học,
NXB Đại học Quốc gia, TP. HCM.
22. Dovsdilskj S. (1961), “Nhiệm vụ của nhà thơ”, Tạp chí Văn nghệ, (49).
23. Hữu Đạt (1996), “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ ca và ca dao”, Tạp
chí Ngôn ngữ, (4).
24. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
25. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, NXB Văn học,
Hà Nội.
26. Phan Cự Đệ, Phan Cự Đệ tuyển tập (tập 3), Văn học lãng mạn Việt Nam
(1932 - 1945), Phê bình và Tiểu luận, (Lý Hoài Thu tuyển chọn), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.
28. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ (tiểu luận phê bình), NXB Văn
học, Hà Nội.
29. Nguyễn Đăng Điệp – Văn Giá – Lê Quang Hưng – Nguyễn Phượng – Chu Văn
Sơn (2005-2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại (tập 1, 2),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
31. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
34. Hà Minh Đức, Hà Minh Đức tuyển tập (tập 1, LLVH và BC), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
35. Hà Minh Đức, Hà Minh Đức tuyển tập (tập 2, NCVH Việt Nam hiện đại – Trào
lưu – Tác giả - Tác phẩm), (Trần khánh Thành tuyển chọn), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
36. Hà Minh Đức, Hà Minh Đức tuyển tập (tập 3, Phê bình và Tiểu luận văn học),
(Trần Khánh Thành tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.
37. Nguyễn Hoàng Đức (tuyển dịch), Cẩm nang Mỹ học – Nghệ thuật – Thi ca –
Phê bình, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
38. Trinh Đường (2001), Trăm năm thơ, Tạp chí Nhà văn (1).
39. Bằng Giang, Từ thơ mới đến thơ tự do, Phù Sa, Hà Nội.
40. Bùi Giáng (2006), Mưa nguồn, NXB Văn nghệ, TP. HCM.
41. Phạm Thị Hà, Nguyễn Thị Thìn (2002), “Câu hỏi trong thơ trữ tình”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (10).
42. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận và văn học, Vấn đề và
suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP. HCM.
45. Đinh Thị Minh Hằng (2005), “Mấy vấn đề thơ qua những quan niệm văn học
trong lịch sử”, Tạp chí nghiên cứu lý luận và lịch sử văn học, (9).
46. Hoàng Ngọc Hiến (2004), “Năng khiếu cảm nhận tiết tấu”, Tạp chí Văn học và
Tuổi trẻ (1).
47. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, NXB Văn học, Hà Nội.
48. Lê Anh Hiền (2002), Thơ ca – Ngôn ngữ, Tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
49. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, NXB Lao động, Hà Nội.
50. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Hêghen G.F (1973), Mỹ học, (tập 1, 4) (Nhữ Thành dịch), Viện Văn học.
Hà Nội.
52. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tạo thơ ca, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
53. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
54. Tố Hữu (1998), “Tiếng Việt giàu và đẹp - Phải biết khơi nguồn sáng tạo thơ từ
đó”, Tạp chí Văn học (12).
55. Tố Hữu (1980), “Văn học là cuộc đời”, Tạp chí văn học, (6).
56. Vương Vận Hy – Cố Dinh Sinh (2003), “Viên Mai bàn về thơ”, Tạp chí văn
học, (4).
57. H. R. Jauss (2002), “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
văn học”, (Trương Đăng Dung dịch), Tạp chí văn học nước ngoài, (1).
58. Nguyễn Trọng Khanh, Bình luận văn chương – Văn học trong nhà trường,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Dư Khánh (1996), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong
nhà trường, NXB Giáo dục. Hà Nội.
60. K.Marx (1962), Bản thảo Kinh tế - Triết học năm 1844, NXB Sự thật, Hà Nội.
61. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
62. Lê Đình Kỵ, Lê Đình Kỵ tuyển tập, (Huỳnh Như Phương sưu tầm, tuyển chọn
và giới thiệu), NXB Giáo dục, TP. HCM.
63. M.B. Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
64. M.B. Khravchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu văn học (Lại Nguyên Ân dịch), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
65. Đông La (2001), Biên độ của trí tưởng tượng, NXB Văn học, Hà Nội.
66. Nguyễn Xuân Lạc (biên soạn) (2004), Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc –
Văn học trong nhà trường, NXB Trẻ, Hà Nội.
67. Đinh Lan (2001), “Không gian nghiêng – Một nét độc đáo trong thơ Hoàng
Cầm”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (3).
68. Lê Hồng Lâm, Xem chữ, đọc hình (Đối thoại với những người nổi tiếng), NXB
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
69. Mã Giang Lân (1996), “Sự hình thành các bài thơ”, Tạp chí Văn học (10).
70. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, NXB Thanh niên, Hà Nội.
71. Mã Giang Lân (2004), “Tản Đà - Từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tạo hình
thức thơ ca”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8).
72. Mã Giang Lân, Thơ – Hình thành và tiếp nhận, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
73. Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu (2001), Thơ Hàn Mặc Tử, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
74. Mã Giang Lân (2007), “Nhịp điệu thơ hôm nay”, Tạp chí nghiên cứu lý luận,
phê bình và lịch sử văn học, (3).
75. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại – Nghĩ tiếp…, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Thế Lịch (2000), “Ngữ pháp của thơ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11) và (12).
77. Nguyễn Thế Lịch (2004), “Nhịp thơ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1).
78. Vũ Bội Liêu, Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương trong ngôn
ngữ và văn chương, NXB văn học, Hà Nội.
79. Lưu Trọng Lư (1981), “Vài cảm nghĩ và kinh nghiệm về thơ”, Tạp chí văn
học (6).
80. Lưu Trọng Lư (1961), “Một vài cảm nghĩ về thơ”, Tạp chí Văn nghệ, (48).
81. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
82. Phương Lựu (2005), Phương Lựu tuyển tập (tập 1, 2, 3), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
83. IU. M Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (nhiều người dịch), NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
84. Đặng Thai Mai (1997), Đặng Thai Mai toàn tập (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.
85. Hoàng Như Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
86. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng (2006), Văn học 12 (tập 1), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
87. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
88. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Để dạy tốt văn học Việt Nam lớp 12, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
89. Nguyễn Đặng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Chân dung và phong
cách, NXB Trẻ, TP.HCM.
90. Trần Đồng Minh, Văn học từ những góc nhìn riêng, NXB Trẻ, TP.HCM.
91. Nguyễn Thị Thanh Minh (2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong
sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội.
92. E. M. Meletinsky, Thi pháp của huyền thoại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
93. Anh Ngọc (2000), Từ thơ đến thơ (Tiểu luận, phê bình, hồi ức), NXB Thanh
Niên, Hà Nội.
94. Phan Ngọc (1991), “Thơ là gì?”, Tạp chí văn học, (1).
95. Bàng Sĩ Nguyên (1978), “Thơ của đời sống”, Tạp chí văn học, (1).
96. Hoàng Sĩ Nguyên (2007), “Kiểu nhà thơ và quan niệm của các nhà thơ mới về
thơ mới”, Tạp chí văn học, (3)
97. Triều Nguyên (2006), Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
98. Lã Nguyên (1998), “Tiếp cận tác phẩm thơ từ góc độ Văn hóa nghệ thuật”, Tạp
chí văn học, (3).
99. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, Tp.HCM.
100. G. Ni – cô – lai – ê – va (1997), Văn nghệ là gì?, NXB Sự Thật, Hà Nội.
101. Lê Lưu Oanh (tuyển chọn và biên soạn), Nguyễn Đình Thi – Hoàng cầm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
102. Như Phong (1977), Bình luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
103. Ngô Văn Phú (2002), Duyên nợ văn chương (Chân dung văn học và tạp luận),
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
104. Vũ Đức Phúc (2001), Bàn về văn học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
105. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
106. Vũ Quần Phương (1992), “Vài ý nghĩ về thơ hôm nay”, Tạp chí Tác phẩm
mới, (3).
107. Pauxtovskj K. (2001), Bông hồng vàng (Kim Ân dịch), NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
108. Pospelov G. N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch), NXB Giáo dục, Hà Nội.
109. Vũ Tiến Quỳnh, Hồng Nguyên – Chính Hữu – Trần Hữu Thung – Hoàng Cầm
– Quang Dũng – Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình
luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt Nam, NXB
Văn nghệ Tp. HCM.
110. Ranicki M. R. (1994), “Một lời biện hộ cho thơ”, (Trương Hồng Quang dịch),
Tạp chí văn học, (3).
111. Nguyễn Khắc Sính (2006), Phong cách thời đại nhìn từ một thể loại văn học,
NXB Văn học, Hà Nội.
112. Trịnh Thanh Sơn (2002), Dọc cánh đồng thơ (Tiểu luận, phê bình - Chân dung
văn học), NXB Lao động, Hà Nội.
113. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, NXB Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
114. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
115. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
116. Trần Đình Sử (1996), “Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học”, Tạp chí văn học (1).
117. Sartre J. P. (1999), Văn học là gì (Nguyên Ngọc dịch), NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
118. Ferdinand De Saussure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học Đại cương (Cao
Xuân Hạo dịch), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
119. Trần Hữu Tá (nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn) (2000), Nhìn lại một chặng
đường văn học, NXB TP. HCM.
120. Hà Công Tài (1997), “Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ”, Tạp chí văn học, (5).
121. Hà Công Tài (1996), “Đặc trưng hình thể của ngôn từ thơ ca”, Tạp chí văn học (3).
122. Nguyễn Minh Tấn (biên soạn) (1981), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới,
Hà Nội.
123. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
124. Đào Thản (1990), “Nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
125. Hoài Thanh – Vũ Ngọc Phan – Hải Triều – Đặng Thai Mai (1999), Nhà văn và
tác phẩm trong nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.
126. Nguyễn Bá Thành (1991), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiên đại, NXB
Văn học, Hà Nội.
127. Nguyễn Đình Thi (1998), “Viết từ ngôn ngữ của cuộc sống tâm hồn mình”,
Tạp chí văn học, (12).
128. Bùi Công Thìn (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
129. Vũ Duy Thông (biên soạn) (2003), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945 – 1975, NXB Giáo dục, Hà Nội.
130. Trúc Thông (1995), “Một ngả đường đến với thơ”, Tạp chí Tác phẩm mới, (11).
131. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
132. Nguyễn Bích Thuận (sưu tầm và giới thiệu), Hoàng cầm – Tác giả, tác phẩm,
tư liệu, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
133. Đoàn Thiện Thuật (1980), Ngữ âm Tiếng Việt, NXB Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
134. Đỗ Lai Thúy (dịch) (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp – Lý thuyết Chủ nghĩa
hình thức Nga, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
135. Đỗ Lai Thúy (1998), “Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và…”, Tạp chí Văn học, (5) .
136. Nguyễn Thị Phương Thủy (2004), “Vần, thanh điệu, nhịp điệu trong câu thơ
mới bảy chữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
137. Nguyễn Vũ Tiềm (2006), Đi tìm mật mã của thơ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
138. Phạm Văn Tình (2002), “Im lặng – một dạng tỉnh lược ngữ dụng”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (5).
139. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2001), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội
140. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP. HCM.
141. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, NXB
Thanh niên, Hà Nội.
142. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
143. Võ Gia Trị (2002), “Lý luận là nền tảng cho thơ ca vươn cao”, Tạp chí Nhà
văn, (11).
144. Võ Gia Trị (2003), Quy luật của văn chương, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
145. Võ Gia Trị (2000), Văn chương và nghệ sĩ (tiểu luận phê bình), NXB Văn
học, Hà Nội.
146. Hoàng Trinh (1974), “Tình cảm trong sáng tác văn học”, Tạp chí văn học, (3).
147. Hoàng Trinh (1996), “Giao tiếp trong văn học”, Tạp chí văn học, (4).
148. Hàn Anh Trúc, Chuyện văn – Lai lịch nhà thơ, lai lịch bài thơ, NXB Thanh
niên, Hà Nội.
149. Lâm Vinh (1980), “Từ câu thơ âm nhạc đến câu thơ văn học”, Tạp chí văn
học, (6).
150. Kiều Văn (2006), Những gương mặt tiêu biểu thơ ca Việt Nam, NXB Văn học.
151. Hoài Việt (sưu tầm, biên soạn) (1997), Hoàng Cầm – Thơ văn và cuộc đời,
NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
152. Vũ Thanh Việt (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Thơ Nguyễn Bính – Những
lời bình, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
153. Hồ Sĩ Vịnh (2004), “Yếu tố phi lý tính trong thơ”, Tạp chí Nhà văn, (8).
154. V.V.Vi-nô-gờ-ra-đốp (1971), Về lý luận của ngôn ngữ nghệ thuật, NXB Cao
đẳng, Mạc Tư Khoa, Hà Nội.
155. Xâytlin (1968), Lao động nhà văn, NXB Văn học.
156. Bôrix Xuskôv (1980), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, NXB Tác
phẩm mới, Hà Nội.
157. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1994), Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn hóa
– Thông tin, Hà Nội.
158. Nhiều tác giả (Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh) (1976), Về văn hóa văn nghệ, NXB Văn hóa,
Hà Nội.
159. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật
Đà Nẵng.
160. Nhiều tác giả (2003), Những vấn đề Ngữ văn, Thơ – Nghiên cứu, lý luận, phê
bình, NXB đại học Quốc gia, TP. HCM.
161. Nhiều tác giả (1990), Tình bạn, tình yêu, thơ…, NXB Giáo dục, Hà Nội.
162. Nhiều tác giả (1992), Thơ Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội.
163. Nhiều tác giả (2006), Thơ hay Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
164. Nhiều tác giả (1994), Tuyển tập thơ lục bát Việt nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
165. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Lời hay ý đẹp, tập 2, NXB Thanh niên, Hà Nội.
166. Nhiều tác giả (1993), Từ điển Văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
167. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.
168. Nhiều tác giả (2006), Văn chương một thời để nhớ, NXB Văn học, Hà Nội.
169. Nhiều tác giả (1978), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
170. Nhiều tác giả (1991), Xuân Thu nhã tập, NXB Văn học, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7521.pdf