Đặt vấn đề
T
rong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển như vũ bão hiện nay, hội nhập kinh tế quốc gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới đang là vấn đề lý luận thực tiễn và nóng bỏng, sôi động được mọi người quan tâm.
Vấn đề hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) mang nhiều đặc trưng kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù chưa có tiền lệ lịch sử. Lần đầu tiên người ta đang chứng kiến sự xâm nhập vào nhau của các xu hướng vươn tới các hình
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hội nhập kinh tế Việt Nam-ASEAN: Những đặc trưng, kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thái kinh tế- xã hội khác nhau từ những xuất phát điểm chênh lệch nhau về trình độ phát triển, với sự lựa chọn chính trị khác nhau đang tồn tại và phát triển bình yên bên nhau. Cái gì là linh hồn, hạt nhân, chất keo gắn kết những thuộc tính riêng biệt của sự phát triển xã hội đó lại thành một khối thống nhất có bản sắc kinh tế , chính trị độc đáo, phong phú đang được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn phân tích, lý giải.
Đề tài :”Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean : Những đặc trưng, kinh nghiệm và giải pháp “ của em với mục đích bước đầu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại. Nghiên cứu những khả năng hội nhập của đất nước.
Trong phạm vi một đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên với mục đích là học hỏi phương pháp học tập khoa học và rèn luyện tư duy khoa học.
Trên cơ sở đó nội dung chính của đề tài gồm có ba chương:
Chương I: Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean: Những đặc trưng cơ bản.
ChươngII: Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean: Những kinh nghiệm chủ yếu.
ChươngIII: Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean: Những giải pháp cơ bản.
Chương I
Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean
Những đặc trưng cơ bản.
I. Những đặc trưng kinh tế, chính trị, xã hội nổi bật trong tiến trình Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean .
1. Tính thống nhất của Đông Nam á :
Sự ra đời của asean, tư tưởng về một Đông Nam á thống nhất đã được thực hiện hoá bằng các văn bản của hiệp hội. Đó là kết quả của cả một quá trình phát triển lâu dài không chỉ tư tưởng mà là thực tiễn của các dân tộc Đông Nam á tiến lên làm chủ các mối quan hệ ở cấp quốc gia-khu vực-và toàn cầu. Nó cũng đánh dấu Đông Nam á bắt đầu trở thành một hệ thống nhất thực sự, khác biệt có bản sắc riêng cùng tồn tại với các hệ thống khác. asean đã sẽ hành động như một thực thể thống nhất bên cạnh các hệ thống khác và như một trung tâm có uy tín, có thực lực, cũng như các trung tâm khác của thế giới được diễn đạt thể hiện trong các quan hệ song phương hoặc đa phương của các nước thành viên asean với bất kỳ một quốc gia hoặc tổ chức quốc tế nào. Sự thống nhất trước hết là ở chỗ, mọi ứng sử của họ đều chứa đựng tinh thần, nội dung và nguyên tắc được thể chế hoá bằng các văn bản trong các hiệp định của asean .
Nếu ở giai đoạn đầu (1967-1976) người ta thường cho rằng. asean chỉ tồn tại trên danh nghĩa, nhưng trong thực tế ý thức khu vực của asean vẫn tiếp tục được phát triển và nâng cao, trước hết thể hiện ở tư tưởng ZOPFAN (Zone of peace, Freedom and Neutrality), tư tưởng chính trị nhằm biến các nước Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, tự do và trung lập. Tư tưởng đó được asean đưa ra trong trong tuyên bố Kuala Lumour (27-11-1971). Trong đó kêu gọi:”Các nước Đông Nam á cần phối hợp nỗ lực nhằm mở rộng các lĩnh vực hợp tác để góp phần tăng cường sức mạnh, tình đoàn kết, mối quan hệ gắn bó hơn nữa của các nước này”.
Đến năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam và các nước Đông Dương khác kết thúc thắng lợi, tư tưởng về khu vực Đông Nam á thống nhất lại có thêm vận hội và sức phát triển mới. Sự thống nhất trong hành động được chuyển từ lĩnh vực chính trị tư tưởng sang hợp tác, hội nhập vào nhau giữa trình độ những nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau, bỏ qua những đặc thù về hệ tư tưởng cũng như sự khác biệt về truyền thống tập quán của từng dân tộc và quốc gia. Tiến trình đi tới sự hội nhập của các quốc gia Đông Nam á thành một khối thống nhất- asean được diễn ra trong hoàn cảnh và điều kiện ngay khi tình hình thế giới và khu vực có những thay đổi lớn. Đó là sự đổ vỡ của tình trạng trực tiếp giữa hai hệ tư tưởng và sự kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh kéo dài cả nửa thế kỷ. Trong điều kiện đó những nhân tố thống nhất và hợp tác ở khu vực Đông Nam á đã xuất hiện và thực sự đi ddến giai đoạn chín muồi.
Đông Nam á đã tự nhận thức lại mình, trong đó điều kiện quan trong là nhận thức về sự thống nhất vốn có của Đông Nam á không chỉ trên phương diện địa- lịch sử, địa –văn hoá, địa – chính trị mà cả địa kinh tế với những lợi ích lâu dài và căn bản.
Tính thống nhất của Đông Nam á trong tất cả sự đa dạng của nó là một thực tế khách quan, chứ không phải là một sản phẩm trong tư duy của một số lãnh tụ siêu việt nào đó. Tính thống nhất vốn có ấy trong quá khứ xa xưa chưa được nhận thức đầy đủ. Nó chỉ ra đời sau chiến tranh thế giới II với sự thắng thế của các tư tưởng giải phóng dân tộc . Tuy vậy khi chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam á mới nảy nở, nó đã bị chủ nghĩa thực dân đế quốc và chiến tranh lạnh chia rẽ và phân cách. Chỉ đến khi chiến tranh kết thúc thì tính thống nhất của Đông Nam á mới được biểu lộ ra và phát triển thêm nhờ mở rộng tổ chức ra toàn khu vực bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ tàn phá hầu hết các quốc gia trụ cột và lôi kéo nền kinh tế khu vực rơi vào cuộc khủng hoảng. Điều đó cho thấy chủ nghĩa khu vực dựa trên nền tảng đoàn kết, bình đẳng luôn thắng thế.
2. Hoà bình, ổn định, năng động, thịnh vượng thể hiện tập trung nhất đặc trưng thống nhất, một đặc trưng cơ bản, trong tiến trình hội nhập của các quốc gia Đông Nam á - Asean.
Nhiệm vụ chủ yếu mà Asean nhận thấy là tăng cường ổn định kinh tế, xã hội trong khu vực, cũng như ổn định hoà bình và phát triển tiến bộ của các nước trong khu vực. Họ quyết tâm bảo đảm an ninh của từng nước, tránh sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào của nước ngoài, nhằm duy trì tính thống nhất quốc gia và đoàn kết khu vực phù hợp với tư tưởng và nguyện vọng của các dân tộc Đông Nam á . Trong các văn kiện cuả Asean, không ít lần đã nhấn mạnh những nguyên tắc:”Thông qua nỗ lực tập thể, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và phát triển văn hoá”. “Dựa vào tinh thần tôn trọng chính nghĩa và pháp trị để xúc tiến hoà bình và ổn định trong khu vực”…Điều đó thấy các văn kiện của Asean đã dựa vững chắc vào nguyên tắc Băng Cốc để quyết tâm xây dựng một Đông Nam á hoà bình, ổn định, hợp tác, hữu nghị và phát triển .
Asean đã lấy hai đặc trưng thương lượng và nhất trí làm cở sở vận hành bên trong để có thể quan tâm tới bình đẳng và lợi ích của tất cả các nước. Qua hơn 30 năm tồn tại và phát triển của Asean đã cho thấy dưới sự chỉ đạo của hai nguyên tắc “thương lượng” và “nhất trí” mà bất kỳ quyết sách nào trong nội bộ Asean cũng đều mang tính khả thi cao. Từ đó không một lập trường hoặc lợi ích của nước nào bị hy sinh. Mọi quốc gia đều quan tâm đến sự nhất trí và sự hài hoà, nên không sợ một vấn đề nào gay gắt nào đó có thể làm cho Asean tan rã.
Với quá trình chính trị đó, đã nổi bật nên ba phương châm ứng xử:
- Trong phát ngôn luôn tôn trọng sự đoàn kết trong cả lời lẽ hay từ ngữ.
- Trong ứng xử cần có thủ thuật né tráng chính trị .
- Trong hợp tác, các nước thành viên dần dần áp dụng được tinh thần thực tế. Đó là tinh thần thân trọng, chậm mà chắc, biết chờ đợi đối tác và tạo điều kiện để thời kỳ chín muồi xuất hiện.
Thấy được nguyên tắc “thương lượng và nhất trí” và các phương châm này thì ta cũng có thể thấy được quá trình hợp tác kinh tế giữa các nước Asean thời gian qua diễn ra chậm chạp là dễ hiểu. Vì bất cứ kế hoạch hợp tác nào của Asean nếu không thích hợp hoặc không góp phần củng cố sự phát triển kinh tế của cả hiệp hội , không đem lại lợi ích chung cho tất cả các đối tác thì đều là không thực hiện và mất tính khả thi trong thực tiễn.
Chính biết chờ đợi lẫn nhau không chỉ trong lời nói mà trong cả việc làm, nhất là trong hợp tác về chính trị đã tạo ra sự thống nhất một cách mềm dẻo . Nhờ có tính mềm dẻo và uyển chuyển đó mà các nước Asean đã xúc tiến dần dần sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực: chính trị , kinh tế . khoa học-kỹ thuật, văn hoá… Tạo nên một mạng lưới hợp tác đầy năng động. Từ đó các thành viên của Hiệp hội có được sức mạnh “Liên kết” của khu vực, mà có nhiều học giả cho rằng đang hình thành “Chủ nghĩa khu vực Đông Nam á”.
Một trong những động cơ thành lập Asean là nhằm tăng cường tính tự chủ khu vực và dùng lực lượng tập thể tạo ra an ninh cho cả hiệp hội và từng nước cũng như qua sức mạnh tập thể để thương lượng với các nước ngoài khu vực trên phương diện chính trị, kinh tế, an ninh và ngoại giao quốc tế. Có thể thấy được hiệu quả thực tiễn của nguyên tắc, phương châm và sự thống nhất của Asean qua các quan hệ quốc tế sau:
Sau 5 năm thành lập Asean (6/1972) thị trường chung châu âu đã trở thành “bạn” đối thoại; Hiệp hội đã dùng lực lượng tập thể tác động buộc đối tác phải “mở cửa” thị trường. Năm 1973, Asean đã thành công trong đàm phán với Nhật Bản để sản xuất cao su tổng hợp. Việc thành lập qua quan hệ bè bạn đối thoại đó đã được thiết chế hoá, đồng thời được các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới coi trọng.
Nhờ tính thống nhất được tổ chức lại đã có tác dụng thúc đẩy đáng kể trong sự nghiệp tăng cường đoàn kết và thống nhất giữa các nước thành viên trong hiệp hội và tạo điều kiện để mở rộng ra toàn khu vực Đông Nam á. ý tưởng về sự thống nhất thông qua tiến trình mở rộng có từ khi thành lập Asean. Điểm thứ trong bản tuyên bố Băng Cốc thành lập Asean 8/8/1967 nêu rõ: Hiệp hội này mở rộng cho tất cả các quốc gia ở khu vực Đông Nam á tán thành tôn chỉ , nguyên tắc và mục đích của Asean. Điều này cho thấy ngay từ đầu thành lập Asean, tổ chức này đã là một tổ chức mở đối với khu vực Đông Nam á, và tất nhiên là không loại trừ cả Việt Nam – mà khi đó một số nước Asean còn đang ở trong tình trạng quan hệ căng thẳng hoặc đối đầu. Asean ngay từ khi khởi đầu đã nhìn thấy sự thống nhất của Đông Nam á nhiều hơn là dị biệt, bất đồng, kể cả vấn đề nhạy cảm là hệ tư tưởng- hay ý thức hệ.
ý thức về sự thống nhất khu vực và quyền lợi tối cao của dân tộc thực tế đã vược lên trên cả vấn đề ý thức hệ, chứ không phải là ngược lại, như người ta đã từng quan niệm. Chủ nghĩa khu vực với ý nghĩa là hệ thống các nguyên tắc và tiêu chí theo đó các quốc gia- dân tộc không phụ thuộc vào thể chế, chế độ chính trị - xã hội và hệ tư tưởng, trong cùng một không gian địa- lịch sử, địa- văn hoá, địa- chính trị- xã hội hoàn toàn có thể hợp tác với nhau để phát triển- chủ nghĩa khu vực ấy ngày càng tỏ rõ sức sống mãnh liệt ở Asean và Đông Nam á sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và trật tự thế giới “hai cực” Y-an-ta tan rã. Asean trở thành tài sản chung của toàn Đông Nam á. Tuy nhiên, để hoà nhập có hiệu quả cũng cần phải thấy rõ và phân tích đầy đủ những khác biệt giữa các quốc gia Asean.
II. Việt Nam gia nhập Asean: Cơ hội và thách thức
Sau 32 năm xây dựng và phát triển, đến nay Asean đã trở thành một khu vực có vị thế chính trị, tiềm năng kinh tế và nền văn hoá đầy bản sắc, có quan hệ với nhiều trung tâm kinh tế lớn và các khu vực khác trên thế giới. Việt Nam gia nhập Asean là một quyết định đúng đắn, kịp thời với xu hướng phát triển của tình hình thế giới và tình hình khu vực, là một mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại nói chung và quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng. Đây là cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức cần phải vượt qua.
1. Cơ hội
Việt Nam trở thành viên chính thức của Asean, đã và đang tham gia đầy đủ các hoạt động của Asean và ngoài Asean. Đó là cơ hội để Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới.
Thứ nhất, Hội nhập Asean, Việt Nam có điều kiện tăng cường hợp tác kinh tế khu vực, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường, hội nhập với thế giới.
Asean là một thị trường lớn, với dân số hơn 500 triệu người, nhịp độ tăng trưởng hàng năm khá nhanh, khả năng GDP trên 300 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ và xuất khẩu tư bản lớn. Là thành viên chính thức, đầy đủ của Asean, Việt Nam có đủ điều kiện để tăng cường quan hệ, hợp tác kinh tế thương mại với các nước trong hiệp hội. Thông qua hoại động hợp tác kinh tế, bước đầu hai bên đã đạt được hiệu quả nhất định. Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên Asean đã gia tăng bình quân 26,8% năm và đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để đầu tư vào Việt Nam. Cho đến giữa thập kỷ 90, đầu tư của các nước thành viên Asean vào Việt Nam đã tăng lên 273 dự án với tổng số vốn là 4,6 tỷ USD, chiếm hơn 20% FDI, trong đó dẫn đầu là Singapore (trên 2,5 tỷ), sau đó là Malaysia, Thailand, phía Việt Nam thông qua các dự án liên doanh với các nước Asean đã tăng thêm dự án đầu tư , mở rộng sản xuất, giải quết việc làm trong một số ngành kinh tế như: công nghiệp chế biến, lâm hải sản, du lịch, dịch vụ… Việt Nam cũng đã và đang tham gia theo lịch trình cảc AFTA, đã cung cấp một danh sách gồm 857 mặt hàng đầu tiên được giảm thuế và đã hoàn tất việc đưa vào hẹe thống biểu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common effective preferential tariffs- CEPT). Cho đến nay hệ thống thuế quan của Việt Nam và CEPT không có sự cách biệt lớn lắm. Khoảng trên 57% hàng nhập khẩu của Việt Nam có thuế suất từ 0 –5%, khoảng 23% có mức thuế từ 6- 20%, các hàng hoá có mức thuế trên 20% chỉ chiếm 20%. Việc tham gia AFTA của Việt Nam, tuy trước mắt có khó khăn, nhưng về lâu dài sẽ có lợi trong thúc đẩy việc hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thuộc trường đại học tổng hợp Singapore thì Hiệp định CEPT sẽ làm tăng 3% thu nhập và thương mại của các nước Asean. Tỷ lệ trao đổi mậu dịch nội bộ Asean tăng từ 18% lên 50% giá trị ngoại thương Asean vào năm 2008. Ngoài ra thông qua AFTA, Việt Nam sẽ có điều kiện mở rộng thị trường với các nước tư bản phát triển . Từ đó, Việt Nam sẽ nhanh chóng hoà nhập vào môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế, Asean sẽ là cầu nối để Việt Nam tiếp cận các tổ chức kinh tế và các bạn hàng trong và ngoài khu vực, tham gia vào APEC, và chuẩn bị điều kiện để tham gia WTO…
Thứ hai, thông qua việo hội nhập khu vực và thế giới, vước ta có điều kiện tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, phát huy nguồn lực trong nước một cách mạnh mẽ hơn.
Hợp tác Việt Nam – Asean thông qua các chương trình, hiệp định, dự án trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, công nghệ và môi trường, văn hoá…Từ đó mà tăng cường đầu tư, nâng cao khả năng sản xuất, chế biến, tạo ra những thị trường lớn của nhau, còn đầy tiềm năng và đang phát triển . Tuy có một số mặt hàng trùng nhau, song cả hai đều có điều kiện bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong một số mặt hàng nhất định như: dầu lửa, sản xuất và xuất khẩu gạo, cao su… Từ đó mà hàng loạt các chương trình hợp tác đã được hình thành, như phát triển thêm các khu vực kinh doanh hỗn hợp, thực hiện triển khai “Chính sách nông nghiệp chung Asean” trên các lĩnh vực khoa học – kỹ thuật, trao đổi thông tin… hợp tác và sử dụng nguồn nước sông Mê - Công.
Asean là một tổ chức có quan hệ rộng rãi và chặt chẽ với các cường quốc và tổ chức kinh tế thế giới như: Mỹ, Nhật, Canađa, EU… nên khi gia nhập Asean, quan hệ Việt Nam với các nước trên sẽ tăng kên, từ đó chúng ta có thể mở rộng trao đổi hàng hoá, thu hút vốn đầu tư. Như vậy, Việt Nam gia nhập Asean sẽ có một kênh mới để quan hệ với những nước và tổ chức kinh tế trên thế giới. Những năm qua, Việt Nam đã đặt quan hệ thương mại với hơn 100 nước và lãnh thổ, thu hút được 1928 dự án đầu tư (tính đến năm 1997) từ nước ngoài vào với tổng số vốn đăng ký gần 32 tỷ USD, trong đó có 37% tổng số vốn đang được thực hiện . Kết quả là ta đã tăng được nguồn vốn đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất. Việc trao đổi hàng hoá giữa trong và ngoài nước, cạnh tranh sẽ là động lực thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn, nội lực của Việt Nam được tăng cường thêm một bước.
Thứ ba, hội nhập với khu vực, Việt Nam có điều kiện phát huy lợi thế so sánh, đồng thời khắc phục những chê,ăng cướng cạnh tranh và hợp tác của Việt Nam với các nước và các khu vực trên thế giới.
Giữa Việt Nam và các trong khối có nhiều nét tương đồng về tài nguyên thiên nhiên, nông sản nhiệt đới, lao đôngh… Khi hội nhập, ta có thể liên kết với các nước để cùng tạo ta những lợi thế chung cao hơn trong trao đổi với các vực khác, phát huy lợi trế so sánh trên thị trường thế giới.
Asean đã là một Hiệp hội bao gồm 10 nước, hết sức đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát triển, tiềm năng kinh tế thị trường… Điều đó sẽ tạo ra điều kiện mới cho sự hợp tác với nhau để xuất khẩu gạo phù hợp với đặc điểm cuả từng loại gạo của từng nước. Malaysia và Việt Nam sẽ cùng hợp tác xuất khẩu cao su. Khi AFTA được thực hiện đầy đủ sẽ cho phép các nước phát huy được sức mạnh của khu vực để cạnh tranh lợp tác với các thị trường tự do khác.
Thứ tư, khi hội nhập Asean Việt Nam sẽ học tập được những iinh nghiệm phong phú của các nước đi trước, tạo điều kiện để phát triển. Đó là các kinh nghiệm quản lý trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước, như trong lĩnh vực quan hệ mậu dịch của Singapore và Malaysia: các kinh nghiệm của Thailand, Philippines về nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, kinh nghiệm của Singapore về tổ chức thị trường vốn, kinh nghiệm về chế biến và xuất khẩu khoáng sản của Malaysia, Inđonesia… Các kinh nghiệm trong quan hệ tổ chức tài chính, tín dung, thương mại quốc tế và các kinh nghiệm quản lý kinh tế vĩ mô, vi mô khác.
Thứ năm, Việt Nam Asean còn có cơ hội về mặt chính trị - xã hội. Đó là việc tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên, củng cố hoà bình, ổn định và hạn chế những nhân tố dẫn tới sự bất hoà, mất ổn định trong khu vực. Đông Nam á là nơi có nền văn hoá với nhiều nét tương đồng gần gũi với Việt Nam. Vì vậy ra nhập Asean, ta có điều kiện tiếp thu những tinh hoa văn hoá của từng nước, làm giàu thêm văn hoá dân tộc. Việt Nam hội nhập Asean nhưng không thể đánh mất mình, hội nhập để phát triển một nước Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội, khi ra nhập Asean . Việt Nam không tránh khỏi những thách thức.
2. Thách thức
Thứ nhất: khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và Asean còn rất lớn, quan hệ trong một số lĩnh vực còn bất cập.
Các nước Asean đến nay hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển từ nhiều thập kỷ qua, có môi trường thương mại và đầu tư quốc tế thuận lợi, là những nước đang chuyển hướng chiến lược từ việc xuất khẩu hàng hoá dựa trên nguyên liệu sẵn có và nhân công rẻ sang sản xuất và xuất khẩu hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật và chất lượng cao. Singapore là nước đi trước, gần đây các nước Malaysia, Thailand rồi đến Inđônêsia, Philippines cũng đầu tư vào những ngành có kỹ thuật cao để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Kinh tế của các nước Asean đã đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, mức bình quân thu nhập đầu người cao. Trước khủng hoảng, nước có bình quân thu nhập thấp là Inđônêsia cũng gấp 4 lần, còn nước cao nhất là Singapore gấp 50 lần thu nhập bình quân của Việt Nam. Kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và marketing của các nước Asean cao hơn hẳn Việt Nam. Tương lai đến năm 2000 một số nước Asean sẽ trở thành những thành viên của câu lạc bộ những nền kt sẽ trở thành những thành viên của câu lạc bộ những nền kinh tế mới công nghiệp hoá- NIEs. Trong khi đó Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mới bước đầu thực hiện một nền kinh tế hướng sang xuất khẩu. Cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang ở trình độ thấp hơn các nước Asean, kết cấu hạ tầng, trình độ quản lý, tiếp thị còn yếu và thiếu, tỷ lệ tích luỹ của Việt Nam trong GDP còn ở mức thấp .
Tình hình thương mại quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế của các nước tư bản phát triển chậm lại, chính sách bảo hộ mậu dịch của các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU ngày càng chặt chẽ đã ảnh hưởng xấu đến việc tiêu thụ các sản phẩm truyền thống và hàng công nghiệp chế biến của các nước Asean. Trong khi đó Việt Nam cũng cần bán những sản phẩm thuộc loại này. Mặt khác, trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, các nước Asean đang tìm cách chuyển nhượng kỹ thuật, công nghệ xế chiều sang thị trường các nước chậm phát triển hơn.
Trong lĩnh vực quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Asean những năm gần đây đã khởi sắc, tốc độ và khối lượng đầu tư buôn bán hai bên đều tăng, song cũng có một số vấn đề cần phải được tính đến. Đó là quan hệ thương mại vẫn ở tình trạng cơ cấu giản đơn, xuất khẩu chủ yếu vẫn là nguyên liệu và nông sản sơ chế. Cán cân thương mại của Việt Nam với các nước Asean còn mất cân đối lớn, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, trao đổi mậu dịch của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% giá trị ngoại thương của các nước Asean. Phần lớn các dự án đầu tư của Asean vào Việt Nam tập chung vào một số lĩnh vực như: Công nghiệp chế biến, nông, lâm, hải sản, dịch vụ và du lịch, với số vốn đầu tư nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng của các nước này. Điều này phản ánh sức thu hút đầu tư của nước ta đối với các nhà đầu tư Asean chưa thật hấp dẫn, cần phải nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và giải pháp thiết thực để tạo điều kiện cho việc đầu tư từ nước ngoài nói chung và của Asean nói riêng.
Khó khăn rõ nhất của Việt Nam khi ra nhập Asean là phải tham gia vào AFTA, phải chấp nhận luật chơi, tuân thủ các qui định của hiệp ước thuế quan ưu đãi hiệu quả chung (CEPT). Việc tham gia AFTA, Việt Nam vừa có cơ hội vừa có thách thức. Cơ hội vì Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào mạng lưới mậu dịch rộng lớn của Asean. Thách thức nền kinh tế sẽ bị đặt vào thế cạnh tranh không cân sức với các đối thủ mạnh hơn và có kinh nghiệm hơn. Trong điều kiền chênh lệch về trình độ kỹ thuật, hàng hoá Việt Nam tuy có cùng chất lượng mẫu mã, kiểu dáng nhưng giá thành sản phẩm của Việt Nam còn cao hơn, do chi phí cao, điều đó không có lợi trong môi trường cạnh tranh, ngược lại hàng của Asean sẽ chiếm lĩnh thị trường của Việt Nam do giá rẻ hơn, chính sách xuất khẩu nhạy bén hơn.
Thứ hai, khi hội nhập, Việt Nam phải tham gia góp vốn và thành lập các tiểu ban thích ứng với các hoạt động của Asean, như việc đóng góp vốn theo tỷ lệ xác định để tham gia hiệp hội, góp vốn theo tư cách đầy đủ của thành viên ngân hàng phát triển Châu á (ADB), tham gia các tổ chức các sinh hoạt chính trị, các chương trình, hiệp định trên tất cả các ngành, lĩnh vực thuộc Asean. Như vậy là diện hợp tác rất rộng, đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều bộ, nhiều ngành, trong khi số giỏi nghiệp vụ, thạo tiếng anh chưa nhiều, việc tham gia của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, hạn chế, thậm chí có thua thiệt.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập tất sẽ có một số kẻ thù địch với Đảng và nhân dân ta “ thừa gió bẻ măng” thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, tuyên truyền những tư tưởng phi vô sản, truyền những nọc độc văn hoá, những yếu tố ngược với truyền thống dân tộc. Đây là những cản trở không nhỏ đối với việc giữ vững sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản sắc, truyền thống văn hoá dân tộc, để không bị “hoà tan”, đánh mất mình. Đó cũng là một thách thức, khó khăn mà ta không thể xem nhẹ.
Hội nhập Asean, Việt Nam có cơ hội để vượt lên, nhưng trong quá trình này cũng không ít thách thức, khó khăn. Cơ hội là lớn còn phải phát huy lâu dài. Thách thức tuy không nhỏ, song không cơ bản, nó sẽ giảm đi theo thời gian cùng với đà phát triển kinh tế đất nước và trình độ quản lý. Tất cả còn ở phía trước, cho nên phải thực hiện nghiêm chỉnh quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về hoạt động kinh tế đối ngoại. Mỗi cấp, mỗi ngành khi quan hệ với các tổ chức cũng như khi tham gia các lĩnh vực hoạt động của Asean, phải có phương hướng, kế hoạch, giải pháp cụ thể đối với từng chương trình, dự án. Đồng thời phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp, các ngành để việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án với Asean có hiệu quả, tránh những sơ hở thiếu sót xảy ra, có như vậy, việc hội nhập Asean của Việt Nam mới nhanh chóng, hiệu quả.
Chương II
Hội nhập kinh tế Việt Nam-asean
Những kinh nghiệm chủ yếu
I. Những qui luật về sự vận dụng các nhân tố nội lực để thúc đẩy phát triển kinh tế và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế trên cấp khu vực và thế giới
1. Tăng cường vai trò của nhà nước
Vai trò kinh tế của nhà nước trước hết thể hiện ở chiến lược kinh tế đúng đắn, vì có chiến lược đúng thì các sách lược và công cụ trong tay nhà nước trở nên có hiệu quả và nội lực kinh tế được phát huy đầy đủ.
Về kinh tế, chiến lược phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu được coi là nhân tố quan trọng nhất, vì nó định hướng cho toàn bộ chính sách khác dù những biểu hiện cụ thể của mỗi nước khác nhau, song nhìn chung nó được coi là đường lối thống nhất của các quốc gia Asean.
Tuy thời điểm có khác nhau, song các nước Đông Nam á đã chuyển từ “ Chiến lược phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu” (ISI) sang “ chiến lược phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu” (EOI) bắt đầu từ cuối những năm 1960 .
Ngoài ra, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển và thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá (CNH-HĐH) để nâng cao tính năng hiệu quả của nền kinh tế. Nhà nước luôn tìm cách phối hợp giữa khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước, khu vực đầu tư nước ngoài để đảm bảo sự phát triển cân đối trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế trong buổi đầu của quá trình thực hiện chiến lược EOI phải đảm bảo phát triển lĩnh vực ít hấp dẫn đối với kinh tế tư nhân hoặc kinh tế tư nhân không đủ năng lực. Khi tư sản dân tộc đã từng bước trưởng thành, có thể xây dựng được các xí nghiệp có sản phẩm đa dạng, phức tạp trong các ngành mũi nhọn, thì nhà nước từng bước chuyển giao cho họ các ngành đó để tập trung vào phát triển các ngành hạ tầng vật chất cho nền kinh tế hoặc đảm nhận đi vào các ngành kinh tế mũi nhọn có trình độ kỹ thuật công nghệ phức tạp hơn. Phương pháp thế chân như vậy được áp dụng ở hầu hết các mối tương quan kinh tế giữa kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước trong trạng thái cạnh trạnh nhưng lại không diễn ra quá trình cấm đoán và loại trừ nhau mà tạo ra quá trình kinh tế nhà nước dẫn dắt kinh tế tư nhân đi theo qũi đạo đã vạch ra của mình.
Hơn nữa nhà nước can thiệp vào kinh tế để ổn định kinh tế vĩ mô là nhằm thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập kinh tế giữa các quốc gia trong khối và toàn bộ Asean vào nền kinh tế thế giới. Trước khi cuộc khủng hoảng tiền tệ nổ ra làm rối loạn toàn bộ cơ chế hoạt động bình thường của nền kinh tế Asean, thì người ta cho rằng, thành tựa của các nước Asean trong quản lý kinh tế vĩ mô nhìn chung là tốt so với các nước đang phát triển khác. Hai biểu hiện quan trọng nhất của việc quản lý tốt này là lạm phát thấp và môi trường kinh tế vĩ mô có thể dự báo được. Hai vấn đề này đã tạo niềm tin cho các nhà kinh tế trong việc đầu tư và lập kế hoạch tương lai. Yếu tố quan trọng để duy trì sự ổn định này là việc cung tài chính ở mức điều hoà được, nói chung là thấp và nợ nước ngoài không cao, trừ hai ngoại lệ chưa bao giờ đe doạ làm suy giảm giá trị tín dụng quốc tế.
2. Thông qua CNH- HĐH để đẩy nhanh quá trình hoà nhập kinh tế
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khơi dậy tiềm năng của các ngành truyền thống và từng bước phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, phục vụ cho thị trường khu vực và thế giới.
Nền kinh tế của các quốc gia Asean vốn đều có điểm xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Do đó, vấn đề hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp thông qua “cách mạng xanh” với các giống cây, con gia súc có sản lượng cao được thực hiện từ những năm 60. Đây là điểm trọng yếu trong chiến dịch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia Asean sáng lập (Asean 5). Vì hiện đại hoá nông nghiệp không chỉ giải quyết được nạn đói cho dân số đông và mức tăng dân số cao, mà còn khai thác được lợi thế tuyệt đối của vùng khí hậu và địa lý để xuất khẩu nông sản, giải quyết vấn đề lao động cho phát triển công nghiệp. Sự thành công trong việc khơi dậy nguồn lực đất đai và lao động được thực hiện ở Inđonesia, quốc gia có dân số đông nhất Asean.
Hiện đại hoá nông nghiệp không gây ra quá trình sa thải lao động và phân phối bất bình đẳng ở nông thôn như người ta dự đoán, mà trái lại nó đã tạo ra cơ sở để mở rộng và phát triển các ngành khác. Yếu tố tích cực ở đây là các quốc gia Asean đã tạo ra được ngành nông nghiệp hàng hoá phát triển hơn trước nhiều lần. Quá trình tích tụ đất đai diễn ra từng bước cùng với việc tăng vụ và sử dụng canh tác mới phù hợp với đòi hỏi của công nghệ sinh học. Nhiều đồn điền và trang ấp ra đời để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là khu vực trồng cây công nghiệp. Malaysia là nước để lại kinh nghiệm quí báu trong việc xây dựng một ngành nông nghiệp có đủ đồn điền và kinh tế hộ đạt hiệu quả cao, còn Thailand chủ yếu dựa vào các hộ sản xuất nhỏ. Trong quá trình hiện đại hoá nông nghiệp, tất cả các quốc gia Asean đều tạo ra được kết cấu hạ tầng ở nông thôn khá bền vững và cơ bản.
Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường ngành sản xuất nông nghiệp của bất cứ quốc gia Asean nào, vấn đề hiện đại hoá luôn gắn liền với khai thác cạn kiệt năng lực của đất đai và nạn phá rừng, gây ô nhiễm nguồn nước và không khí… Để lại những hậu quả kinh tế, xã hội to lớn. Do đó việc điều chỉnh nhà nước bằng cả các công cụ luật pháp và kinh tế đối với nông nghiệp là không thể xem nhẹ.
Đối với công nghiệp quá trình chuyển đổi cơ cấu diễn ra theo xu hướng cơ bản sau: Một là, chuyển mạnh sang các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu cần thiết. Hai là, tập trung vào phát triển các ngành chế tạo, bao gồm cả những ngành chế tạo máy móc thiết bị, ngành chế biến và hàng tiêu dùng dân dụng. Ba là, chú trọng tiếp thu và chuyển giao công nghệ của nước ngoài thông qua con đường thương mại và liên kết liên doanh từ đó xuất hiện các hình thức sở hữu hỗn hợp. Bốn là, phát triển cân đối các cơ sở sản xuất công nghiệp qui mô lớn và ưu tiên khơi dậy các xí nghiệp qui mô nhỏ để thu hút các nguồn lực của xã hội, đồng thời tạo ra tính linh hoạt trong kinh doanh của khu vực này . Thứ năm, chú trọng đến các mô hình công nghiệp hoá tập trung từ đó hình thành nên các khu công nghiệp và khu công nghệ gắn với nghiên cứu và đào tạo tại chỗ.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khu vực dịch vụ của các quốc gia Asean phát triển nhanh từ những năm 60 . Tốc độ tăng tỷ trọng cuả ngành này trong GDP còn nhanh hơn cả nông nghiệp và công nghiệp, tỷ lệ tạo việc làm và trình độ ứng dụng khoa học, công nghệ mới cũng vậy. Trong quá trình chuyển._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35364.doc