Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---------&œ--------- Chuyên đềCHUYÊN ĐỀ TIẾN SĨ KINH TẾ Đề tài luận án: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA CAMPUCHIA Giáo viên hướng dẫn : GS-TS. Tô Xuân Dân GS-TS. Tăng Văn Bềên Người thực hiện :: Vuth Phan Na Chuyên ngành : Kinh tế đối ngoại Mã số : 5 02 05 HÀ NỘI - 20065 LỜI MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài luận án: Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế tất

doc187 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hoá giúp phần củng cố an ninh chính trị của mỗi quốc gia thông qua việc thiết lập các mối quan hệ đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc khác nhau giữa các quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là cốt lõi trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước, là nhân tố quan trọng để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của tăng trưởng. Thực tiễn phát triển kinh tế các nước cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều kiện tiên quyết để nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy thoái và đạt tới trình độ phát triển cao hơn. Là một nước đang phát triển ở trình độ thấp Campuchia đang phải đương đầu với những thách thức to lớn cả về kinh tế và xã hội. Thực tế đó đòi hỏi Campuchia phải vạch ra chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp. Chính phủ Campuchia đã nhận thức được vai trò quan trọng và xu thế khách quan của việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và nhận thấy cần phải biết tận dụng cơ chế thương mại quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thời gian qua Campuchia đã tích cực và đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1999 Campuchia trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Năm 2003 Campuchia cùng với Nêpal là những nước kém phát triển đầu tiên được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hiện nay đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Là thành viên của WTO, ASEAN, ASEM Campuchia sẽ có thêm nhiều cơ hội phát triển do hệ thống thương mại đa phương đem lại. Campuchia sẽ xuất khẩu được nhiều hơn và những rào cản mậu dịch sẽ được giảm thiểu. Nền kinh tế Campuchia cũng sẽ vận hành có hiệu quả hơn nhờ tăng cường thương mại, đầu tư, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy thị trường nội địa có tính cạnh tranh cao hơn v.v. Tuy nhiên, quá trình gia nhập kinh tế thế giới ngoài những thuận lợi như trên chắc chắn sẽ gặp phải những vấn đề khó khăn về kinh tế - chính trị - xã hội như: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài sẽ gay gắt hơn, thất nghiệp tăng, sự bất bình đẳng và khoảng cãch giàu nghèo trong nước trầm trọng hơn v.v. Như vậy hội nhập kinh tế ngoài việc tạo ra những tiền đề thuận lợi còn tăng áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước. Vì vậy, việc nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý thyết và thực tiễn. Xuất phát từ sự cấp thiết đó, tôi chọn đề tài ”Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia” làm luận án tiến sĩ. II. Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Luận án dự kiến sẽ đạt tới các mục tiêu nghiên cứu sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và mối quan hệ của hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Chỉ ra những bất cập và đánh giá thực trạng kinh tế cũng như cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia. Phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Campuchia và đánh giá tác động của nó tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp nhằm đưa nền kinh tế Campuchia đạt tới trình độ phát triển cao và bền vững phù hợp với mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của Chính phủ Hoàng gia Campuchia. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Luận án lấy quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia làm đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào thời kỳ từ năm 1995 đến nay. Đây là giai đoạn nền kinh tế của Campuchia có sự thay đổi lớn và đa dạng. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một vấn đề rộng, bao gồm cả cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Tuy nhiên luận án sẽ chủ yếu giới hạn nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng như cơ cấu trong nội bộ các ngành đó trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. IV. Phương pháp nghiên cứu: - Luận án vận dụng các quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm, đường lối, chính sách của Nhà nước Campuchia để giải quyết các vấn đề nghiên cứu. - Ngoài ra luận án còn phân tích tiến trình biến đổi nền kinh tế - chính trị - xã hội khi Campuchia hội nhập Tổ chức thương mại thế giới và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Do vậy, phương pháp lịch sử có vai trò quan trọng, đồng thời phương pháp logic được sử dụng để tổng kết, khái quát những đặc điểm cơ bản rút ra bài học kinh nghiệm. - Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp như: nghiên cứu so sánh, phân kỳ lịch sử, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác. V. Dự kiến đóng góp của luận án: 1. Luận án làm rõ hơn những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia: khái niệm, đặc trưng, tính tất yếu và xu hướng của hội nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, luận án trình bày mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cơ sở cho việc đánh giá một cách khách quan thực trạng nền kinh tế Campuchia trong tiến trình hội nhập. 2. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và một số nước đang phát triển của Châu á, luận án rút ra bài học cho Campuchia. 3. Phân tích, đánh giá thực trạng và những bất cập nảy sinh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước và sau hội nhập Tổ chức thương mại thế giới của Campuchia. 4. Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để thúc đẩy nền kinh tế Campuchia khi tién hành hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. CHƯƠNG I: MỘT SỐỐ VẤẤN ĐỀỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI CHUYỂỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 1.1. Những vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.1. Khái niệm và các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần mà luôn gắn liền với một hệ thống chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực tiễn rõ rằng ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội được đảm bảo. Với cách tiếp cận này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế không chỉ la quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được biểu hiện trong bản thân hệ thống chính sách thương mại, chính sách phát triển kinh tế của mỗi nước. Như vậy có thể xác định hội nhập kính tế quốc tế là việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau nhưng ưu đãi, tạo ra nhưng điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau... nhằm khai thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình. Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau: - Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời không phân biệt chính sách thương mại giữa các công ty: mọi chế độ chính sách liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. - Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu... đều không được sử dụng, các biểu thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn. - Làm ăn hay thương lượng với nhâu phải trên cơ sở có đi có lại: khi nền kinh tế thịt rường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ thái quá hoạc bị những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi cua nền kinh tế trong nước. * Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư. Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “ đi sau” như nước ta có nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Campuchia, nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây khong chỉ đơn thuần là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh tế, đây là một đặc điểm mới của xu thế toàn cầi hoá ngày nay. Vấn đề quan trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế Khu vực thương mại tự do Là một hình thức hội nhập trong đó các thành viên cùng nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là: Thứ nhất, giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau. Thứ hai, tiến tới lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ. Thứ ba, mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngoài khối Liên minh thuế quan Là một hình thức hội nhập nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp tác giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh, tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên. Cộng đồng kinh tế Là một hình thức hội nhập trong đó không chỉ qui định việc loại bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và thiết lập một biểu thuế quan chung đối với các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển tự do hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn trong nội bộ khối. Liên minh kinh tế Là một hình thức hội nhập với những đặc điểm tương đồng với cộng đồng kinh tế về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả các nước không phải là thành viên. Tuy nhiên, liên minh kinh tế thể hiện mức độ hội nhập cao hơn, trong đó các nước thành viên còn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ. Như vậy, cộng đồng kinh tế là một “bước đệm”, là giai đoạn chuyển tiếp từ thị trường chung sang liên minh kinh tế. Ví dụ, trước khi chuyển sang hình thành Liên minh Châu Âu (European Union - EU) (năm 1994) thì khối kinh tế này đã trải qua nhiều hình thức hội nhập, trong đó có Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European Economic Community - EEC) (năm 1957), Cộng đồng Châu Âu (European Community) (năm 1967). Liên minh tiền tệ Là một hình thức hội nhập tiến tới phải thành lập một “quốc gia kinh tế chung” có nhiều nước tham gia với những đặc trưng sau: Một. xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách ngoại thương chung. Hai. hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên. Ba. thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ. Bốn. xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương của các nước thành viên. Năm. xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước ngoài liên minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Quá trình hình thành hội nhập kinh tế quốc tế Đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XXI, lịch sử đã chứng kiến cuộc khủng hoảng, trì trệ nghiêm trọng của nền thương mại thế giới. Người ta nhận thấy rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là chính sách bảo hộ thái quá của mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã cố thi hành bất chấp ảnh hưởng đến thương mại chung. Những chính sách này làm méo mó cạnh tranh lành mạnh trong các nền kinh tế thị trường, làm cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong không khí kém an toàn và việc dự đoán xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hoá gặp rất nhiều khó khăn. Điều này cản trở nghiêm trọng sự phát triển của thương mại hàng hoá, tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu và do đó kìm hãm sự phát triển kinh tế của từng quốc gia. Nhằm nhanh chóng khắc phục những thiếu sót lớn của các chính sách bảo hộ đã góp phần đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái trầm trọng trong thời gian đó, năm 1944, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đang đi vào giai đoạn kết thúc, thì tại Bretton Woods, 44 quốc gia tư bản đã tổ chức một hội nghị quốc tế gọi là hội nghị Bretton Woods. Tại hội nghị này, các quốc gia đã thành lập hai tổ chức kinh tế là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD đây là tiền thân cho Ngân hàng thế giới sau này), đồng thời đã đi đến một quyết định là thành lập ra một Tổ chức Thương mại quốc tế, gọi tắt là ITO. Trong khuôn khổ của Liên hợp quốc, đã có ba Hội nghị quốc tế đã được tổ chức (London, tháng 10/1946; tại Geneva, tháng 8/1947 và tại La Havana từ tháng 11/1947 đến tháng 1/1948) nhằm soạn thảo ra văn kiện thành lập ITO có tên gọi là "Hiến chương La Havana". Mục tiêu của ITO được quy định trong hiến chương La Havana là tạo việc làm đầy đủ và tăng trưởng thương mại. Vì vậy, để đạt được hai mục tiêu nói trên, Hiến chương đã đề ra bốn biện pháp hành động chủ yếu: tái thiết và phát triển kinh tế; tất cả các nước đều được tiếp cận với các nguồn cung cấp nguyên liệu và yếu tố sản xuất trên cơ sở bình đẳng; cắt giảm các trở ngại đối với thương mại quốc tế, hợp tác và tư vấn với ITO. Tuy nhiên, quá trình đàm phán để đi đến Hiến chương ITO đã cho thấy những bất đồng sâu sắc giữa Mỹ, Tây Âu với Trung Quốc về mục tiêu và những ưu tiên của ITO. Trong khi mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ là mở cửa thị trường các nước Tây Âu và Nhật Bản, nhất là hạn chế đến mức tối đa các hàng rào thuế quan, tự do hoá thương mại trên cơ sở bình đẳng và tối huệ quốc thì Trung Quốc, ấn Độ, Libăng... lại cương quyết chống lại các điều khoản tối huệ quốc vì cho rằng các điều khoản này sẽ đặt những nước trên rơi vào thế bình đẳng trên danh nghĩa nhưng lại bất bình trên thực tế. Chính những mâu thuẫn trên đã khiến cho Hiến chương La Havana không bao giờ có hiệu lực và ITO cũng không bao giờ ra đời. Tuy nhiên, song song với các vòng đàm phán cho việc ra đời ITO, thì tại Genever, ngày 30/10/1947, đại diện của 23 nước đã đi đến một thoả thuận cắt giảm thuế quan đối với khoảng một nửa số hàng hoá trong thương mại quốc tế, đồng thời đã ký kết Nghị định thư áp dụng tạm thời "Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại", gọi tắt là GATT 1947. Chính việc Hiến chương La Havana không được phê chuẩn, nên Hiệp định GATT với 38 điều đã được các nước áp dụng "tạm thời" trong hơn 40 năm như là một hiệp định đa phương duy nhất, điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, GATT đã trở thành một thể chế và pháp lý của nền thương mại quốc tế cũng như đã trở thành thể chế mậu dịch đa phương quản lý và điều hành hoạt động mậu dịch của các nước sau khi tiến trình thành lập Tổ chức mậu dịch quốc tế bị đứt quãng. Tuy chỉ là một "Bản hiệp định quân tử" mang tính tạm thời song nó lại có tác dụng rất lớn trong việc đảm bảo và thúc đẩy sự phát triển của nền mậu dịch quốc tế sau chiến tranh. GATT đã trở thành "nôi đàm phán" của mậu dịch quốc tế, phát động và thúc đẩy tiến trình tự do hoá mậu dịch giữa các nước; GATT cũng đã trở thành nơi giải quyết các tranh chấp mậu dịch quốc tế, điều hoà những mâu thuẫn và va chạm về mậu dịch quốc tế giữa các nước. GATT đã thông qua những chế độ và cơ chế về mậu dịch của Trung Quốc, có một tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy sự phát triển về kinh tế và mậu dịch của Trung Quốc. Hàng năm các thành viên nhóm họp để vạch ra chính sách cơ bản của GATT, mỗi quốc gia thành viên có một phiếu. Chế độ đa số phiếu được tôn trọng nhằm tránh việc rời xa các nghĩa vụ cụ thể mà GATT quy định. Các tiểu ban hoà giải được xác lập nhằm giải quyết các tranh chấp trong thương mại. Từ vòng đàm phán đầu tiên năm 1947, GATT dần dần được hoàn thiện qua các lần tu chỉnh nhưng vẫn dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản sau: 1. Không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế các nước thành viên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (Most Favored Nation - MFN) đối với hàng hoá nhập khẩu, bất cứ xuất xứ hàng hoá là của quốc gia nào đi nữa. 2. Không được bảo hộ nền công nghiệp trong nước bằng chính sách phân biệt đối xử và các giải pháp thương mại khác như hạn ngạch xuất khẩu. 3. Nhấn mạnh vào việc tiếp xúc và tham vấn để tránh xâm phạm lợi ích thương mại lẫn thuế, cũng như các rào cản thương mại khác và ghi lại kết quả đàm phán trong một văn bản có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số ngoại lệ trong các nguyên tắc trên. Chẳng hạn, ở nguyên tắc "không phân biệt đối xử" được thể hiện trong điều khoản "tối huệ quốc", theo đó không cho phép ưu đãi mậu dịch đối với bất kỳ quốc gia nào hơn so với những thành viên ký kết GATT. Nhưng trong các khu vực mậu dịch tự do (còn gọi là liên minh thuế quan - Customs Unions) thì các thành viên trong khu vực hoặc trong liên minh đều được ưu đãi hơn. Hay ở nguyên tắc "cấm trợ cấp cho xuất khẩu" có nghĩa là các nhà sản xuất nội địa không được hưởng những lợi ích hoặc ưu đãi nào khiến họ chiếm ưu thế trên thị trường nước ngoài. Ngoại lệ của nguyên tắc này dành cho mặt hàng nông sản. Ngoài mặt hàng nông sản ra, nếu có trợ cấp ưu đãi khác thì các nước được quyền áp dụng chính sách thuế quan phân biệt đối xử nhằm làm đối trong với những trợ cấp này, gọi là thuế quan bù trừ. Kết quả hoạt động của GATT Từ năm 1947 đến năm 1994, đã có 8 vòng đàm phán thương mại đa phương được tiến hành trong khuôn khổ GATT 1947. Nội dung của các vòng đàm phán đã được mở rộng dần từ cắt giảm thuế quan và biện pháp phi thuế quan đến cải cách hệ thống pháp lý, cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT. Kết quả chính đạt được qua 8 vòng đàm phán có thể được tóm tắt như sau: Năm vòng đàm phán đầu tiên trong khuôn khổ GATT có nội dung về cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm chế biến (các sản phẩm nông nghiệp không được các nước đưa vào đàm phán) và sử dụng phương pháp cắt giảm song phương. Theo phương pháp này, các bên ký kết có liên quan sẽ đàm phán song phương với nhau để cắt giảm thuế quan đối với từng sản phẩm cụ thể. Tổng cộng qua 5 vòng đàm phán đã có gần 60.000 sản phẩm được cắt giảm thuế quan. Mọi cam kết giảm thuế quan phải đưa vào biểu cam kết về thuế quan và về nguyên tắc ràng buộc các bên ký kết (nguyên tắc ràng buộc) Bảng 1: Các vòng đàm phán thương mại của GATT Năm Địa điểm Nội dung vòng đàm phán Số nước 1947 Geneva Thuế quan 23 1949 Annecy Thuế quan 12 1951 Torguay Thuế quan 38 1956 Geneva Thuế quan 26 1960 - 1961 Dillon Thuế quan 26 1964 - 1967 Kenedy Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá 62 1973 - 1979 Tokyo Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan và các hiệp định "khung" 102 1986 - 1994 Uruguay Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan và các nguyên tắc, các dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp dệt và may mặc, nông nghiệp, thành lập WTO 123 (Nguồn: World Trade Organization, Vòng Kennedy đã cắt giảm trung bình 35% đối với hơn 30.000 hạng mục thuế, đồng thời cũng đạt được thành công đầu tiên trong lĩnh vực giảm thiểu các hàng rào thuế quan trong lĩnh vực giảm thiểu các hàng rào phi thuế quan với việc thông qua những quy định đầu tiên về chống phá giá và trị giá hải quan. Về thuế quan, vòng Tokyo đã đạt được những kết quả rất lớn: mức thuế quan của các nước phát triển đối với các sản phẩm công nghiệp giảm trung bình 30%, dẫn đến mức thuế quan trung bình của các nước này chỉ còn 6%. Trong lĩnh vực phi thuế quan, vòng Tokyo đã thông qua được 5 "bộ luật" (code) về các biện pháp phi thuế quan: trợ cấp, trị giá hải quan, mua sắm Chính phủ, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục cấp phép nhập khẩu và hai thoả thuận về nông nghiệp và một thoả thuận về công nghiệp hàng không. Vòng đàm phán tổng thể Uruguay (1986 - 1993, 123 nước); vòng Tokyo vừa kết thúc, Mỹ đã đưa ra một đề nghị mở tiếp một vòng đàm phán mới. Đề nghị này của Mỹ nhằm 3 mục tiêu chiến lược: đối phó với những thế lực bảo hộ tại Mỹ vốn rất bực tức về việc Mỹ thường xuyên bị nhập siêu lớn trong thương mại với Nhật Bản, Tây Âu và một số nước và nền kinh tế công nghiệp hoá mới; áp đặt những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế của Reagan đối với Tây Âu, Nhật bản và Trung Quốc; giải quyết dứt điểm các hồ sơ tranh chấp về nông nghiệp, dịch vụ và văn hoá với Tây Âu và các nước khác. NNhững hạn chế của GATT Do bản thân nó còn tồn tại nhiều bất cập rất khó khắc phục nên GATT ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế trước trào lưu toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày càng nhanh, mạnh và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này chủ yếu được biểu hiện ở những điểm sau: a. Về vị trí, GATT chỉ là một "bản hiệp định quân tử" mang tính tạm thời chứ không phải là một tổ chức quốc tế chính thức, không có tư cách chủ thể luật quốc tế. Vị trí không chính thức này của GATT đã gây trở ngại cho nó trong việc tiến hành các hoạt động thông thường, hạn chế nó trong việc phát huy chức năng của mình, làm giảm bớt quyền lực của nó với tư cách là một tổ chức quản lý và điều hoà các hoạt động mậu dịch quốc tế. b. Phạm vi quản lý của GATT quá nhỏ hẹp vì chỉ hạn chế ở lĩnh vực thương mại hàng hoá. Nhưng trong quá trình phát triển thương mại và kinh tế, thương mại dịch vụ phát triển hết sức nhanh chóng, ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thế giới ngày càng mang đặc trưng của nền kinh tế tri thức, làm thế nào để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại quốc tế đã trở thành một chủ đề quan trọng. Rõ ràng là thể chế GATT hiện nay rất khó có thể đáp ứng nhu cầu phát triển thương mại và kinh tế quốc tế. c. Quy tắc của GATT rất không chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở. Điều này chủ yếu thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, nội dung của rất nhiều quy tắc trong GATT còn mơ hồ, thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng; Thứ hai, còn nhiều khoản ngoại lệ; Thứ ba, còn tràn lan nhiều biện pháp "Khu vực xám" như hạn chế xuất khẩu tự nguyện, sắp xếp có trật tự… Những hạn chế trên đây trong các quy tắc của GATT đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính quyền uy và tính hiệu quả của thể chế mậu dịch đa phương, nếu kéo dài sẽ gây biến động trong toàn bộ thể chế của GATT. d. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn tồn tại nhiều hạn chế nghiêm trọng. Biểu hiện chủ yếu: quyền lực tổ, nhóm chuyên gia rất nhỏ, quá trình giải quyết tranh chấp quá dài sau khi kiểm tra, giám sát, không có hiệu lực. Đặc biệt là nguyên tắc "toàn thể nhất trí đồng ý" mà GATT sử dụng để giải quyết tranh chấp, nguyên tắc khắt khe này đã dẫn đến hiện tượng kết quả giải quyết tranh chấp của GATT không thể thực thi có hiệu quả. Như vậy, khi nước thành viên, nhất là những nước thành viên có quy mô thương mại và thực lực kinh tế hùng hậu vi phạm các nguyên tắc thương mại đa phương đã không bị trừng phạt một cách đích đáng, do vậy thường xuyên đặt toàn bộ thể chế thương mại đa phương trước nguy cơ tan vỡ. Sự ra đời của WTO Vòng đàm phán Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến đầu những năm 1990, nhiều vấn đề vẫn tiếp tục được bàn luận vì Mỹ và một số nước có nền kinh tế phát triển muốn đưa thêm vào chương trình nghị sự những vấn đề mới như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, lao động, môi trường... Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một loạt nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã khiến chính phủ các nước đưa ra một loạt những hình thức bảo hộ khác như: Tự nguyện hạn chế xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao tiêu chẩn hàng hoá nhập khẩu.. . Chính vì vậy mà thương mại thế giới đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với 40 năm trước đó. Ngay cả đối với thương mại hàng hoá, nhiều lĩnh vực tuy đã được GATT xem xét nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chưa hợp lý, đặc biệt như hiệp định về thương mại hàng nông sản và hàng dệt may chủ yếu chỉ mang lại lợi thế và để bảo vệ lợi ích cho các nước công nghiệp phát triển. Thể chế của GATT và hệ thống giải quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích. Hơn nữa, đây cũng là thời kỳ kết thúc "chiến tranh lạnh", thế giới chuyển từ xu thế "đối đầu" sang "đối thoại", thực hiện mở cửa và hội nhập với quốc tế. Tình hình kinh tế, thương mại thế giới có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc dưới tác động của toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển vượt bậc của thông tin liên lạc. Do đó, nhiều vấn đề mới trong quan hệ quốc tế phát sinh, vượt xa khuôn khổ của GATT, đòi hỏi các quốc gia thành viên phải xem xét lại sứ mạng của GATT. Cuối cùng, để khắc phục những hạn chế nội tại không thể giải quyết của GATT và để đáp ứng nhu cầu phát triển toàn cầu hoá thương mại và kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, các bên tham gia vòng đàm phán Urugoay (vòng đàm phán cuối cùng của GATT) đã quyết định thiết lập một thể chế thương mại đa phương mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Orgnization - WTO) vào ngày 01/01/1995. WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đầu tiên trong việc thiết lập các thoả thuận và cam kết chung trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực thương mại và phát triển kinh tế nói chung. Với tư cách là tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, WTO thực hiện mục tiêu đã được nêu trong lời nói đầu của GATT là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. WTO có trụ sở tại Geneva và tổng thư ký đầu tiên là ông R.Ruggiero, người Italia. Ngày 31/12/1994, các nước và khu vực tham gia GATT trước đây sau khi đồng loạt tiếp nhận bản Hiệp định đàm phát Urugoay đã trở thành các bên đầu tiên tham gia ký kết điều ước của WTO. Tổ chức thương mại thế giới ra đời đánh dấu sự ra đời của một thể chế mậu dịch đa phương mới, từ đó thương mại quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO. 1.1.2. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển Trong những năm vừa qua, xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với kết quả là sự ra đời và phát triển của hàng loạt các tổ chức khu vực và toàn cầu như ASEAN, APEC, ASEM, EU, NAFTA, WTO... Những tổ chức này khác nhau về quy mô, nguyên tắc và phương thức hoạt động nhưng lại giống nhau ở mục tiêu là tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động thương mại của mỗi nước thành viên cũng như củng cố sức mạnh thương mại toàn cầu. Đặc biệt, sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới WTO đã và đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển của thương mại thế giới cũng như của mỗi nước thành viên. Tính đến cuối năm 2002, số thành viên WTO đã lên tới 145 nước, chi phối khoảng trên 90% tổng giá trị thương mại thế giới và trong năm 2003 - 2004, Armenia, Nepal và Campuchia sẽ gia nhập WTO, nâng số thành viên của tổ chức này lên thành 148. Như vậy, xét về ảnh hưởng có thể coi WTO như là một "Liên hiệp quốc trong lĩnh vực kinh tế thương mại". Các nguyên tắc cơ bản của WTO, như nguyên tắc tối huệ quốc, Đối xử quốc gia đã được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước chưa phải là thành viên của WTO. Nhiều nước sẵn sàng nhân nhượng điều chỉnh hàng loạt các chính sách và kiên trì đàm phán trong một thời gian dài để trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Việc ngày càng có nhiều quốc gia muốn gia nhập WTO đã cho thấy tầm quan trọng của tổ chức này. Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng hiện nay và không có một quốc gia nào muốn ở ngoài cuộc. Do đó, dù muốn hay không thì mỗi một quốc gia đều phải hoà nhập vào quá trình này. Toàn cầu hoá kinh tế đã tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại giữa các nền kinh tế. Quá trình tự do hoá thương mại, dịch vụ, đầu tư đã tạo ra những lợi thế mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế đồng thời góp phần khai thác lợi thế so sánh của các nước tham gia vào nền kinh tế thế giới. Hầu như không có một quốc gia nào đứng ngoài vòng xoáy của sự hội nhập nếu không muốn tự cô lập và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Việc tham gia quá trình hội nhập càng chủ động thì càng có hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Có thể nhận thấy tính tất yếu khách quan của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia đều đã có sẵn đến một mức nào đó các điều kiện vật chất - kỹ thuật như tiềm lực kinh tế kỹ thuật, sức mạnh quân sự chính trị, nền tảng văn hoá - xã hội … và khi các tiềm lực này phát triển mạnh mẽ, đạt đến một điểm mà tại đó bản thân các tiềm lực này đòi hỏi một môi trường rộng lớn hơn để phát triển. Khi đó, có nguồn lực sẽ di chuyển từ quốc gia này sang các quốc gia bên cạnh và ngược lại. Bất cứ một nền kinh tế nào không thể không tham gia vào quá trình này. Đây chính là những điều kiện cơ bản để các quốc gia tiến hành kinh tế quốc tế. Thứ hai, nhìn nhận một cách khách quan, toàn bộ quá trình Toàn cầu hoá là một tất yếu vì lợi ích thu được từ quá trình trên đối với quốc._. gia là xu hướng chủ đạo. Nếu quốc gia nào không theo xu hướng đó thì chắc chắn sẽ phải chịu tổn thất phát triển to lớn hơn nhiều; là tự chặn con đường tiến lên của mình trong thời đại ngày nay. Vấn đề đặt ra ở đây không còn là cân nhắc xem nên tham gia vào quá trình hội nhập hay không mà là hội nhập như thế nào, theo lộ trình nào để lợi ích thu được từ đó là lớn nhất, hiệu quả cao nhất và rủi ro là nhỏ nhất. 1.1.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một vấn đề mang tính toàn cầu. Với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay, trong khi các quốc gia đang có xu hướng chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại thì việc hội nhập là một đòi hỏi cấp thiết, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Campuchia. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một khái niệm rộng, nhưng trong đó biểu hiện rõ nhất của nó là liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, và đây cũng chính là mục tiêu mà các nước đang theo đuổi. Liên kết kinh tế có nhiều loại hình với phạm vi, mức độ và cấp độ liên kết khác nhau, trong đó tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia thể hiện ở 2 khía cạnh chính, đó là: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Tạo lập mậu dịch Đây là tác động tích cực rõ rệt nhất của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Quá trình liên kết kinh tế dẫn tới việc xoá bỏ các trở ngại đối với thương mại hoặc đầu tư giữa các quốc gia thành viên trong một khối thương mại. Sự gia tăng quy mô thương mại giữa các quốc gia bắt nguồn từ quá trình liên kết kinh tế khu vực được gọi là tác động tạo lập mậu dịch. Tạo lập mậu dịch mang lại cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở các quốc gia thành viên cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các loại hàng hoá và dịch vụ. Một kết quả khác của tạo lập mậu dịch là người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp hơn, do có sự giảm bớt các trở ngại đối với thương mại. Hơn nữa, mức giá thấp hơn đối với mỗi mặt hàng sẽ làm tăng mức cầu đối với các mặt hàng khác vì người tiêu dùng có thể tiết kiệm được nhiều tiền hơn cho việc mua sắm những mặt hàng đó. Sự phân tích ở trên có thể minh hoạ qua ví dụ sau đây trong trường hợp hội nhập dưới hình thức liên minh thuế quan: Giả sử một đơn vị sản phẩm x khi có mậu dịch tự do ở quốc gia 1 là Px = 1 USD và ở phần còn lại của thế giới là Px = 1,5 USD. Dx và sản xuất là đường cầu và đường cung sản phẩm x ở thị trường nội địa của quốc gia 2. Giả sử thêm rằng, quốc gia 2 là một nước nhỏ nên sự ảnh hưởng đến mức giá chung là rất ít, có thể không xét đến. Biểu đồ 1: Liên minh thuế quan - Tạo lập mậu dịch 0 10 V 30 U 50 Z 60W X A B G 2 1 M N C J H S1 S1+T Dx Sx Px ($) Khi chưa có liên minh thuế quan và lúc đó quốc gia 2 đánh thuế 100% không phân biệt xuất xứ hàng hoá đối với tất cả những sản phẩm x nhập khẩu. Như vậy, quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với mức giá Px = 2 USD và sẽ không nhập khẩu sản phẩm x từ các nước thuộc phần còn lại của thế giới vì giá nhập khẩu là Px = 3 USD (kể cả thuế nhập khẩu). Trên biểu đồ ta thấy: với mức gia nhập khẩu sản phẩm từ quốc gia 1 là Px = 2 USD sẽ tiêu thụ 50x (GH), trong đó 30x (GJ) được sản xuất trong nước, còn 20x (JH) được nhập khẩu từ quốc gia 1. Quốc gia 2 thu được 20 USD (MJHN) thuế nhập khẩu. Trên biểu đồ S1 là đường cung co giãn hoàn toàn của sản phẩm x từ quốc gia 1 sang quốc gia 2 trong điều kiện mậu dịch tự do, còn S1+T là đường cung trong điều kiện thuế quan là 100%. Trong điều kiện quốc gia 1 và quốc gia 2 thiết lập một liên minh thuế quan và loại bỏ thuế quan đánh vào các sản phẩm nhập khẩu giữa 2 nước với nhau thì đường cung về sản phẩm x ở quốc gia 2 chính là S1. Mức giá px ở quốc gia 2 và ở quốc gia 1 khi đó đều là Px = 1 USD. Tại mức giá này, quốc gia 2 tiêu thụ 60x (AB), trong đó 10x (AC) được sản xuất trong nước, còn 50x (CB) được nhập khẩu từ quốc gia 1. Trong trường hợp này quốc gia 2 không thu được thuế nhập khẩu. Song bù đắp vào đó, lợi ích của người tiêu dùng ở quốc gia 2 được tăng lên. Lợi ích này là do hình thức liên minh thuế quan mang lại và biểu thị bằng tỷ giác AGHB. Tuy nhiên, cũng do hình thức liên minh thuế quan mà thặng dư của người sản xuất ở quốc gia 2 bị giảm - biểu thị bằng tỷ giác AGJC, và phần thuế nhập khẩu của Nhà nước bị mất - biểu thị bằng tỷ giác MJHN. Nếu xét tổng hợp đối với cả hai quốc gia thì lợi ích ròng do liên minh thuế quan tạo lập mậu dịch mang lại bao gồm: Thứ nhất, phúc lợi do kết quả của việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả thấp hơn ở quốc gia 2 (có mức chi phí VUJC) sang các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ở quốc gia 1 (có mức chi phí VUMC) biểu thị bằng tam giác CJM. Thứ hai, lợi ích tiêu dùng tăng thêm do giá giảm xuống làm cho người dân ở quốc gia 2 có thể mua một khối lượng hàng hoá lớn hơn (có mức lợi ích ZWBH) với mức chi phí thấp hơn (có mức chi phí ZWBN) biểu thị bằng tam giác BHN. Như vậy, một liên minh thuế quan sẽ đưa đến việc tạo lập mậu dịch và từ đó mang lại những lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng trong các quốc gia trong liên minh. Sự nhất trí cao hơn Hoạt động của các định chế quốc tế như GATT và WTO có mục tiêu giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư trên quy mô toàn cầu. Những nỗ lực liên kết kinh tế khu vực thường có sự tham gia của một vài cho tới hàng chục quốc gia. Một lợi ích khác của quá trình liên kết kinh tế quốc tế và khu vực là việc đạt tới sự nhất trí giữa một số lượng nhỏ các nước thành viên sẽ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp có nhiều quốc gia liên quan. Hợp tác chính trị Liên kết kinh tế quốc tế và khu vực có thể mang lại nhiều lợi ích về mặt chính trị. Một nhóm quốc gia có thể có tiếng nói chính trị có trọng lượng hơn trên trường quốc tế so với từng quốc gia riêng lẻ. Vì vậy, các quốc gia sẽ có được vị thế mạnh hơn khi đàm phán với các quốc gia khác tại các diễn đàn như WTO hoặc Liên Hiệp quốc. Quá trình liên kết gắn liền với sự hợp tác về chính trị có thể làm giảm khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa các quốc gia thành viên. Trên thực tế thì hoà bình đã được coi là mục tiêu trọng tâm của những nỗ lực liên kết ở Châu á trong những năm 50. Hậu quả tàn khốc của hai cuộc chiến tranh thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20 đã buộc Châu Âu phải coi liên kết như là một cách thức để ngăn ngừa các cuộc xung đột vũ trang. Các tác động tích cực khác Ngoài những tác động tích cực nêu trên, liên kết kinh tế quốc tế và khu vực còn mang lại cho các nước thành viên nhiều lợi ích tĩnh và động khác như tiết kiệm được chi phí quản lý, cải thiện điều kiện thương mại của cả khối với phần còn lại của thế giới, gai tăng cạnh tranh và giảm mức độ độc quyền trên thị trường liên kết, khai thác tính kinh tế theo quy mô, kích thích đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước, gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất, v.v. Tuy nhiên những lợi ích này chỉ có thể được khai thác triệt để nếu như các nước thành viên phối hợp với nhau trong việc xây dựng những thể chế và chính sách kinh tế chung thích hợp. Nói một cách khác, quá trình liên kết phải được diễn ra dựa trên cách tiếp cận chủ động. Chuyển hướng mậu dịch Ngược với tạo lập mậu dịch là tác động chuyển hướng mậu dịch, hiện tượng thương mại được chuyển từ những quốc gia nằm ngoài khối liên kết tới các quốc gia là thành viên của khối liên kết. Chuyển hướng mậu dịch có thể xẩy ra khi quá trình liên kết dẫn tới việc giảm bớt hoặc thủ tiêu các mức thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Như vậy, chuyển hướng mậu dịch có thể làm giảm quy mô thương mại giữa một nước thành viên với những quốc gia khác có hiệu quả sản xuất cao hơn nhưng nằm ngoài khối liên kết, và gia tăng quan hệ thương mại của nước đó với các nước thành viên khác có hiệu quả sản xuất kém hơn. Xét theo giác độ này thì liên kết kinh tế mang lại lợi ích cho những nước thành viên sản xuất kém hiệu quả hơn trong khối liên kết. Nếu như trong khối liên kết không có sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất hàng hoá và dịch vụ thì người mua sẽ phải trả giá cao hơn khi chuyển hướng mậu dịch diễn ra. Có thể minh hoạ và phân tích thông ở qua ví dụ biểu đồ dưới đây trong tường hợp hội nhập dưới hình thức liên minh thuế quan. Biểu đồ 2: Liên minh thuế quan - Chuyển hướng mậu dịch 0 20 30 70 80 X A B G 2 1 M N C J H S1 Dx Sx Px ($) 1,5 G’ 40 90 S3 S1+T H’ J’ C’ B’ Trong biểu đồ trên có 3 quốc gia cùng sản xuất sản phẩm x. Dx và sản xuất là đường cầu và đường cung của sản phẩm x trong thị trường nội địa của quốc gia 2. Giả sử quốc gia 1 và 3 là những quốc gia sản xuất sản phẩm x trên quy mô lớn. Trên biểu đồ S1 và S3 là đường cung co giãn hoàn toàn của sản phẩm x từ quốc gia 1 và 3 đối với quốc gia 2 trong điều kiện mậu dịch tự do; còn S1+T là đường cung khi đánh thuế sản phẩm x đối với quốc gia 1 là 100%. Khi chưa có liên minh thuế quan, thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x đồng đều là 100%, nên quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với giá Px 2 USD. ở mức giá này, quốc gia 2 sẽ tiêu thụ 70x (GH), trong đó 40x (GJ) được sản xuất trong nước và 30x (JH) được nhập khẩu từ quốc gia 1. quốc gia 2 cũng thu được 30 USD (JMNH) thuế nhập khẩu. Trong trường hợp quốc gia 2 và quốc gia 3 thành lập liên minh thuế quan và xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x. Khi đó, quốc gia 2 sẽ nhập khẩu x với giá rẻ hơn giá nhập khẩu từ quốc gia 3 (Px = 1,5 USD), tại mức giá này quốc gia 2 tiêu thụ 80x (G’B’), trong đó 30x (G’C’) được sản xuất trong nước và 50x (C’B’) được nhập khẩu từ quốc gia 3. Trong trường hợp này quốc gia 2 sẽ không thu được thuế nhập khẩu. Việc nhập khẩu sản phẩm x vào quốc gia 2 được chuyển từ các nhà sản xuất có hiều quả hơn ở quốc gia 1 sang các nhà sản xuất kém hiệu quả hơn ở quốc gia 3 vì bây giờ thuế quan có sự phân biệt giữa các nước trong liên minh và ngoài liên minh thuế quan. Sau khi thành lập liên minh thuế quan, mức nhập khẩu sản phẩm x của quốc gia 2 tăng từ 30x lên 50x. Điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan vừa có tác động chuyển hướng mậu dịch, vừa có tác động tạo lập mậu dịch. Xét một cách tổng thể thì kết quả của một liên minh thuế quan chuyển hướng mậu dịch đem lại là: Thứ nhất, đối với quốc gia 2, phúc lợi đạt được từ việc tạo lập mậu dịch thuần tuý thể hiện ở tam giác C’J’J và B’H’H. Tam giác C’J’J đạt giá trị 2,5 USD và tam giác B’H’H cũng đạt 2,5 USD, tổng của chúng là 5 USD, thể hiện lợi ích thực sự của người tiêu dùng ở quốc gia 2 đạt được do có liên minh thuế quan mang lại. Mặt khác, liên minh thuế quan gây ra chuyển hướng mậu dịch với các tác động khác nữa. Hình chữ nhật MNHJ biểu thị thuế nhập khẩu cảu quốc gia 2 trước khi thành lập liên minh thuế quan nay không còn nữa, trong đó phần JJ’H’H được chuyển cho người tiêu dùng do họ không phải đóng thuế nữa, nhưng phần MNH’J’ lại là phúc lợi mất đi do chuyển hướng mậu dịch từ việc nhập khẩu ở quốc gia 1 có giá thấp sang quốc gia 3 có giá cao. Tỷ giác G’GJC’ thẻ hiện thặng dư của người sản xuất ở quốc gia 2 bị di chuyển sang cho người tiêu dùng. Khi hình chữ nhật MNH’J’ biểu thị trị giá 15 USD là phúc lợi bị mất đi từ việc chuyển hướng mậu dịch lớn hơn tổng hai tam giác C’J’J (2,5 USD) và tam giác B’H’H (2,5 USD) thì điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan này đã mất đi 10 USD phúc lợi thực sự của quốc gia 2. Thứ hai, quốc gia 1 mặc dù có giá Px rẻ hơn quốc gia 3, nhưng do không thuộc liên minh thuế quan nên sản phẩm của quốc gia này bị đắt lên vì phải chịu thuế nhập khẩu. Bây giờ quốc gia 1 sẽ không xuất khẩu được 30x sang quốc gia 2 nữa, thay vào đó quốc gia 3 sẽ xuất khẩu 50x sang quốc gia 2. Trên góc độ của quốc gia 3 mà xét, thì liên minh thuế quan đã đưa tới phúc lợi cho quốc gia này trong khi quốc gia 1 bị thiệt hại và trên góc độ chung của toàn thế giới thì sự di chuyển hướng mậu dịch đã làm di chuyển sản xuất từ nơi có hiệu quả cao hơn (nhưng ở bên ngoài liên minh thuế quan) sang nơi kém hiệu quả (ở trong liên minh thuế quan). Điều đó có nghĩa là các liên minh thuế quan cục bộ đã làm giảm phúc lợi chung của toàn thế giới nếu như liên minh đưa đến sự khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả. Các quốc gia ngoài liên minh thuế quan phải hứng chịu những phúc lợi bị giảm này. Chuyển hướng việc làm Như đã chỉ ra ở trên, liên kết kinh tế quốc tế và khu vực mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia thành viên, thế nhưng một số tầng lớp nhất định trong từng quốc gia có thể phải gánh chịu những tác động tiêu cực. Cụ thể là những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động giản đơn ở những nước có mức lương cao sẽ có xu hướng được chuyển tới những quốc gia thành viên khác có giá nhân công rẻ hơn, từ đó dẫn tới tình trạng mất việc làm của nhiều công nhân trong các ngành đó. Chẳng hạn kể tự năm 1994, khi Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp dệt may của Mỹ và Canada đã chuyển hoạt động sản xuất tới Mêhicô. Một số tính toán cho thấy đến cuối năm 1997, nước Mỹ đã bị mất khoảng từ 32.000 đến 100.000 việc làm trong các ngành sản xuất công nghiệp do tác động trực tiếp của hiệp định thương mại tự do giữa Canada, Mêhicô và Mỹ. Tuy nhiên, tác động tới việc làm có lẽ là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất khi bàn tới liên kết kinh tế quốc tế và khu vực. Có nhiều ý kiến cho rằng đối với mỗi quốc gia thì liên kết có thể tác động tiêu cực đến một số ngành công nghiệp, nhưng nếu đó là những ngành hoạt động kém hiệu quả và không có khả năng cạnh tranh quốc tế thì việc thu hẹp quy mô của chúng là cần thiết. Hơn nữa, quá trình liên kết sẽ thúc đẩy sự phát triển những ngành có ưu thế cạnh tranh, từ đó tạo ra nhiều việc làm mới. Số liệu thống kê cho thấy cho đến cuối năm 1997 việc gia tăng xuất khẩu sang Mêhicô đã giúp tạo ra từ 90.000 đến 160.000 việc làm ở Mỹ. Nhìn chung, các hiệp định thương mại khu vực có xu hướng dẫn đến sự chuyển dịch trên thị trường lao động - việc làm trong một số ngành có thể bị giảm, nhưng nhiều việc làm mới lại được tạo ra ở những ngành khác. Hy sinh chủ quyền quốc gia Quá trình liên kết kinh tế đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có sự hy sinh một phần chủ quyền quốc gia. Mức độ hy sinh chủ quyền là thấp nhất trong khu vực mậu dịch tự do. Các quốc gia thành viên vẫn có quyền dựng nên những rào cản thương mại mà họ coi là phù hợp với tất cả các quốc gia không phải là thành viên. Mức độ hy sinh chủ quyền tăng dần nếu liên kết đạt tới các cấp độ cao hơn. Mức độ hy sinh chủ quyền là lớn nhất khi các quốc gia hình thành một liên minh kinh tế, đông thời có xu hướng liên minh chặt chẽ hơn về mặt chính trị. Khi đó các quốc gia thành viên phải chấp nhận áp dụng chính sách đối ngoại chung đối với các quốc gia không phải là thành viên, và thậm chí các chính sách về kinh tế, chính trị trong từng quốc gia, trong chừng mực nào đó, cũng có thể bị chi phối bởi chính sách chung của cả khối. Đây là lý do giải thích tại sao việc hình thành liên minh chính trị là rất khó khăn. Do các tình trạng một số quốc gia thành viên không có quan hệ thân thiện đối với những nước ngoài khối liên kết, nhưng những quốc gia thành viên khác lại có quan hệ rất chặt chẽ với những nước này nên việc hoạch định một chính sách đối ngoại chung là hết sức phức tạp. Tuy nhiên, bất chấp những mặt hạn chế nói trên của các hiệp định thương mại khu vực, quá trình liên kết kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới. 1.1.4. Tổ chức thương mại thế giới và vai trò của nó Mục tiêu của WTO WTO hoạt động dựa trên 3 mục tiêu cơ bản sau: a. Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới, phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường. b. Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; đảm bảo cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. c. Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng. Chức năng của WTO Tổ chức thương mại thế giới có 5 chức năng cơ bản: Thống nhất việc quản lý thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương và nhiều bên: giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ. Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO. Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương và nhiều bên. Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành to viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các nước thành viên. Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. Các nguyên tắc chung của WTO Về phương diện pháp lý, định ước cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay ký ngày 15/4/1999 tại Marrkesh là một văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất và có tính chất kỹ thuật pháp lý phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao và luật pháp quốc tế. Về dung lượng, các hiệp định được ký tại Marrakesh và các phụ lục kèm theo bao gồm 50.000 trang, trong đó riêng 500 trang quy định về các nguyên tắc và nghĩa vụ pháp lý chung của các nước thành viên như sau: - Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới - 20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá - 4 hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải pháp tranh chấp, rà soát chính sách thương mại. - 4 hiệp định nhiều bên về Hàng không dân dụng và mua sắm của Chính phủ, sản phẩm sữa và sản phẩm thịt bò. - 23 tuyên bố và quyết định liên quan đến một số vấn đề chưa đạt được thoả thuận trong vòng đàm phán Uraguay; Tổ chức thương mại thế giới được xây dựng trên 4 nguyên tắc pháp lý nền tảng là: tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia, mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng. ¨ Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most Favoured Nation), là nguyên tắc pháp lý quan trọng của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt là MFN được thể hiện ngay tại Điều I của Hiệp định GATT. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các Hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự "đối xử ưu đãi nhất". Mặc dù được coi là "hòn đá tảng" trong hệ thống thương mại đa phương. Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ và miễn trừ quan trọng đối với nguyên tắc MFN. Ví dụ như điều XXIV của GATT quy định các nước thành viên trong các hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng có hai miền trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với Trung Quốc. Miễn trừ thứ nhất là quyết định ngày 25/6/1971 của Đại hội đồng GATT về việc thiết lập "Hệ thống ưu đãi phổ cập" (GSP - Global System of Trade Prefrences among Developing countries) chỉ áp dụng cho hàng hoá xuất xứ từ Trung Quốc và chậm phát triển. Trong khuôn khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết lập một số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc và chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó cho các nước phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những mức thuế quan ưu đãi đó cho các nước phát triển khác theo nguyên tắc MFN. Miễn trừ thứ hai là quyết định ngày 26/11/1971 của Đại hội đồng GATT về "Đàm phán thương mại giữa Trung Quốc", cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển. Trên cơ sở quyết định này, Hiệp định về "Hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa Trung Quốc" đã được ký kết năm 1989 ¨ Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (National Trealment - NT), quy định tại Điều III hiệp định GATT, điều 17 GATS và điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ, việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung, có nghĩa là hàng hoá và quyền sở hữu trí. ¨ Nguyên tắc mở cửa thị trường Nguyên tắc mở cửa thị trường thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt chính trị, "tiếp cận thị trường" thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, "tiếp cận thị trường" thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường mà nước này chấp nhận khi đàm phán gia nhập WTO. ¨ Nguyên tắc cạnh tranh công bằng Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc "tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau" và được công nhận trong án lệ của Urugoay kiện 15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một lượng hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện. Đại hội đồng GATT đã phải thành lập một nhóm công tác (Working Group) để xem xét vụ này. Nhóm công tác đã cho kết luận rằng, việc áp đặt các mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những "điều kiện cạnh tranh công bằng" mà Urugoay có quyền "mong đợi" từ phía những nước phát triển và đã gây thiệt hại lợi ích thương mại của Urugoay. Từ này các nước phát triển có thể bị kiện ngay cả về mặt pháp lý không vi phạm các điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu các nước này có những hành vi trái với "nguyên tắc cạnh tranh công bằng". So sánh WTO với GATT Với tư cách là một tổ chức ra đời sau, WTO đã khắc phục được nhiều hạn chế của GATT trước đây như: Thứ nhất, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở chính và có tư cách pháp nhân. Tổ chức này có điều lệ hẳn hoi chứ không phải chỉ mang tính chất cộng đồng như GATT, các thành viên của nó có khả năng pháp định tất yếu khi WTO thực hiện chức năng của mình. Thứ hai, WTO không chỉ có số nước tham gia nhiều hơn mà phạm vi hoạt động rộng hơn GATT. GATT chủ yếu chỉ điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình còn sự ra đời của WTO giúp tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa phương hai lĩnh vực là dệt may và hàng nông sản. Thứ ba, WTO có chức năng giải quyết tranh chấp hiệu lực hơn GATT. WTO lập ra một quy trình khá chi tiết về thủ tục và thời gian biểu cho một qúa trình giải quyết tranh chấp và vì thế hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO nhanh hơn, tự động hơn, ít bị tắc nghẽn hơn so với hệ thống cũ của GATT. WTO đã khắc phục được những hạn chế nội tại của GATT đồng thời cũng mang lại cho các nước phát triển lợi dụng cơ chế giải quyết tranh chấp lỏng lẻo của GATT để chèn ép Trung Quốc ở một mức độ tương đối. Nói chung, so với GATT, WTO lớn mạnh hơn cả về lượng và chất. Phạm vi hoạt động của WTO bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế ra quyết định cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp đã được bổ xung cho phù hợp với tình hình mới. Cho dù có sự khác biệt như thế, WTO vẫn theo đường lối của GATT để nhằm hạn chế trong thương mại, cũng tương tự như IMF nhằm hạn chế những thiệt hại trong giao dịch về tài chính, làm giảm sút tính cạnh tranh. Sự ra đời của WTO vào ngày 1/1/1995, là bước dạo đầu cho triển vọng nhất thể hoá về ngoại thương ở tầm toàn thế giới trong tương lai. Có lẽ sẽ còn xa để tiến tới khả năng hợp nhất về đơn vị thanh toán, nhưng với những bước phát triển như kiểu WTO, thế giới sẽ tiến dần đến tầm vóc quy mô về hợp tác - liên kết và thống nhất về kinh tế cho nhân loại trong thiên niên kỷ mới. 1.2. Những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.2.1. Khái niệm chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận cấu thành có quan hệ qua lại với nhau là cô cấu vùng kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế: Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện các mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạch mẽ cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo ba nhóm ngành chính. Nhóm ngành nông nghiệp và khai khoáng: bao gồm các ngành nông lâm ngư nghiệp và công nghiêp khai khoáng. Nhóm ngành Công nghiệp chế tạo bao gồm các ngành công nghiệp điện tử, sản xuất chế biến, công nghiệp sản xuất hóa chất, trang phục, công nghiệp khai thác, sản xuất máy móc thiết bị ...và công nghiếp xây dựng. Nhóm ngành Dịch vụ: thương mại phân chia dịch vụ thành ngành như sau: Dịch vụ y tế Dịch vụ vận tải Dịch vụ du lịch Dich vụ giáo dục Dịch vụ phân phối Dịch vụ viễn thông Dịch vụ môi trường Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật Dịch vụ thể thao, văn hóa, giải trí Dịch vụ tài chính (gôm cả bảo hiểm và ngân hàng) Dịch vụ kinh doanh (bao gồm cả dịch vụ chuyên môn và máy móc) có các dịch vụ khác không nằm trong các loại trên. Cơ cấu kinh tế của một quốc gia luôn có sự thay đổi theo từng thời kỳ phát triển do các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không phải là yếu tố cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển. ở đây không đơn thuần là sự thay đổi về vị trí, mà là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến đổi cơ cấu cũ thành một cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng, thành phần kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra trong chiến lược. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng của việc tăng năng suất lao động và tăng yếu tố vốn so với các yếu tố sản xuất khác, bên cạnh đó là sự thay đổi giữa các khu vực kinh tế tạo ra sản lượng (một yếu tố nằm trong hàm sản xuất). Cơ cấu ngành kinh tế hiện nay của các nước đang hướng tới là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và tiếp theo là cơ cấu kinh tế ngành dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. 1.2.2 2 Vai trò và sự cần thiết của chuyển dịch cơ cấu kinh tế Có thể nói nền kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chịu ảnh hưởng bởi những xu thế lớn trong sự vận động của nền kinh tế thế giới. Sự tác động của những xu hướng này mang tính khách quan buộc các nước phải có sự thích nghi nếu không muốn bị tụt hậu. Một trong các xu hướng có sự tác động dẫn đến chuyển dịch về cơ cấu kinh tế của một quốc gia chính là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Điều này đã đưa tới sự tăng trưởng đột biến về kinh tế, gây ra sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Có thể thấy thời gian qua, các nước trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã tận dụng khá tốt những lợi thế so sánh để phát triển nền kinh tế của mình nên đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, làm cho khu vực này trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới. Nhờ đó, đã xuất hiện những nước công nghiệp hóa mới (NIEs), và có những nước đã đứng vào hàng ngũ các nước có tốc độ tăng trưởng cao. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế ở các nước này, giá nhân công ngày càng tăng đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất với giá thành tăng. Các nước này vì thế phải tìm cách chuyển một phần các lĩnh vực sản xuất khó cạnh tranh sang các nước khác dưới hình thức đầu tư và chuyển giao công nghệ. Để đổi mới công nghệ sản xuất, các nước công nghiệp hóa tìm cách chuyển những công nghệ lạc hậu, lỗi thời hoặc kém tính cạnh tranh sang các nước kém phát triển hơn. Mặt khác, các nước kém phát triển hơn lại có nhu cầu tiếp nhận các công nghệ có trình độ thấp để từng bước tham gia vào thị trường thế giới, tạo ra cơ may, tự điều chỉnh hành vi và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Sự gặp gỡ giữa cung và cầu về công nghệ trình độ thấp đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển làm thay đổi cơ cấu kinh tế tại các nước này. Một trong những yêu cầu đặt ra là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng cho phù hợp với bối cảnh và tình hình mỗi nước và quốc tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đó là cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và hướng tới là dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã nhấn mạnh vai._. phát triển là hướng vào xuất khẩu những loại hàng nông sản truyền thống và thực hiện chính sách thuế nhập khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ, nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng để hỗ trợ cho xuất khẩu. Mô hình này được thực hiện với các chính sách thương mại thiên về ủng hộ sự thay thế nhập khẩu, tạo ra một biểu thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần tới sự bảo hộ mạnh mẽ. Sau khi hoàn thành những giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại đối với các ngành chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu vào cho nhà xuất khẩu trong khi cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng đầy đủ. Tài quản lý của chính phủ ở đây là sự lựa chọn sáng suốt sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu. Xây dựng một chính sách thương mại quốc tế cho phù hợp với nền kinh tế đang phát triển, nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hướng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế quan và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý kinh tế vĩ mô trong nước. Vấn đề mở cửa có liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hoặc tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán. Việc quyết định hướng ngoại cho dù ở mức độ nào thì nó cũng có nhiều tác động quan trọng đến các mặt của đời sống kinh tế. Nó sẽ ảnh hưởng tới việc phân bố sản xuất giữa các mặt hàng trao đổi được xuất và nhập khẩu; tới cường độ sử dụng nguồn lực và tới sự phân phối thu nhập thông qua những tác động đối với thị trường nhân tố sản xuất và thị trường sản phẩm; tới cơ cấu và tốc độ công nghiệp hóa; tới việc phân bổ đất đai và các nguồn lực khác giữa cây lương thực và cây phục vụ xuất khẩu... ưu điểm của sự mở cửa là nó thúc đẩy quá trình đổi mới và tăng năng suất lao động nhanh, tạo ra khả năng thích nghi của nền kinh tế, tác động tốt đến quá trình phát triển dài hạn, có tác dụng tốt đối với sự tăng trưởng của GDP. Tuy nhiên, chiến lược kinh tế mở cửa sẽ mang lại cho chính phủ nước đó ít có khả năng hành động theo ý mình hơn; có tác dụng xấu tới công nghệ trong nước do phải dựa vào tư liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu, đặc biệt đối với các nước nhỏ có thu nhập thấp mà nền kinh tế của họ ở vào vị thế không thuận lợi. Việc thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thấp ở giai đoạn đầu có thể đem lại ảnh hưởng xấu là tăng giá cả tiêu dùng và một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, khi các điều kiện quốc tế trở nên không thuận lợi thì rủi ro có thể xảy ra, đem lại không ít hậu quả xấu cho nền kinh tế - xã hội trong nước. . Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý kinh tế, đảm bảo và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền thống của dân tộc, nhiều nước trên thế giới đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hướng nội. Mô hình hướng nội là chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu hướng hướng nội, có chiến lược đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theo hướng sản xuất cho thị trường trong nước, nhấn mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lương thực, và có thể cả các mặt hàng phi mậu dịch. Ban đầu chính phủ các nước đang phát triển nhiều khi cũng lựa chọn các chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy tính tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và khoáng sản mà chúng không được nhập khẩu. Các biểu thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lương thực được thực hiện, đồng thời chính phủ cũng đánh thuế vào hàng hóa xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu, và làm giảm sức thu hút của nền nông nghiệp định hướng xuất khẩu tương đối so với nền nông nghiệp hướng nội. Các chính sách trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành công nghiệp nhỏ với sự trợ cấp thích hợp và dần dần khuyến khích nền công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chung, họ còn có thể thực hiện sự hỗ trợ có lựa chọn cho nền công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu có tên là nền công nghiệp non trẻ. Chiến lược đóng cửa là thực hiện công nghiệp hóa hướng thay thế nhập khẩu núp đằng sau bức tường bảo hộ mậu dịch. Do vậy ít tạo ra sức ép về cạnh tranh hơn, làm cho cơ cấu sản xuất ít nhạy bén hơn, đông cứng hơn. Ngoài ra, một chiến lược dựa trên cơ sở bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu có xu hướng kèm theo sự hối lộ và độc đoán, gây trì trệ trong quá trình phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng và GDP. 3.2 Một số giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 3.2.1 Tạo điều kiện về môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế 3.2.2 Nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế Tình hình cạnh tranh trên thị trường nội địa theo CEPT, AIA, AICO Phân tích tình hình cạnh tranh sẽ khác nhau tuỳ thuộc vao khuôn khổ phân tích được sử dụng. Trong phần này, chúng tôI đánh giá năng lực cạnh tranh thương mại của Campuchia dựa vào hai mô hình: mô hình thương mại quốc tế của Heckscher - Olin và mô hình lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter (Porter, M. (1990): Lợi thế cạnh tranh quốc gia). Trong mô hình Heckscher - Olin, tiêu chí được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh là trình độ tay nghề của lao động. Thước đo khả năng cạnh tranh này được mở rộng trong mô hình Wood (1994) - mô hình nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa trình độ lao động và đất đai. Dựa vào kết quả nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành đồng thời trên nhiều quốc gia, Wôd lập luận rằng hệ số trình độ lao động trên đất đai có thể thể hiịen lợi thế so sánh tiềm năng của quocó gia. Phân tích của Kato (2001) về lợi thế so sánh của Campuchia so với các nước khác trong khối ASEAN cũng sử dụng phương pháp của Wood. Theo nghiên cứu cảu Kato, Campuchia có thrình độ lao động thấp nhất với 3,5 năm và đất canh tác đầu người cao nhất là 0,0091 km2. Kết quả là hệ số trình độ lao động trên đất đai rất thấp so với các nước khác; tính theo đơn vị số năm làm việc trên km2, thì Campuchia là 387, Lào 350, Việt Nam 2751, TháI Lan 654. Điều đó cho thấy Campuchia có lợi thế so sánh tiềm năng về xuất khẩu sản phẩm sơ chế như các sản phẩm từ tự nhiên (gỗ cây, cao su, gỗ tròn) và các sản phẩm có hàm lượng lao động phổ thông cao (may mặc). Porter đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua hệ thống các tiêu chí khác và có phạm vi rộng hơn. Theo Porter, có hai loại nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh: nhân tố quốc gia và nhân tố cá nhân. ở tầm quốc gia, Porter đã phân các nhân tố đặc thù quốc gia tác động tới năng lực cạnh tranh thành bốn nhóm: Tiềm năng các nhân tố sản xuất. Điều kiện về cầu. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và bổ trợ. Chiến lược quản lý và cạnh tranh. Để có bức tranh rõ hơn về lợi thế và bất lợi của nền kinh tế Campuchia, các nhóm nhân tố trên được phân tích sâu hơn trong các phần sau đây. * Tiềm năng các nhân tố sản xuất Nhóm nhân tố này bao gồm các nguồn lực tự nhiên, lao động, vốn, hạ tầng kỹ thuật và thể chế. Theo lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế, quốc gia có lợi thế trong lĩnh vực có nguồn cung nhân tố sản xuất dồi dào. Tuy nhiên, Porter lập luận rằng mức độ cung ứng nhân tố sản xuất không phảI lúc nào cũng ảnh hưởng quyết định tới lợi thế hay bất lợi cả một ngành. Ông cho rằng công nghệ có khả năng bù đắp cho sự khan hiếm về nguồn lực. Ông chia các nhân tố sản xuất thành hai nhóm: các nhân tố cơ bản và “các nhân tố tiến bộ”. Các nhân tố cơ bản là các nguồn lực tự nhiên như khí hậu và điều kiện địa lý, lực lượng lao động phổ thông hoặc đào tạo sơ lược và vốn nước ngoài. Các nhân tố tiến bộ bao gồm lao động có kỹ năng, hệ thống viễn thông, các viện nghiên cứu, v.v. Theo Kato, Campuchia có lợi thế về các nhân tố cơ bản vì nguồn đất canh tác và lao động chưa qua đào tạo rất doìI dào. theo số liệu thông kê của CIA (2001), Cơ quan Tình báo Kinh tế (2001) và Ngân hàng Thế giới (2001) thì Campuchia bất lợi hơn các nước khác xét về các nhân tố tiến bộ. Bảng dưới đây cho thây Campuchia đã tụt hậu so với Lào và Việt Nam về chiều dàI đường bộ được rảI nhựa, tiếp cận điện lưới và hệ thống cấp nước. So với Việt Nam và Lào, điểm yếu nhất của Campuchia là tiếp cận điện lưới. Mặc dù vậy, mức đầu tư theo kế hoạch về năng lượng và điện anưng cho giai đoạn 2002 - 2004 vẫn nhỏ so với khối lượng đầu tư cam kết cho hạ tầng kỹ thuật khác với mức 44, 31 triệu USD (Chính phủ hoàng gia Campuchia, Các ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu hỗ trợ phát triển, 5/2002). Số lượng điện thoại trên đầu người ở Campuchia cũng thấp hơn so với Việt Nam. Lợi thế về các nhân tố cơ bản gợi ý Campuchai nên định hướng sản xuất hàng xuất khẩu vào các lĩnh vực có nguồn cung cấp các nhân tố cơ bản dồi dào, không đòi hỏi sử dụng công nghệ hay trình độ, kỹ năng cao. Tuy nhiên, bất lợi của chính sách này là quốc gia sẽ chỉ sản xuất được sản phẩm có giá trị tăng thấp. Đây là nhân tố có thể cản trở quá trình phát triển. Bảng 16: Các chỉ số về tiếp cận và phạm vi, một số nước trong những năm gần đây Quốc gia GDP đầu người Đường bộ (100 km đường/km2 diện tích bề mặt) Đường dây điện (% hộ được mắc điện) a Điện thoại (số kết nối/1000 dân số) b Mạng đường ông nước (% hộ được mắc nước) b Campuchia 260 5.9 10 8 23 Tanzania 240 9.3 - 5 51 Lào 280 9.2 20 7 39 Tajikistan 290 9.6 - 37 47 Uganda 320 4.0 5 4 34 Việt Nam 370 7.1 51 28 36 TháI Lan 1,960 12.3 87 116 89 (a: Không kể các đơn vị tư nhân cung cấp nhỏ lẻ, chỉ cung cấp cho một phần nhỏ trong mạng lưới. b: Bao gồm cả mạng di động và cố định). Nguồn: CIA (2001); Ngân hàng Thế giới, GiảI pháp tư nhân về cơ sở hạ tầng ở Campuchia, 1002); Số liệu Kinh tế học cận biên. Các điều kiện về phía cầu Khả năng cạnh tranh của khu vực xuất khẩu phụ thuộc vào các điều kiện của cầu, trong đó gồm cả cầu nội địa và cầu của nước ngoài. Porter nhấn mạnh rằng ở mỗi quốc gia các doanh nghiệp trong nước sẽ có lợi thế về đổi mới vì các quan hệ văn hoá và địa lý cho phép họ đáp ứng thị hiếu tốt hơn so với các doanh nghiệp nước ngoàI. Về cơ bản, việc khai thác lợi thế này yêu cầu các cơ sở sản xuất và hệ thống tiếp thị và thông tin phảI linh hoạt và công nghệ phảI đạt tới trình độ nhất định. Campuchia không đáp ứng được những yêu cầu này, nên lợi thế vẫn chỉ là lợi thế mà chưa chuyển thành hiện thực. Một thực tế phản ánh điều này là Campuchia phảI nhập khẩu nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn khi thị trường nội địa mở rộng. Các cơ sở sản xuất thiếu phản ứng linh hoạt trước nhu cầu thị trường vì: - Cơ sở hạ tầng yếu kém. - Thiếu vốn - Thiếu nguồn nhân lực - Thiếu công nghệ phù hợp. Các doanh nghiệp nội địa ở Campuchia khó có thể đánh giá được nhu cầu của thị trường vì kỹ thuật cần thiết để thu nhập thông tin thị trường còn kém phát triển. Điều này cũng hàm ý rằng Campuchia chưa sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi trong thị trường xuất khẩu và do vậy Campuchia gặp thêm bất lợi trong xuất khẩu. 3.2.3 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) Sau chính biến tháng 7/1997, các nhà đầu tư ồ ạt rút khỏi Campuchia. Tất nhiên, nguyên nhân không phải hoàn toàn do cuộc chính biến ấy mà đó còn là kết quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Nhiệm vụ đặt ra lúc này đối với Chính phủ là phải đưa ra những chính sách phù hợp, mang tính cạnh tranh cao để lôi kéo các nhà đầu tư trở lại. Trên cơ sở của Bộ luật Đầu tư đã được Quốc Hội thông qua ngày 4/8/1994. Chính phủ đã đề ra một số biện pháp nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Một trong những chính sách được Chính phủ nhấn mạnh là làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư trong nước bằng các biện pháp như: ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm thực hiện đúng luật đầu tư, cải cách hệ thống hành chính, chống phiền hà, chống tham nhũng. Về khuyến khích đầu tư, Bộ luật đầu tư quy định: giảm, miễn thuế cho các nhà đầu tư. Ví dụ, Điều 14 ghi rõ: giảm 9% cho các dự án đầu tư vào thăm dò, miễn thuế tới 8 năm tuỳ theo đặc điểm của từng dự án; miễn thuế phân phối cổ tức hoặc lợi nhuận doanh thu đầu tư, trong cả hai trường hợp chuyển ra nước ngoài hoặc được phân phối trong nước; miễn 100% thuế nhập khẩu đối với vật liệu xây dựng, phương tiện sản xuất, trang thiết bị, vật liệu thô, phụ tùng thay thế; miễn 100% thuế xuất khẩu đối với các dự án đầu tư; cho phép cán bộ quản lý các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, vợ, chồng và những người phụ thuộc vào những người nói trên được nhập cư vào Campuchia. Mục 2, Điều 16 còn quy định quyền sử dụng đất được cấp cho nhà đầu tư bao gồm các hợp đồng cho thuê dài hạn lên tới 70 năm, có thể gia hạn thêm nếu yêu cầu... Những luật lệ đầu tư mang tính cạnh tranh cao như trên đã thu hút nhiều nhà đầu tư quay trở lại Campuchia. Từ tháng 1/1994 đến tháng 3/1999, đã có 777 dự án với tổng sỗ vốn đăng ký lên đến 5 tỷ 529 triệu USD được cấp phép. Tuy nhiên, Chính phủ cũng kiên quyết rút giấy phép đối với các dự án không có tính khả thi hoặc không được triển khai. Theo số liệu của Hội đồng phát triển Campuchia (CDC), từ năm 1994 đến năm 1999, đã có khoảng 800 dự án đã đăng ký với tổng số vốn lên tới 5,8 tỷ USD. Nhưng mức độ thực thi hàng năm của các dự án chỉ dao động từ 11% đến 46%. Vì vậy, năm 1997 đã có một văn bản dưới luật bắt buộc các nhà đầu tư phải nộp tiền đặt cọc 2% tổng giá trị dự án. Để chấm dứt hiện tượng các công ty ma, năm 1999, CDC đã tăng cường việc bắt buộc các nhà đầu tư thực hiện việc đặt cọc 2% và bắt đầu từ năm 2000, CDC buộc các chủ dự án đầu tư phải trình giấy phép đã cấp với CDC trong vòng 30 ngày và chỉ những chủ đầu tư nào hoàn tất các giấy tờ kê khai xin cấp phép và đóng khoản tiền đặt cọc bằng 2% giá trị đầu tư của dự án trong thời gian 6 tháng thì mới có thể giữ lại giấy phép đã cấp. Về các lĩnh vực đựơc khuyến khích đầu tư, Chính phủ vẫn duy trì các lĩnh vực ưu tiên được ghi trong Bộ luật đầu tư như: Các ngành công nghiệp chế biến hoặc có công nghệ cao; Tạo việc làm; Hướng xuất khẩu; Du lịch; Nông nghiệp và chế biến các sản phẩm nông nghiệp; Cơ sở vật chất, năng lượng; Phát triển thành thị, nông thôn; Bảo vệ môi trường; Các khu vực xúc tiến đặc biệt (SPZ). Trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ còn khuyến đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực, khu vực cụ thể như: Phát triển các khu công nghiệp ở ngoại vi thành phố, hoặc dọc quốc lộ 4; Xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương thức B.O.T (Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao) hoặc B.O.O (Xây dựng - Sở hữu - Vận hành). Cho đến nay, du lịch, dịch vụ là những lĩnh vực có số vốn đầu tư nước ngoài cao nhất, tiếp đó là công nghiệp, sau cùng là nông nghiệp. Bảng 5. So sánh lĩnh vực đầu tư từ 1994-2002 ( Đơn vị tính: USD) Năm Lĩnh vực đầu tư Số dự án Vốn đầu tư Tỷ trọng 1994 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 7 90.734.237 15,27% Công nghiệp và sản xuất 19 52.202.179 8,79% Các ngành dịch vụ 10 451.161.600 75,94% Tổng 36 594.098.016 100 1995 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 33 45.117.345 1,9% Công nghiệp và sản xuất 76 255.206.464 10,75% Các ngành dịch vụ 53 2.073.860.414 87,35% Tổng 162 2.374.184.223 100 1996 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 61 377.345.368 49,18% Công nghiệp và sản xuất 92 135.069.981 17,61% Các ngành dịch vụ 39 254.788.958 33,21% Tổng 192 767.204.307 100 1997 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 37 127.702.453 16,82% Công nghiệp và sản xuất 151 398.997.318 52,55% Các ngành dịch vụ 18 232.592.110 30,63% Tổng 206 759.291.881 100 1998 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 18 255.768.322 29,93% Công nghiệp và sản xuất 108 158.134.901 18,50% Các ngành dịch vụ 17 440.874.572 51,57% Tổng 143 440.874.572 100 1999 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 11 854.777.795 13,77% Công nghiệp và sản xuất 61 59.989.573 31,03% Các ngành dịch vụ 14 135.215.553 55,20% Tổng 86 240.546.923 100 2000 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 2 435.752.049 1,06% Công nghiệp và sản xuất 61 106.873.874 45,22% Các ngành dịch vụ 9 126.958.500 53,72% Tổng 72 236.332.374 100 2001 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 5 6.152.735 2,01% Công nghiệp và sản xuất 76 142.880.000 46,62% Các ngành dịch vụ 12 157.444.000 51,37% Tổng 93 306.476.735 100 2002 Nông nghiệp và kỹ nghệ nông sinh học 4 5.846.750 1,86% Công nghiệp và sản xuất 73 108.778.600 34,66% Các ngành dịch vụ 14 199.288.700 63,48% Tổng 91 313.854.050 100 Nguồn: "Đầu tư ở Campuchia”.Viện hợp tác và Hoà Bình Campuchia xuất bản, Phnôm Pênh, 2002. Trong dịch vụ, những dự án đầu tư vào lĩnh vực sòng bạc có số vốn lớn nhất, có dự án lên tới trên 1 tỷ USD (dự án khu vui chơi, giải trí, sòng bạc của Malaysia). Bởi vậy, đã có người gọi kinh tế Campuchia hiện nay là nền kinh tế sòng bạc. Trong công nghiệp, lĩnh vực được quan tâm nhất là dệt may. Các nhà đầu tư Trung Quốc rất chú trọng đầu tư vào khu vực này (trong tổng số 129 dự án đầu tư của Trung Quốc thì có 67 dự án (chiếm 51,9) đầu tư vào dệt may, và trong tổng số vốn 260 triệu USD đầu tư thì đã có 113 triệu USD đầu tư vào lĩnh vực này (chiếm 43,54%). Dệt may là khu vực thu được nhiều ngoại tệ nhất của Campuchia. Sản phẩm chủ yếu được xuất sang thị trường Mỹ. Nhờ sự tăng trưởng của công nghiệp dệt may (tăng trưởng 8%) mà tăng trưởng chung của công nghiệp đạt 9% trong năm 1999. Tuy nhiên, hiện nay Mỹ đang gây sức ép (hạn chế hạn ngạch), buộc Campuchia phải cải thiện đời sống cho công nhân (tăng lương thêm 5USD/tháng), do vậy sức cạnh tranh của hàng dệt may Campuchia có nguy cơ giảm sút. Định hướng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xây dựng dựa trên nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế. Theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, mục tiêu kinh tế tổng quát của Chính phủ hoàng gia Campuchia : "Xây dựng nhà nước trở thành một đô thị cấp quốc gia, có cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ; môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi, làm sống động nền kinh tế, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng phát triển kính tế tự do hoá thị trường; tạo chuyển biến rõ trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; chủ động hội nhập quốc tế, có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao". Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Campuchia sẽ tập trung vào những lĩnh vực sau: + Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các khu công nghiệp; khu chế xuất. + Các dự án sản xuất hàng xuất khẩu + Chăn nuôi gia súc gia cầm, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến nông sản. + Sản xuất máy móc + Sản xuất nguyên liệu, phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc, sản xuất giày dép xuất khẩu. + Dự án trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới. + Dự án trong lĩnh vực điện tử, phục vụ công nghiệp, tự động hoá + Dự án trong lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá + Dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn Về các đối tác đầu tư nước ngoài, thời gian tới, Chính phủ hoàng gia Campuchia cần đẩy mạnh hơn nữa việc tìm kiếm những nguồn vốn đầu tư từ Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc... đồng thời vẫn phải chú trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước trong khu vực như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông. Trong giai đoạn 2003 - 2008, Chính phủ hoàng gia Campuchia phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7% (tốc độ tăng trưởng bình quân năm giai đoạn 1993 - 2003 là 5.7%). Để đạt được mục tiêu đề ra, theo ước tính của sở kế hoạch và đầu tư, Chính phủ hoàng gia Campuchia cần thu hút được khoảng 500 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 5 năm. 3.2.4 Cải cách luật pháp và chính sách Thật sự rất câp bách cho Campuchia tiếp tục tiến trình xây dựng lại cơ sở hạ tầng luật pháp với mục tiêu chuyển đổi sang dân chủ và hệ thống kinh tế tự do thị trường. Nhiều luật đã chấp nhận chế độ ưu tiên chứng minh bị lỗi thời không xứng cho việc đáp ứng phức tạp xã hội tăng lên và mối quan hệ kinh tế. Chính phủ có đủ quyền tận tình thiết lập lại ”một khung làm việc luật pháp đáng tin, tiên đoán, rõ ràng và độc lập, khả năng xử án có thể tìm thấy quy tắc luật pháp và củng cố sự phát triển chế độ dân chủ, kinh tế thị trường, và công bằng xã hội”. * Cải cách luật pháp Chính phủ Campuchia đã thiết lập Hội đồng cải cách xử án để lãnh đạo việc thực hiện các cải cách pháp luật. Các cuộc hội ý kéo dài với các cổ đông đạt kết quả trong việc chuẩn bị các bộ luật dân sự và hình sự, và các bộ luật thủ tục dân sự và hình sự đang chờ đợi chính phủ phê chuẩn. Hai luật cơ bản này chủ yếu bảo đảm quyền và sự công bằng dưới hình thức trật tự xã hội sẽ dẫn đầu xã hội được nâng cấp và sẽ giúp đỡ cụ thể tạo ra bầu không khí kinh doanh có thể tồn tại. Đáp ứng các yêu cầu lĩnh vực tư nhân, 7 bản phác thảo luật về các quy tắc liên quan đến thương mại và kinh doanh đang chờ đợi Quốc hội phê chuẩn, và 3 bản án con đã được chấp nhận năm 2003. Các luật và quy tắc khác ở ban Quản lý các nguồn tài nguyên đã được chấp nhận và một số khác đang dưới sự chuẩn bị hay chờ đợi phê chuẩn. Đối mặt phần các yêu cầu của WTO, Campuchia cần hoàn chỉnh 46 mẫu luật. Cả hai tiến trình tạo ra luật và phổ biến, Chính phủ đang mở rộng với lĩnh vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ khác thông qua các buổi hội thảo và tham khảo ý kiến dân chúng để lấy lời bình luận và nguồn vào, xây dựng nhận thức dân chúng trong việc đẩy mạnh hiệu quả tuân theo luật (Xem bảng 1). Tuy nhiên, tiến trình cải cách luật pháp đang đi lên chậm chạp do sự giới hạn trong khả năng làm luật của Quốc hội, Thượng nghị viện và các bộ trong Chính phủ. Sự thiếu ý kiến của giới chuyên môn là một trong những cản trở. Không nhiều nghị viện có nền tảng luật pháp. Việc chỉ nhận lấy một sự cho phép thấp từ chính phủ, hầu hết các luật sư thích làm việc cho các công ty luật tư nhân hơn. Kết quả, chỉ có một vài chuyên gia về luật làm việc cho Chính phủ và nhiều trong số họ được khuyến khích về chính sách, không ở mức độ kỹ thuật. Dựa vào các chuyên gia luật nước ngoài là một lựa chọn khác nhưng có lẽ làm chậm lại tiến trình hoàn thành. Bảng 1: Cải cách luật pháp và xử án Vấn đề cải cách Giới hạn - Nâng cao tiến trình làm luật Tham khảo ý kiến dân chúng với xã hội công cộng ở hình thức luật và quy tắc - Xúc tiến mở rộng sự phổ biến luật và quy tắc Được thực hiện thông qua phương tiện truyền thông đại chúng, sách báo, và mạng NGO - Hoàn chỉnh các lỗ hổng trong luật pháp và pháp triển khung làm việc luật cho lĩnh vực tư nhân Bản phác thảo luật dân sự, bản phác thảo thủ tục luật dân sự, bản phác thảo luật hình sự, bản phác thảo thủ tục luật hình sự được đệ trình lên Hội động của các Bộ ngành. 7 luật về các quy tắc liên quan đến thương mại và kinh doanh đang đợi Quốc hội phê chuẩn, và 3 sắc lệnh con đã được chấp nhận năm 2003. Nguồn: Các kế hoạch hành động cai trị (GAP), 2001 và EIC, 2003 - 2005 Chính phủ nên sử dụng sự hỗ trợ quốc tế để đẩy mạnh khả năng lập pháp trong các Bộ ngành. Khó có thể xảy ra có một tiến trình tạo luật tốt khi mỗi phòng ban luật của Bộ có một vài hoặc không có nền tảng về luật. Quốc hội nên tuyển nhiều Luật sự trẻ Campuchia hơn nữa làm việc lâu dài ở Quốc hội hơn là tăng nhân viên hành chính. Các phòng ban luật đặc biệt ở Quốc hội nên được thiết lập nơi các nghị viện có thể tìm thấy sự hỗ trợ luật bất chấp sự sáp nhập của bên thứ ba. * Thi hành luật( thuc hanh luat phap) Bản chất của ”Quy tắc luật” không dừng lại ở việc xây dựng tính toàn vẹn cơ sở hạ tầng luật pháp, nhưng mở rộng theo sự tuân thủ và ràng buộc. Rõ ràng sự ràng buộc về luật nghèo nàn có hại cho phục lợi kinh tế xã hội. Sự rơi vào từ lỗi ngăn cản hoạt động phi pháp bao gồm trốn thuế, tham nhũng, cản trở sự phát triển lĩnh vực tư nhân, và hệ quả mơ hồ của ”bất công xã hội”, bao gồm cảnh túng quẫn và không an toàn. Cả hai hình thức kinh tế và giá trị xã hội, chi phí về ràng buộc luật yếu kém là to lớn (Xem hình 2). Chính phủ đã tạo ra sự nâng cao trong việc củng cố ràng buộc luật pháp bởi sự cố gắng nâng cao tính liêm chính của bộ máy tư pháp và nâng cao khả năng của các thể chế ràng buộc. Nhiều bản phác thảo luật đã được chuẩn bị, như ủy quyền và trao quyền hành pháp cho Hội động tối cao của quan tòa để bổ nhiệm và giám sát việc thực hiện của thẩm phán. Luật trên đạo luật đặc biệt của thẩm phán và viên chức tòa án dưới sự chuẩn bị phân ra nguyên tắc của họ và trách nhiệm thực hiện luật. Việc phân xử như là một phương pháp khác của giải quyết tranh cãi được thực hiện đặc biệt trong tranh cãi lao động, và bản phác thảo luật về sự phân xử thương mại đang chưa được xử tại Quốc hội sẽ cung cấp việc tìm ra giải pháp hoàn chỉnh cho các tranh cãi thương mại. Quan tòa trường học Hoàng gia đã được thiết lập để huấn luyện các thẩm phán và ủy viên công tố đẩy mạnh khả năng của họ để đảm bảo sự giải thích thích đáng về luật và công bằng. Bảng 2: Đẩy mạnh ràng buộc bộ máy tư pháp và luật pháp Vấn đề cải cách Giới hạn Phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng cho bộ máy tư pháp Thiết lập Quan tòa trường học Hoàng gia năm 2002 Nâng cao tính liêm chính của bộ máy tư pháp Thiết lập và nâng cao Hội đồng cải cách tư pháp, và Hội đồng tối cao của quan tòa Chuẩn bị luật của hình tượng thẩm phán đặc biệt và viên chức tòa án Đối mặt với các nhu cầu tư nhân cho sự phân xử các tranh cãi thương mại Thi hành phân xử khi các giải quyết tranh cãi khác, đặc biệt là tranh cãi lao động. Bản phác thảo luật phân xử thương mại được mở rộng tại Quốc hội. Nguồn: Các kế hoạch hành động cai trị (GAP), 2001 và EIC, 2003 - 2005 Tuy nhiên, cả hai cấu trúc luật không thỏa đáng và các phương thức ràng buộc cộng với sự điều chỉnh chậm chạp của quan điểm dân chúng theo trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ sẽ tạo ra một chặng đường dài về ý nghĩa của ”công bằng xã hội”. Quan trọng là sự tham nhũng được nhìn thấy bởi một cách sống của dân chúng, bởi vì điều này tiếp tục không đi đến sự trừng phạt và lãnh đạo quan sát viên thấy một ”văn hóa không có trừng phạt”. Nhiều tác nhân kinh tế xã hội của người dân Campuchia (quốc gia, tư nhân, cá nhân, nhóm) cảm thấy được khuyến khích nắm bắt lợi tức kinh tế bởi nhiều nghĩa, bao gồm, ví dụ, tìm kiếm lỗ hổng buôn lậu, và hành động không hợp pháp với ý nghĩa đạo đức và trách nhiệm xã hội. Tiến xa hơn, quốc gia cần cung cấp động cơ cho ràng buộc luật pháp. Không cung cấp thông tin do việc tuân theo luật sẽ cung cấp cả hai lợi ích xã hội và kinh tế cho tất cả các tác nhân kinh tế xã hội, quy tắc luật không đoán trước được. Lợi ích từ việc giữ vững luật phải vượt qua sự thuyết phục chính phủ về người thu thuế của chính phủ và các viên chức theo phong tục, và những người hoang phí ngân sách quốc gia khác, huy động ngân khố quốc gia và sử dụng đúng luật ngân sách quốc gia là tối ưu giá trị, sau cùng là không thể mong đợi thay đổi cách vận động. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tham khảo I. Tiếng việt 1. Báo cáo tổng kết hàng năm và phương hướng phát triển của Bộ thương mại Chính phủ Hoàng gia Campuchia (2003), Phnom Penh. 2. Trương Văn Bân (1996), Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp Nhà nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. PGS.TS. Đỗ Đức Bình - TS. Nguyễn Thường Lạng (chủ biên) (2002), Giáo trình Kinh tế học quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp Lâm nghiệp và Ngư nghiệp, Vương Quốc Campuchia và Chiến lược thúc đẩy đầu tư tư nhân, Phnom Penh. 5. Bộ Kinh tế và Tài chính Vương Quốc Campuchia (2004), Báo cáo hàng năm (1991 - 2004). 6. Bộ Thương mại Vương Quốc Campuchia (1995 - 2002), Báo cáo hàng năm về hoạt động xuất - nhập khẩu, Vụ Ngoại Thương, Phnom Penh. 7. Hiệp định thương mại Campuchia - Mỹ (2001), NXB Thống kê, Hà Nội. 8. Hội đồng phát triển Campuchia (2002), Luật và nguyên tắc về đầu tư tại Vương Quốc Campuchia, Phnom Penh. 9. TS. Tạ Kim Ngọc (1997), Kinh tế thế giới 1996: đặc điểm và triển vọng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. TS. Nguyễn Khác Thanh (chủ biên) (1997), Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và triển vọng gia nhập của Campuchia, Trung tâm ICTC, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2002), Tài liệu hội nghị toàn quốc quán triệt và thực hiện nghị quốc số 07 - NQ/TW của bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Uỷ ban quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế (2000), Campuchia và các tổ chức kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. ủy ban đầu tư Campuchia (1994 - 2002), Báo cáo tổng kết hoạt động đầu tư tư nhân, Phnom Penh. 14. Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ Ngoại giao (2000), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ Ngoại giao (2002), Campuchia Hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - Vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 16. TS. Hoàng Thị Thanh Nhàn, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện kinh tế thế giới (09 - 2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn Quốc, Malaysia và Thái Lan, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Mahathir Mohamad, Malaysia (04 - 2004), Toàn cầu hoá và những hiện thực mới, Nhà xuất bản trẻ, Hà Nội. 18. TS. Ngô Văn Điểm (06 - 2004), Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Hoàng Lan Hoa (09 - 2004), ASEM 5 cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập á - Âu, NXB lý luận chính trị, Hà Nội. 20. Hội nhập kinh tế áp lực cạch tranh trên thị trường và đối sách của một số nước. 21. PGS.TS. Lê Du Phong; PGS.PTS. Nguyễn Thành Độ, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới (1999), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. II . Tiếng Anh 22. Cambodia Economic Watch (2004), Phnom Penh 23. Cambodia Economic Report (2004), Phnom Penh 24. Economic Review (October, 2003) Vol: 01, 02, 04, 05, Economic Institute of Cambodia. 20. Global Competitiveness Report (1998), World Economic Forum, Geneva, Swizerland 21. Offical notices weekly business round up (27.07.2003), Vol: 242, 243, 244, 245, Ministry of Commerce Cambodia. 22. Offical notices weekly business round up - investment of CDC Cambodia (2001 - 2003). III. WEBSITE 23. www.moc.gov.com.kh 24. www.mofa.gov.vn 25. www.vnexpress.com 26. www.wto.org 27. www.eicambodia.org 28. www.iic.edu.kh 29. www.nciec.gov.vn 30. www.cdri.ỏg.kh 31. www.mekongcapital.com ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29417.doc
Tài liệu liên quan