Hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu đặt ra đối với Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam

Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương @&? khoá luận tốt nghiệp Đề tài: hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam Sinh viên : Lê Thu Hương Lớp : Nhật 2 - K38F - KTNT Giáo viên hướng dẫn : TS. Bùi Ngọc Sơn Hà nội - 2003 Mục lục Lời nói đầu kết luận Tài liệu tham khảo Lời mở đầu Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Toàn

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu đặt ra đối với Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu hoá, khu vực hoá kinh tế và tự do thương mại đã xoá bỏ hoặc làm giảm bớt hàng rào ngăn cách, mở rộng thị trường, kích thích sản xuất đồng thời cũng làm cho sự cạnh tranh ngày càng trở nên găy gắt. Nền kinh tế của một quốc gia trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu, phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế toàn cầu. Nhưng điều đó cũng củng cố vị thế của một nước, nếu nước đó biết tìm vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức vô cùng to lớn. Quốc gia nào đứng ngoài xu thế này thì sẽ bị cô lập và tụt hậu nhanh chóng, nhưng nếu tham gia vào thì phải đương đầu với sự cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ. Hội nhập kinh tế trở thành yêu cầu cấp thiết đặc biệt với những nước đang phát triển như Việt Nam. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Vì trên thực tế, không một quốc gia nào lại có thể thành công về mặt kinh tế khi đi ngược lại với xu thế chung này. Nhưng việc chúng ta tham gia một cách chủ động hay bị đẩy vào một cách thụ động còn tuỳ thuộc vào việc chúng ta có biết khai thác những lợi thế và hạn chế những khó khăn hay không để có thể hội nhập một cách nhanh chóng và hiệu quả vào nền kinh tế thế giới. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả đã và đang đặt lên vai hoạt động xuất nhập khẩu một gánh nặng vô cùng to lớn đòi hỏi chúng ta phải có một kế hoạch hành động thích hợp và cụ thể. Tham gia vào quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá nền kinh tế, tức là phải tham gia vào một khuôn khổ cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các biện pháp hạ thấp dần, đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng hoá và dịch vụ, tức là mở cửa cho hàng hoá và dịch vụ của các nước thành viên khác thâm nhập vào thị trường của mình. Việc này sẽ khó khăn phức tạp đối với một số ngành kinhh tế nước ta do sức cạnh tranh kém, đồng thời giảm khả năng thu ngân sách Nhà nước qua thuế. Chúng ta chỉ có thể giảm thiểu sự thiếu hụt này, hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới chỉ khi chúng ta có một lộ trình hội nhập hợp lý, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, xuất nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng GDP, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó đội ngũ trực tiếp thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu không ai hết chính là các doanh nghiệp. Để có thể thực hiện thành công quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp phải cải thiện đáng kể tình hình hiện tại như nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động, có tầm nhìn chiến lược và hoạch định cho mình một chiến lược phát triển bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế là một đề tài lớn, trong phạm vi đề tài: "Hội nhập kinh tế quốc tế và những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam", khoá luận đề cập đến những vấn đề cơ bản của hội nhập, tác động của hội nhập đến hoạt động xuất nhập khẩu và những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khoá luận được kết cấu thành 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II: Mối quan hệ giữa Hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Chương III: Những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế. Để có thể hoàn thành được khoá luận này tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ thầy cô và các bạn. Hơn nữa, khoá luận chỉ được thực hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn nên không tránh khỏi những sai sót, mong thầy cô và các bạn thông cảm. Qua đây, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Tiến sỹ Bùi Ngọc Sơn, người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện khoá luận này. Sinh viên thực hiện Lê Thu Hương Chương I Những vấn đề cơ bản về Hội nhập kinh tế quốc Tế I - Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất 1. Hội nhập kinh tế - vấn đề mang tính khách quan của các nền kinh tế hiện nay Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới, từ thấp đến cao, từ quy mô hẹp đến quy mô ngày càng rộng lớn hơn, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Trước đây, tính chất xã hội hóa của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan tỏa bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có sự thay đổi đáng kể, dần hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý... Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan tỏa sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung. Mặt khác, tự do hóa thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu, được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hóa tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. Không ngừng đẩy mạnh trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mở rộng sự phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật... là một nhu cầu không thể thiếu được của đời sống kinh tế và là một tất yếu khách quan của thời đại, dù đó là nước lớn hay nhỏ, nước công nghiệp phát triển hay kém phát triển, nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực. Về lâu dài cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đều phải tính đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu để đảm bảo được lợi ích phát triển tối ưu của quốc gia. Việt Nam cũng không thể nằm ngoài quá trình này. Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng đã bị trả giá. Bởi vậy, để hội nhập có hiệu quả, cần phải có quan điểm nhận thức đúng đắn, nhất quán, cơ chế chính sách thích hợp, tận dụng tốt cơ hội, không bỏ lỡ thời cơ, giảm thách thức, hạn chế rủi ro trong quá trình tiến lên của mình. 2. Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. Nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có loại ý kiến cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Loại ý kiến khác lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. *Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu: Đàm phán cắt giảm thuế quan; Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan; Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ; Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế; Điều chỉnh các chính sách thương mại khác; Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế... có tính chất toàn cầu. 3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập là kết quả chính trị có chủ đích rõ ràng nhằm hình thành một tập hợp khu vực để thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường cho sản phẩm dịch vụ nước mình. Do đó Hội nhập là hoạt động chủ quan của con người, ở đây là các chính phủ, nhằm lợi dụng sức mạnh của thời đại để tăng cường sức mạnh dân tộc mình. Hội nhập quốc tế trước kia cũng như hiện nay cùng có mục đích giống nhau là lợi dụng đến mức tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng cường sức mạnh dân tộc. Hội nhập quốc tế ngày nay với toàn cầu hoá tuy là hai quá trình khác nhau vì hội nhập quốc tế là hành động chủ quan còn toàn cầu hoá là hiện tượng khách quan nhưng chúng có mối quan hệ thân thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Do vậy, khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có những bước đi cụ thể được tính toán cẩn thận, phải xây dựng lộ trình hội nhập phù hợp với khả năng và lợi ích của dân tộc. Hội nhập giúp chúng ta tìm được chỗ thích hợp nhất trong con tàu toàn cầu hoá, nhưng mặt khác toàn cầu hoá lại chỉ là con tàu chỉ chạy một chiều và không đậu lại ở một bến nào cả, nên muốn không bị nhỡ hoặc bị văng va khỏi con tàu này, tức là tụt hậu thì quá trình hội nhập nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng cũng phải khẩn trương và có những quyết định mạnh dạn. Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau đây: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là quá trình hợp tác cùng phát triển, vừa là quá trình đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia; Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế; Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường; Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. II - Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 1. Xuất nhập khẩu Trong những năm gần đây, các hoạt động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu của thế giới liên tục tăng trưởng với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn. Sự tăng trưởng đó có đặc điểm là luôn luôn cao hơn so với tốc độ tăng của sản xuất thế giới dù nền kinh tế thế giới nói chung và thương mại quốc tế nói riêng đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong quá trình phát triển kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Trên thực tế, các nước sử dụng rộng rãi nhiều biện pháp trực tiếp nhằm mở rộng xuất khẩu hàng hóa, chiếm lĩnh thị trường ngoài nước như tín dụng xuất khẩu, Nhà nước bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu hoặc bán phá giá hàng hóa, bán phá giá hối đoái, hoàn thuế hàng xuất khẩu... Đồng thời, các nước cũng sử dụng nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu bằng cách sử dụng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (như quotas, giấy phép nhập khẩu, quy định về mặt vệ sinh thú y hoặc vệ sinh thực phẩm...) nhằm ngăn cản hàng từ nước ngoài, tăng khả năng của các nhà sản xuất nội địa, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Các tổ chức kinh tế quốc tế hiện nay đều có xu hướng thỏa thuận giảm bớt và dỡ bỏ các biện pháp hạn chế này, tạo thuận lợi tối đa cho sự trao đổi tự do hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thế giới. Trong sự tăng trưởng chung của thương mại quốc tế, cho dù giá trị thương mại của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên trong tỷ trọng giá trị thương mại toàn thế giới, song đến nay giá trị thương mại của 25 nước công nghiệp phát triển thuộc khối OECD vẫn chiếm gần 70% giá trị thương mại toàn cầu. Con số này cho thấy: làm chủ trên thương trường quốc tế cho đến nay và dự báo trong nhiều năm tới vẫn là các nước công nghiệp phát triển thuộc ba trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay: Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Song nhìn từ khía cạnh khác, không thể không thấy rõ, đối với các nước đang phát triển đặc biệt là các nước ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, để có được sự phát triển kinh tế năng động trong những thập niên vừa qua phải kể đến sự đóng góp vô cùng quan trọng của thương mại quốc tế. Với chiến lược thay thế nhập khẩu và sau đó là chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, một số nền kinh tế ở châu á đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIEs), cất cánh thành những con rồng châu á trong khoảng thời gian lịch sử ngắn hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển đi trước. Điều đó cho thấy lợi ích của việc tham gia vào thương mại quốc tế là hết sức to lớn và hoàn toàn hiện thực. 2. Đầu tư Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức, cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận và đạt được các hiệu quả xã hội. Đây là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, tuy rằng trên thực tế, sự hợp tác này không đơn giản mà trái lại luôn chứa đựng sự cạnh tranh gay gắt. Những hình thức chủ yếu của đầu tư quốc tế bao gồm đầu tư gián tiếp (góp vốn dưới hình thức mua cổ phiếu nhưng không trực tiếp điều hành), tín dụng quốc tế (cho vay vốn kiếm lợi thông qua lãi suất tiền vay), đầu tư trực tiếp (chủ đầu tư trực tiếp tham gia điều hành đối tượng họ bỏ vốn đầu tư). Tại Việt Nam, đầu tư quốc tế được đề cập chủ yếu ở hai hình thức là FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và ODA (vốn hỗ trợ phát triển chính thức). Đầu tư mang lại những lợi ích to lớn cho các đối tượng tham gia. Đối với các nước chủ đầu tư mà phần lớn là những nước công nghiệp phát triển, lợi ích thu được là: Sử dụng được lợi thế của nơi tiếp nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư. Khắc phục được tình trạng lão hóa sản phẩm bằng cách di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Ví dụ nhờ đầu tư ra nước ngoài mà Mỹ nhập khẩu ổn định toàn bộ phốt phát, đồng, thiếc, quặng sắt, mangan. Bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên thị trường quốc tế. Còn đối với các nước nhận đầu tư là các nước công nghiệp phát triển, đầu tư nước ngoài cũng có ý nghĩa quan trọng như giúp giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội như thất nghiệp, lạm phát, tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế, tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại... Tuy vậy, tác động của đầu tư nước ngoài đối với các nước đang phát triển mới thực sự là to lớn, được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau: Giải quyết vấn đề thiếu vốn. Chỉ xét riêng về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong khoảng thời gian giữa thập kỷ 60 đến giữa thập kỷ 90, bằng một chính sách năng động và có hiệu quả, các nước NICs đã nhận được hơn 50 tỷ USD - đây là nguồn vốn đặc biệt quan trọng giúp các nước này trở thành những con rồng của châu á. Giải quyết một phần đáng kể tình trạng thất nghiệp thông qua việc tạo ra các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô của các đơn vị kinh tế. Giúp nước nhận đầu tư tiếp thu công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý. Góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ. Kể từ năm 1988 (năm Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực), đến hết năm 2002 đã có khoảng 4.600 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 50,3 tỷ USD và vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 24 tỷ USD. Những nước dẫn đầu về số vốn đầu tư tại Việt Nam vẫn là các nước Châu á láng giềng như Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc… và gần đây Mỹ nổi lên là một trong những nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam, kể từ sau hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ được quốc hội hai nước chính thức thông qua. Trước Mỹ, Pháp, Anh, Australia, Hà Lan cũng là những nhà đầu tư lớn tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài là một nhân tố thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nếu ở thời kỳ 1991-1995 nó đã giúp Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội, xóa bỏ cấm vận kinh tế của nước ngoài thì từ năm 1996 đến nay nó là một trong những nhân tố thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển theo chiều sâu và duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Từ không đến có, khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hiện chiếm gần 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 25,1% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tạo việc làm cho khoảng 600.000 lao động trực tiếp (theo Tổng điều tra mới đây). Rõ ràng, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang góp phân quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Một mảng quan trọng khác của đầu tư quốc tế là vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, ODA có ý nghĩa to lớn và đã góp phần tạo ra những cơ hội để đạt được tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ. Nguồn vốn ODA được tập trung cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội ưu tiên của Chính phủ như: năng lượng điện (24%), giao thông (27,5%), phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thủy sản, lâm nghiệp và thủy lợi (12,74%), cấp thoát nước (7,8%), y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học-công nghệ-môi trường (11,87%). Ngoài ra, nguồn ODA cũng hỗ trợ đáng kể cho ngân sách của Chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế (các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa, PRGF và PRSC). Nhìn chung, việc sử dụng ODA trong thời gian qua là có hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên tốc độ giải ngân nguồn vốn này vẫn còn chậm, chưa có nhiều dự án thực sự khả thi để sử dụng triệt để lợi ích mà ODA mang lại. 3. Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế Dưới sức ép của cạnh tranh, toàn cầu hoá và sự bành trướng của các công ty đa quốc gia như hiện nay, các quốc gia có xu hướng tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực nhằm tận dụng những lợi thế của nhau, dành cho nhau những ưu đãi về thuế quan và mậu dịch, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể để cạnh tranh với các nước ngoài khối. Song song với việc tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực, các quốc gia đồng thời cũng tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế toàn cầu nhằm tạo điều kiện cho tự do hoá thương mại và đầu tư, gia tăng kim ngạch xuất khẩu đồng thời đẩy nhanh tốc độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới (đối với những nước đang phát triển). Bảng: Một số tổ chức kinh tế khu vực trên thế giới Tên Nước thành viên Thường trực Thành Lập Khu Vực kinh tế Châu Âu Aixơlen, Bỉ, Đan Mạch, Đức Pháp, Hà Lan; Lucxembua,Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha; Hy Lạp, Italia, Anh, áo, Na Uy, Phần Lan, Thuỵ Điển, Lichtếintin. Brucxen 1/1994 Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á Philipin, Lào, Singapo, Brunây, Thailan, Brunây,Campuchia, Indônesia, Việtnam Myama Giacacta 8/1967 Tổ chức hợp tác trung á Thổ Nhĩ kỳ, Pakistan, Apganistan, Iran, Azacbaizan, Uzobekistan, Takistan, Kazacstan, Azukistan Đôhaylan 1985 Liên minh hợp tác Nam á Môngla, Butan, ấn Độ, Mantan, Nêpan, Pakistan, Siri-Lanca. Kađôman 12/1985 Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ Hoa Kỳ, Mêhicô, Canada Mêhicô city 12/1992 Diến đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái bình dương. Mỹ,Canada, Mêhicô, Chilê, singapo,Nga Trung Quốc, Đài Loan, HồngKông,Nhật Bản, Malaisia, ThaiLan, Babue, Pêru, Philipin,Inđônêsia, Viêtnam, Australia, New Zealand, và Tân Ghi-nê Không có trụ sở 11/1989 Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ Gồm 34 nước Bắc Mỹ trừ Cu Ba Maiami 12/1994 Hiệp hội cân đối phát triển miền Nam Châu Phi Angola, Boxoana, malavi, Zambia Zimbabue, Caicosto, Mozambic, Namibia, Tanzania Môngtêviđêô 3/1981 Nguồn: Những vấn đề về toàn cầu hoá-Học viện chính trị QG HCM Trong trào lưu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang diễn ra như một xu thế khách quan, là một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển ở khu vực Đông Nam á, Việt Nam không thể đứng ngoài quá trình chung đang diễn ra mạng mẽ trên phạm vi toàn cầu. Ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia phong trào không liên kết, Nhóm G77 và đặc biệt là liên hiệp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự công bằng, đồng thời tham gia tích cực vào các liên kết kinh tế - thương mại quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC), trở thành quan sát viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ký hiệp định thương mại với 85 quốc gia, thực hiện tối huệ quốc với trên 70 quốc gia. Nếu vào năm 1990 Việt Nam mới có quan hệ buôn bán với trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ thì đến năm 1995 đã là 100 và đến đầu 2001 con số này đã là khoảng 170 nước và vùng lãnh thổ. Quá trình hội nhập của Việt Nam chủ yếu được thực hiện dần dần từng bước theo ba lĩnh vực trọng tâm là tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư nước ngoài và mở cửa thu nhận tri thức nước ngoài thông qua công nghệ thông tin. Quá trình hội nhập của Việt Nam có thể được xác định qua một số mốc cơ bản sau: Năm 1987, Việt Nam ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm thu hút các doanh nghiệp nước ngoài vào sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Luật Đầu Tư nước ngoài đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993,1996 và mới đây nhất là năm 2000. Năm 1993, Việt Nam đã khai thông quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng Châu á (ADB), tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài và cộng đồng quốc tế về đường lối chính sách phát triển của Việt Nam, xử lý nợ với chủ nợ quốc tế tại câu lạc bộ Pa-ri năm 1993, qua đó khẳng định với thế giới về quyết tâm của chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết và nghĩa vụ quốc tế của mình. Tháng 12 năm 1992, Việt Nam đã ký tắt Hiệp định buôn bán hàng dệt may với Liên minh Châu Âu. Hiệp định này được ký chính thức vào tháng 7 năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1993 đến ngày 31 tháng 12 năm 1997. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam đã chính thức ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế, thương mại với Liên minh Châu Âu. Hai bên thoả thuận dành cho nhau chế độ tối huệ quốc. Năm 1996, các bên đã thành lập Uỷ ban hợp tác Việt Nam-Liên minh Châu Âu và tháng 1 năm 1996, Liên minh Châu Âu đã cử đại sứ thường trực tại Việt Nam. Năm 1995, Việt Nam chính thức trở thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á, điều này đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam trong quan hệ với các nước trên thế giới. Ngay sau khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam đã tham gia vào một loạt các chương trình hợp tác về thương mại và đầu tư trong khu vực. 5.Tháng 3 năm 1996, Hội nghị các nguyên thủ về hợp tác á- âu (ASEM) lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok Thái Lan với sự tham gia của 15 nước thuộc liên minh châu Âu và 10 nước Châu á là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Singapo, Malaisia, Philipin, Brunây và Việt Nam. Việt Nam đã tham gia diễn đàn với tư cách là thành viên sáng lập. Nội dung hợp tác chủ yếu tập trung vào việc thuận lợi hoá thương mại và đầu tư và hợp tác giữa các doanh nghiệp á- âu. Tháng 11 năm 1998, Việt Nam gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC). Đến nay, APEC có tất cả 21 thành viên trong đó có các quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất thế giới như Mỹ, Nhật, Canađa… Tại hội nghị Thượng đỉnh, ngay sau khi chính thức trở thành thành viên chính thức, Việt Nam đã nộp bản Kế hoạch hành động quốc gia (IAP), cam kết thực hiện 14/15 lĩnh vực theo quy định của Diễn đàn. Tháng 6 năm 1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Năm 1995, vào ngày làm việc đầu tiên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập tổ chức này, ngày 28 tháng 11 năm 1996, Việt Nam đã hoàn thành bản "Bị vong lục về chế độ ngoại thương", căn cứ theo mẫu hướng dẫn của WTO, đã được ban thư ký chuyển đến các nước thành viên. Hiện tại, với tư cách là quan sát viên của WTO, Việt Nam đã tham gia các Hội nghị Bộ trưởng của WTO và đang tích cực chuẩn bị cho các vòng đàm phán sắp tới để xác lập cơ sở pháp lý cho việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới. Ngày 13 tháng 7 năm 2000, tại Washington (Hoa Kỳ), Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã chính thức được ký kết, kết thúc 4 năm đàm phán tích cực giữa hai Nhà nước. Việc ký kết Hiệp định này là một sự kiện lớn, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế-thương mại giữa hai quốc gia. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là hiệp định mang tính chất tổng thể và bao quát nhất. Hiệp định không chỉ đề cập đến thương mại hàng hoá mà còn chứa đựng cả những điều khoản về thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Đây cũng là Hiệp định đầu tiên được Việt Nam đàm phán trên cơ sở các nguyên tắc của WTO: " bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền lẫn nhau, có tính đến thực tế Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới". Được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của WTO, việc thông qua Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là một bước quan trọng để Việt Nam tiến tới gia nhập Tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Để có thể hiểu rõ những thuận lợi, thời cơ cũng như khó khăn thách thức của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta sẽ nghiên cứu 3 tổ chức kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 3.1 Hội nhập ASEAN/AFTA a) Quá trình gia nhập Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), đánh dấu bước hội nhập quan trọng đầu tiên vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới. Ngay sau đó, Việt Nam cũng chính thức tham gia thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area - AFTA) bằng việc ký Nghị định thư gia nhập hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư tại Singapore (tháng 1/1992) đã quyết định xúc tiến thiết lập AFTA. Mục tiêu của AFTA là loại bỏ hoàn toàn hàng rào thương mại đối với hầu hết hàng hóa của các nước trong khu vực, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa ASEAN trên thị trường quốc tế và tính hấp dẫn của khu vực này đối với đầu tư nước ngoài. Mục tiêu này được thực hiện thông qua việc áp dụng CEPT với lộ trình giảm nhanh và giảm bình thường đối với các loại hàng được đưa vào từng chương trình giảm thuế. ngày 15/12/1995 và bắt đầu thực hiện chương trình này 15 ngày sau khi ký kết. Vào thời điểm đó, Việt Nam đã đệ trình ASEAN bốn danh mục hàng hóa theo quy định, đó là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục cắt giảm thuế quan (IL) và danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL). Theo Bộ Thương mại, mặc dù Chính phủ và các bộ, ngành đã triển khai nhiều chương trình phổ biến CEPT/AFTA, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp lớn của Nhà nước, vẫn chưa thật sự quan tâm đầy đủ đến vấn đề này. Đến hết năm 2002, Việt Nam đã đưa khoảng 5505 mặt hàng vào danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT, còn lại khoảng trên 700 mặt hàng đã và đang được đưa vào danh mục cắt giảm trong năm 2003. Các dòng thuế có thuế suất từ trên 5% đến 20% phải cắt giảm để đến năm 2005 còn phần lớn ở mức 0%. Đồng thời, đối với các dòng thuế vẫn còn ở mức thuế suất trên 25% cần phải giảm ngay và liên tục sao cho đến năm 2005 còn không quá 5%. Việt Nam cũng đã ký hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Ngoài ra, để thực hiện nghĩa vụ của một nước thành viên, Việt Nam đã tiến hành cải cách thuế, đơn giản hóa các loại thuế, thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng (VAT). Việt Nam đã áp dụng "tuyến xanh" hải quan đối với những hàng hóa thuộc diện áp dụng CEPT, ký kết Hiệp định hải quan với ASEAN, Hiệp định khung về chương trình._. hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư... b) Cơ hội và thách thức Khi thực hiện AFTA, nguồn nguyên liệu Việt Nam nhập từ ASEAN sẽ rẻ hơn, do đó tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam xuất sang ASEAN sẽ được nâng cao hơn. Trong khi đó, những sản phẩm trong nước kém hiệu quả sẽ được thay thế bằng sản phẩm nhập khẩu với giá thấp hơn và kết quả là người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ sự tham gia này. Và quan trọng hơn, tham gia AFTA, Việt Nam có thể thu hút đầu tư từ trong cũng như ngoài khu vực. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là Nhà nước sẽ bị thất thu thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu, còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa của mình, nếu không chẳng những không tận dụng được những lợi thế do AFTA quy định mà còn có thể gặp khó khăn lớn trong thương mại, nhất là khi sẽ không còn chế độ bảo hộ sản xuất trong nước của Chính phủ. 3.2Hội nhập APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á- Thái Bình Dương (The Asia - Pacific Economic Cooperation - APEC) thành lập tháng 11/1989 tại Canberra (Australia). Hiện nay APEC đã phát triển từ 12 thành viên ban đầu lên 21 thành viên, với khoảng 52% diện tích lãnh thổ, 59% dân số, 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới; APEC đóng góp khoảng 57% GDP và 46% thương mại toàn cầu. Kiên trì các nguyên tắc: cùng có lợi, đồng thuận, tự nguyện và phù hợp với nguyên tắc của WTO/GATT, 3 trụ cột hợp tác trong APEC là tự do hóa mậu dịch và đầu tư, thuận lợi hóa các quan hệ kinh tế và hợp tác kinh tế kỹ thuật. Tuy vậy, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể, các hoạt động hợp tác trong APEC được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với bối cảnh tình hình và đáp ứng lợi ích của tất cả các thành viên. * Mục tiêu cơ bản của APEC bao gồm: Giữ vững sự tăng trưởng và phát triển trong khu vực; Tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở chứ không phải việc hình thành khối thương mại khu vực; Tập trung vào kinh tế chứ không phải các vấn đề an ninh; Khuyến khích sự phụ thuộc lẫn nhau mang tính xây dựng bằng việc khuyến khích luồng hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ. Chương trình nghị sự chính của APEC là phá bỏ hàng rào thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên vào năm 2020. Các nước phát triển cam kết thực hiện điều này vào năm 2010. Một số nhóm làm việc được thành lập để thúc đẩy sự hợp tác trong hàng loạt vấn đề, đặc biệt trong lĩnh vực thuận lợi hóa kinh doanh và trao đổi thông tin. Tháng 6/1996, Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC. Tiếp đó, Việt Nam đã xây dựng và gửi bản ghi nhớ về chế độ kinh tế của Việt Nam cho Ban thư ký APEC để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên APEC nghiên cứu và xét duyệt việc gia nhập của Việt Nam. Hội nghị cấp cao APEC tại Manila ngày 30/11/1996 đã đưa ra bàn bạc việc kết nạp thành viên mới. Ngày 25/04/1997, Việt Nam nộp đơn xin tham gia vào 3 nhóm công tác của APEC về xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ và kỹ thuật nông nghiệp. Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 5 tại Vancouver (Canada) tháng 11/1997 nhất trí kết nạp Việt Nam làm thành viên chính thức của APEC vào tháng 11/1998. APEC thực sự là một tổ chức hấp dẫn để Việt Nam tham gia. APEC chiếm 80% kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và thế giới, chiếm 2/3 đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và trên 50% tổng viện trợ ODA cho Việt Nam. Là một nước có nền kinh tế ở trình độ phát triển thấp, chưa phải là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), lại mới tham gia APEC, nhưng Việt Nam là thành viên tích cực của Diễn đàn này và đã có những đóng góp đáng kể vào tiến trình hợp tác. Việt Nam đã hoàn thiện bản bố sung Chương trình Hành động Quốc gia (IAP) năm 2000 và các cam kết thực hiện trong IAP của Việt Nam được đánh giá cao. Việt Nam đã đưa ra một số sáng kiến được hoan nghênh và đã bước đầu thu được kết quả như dự án về tăng cường sự tham gia của các thành viên đang phát triển của APEC vào các thỏa thuận công nhận lẫn nhau; sáng kiến về tăng cường hợp tác trong việc thực hiện các kế hoạch hành động tập thể trong hai lĩnh vực ưu tiên là thủ tục hải quan và tiêu chuẩn-hợp chuẩn; sáng kiến về ban hành hướng dẫn xây dựng văn bản pháp luật về thương mại điện tử và đề xuất về hợp tác trong lĩnh vực trao đổi công nghệ sau thu hoạch. Tháng 11/ 2006, Hội nghị cấp cao APEC sẽ được tổ chức tại Việt Nam, là sự ghi nhận và đánh giá cao của Diễn đàn đối với vai trò và sự tham gia tích cực, hiệu quả của nước ta trong những năm qua cũng như trong thời gian sắp tới. Là thành viên APEC, Việt Nam được hưởng nhiều cơ hội thuận lợi như sau: Mở rộng thị trường, hội nhập nhanh hơn nền kinh tế toàn cầu, làm tăng niềm tin của giới đầu tư quốc tế, nhờ đó Việt Nam đẩy nhanh cải cách kinh tế, thực hiện tốt chính sách ngoại giao mở, đa dạng hóa, đa phương hóa. Được hưởng quá trình phát triển, giao lưu về vốn, công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Có thời gian điều chỉnh và tạo bước thay đổi trong nền kinh tế nhờ thời gian cam kết tự do hóa thương mại được kéo dài hơn (2020 so với 2010). Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu nhờ sản phẩm xuất khẩu có giá thành hạ hơn (gần 70% nguyên liệu làm hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguồn gốc nhập khẩu mà nguyên liệu nhập giá hạ hơn nhờ Việt Nam giảm thuế nhập khẩu). Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp thị nhanh và ít tốn kém nhờ tham gia các diễn đàn của APEC về doanh nghiệp vừa và nhỏ, diễn đàn xúc tiến thương mại..., được tạo điều kiện tham gia các hội chợ, hội thảo lớn của khu vực. Đương nhiên, bên cạnh thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn trong chặng đường hội nhập APEC: Phải tiếp cận với các doanh nghiệp có trình độ phát triển cao, phải cạnh tranh với những nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật, Canada... Giảm hàng rào thuế quan trong khi cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô, nông thủy sản ít qua chế biến là những mặt hàng giảm thuế rất chậm tại đa số các nước thành viên APEC. Sản phẩm của Việt Nam khó xâm nhập thị trường các nước APEC do đa số hệ thống quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn ISO và chất lượng sản phẩm xuất khẩu chưa cao. Môi trường đầu tư của Việt Nam kém hấp dẫn so với các nước thành viên APEC: nền kinh tế thị trường phân tán, chưa hoàn chỉnh, thủ tục hành chính phức tạp, cơ chế quản lý đầu tư thiếu đồng bộ, cơ sở hạ tầng kém. 3.3. Hội nhập WTO Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - tiền thân của WTO từ năm 1947 đến hết năm 1994) vào năm 1994. Đầu năm 1995, Chính phủ Việt Nam gửi đơn tới Tổng Giám đốc WTO xin gia nhập tổ chức này theo điều 12 của Hiệp định WTO. Ngay sau khi nhận đơn của Việt Nam, Đại hội đồng của WTO đã thành lập nhóm làm việc gồm đại diện của các quốc gia thương mại chính (như Mỹ, Canada, Nhật Bản, EU) và các quốc gia khác có lợi ích liên quan đến việc Việt Nam sẽ gia nhập WTO. Về phía Việt Nam, sau khi nộp đơn, đã gấp rút chuẩn bị và đến tháng 8/1995 đã đệ trình lên WTO Bản ghi nhớ, còn gọi là Bản bị vong lục, về cơ chế ngoại thương của Việt Nam. Bản ghi nhớ đã trình bày rõ các chương trình quốc gia liên quan đến thuế, các hạn chế phi thuế quan, các quy định về xuất nhập khẩu, kiểm soát ngoại hối, các quy định về chính sách đầu tư, về lĩnh vực dịch vụ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, và về các bước tự do hóa dần dần thương mại ở Việt Nam trong tương lai. Từ khi nộp đơn gia nhập đến nay, Việt Nam phải trả lời 1.500 câu hỏi, giải trình về tình trạng minh bạch hóa chính sách với các nước thành viên Ban công tác của WTO và đã trải qua nhiều vòng đàm phán song phương với Ban công tác của WTO cùng với các quốc gia khu vực là thành viên của WTO. Việt Nam cũng đã và đang bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiếp cận dần các định chế của WTO nhằm tạo lập một cách có hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động thương mại và đầu tư. Cụ thể là Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài (11.1996), Luật thương mại (1997), Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng (1997), Luật sửa đổi, bổ sung Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thuế xuất nhập khẩu (5/1998), Nghị định về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước... Cho đến nay, Việt Nam đã thực sự hoàn tất về cơ bản giai đoạn minh bạch hóa chính sách và ở vào giai đoạn đàm phán rất quan trọng về thực chất "mở cửa thị trường" một cách toàn diện, thực hiện cam kết quốc tế thông qua việc gấp rút tiến hành Đề án quốc gia nghiên cứu sức cạnh tranh của một số loại hàng hóa và dịch vụ Việt Nam, hoàn tất Chương trình hành động của Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tế mà một trong những nội dung quan trọng nhất là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tổng Giám đốc WTO - tiến sĩ Supachai Panitchpakdi đã phát biểu: "Tôi cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc tranh thủ những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, đặc biệt là việc trở thành thành viên WTO". Giám đốc ủy ban Thương mại của EU Antonio Parosy cho rằng bản chào mới nhất của Việt Nam mang tính thực tế hơn với khung biểu thuế được hạ thấp hơn cùng mức độ mở cửa thị trường rộng hơn. Nguyên tắc chung của WTO về đối xử quốc gia buộc quy định giữa các nước phải giống nhau, không được phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, phải xem xét ở một số doanh nghiệp để loại bỏ tất cả những ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp Nhà nước. Việt Nam đã có quy định về áp dụng đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế (theo Pháp lệnh công bố ngày 7/6/2002) nhằm vào nguyên tắc nêu trên. Việt Nam là nước đang phát triển nên có thuận lợi là được duy trì hệ thống bảo hộ như đã dành cho các nước kém phát triển nhất của WTO được hưởng, riêng với các nước EU, Việt Nam còn có thể được hưởng hệ thống bảo hộ ngoại lệ này khoảng 20 năm nữa; cũng như được phép duy trì các loại trợ cấp vốn bị cấm đối với các nước thành viên WTO, kể cả trợ cấp xuất khẩu. Việt Nam còn được 10 năm nữa để chuẩn bị cho chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, bảo hộ bí mật thương mại, quyền tác giả, nhãn hiệu... là những lĩnh vực Việt Nam vốn chưa chuẩn bị tốt, nhất là đối với các sản phẩm thực phẩm, hóa chất và dược phẩm. Một chính sách rõ ràng đối với Việt Nam hiện nay trước hết là đối với lĩnh vực tài chính vốn đóng vai trò quan trọng trong tất cả các hoạt động kinh tế bao gồm xuất nhập khẩu, du lịch, an ninh tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Theo ý kiến các chuyên gia nước ngoài, những thuận lợi và thách thức chủ yếu khi Việt Nam gia nhập WTO là: *Thuận lợi: Hưởng đối xử tối huệ quốc (MFN) vô điều kiện. Thuế nhập khẩu vào các nước WTO sẽ giảm đáng kể. Được hưởng một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại khi có tranh chấp với các nước khác. Được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) vì là nước đang phát triển. Vị thế thương mại và kinh tế của Việt Nam được nâng cao, vì đây là khu vực chiếm 90% khối lượng thương mại toàn cầu. *Thách thức Mở cửa thị trường nội địa trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn... Giảm thuế nhập khẩu. Chính sách cần thiết để thực thi việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cơ chế chính sách đối với khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp tục cải cách theo đòi hỏi của WTO. Cạnh tranh với các nền kinh tế mạnh ngay tại thị trường nội địa. III. Những lợi ích mà một quốc gia có được khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế Trong bối cảnh khi mà mỗi quốc gia đều nỗ lực trong việc phát triển kinh tế đất nước thì vấn đề hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu khách quan. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập với mục tiêu riêng của mình. Đối với các nước phát triển, khi tham gia vào các quá trình liên kết kinh tế quốc tế - mà biểu hiện rõ nhất là các hoạt động kinh doanh của các công ty đa quốc gia, mục tiêu chính của họ là mở rộng thị trường tiêu thụ và đầu tư, vượt qua rào cản về chính sách hạn chế thương mại của các nước kém phát triển, tận dụng những lợi thế so sánh của các nước kém phát triển nhằm xuất khẩu vốn và công nghệ. Đối với các nước đang phát triển, mục tiêu chính lại là tăng cường giao lưu và hợp tác kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước mình trên thị trường thế giới bằng cách tận dụng những lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên. Đồng thời, hội nhập kinh tế còn nhằm mục tiêu không kém phần quan trọng là thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như khoa học công nghệ từ các nước tiên tiến để phát triển kinh tế quốc gia. Hội nhập kinh tế cũng mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia tham gia vào quá trình Hội nhập ở các điểm sau: Một là: Tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước thành viên trong liên minh với các nước, các khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành trước hết là công nghiệp trong nước có chi phí cao bằng những ngành có chi phí thấp hơn. Cũng trong điều kiện này lợi ích của người tiêu dùng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước khác đưa vào có giá thấp hơn. Hai là, liên kết kinh tế quốc tế hướng tới việc thực hiện tự do hoá thương mại, tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ các quốc gia khác. Đồng thời các quốc gia cũng có thể phát triển công nghệ mới thông qua việc liên kết nghiên cứu khoa học, sử dụng các thành tựu khoa học của nhau và đưa vào triển khai ứng dụng trong thực tế. Ngoài ra liên kết kinh tế quốc tế còn đạt được một số hiệu quả phúc lợi khác như: tiết kiệm chi phí quản lý do loại bỏ được các biện pháp kiểm tra tài chính ở biên giới, thủ tục Hải quan… Các liên kết kinh tế quốc tế sẽ đạt được những thuận lợi lớn hơn trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế với phần còn lại của thế giới. Bên cạnh những lợi ích trên cũng phải nhìn nhận những lợi ích mà các tổ chức kinh tế đem lại cho các nước thành viên trong trạng thái vận động của nó. Đó là những lợi ích do việc thúc đẩy cạnh tranh trên quy mô quốc tế, tạo khả năng đạt được quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất, khuyến khích mở rộng đầu tư nước ngoài và cho phép sử dụng triệt để và hợp lý hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, hội nhập đã và đang mang lại cho kinh tế cả các nước phát triển cũng như đang phát triển sự phát triển nhanh chóng, tạo luồng sinh khí mới cho kinh tế toàn thế giới. Nếu không muốn đứng ngoài dòng chảy của thời đại, bị cô lập và tụt hậu về kinh tế, không còn cách nào khác là phải tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nói tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay đã và đang tạo điều kiện gia tăng kim ngạch buôn bán giữa các quốc gia, rút ngắn khoảng cách địa lý, thu hẹp thị trường. Các quốc gia đều nỗ lực khai thác lợi thế của toàn cầu hoá, tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, và dù muốn hay không đều sử dụng nó như một công cụ nhằm phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay, không một ai có thể phủ nhận ý nghĩa và tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển và hưng thịnh của mỗi quốc gia bởi hội nhập không còn mang nghĩa hẹp được sử dụng cho các nước kém và đang phát triển nữa, ngay cả các nước có nền kinh tế tiên tiến phát triển nếu không mở cửa giao lưu với thế giới bên ngoài cũng sẽ nhanh chóng bị cô lập và tụt hậu, đặc biệt trong thời đại cách mạng công nghệ thông tin diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Do vậy, hội nhập không chỉ có ý nghĩa bắt kịp thời đại, theo kịp sự phát triển của nhân loại mà nó còn mang ý nghĩa sống còn đối với mỗi quốc gia trong việc phát triển kinh tế đất nước, đưa đất nước tiến cùng hơi thở của thời đại. Chương II Mối Quan hệ giữa Hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh xuất nhập khẩu của Việt Nam I. Quan điểm của Đảng và nhà nước về Hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan của sự phát triển trong thời đại hiện nay mà không có một quốc gia nào có thể đứng ngoài nếu không muốn bị tụt hậu, cô lập với thế giới và thời đại. Chính vì vậy, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về Hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói nghị quyết 07 đã được ban hành vào một thời điểm rất đặc biệt, xét cả về hoàn cảnh trong nước cũng như bối cảnh quốc tế. Trên trường quốc tế, xu thế toàn cầu hoá đã được khẳng định tại Hội nghị Bộ trưởng WTO được tổ chức tại Doha với việc 142 Bộ trưởng Thương mại ra tuyên bố chung chính thức phát động vòng đàm phán mới. Bất chấp những bất đồng quan điểm và những khó khăn trước mắt về kinh tế, các quốc gia đều nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải tiếp tục tiến trình phát triển bền vững thông qua tự do hoá thương mại. Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế diễn ra rất phức tạp trong quan hệ quốc tế với những mưu đồ can thiệp sâu vào công việc nội bộ của các nước bằng nhiều thủ đoạn kinh tế cũng như chính trị của một số nước Tư bản phát triển, làm tăng thêm tính cần thiết phải khằng định lại vấn đề an ninh, độc lập, tự chủ trong hội nhập. Trong nước, năm 2001 là năm đầu tiên triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng IX và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001~2010. Do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản đã phải điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình mới, kể cả chỉ tiêu tăng trưởng và xuất khẩu.Vấn để thị trường cho hàng xuất khẩu càng trở nên bức xúc hơn. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 07 của Bộ chính trị đã kịp thời xác định mục tiêu, các quan điểm chỉ đạo, các nhiệm vụ cụ thể của tiến trình hội nhập nói chung và Hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. 1. Quan điểm chung Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng(1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà một trong những hướng quan trọng là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực nhằm củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Phát triển nền kinh tế mở hướng về xuất khẩu đồng thời nỗ lực sản xuất hàng nhập khẩu. Quan điểm trên đây đã được khẳng định lại trong tất cả các văn kiện Đại hội lần thứ VII, VIII, IX hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Để chỉ đạo cụ thể cũng như một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề Hội nhập, ngày 27/11/2001 Bộ chính trị đã ra nghị quyết số 07-NQ/TW về Hội nhập kinh tế quốc tế . Nội dung của nghị quyết gồm 2 phần: Phần thứ nhất là đánh giá về tình hình thực hiện chủ trương Hội nhập kinh tế quốc tế và phần thứ hai đề cập đến những nội dung của Hội nhập kinh tế quốc tế. Để triển khai thực hiện nghị quyết trên đây, Thủ tướng chính phủ cũng đã ban hành quyết định số 37/QĐ-TTg ngày 14/3/2002 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập Thứ nhất, chủ động hội nhập phải đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc. Việc chủ động tham gia phải dựa trên cơ sở có một tiềm năng nhất định, được chuẩn bị ở mức độ nhất định, có một tư thế và vị trí nhất định. Chủ động cũng bao hàm cả sự tự tin, có đường đi nước bước, không vội vàng hấp tấp nhưng cũng không chậm chạp để bỏ lỡ thời cơ. Chủ động còn có nghĩa là biết người, biết ta, làm việc phải nắm rõ tình hình trong nước cũng như quan hệ đối ngoại. Chủ động mang tính tích cực nhưng có bản lĩnh, thận trọng nhưng quyết đoán không để mất thời cơ. Như vậy, tham gia Hội nhập kinh tế quốc tế là để phát triển đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Hội nhập để nuôi dưỡng, làm tăng sức mạnh bên trong, bảo vệ an ninh và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Trong quá trình hội nhập về kinh tế, không thể không tính đến những quan hệ văn hoá-xã hội, sao cho hoà nhập nhưng không hoà tan, mở cửa mà không đánh mất mình. Hội nhập quốc tế dựa trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Thứ hai, hội nhập quốc tế phải dựa trên cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định về xã hội, không ngừng phát huy nội lực, phát triển nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng ngành và của mỗi doanh nghiệp. Muốn hội nhập, quan hệ kinh tế với bên ngoài phải đảm bảo vững chắc những tiền đề bên trong. Đó là Đảng lãnh đạo, hệ thống chính trị vững vàng, toàn dân đồng lòng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước ổn định. Tăng cường sức mạnh và tiềm lực kinh tế , phát triển kinh tế toàn diện ở tầng vĩ mô, đồng thời chú trọng đến từng cơ sở, từng doanh nghiệp tham gia hợp tác kinh tế, xuất khẩu hoặc liên doanh, sao cho mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp đều phải có sự chuẩn bị tốt, đảm bảo có thể cạnh tranh thắng lợi. Thứ ba, trong quá trình hội nhập phải kiên trì và giữ vững phương châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích quốc gia. Theo phương châm này, một mặt chúng ta cần kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích mà lẽ ra chúng ta phải có được, mặt khác chúng ta cũng phải chấp nhận chia sẻ lợi ích với các nước đối tác, tìm tiếng nói chung trong việc chia sẻ quyền lợi. Cũng theo phương châm này, trong khi hợp tác cần nắm vững nguyên tắc "vừa hợp tác vừa đấu tranh". Cùng với việc tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, chúng ta phải tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước nhằm hình thành những doanh nghiệp đủ mạnh, kinh doanh có hiệu quả, làm nòng cốt cho hợp tác kinh tế. Đồng thời các doanh nghiệp của nước ta phải liên kết với nhau, hình thành sức mạnh cộng đồng các doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của nhau và lợi ích của quốc gia, không để cho bên ngoài lợi dụng cạnh tranh trong nước để chia rẽ hoặc cạnh tranh khu vực để “ đục nước béo cò” thu lợi. Thứ tư, thực hiện nhất quán phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế không để các tập đoàn kinh tế nước ngoài thống lãnh, chiếm vị trí độc quyền ở bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế nước ta. Ngược lại, phải bằng mọi cách tạo ra sự cạnh tranh ngay giữa các đối tác nước ngoài khi kinh doanh ở nước ta để giúp các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi kinh nghiệm phát triển. Đa dạng hoá, đa phương hoá là phương cách hữu hựu để đảm bảo sự ủng hộ của các đối tác. Đây cũng là một yếu tố quan trọng để ta giành thế chủ động, sử dụng linh hoạt các đối tác khác nhau nhằm phục vụ mục tiêu phát triển cũng như đảm bảo lợi ích cho đất nước. Thứ năm, phải luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu của các thế lực thù địch, lợi dụng quan hệ kinh tế để xâm nhập, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, phá hoại, lật đổ chế độ. Thực tiễn cho thấy điều cơ bản có tính quyết định đảm bảo an ninh quốc gia là niềm tin, sự gắn bó của dân tộc với Đảng, với Nhà nước tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết. Cần thấy rõ rằng khi đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước phương Tây, có thể sẽ nảy sinh các vấn đề mới, phức tạp có liên quan đến vấn đề an ninh, do đó cần đặc biệt coi trọng những ngành, những vùng thuộc chiến lược an ninh quốc gia, những vị trí trọng yếu của quốc phòng, an ninh. Mặt khác, quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế cũng như sự đan xen lợi ích giữa nước ta với các nước, các tổ chức, các công ty nước ngoài khi thực hiện các quá trình kinh tế tuy có phức tạp nhưng nếu biết xử lý tốt cũng tạo ra yếu tố góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia. 3. Một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế Thứ nhất: Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất, nhất quán về Hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế Việt Nam, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai: Căn cứ vào nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội2001~2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đảm bảo cho hội nhập có hiệu quả. Trong khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông…là những lĩnh vực quan trọng mà ta còn yếu kém. Thứ 3: Chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành và sản phẩm dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trong nước cũng như trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiến hành điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế. Trong tiến trình hội nhập cần quan tâm`tranh thủ những tiến bộ mới của khoa học, công nghệ, không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp, cần ra sức cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng, với thông lệ quốc tế, phát triển mạnh cơ cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách bộ máy hành chính nhằm xây dựng Bộ máy Nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn. Thứ tư: Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự hoàn thành phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ, lao động, khoa học- công nghệ, vốn, bất động sản…;tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính ngân hàng. Thứ năm: Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng thông thạo nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những t iêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm vững kỹ năng thương thuyết và có trình độ tay nghề cao. Cùng với việc đào tạo nhân lực cần có chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài, bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo, với sở trường năng lực của từng người. Thứ sáu: Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại. Cũng như trong lĩnh vực đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng cùng có lợi, đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là nhiệm vụ hàng đầu. Thứ bảy: Gắn kết chủ trương Hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình hội nhập. Thứ tám: Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu Kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước. Thứ chín: Kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Mục tiêu của hội nhập Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Trước mắt thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển Kinh tế xã hội năm 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005. II. Tác động của Hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động Xuất nhập khẩu của Việt Nam Mục tiêu của quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là nhằm tạo ra những điều kiện kinh tế quốc tế thuận lợi hơn cho việc khai thác tối đa , khơi dậy tốt nhất các tiềm năng nội lực của đất nước đi đôi với việc tận dụng các nhân tố bên ngoài, nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế một cách có hiệu quả. Sự kết hợp của hai nhân tố này đã và đang tạo ra những cơ hội và thuận lợi cho sự phát triển kinh._.ng có tiềm năng và triển vọng phù hợp với xu hướng quốc tế như sản phẩm kỹ thuật điện, sản phẩm điện tử, máy công nghiệp, dịch vụ…Có như thế chất lượng cũng như hiệu quả kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp mới ổn định và hiệu quả dài lâu. 1.1 Khai thác hiệu quả nguồn lực của đất nước, tận dụng các thế mạnh sẵn có và khai thác các tiềm năng một cách có hiệu quả. Tiềm năng của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn , kỹ thuật, công nghệ, tổ chức quản lý kinh doanh…muốn kinh doanh thành công, các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình. ă Vốn: Các doanh nghiệp Việt Nam thường có quy mô vừa và nhỏ, do đó vốn luôn là một vấn để nan giải. Tuy nhiên, một doanh nghiệp biết kinh doanh là một doanh nghiệp không chỉ biết sử dụng vốn tự có của mình mà đồng thời phải linh hoạt sử dụng các nguồn vốn vay, vốn huy động được từ bên ngoài. Vốn cũng có thể được huy động từ chính đối tác kinh doanh thông qua việc cấp tín dụng của bạn hàng, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn đó như vốn của mình. Doanh nghiệp nào sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngoài nguồn vốn sẵn có thì cơ hội thành công của doanh nghiệp đó là trong tầm tay. ă Khoa học công nghệ: Bên cạnh yếu tố về vốn thì công nghệ cũng là một vấn đề nổi lên như là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất trực tiếp thì việc tăng cường đầu tư cho cho nó cũng là điều dễ hiểu đối với các doanh nghiệp. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp nên mạnh dạn đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong trường hợp không có điều kiện để đầu tư phát triển công nghệ mới nhất, doanh nghiệp cũng có thể tận dụng công nghệ sẵn có phục vụ cho mảng thị trường quen thuộc, nhu cầu đơn giản đồng thời tìm cách cải tiến công nghệ, đầu tư những công nghệ thuộc thế hệ thứ hai nhưng vẫn có hiệu quả ở Việt Nam, hoặc tìm kiếm đối tác có khả năng về công nghệ để liên doanh liên kết, tận dụng thế mạnh của nhau. Các doanh nghiệp cũng nên đầu tư cho việc nghiên cứu phát triển công nghệ của riêng mình, điều đó vừa tạo nên sự khác biệt đối với các đối thủ cạnh tranh, tạo ra nét đặc thù riêng có của hàng hoá vừa tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Đặc biệt khi tham gia vào thương mại quốc tế thì khoa học công nghệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ trong việc nâng cao giá trị hàng xuất khẩu mà còn quyết định đến khả năng chiếm lĩnh thị trường cũng như sự thành bại của doanh nghiệp. ă Kỹ năng quản lý: Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có được lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt, và giúp cho doanh nghiệp có được một vị thế tốt. Do vậy các doanh nghiệp nên tiếp tục đổi mới, đầu tư vào công nghệ tiên tiến vượt trội nhất để có thể đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, khoa học kỹ thuật công nghệ không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự thành công của doanh nghiệp mà kỹ năng quản lý tổ chức hoạt động xuất khẩu cũng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Trước tiên doanh nghiệp phải tìm ra được một phương thức quản lý tiên tiến và phù hợp với cơ cấu tổ chức, một đội ngũ các nhà quản trị có khả năng vận hành suôn sẻ mọi quyết định của tổ chức, đồng thời có thể tạo ra sự gắn kết giữa các thành viên, đảm bảo thành công cho mọi chiến lược kinh doanh. Việc đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý, chức năng và quyền hạn của các nhà quản trị được phân định rõ ràng. Sau khi đã có được một tổ chức quản lý phù hợp, doanh nghiệp có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu theo một quy trình hợp lý và hiệu quả. 1.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh Đa dạng hoá kinh doanh vừa để hạn chế rủi ro, vừa tận dụng hết những nguồn lực, đồng thời phục vụ được nhiều đối tượng, góp phần mở rộng thị trường. Nhất là trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, thị trường thế giới rộng lớn cũng đồng nghĩa với những biến động lớn và rủi ro nhiều, đối tượng phục vụ đa dạng. Với đà tự do hoá thương mại và đầu tư như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn tham gia vào thị trường thế giới, góp tiếng nói trong thương mại hàng hoá, thoả mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trên một phạm vi rộng lớn, với nhiều nền văn hoá đa dạng. Cũng chính vì vậy, để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường thế giới rộng lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải mở rộng phạm vi kinh doanh, đa dạng hoá các mặt hàng đồng thời đa dạng hoá các loại hình kinh doanh vì những lý do như đã nói ở trên. Tuy nhiên với một nền kinh tế non trẻ mới tham gia vào hội nhập chưa lâu, doanh nghiệp Việt Nam không thể thẳng bước tiến tới những lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải trường vốn hay quy mô đầu tư lớn, dàn trải được. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý đầu tư vào những ngành có quy mô vừa và nhỏ, đa dạng các chủng loại mặt hàng kinh doanh. Với những lĩnh vực có quy mô đầu tư vừa và nhỏ, doanh nghiệp có thể chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, thâm nhập vào các thị trường ngách, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Đối với hàng hoá xuất khẩu, không chỉ đòi hỏi chủng loại mặt hàng phải đa dạng mà phải bổ sung thường xuyên những chủng loại hàng mới, không ngừng đổi mới cơ cấu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống cần phát huy vai trò chủ lực, doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới nhóm mặt hàng mới. Việc chuyển giao chuyên môn hoá vào những mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp phong phú hơn. Ví dụ như mặt hàng thuỷ sản chế biến của Việt Nam, sau thời gian cải tiến từ xuất khẩu sơ chế sang chế biến, rồi chế biến sâu…đã tạo nên hiệu quả rất cao. Các doanh nghiệp khác có thể học tập kinh nghiệm từ các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Song song với việc kinh doanh xuất khẩu, doanh nghiệp đồng thời có thể tận dụng lợi thế am hiểu thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài, cầu của thị trường trong nước và khả năng cung ứng của thị trường nước ngoài, so sánh lợi thế mà những mặt hàng nhập khẩu có thể mang lại cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp do biết kết hợp hợp lý hai mảng này, không chỉ thành công trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá mà còn thành công trong việc mở rộng kinh doanh hàng nhập khẩu, tận dụng lợi thế của mình để gia tăng kim ngạch buôn bán hai chiều với nước đối tác. Nâng cao chất lượng hàng hoá Đa dạng hoá mặt hàng không chỉ có nghĩa là mở rộng danh mục mặt hàng mà điều cốt yếu quan trọng là phải không ngừng nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của mình. Hàng hoá muốn xuất khẩu không thể không chú ý đến chất lượng nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà cung đã vượt qua cầu thì chất lượng là một trong những vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất. Chất lượng cũng không chỉ thể hiện ở sản phẩm mà còn thể hiện qua bao bì, qua giá cả và các dịch vụ kèm theo… Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu phải hoàn thiện và đồng bộ trên tất cả các mặt. Doanh nghiệp cần phải chú ý quá trình vận động của hàng hoá từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng. Việc kiểm tra chất lượng, bảo quản dự trữ, đóng gói, vận chuyển đòi hỏi phải được thực hiện kỹ càng theo một quy trình cụ thể. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng bên trong của sản phẩm, các doanh nghiệp phải hết sức chú ý tới việc cải tiến mẫu mã, bao bì đóng gói vì một bao bì mới cũng có thể làm nên một sản phẩm mới. Việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng cách đẩy mạnh các dịch vụ cũng sẽ mang lại hiệu quả đáng kể vì một khi các sản phẩm có chất lượng, giá cả tương đương nhau, dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Đa dạng các loại hình kinh doanh Bên cạnh việc đa dạng các mặt hàng xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp cũng cần phải đa dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thường qua trung gian, xuất nhập khẩu uỷ thác, do vậy hiệu quả thường không cao mà lợi ích lại bị chia sẻ cho các đối tác. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, xuất khẩu trực tiếp. Ngoài ra còn có thể xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu, qua đó có thể đáp ứng nhu cầu phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá mà công ty đang kinh doanh, tiến hành trao đổi những hàng hoá có giá trị tương đương nhau. Doanh nghiệp có thể kết hợp đồng thời hai nghiệp vụ xuất và nhập cùng một lúc, phối hợp sử dụng linh hoạt các hình thức kinh doanh khác nhau với những điều kiện cụ thể sao cho có hiệu quả nhất. 1.3 áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến hiện đại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đi đôi với việc cải cách bộ máy tổ chức, quản lý, điều hành, doanh nghiệp cũng cần phải tiêu chuẩn hoá công tác quản lý, sản xuất kinh doanh bằng việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, HACCP, TQM. Đây cũng là một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của hàng hoá Việt Nam, khi mà các thị trường không còn dễ tính như trước, khả năng cạnh tranh không còn dừng lại ở giá rẻ mà phải đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị trường. Đối với doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm với môi trường thì việc áp dụng các tiêu chuẩn trở thành bắt buộc, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của mình. Do vậy, không còn cách nào khác là phải từng bước đáp ứng được các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu. Sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu của ta trong năm 2001, đầu năm 2002 hay như 10 tháng đầu năm 2003, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị mất thị trường là do nhiều sản phẩm của ta không đáp ứng được yêu cầu của nước nhập khẩu như rau quả, chè, thịt,… ngay ở thị trường nội địa, một số đặc sản như xoài, nhãn, vải cũng bị sụt giảm nghiêm trọng cho thấy chúng ta (doanh nghiệp) còn thiếu các biện pháp đồng bộ hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm mà một trong những biện pháp đó là đảm bảo tiêu chuẩn của hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần phải áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng được quốc tế thừa nhận, đạt được giấy chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng có tính chất quốc tế sẽ là tấm giấy thông hành cho hàng hoá Việt Nam gia nhập thị trường thế giới. 1.4 Tích cực chủ động tìm kiếm bạn hàng, thị trường Thị trường xuất là nơi tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, việc khai thác các thị trường của hầu hết các doanh nghiệp là chưa cao, điều này thể hiện ở việc cơ cấu thị trường còn quá nhỏ hẹp và mất cân đối. Các doanh nghiệp của ta chưa thâm nhập được thị trường thế giới một cách thực thụ. Xuất khẩu chủ yếu là qua trung gian, xuất khẩu với danh nghĩa một nước thứ 3 , điều này ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín và khả năng định vị sản phẩm- thị trường của hàng Việt Nam. Về nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam thường bị lệ thuộc vào các nhà cung cấp quen thuộc, chưa có thói quen tìm kiếm những nguồn hàng ổn định, với những điều kiện thuận lợi hơn. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược bạn hàng cho mình. Ngoài ý nghĩa đa dạng nhà cung cấp, ổn định nguồn hàng thì việc tìm kiếm đối tác tin cậy trong kinh doanh là vô cùng quan trọng, nhất là khi trình độ của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thất bại ngay từ những bước đi đầu tiên do không tìm được đối tác đáng tin cậy, bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị đưa vào thế bị động trong nhiều tình huống… 1.5 Đăng ký nhãn hiệu và thương hiệu ở trong và ngoài nước, đăng ký quyền sở hữu hợp pháp Trong điều kiện hội nhập kinh tế, thương hiệu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo lập chỗ đứng cũng như sự phát triển của doanh nghiệp. Khi hình thành thương hiệu cũng có nghĩa là doanh nghiệp tuyên bố sự có mặt của mình trên thị trường, và đó cũng là cơ sở để phát triển doanh nghiệp. Thương hiệu còn tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp khi có tranh chấp phát sinh trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Thương hiệu giúp cho khách hàng nhận biết và có thái độ tin cậy với sản phẩm, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị doanh nghiệp. Thương hiệu mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả hoạt động đồng thời thương hiệu cũng ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với khách hàng sử dụng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp. Thương mại quốc tế càng được mở rộng khách hàng càng có nhiều cơ hội để lựa chọn, vì vậy thương hiệu đáng tin cậy sẽ là lựa chọn của họ. Sự cần thiết tạo lập và giữ gìn thương hiệu đã được chứng minh qua nhiều trường hợp thực tế. Chẳng hạn hai chiếc áo sơ mi cùng do Công ty An Phước sản xuất và không có sự khác biệt đáng kể về chất liệu nhưng nếu mang nhãn hiệu An Phước thì có giá 218 nghìn đồng/ chiếc nhưng nếu mang nhãn hiệu Pierre Cardin thì có giá 526 nghìn đồng/ chiếc. Từ đó ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu như thế nào, và không thể chậm trễ hơn nữa, đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhận thức rõ điều này và phải ngay lập tức lên kế hoạch phát triển thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao. Trước hết, doanh nghiệp phải làm cho toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty nhận thức về vai trò của thương hiệu đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Phải chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nhằm tạo ra ý thức thường trực của mọi người về hình ảnh, uy tín doanh nghiệp và sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp. Tiếp theo, doanh nghiệp cần phải có chiến lược xây dựng thương hiệu trong chiến lược maketing. Nhấn mạnh hình ảnh sản phẩm Việt Nam chất lượng cao trong lòng người tiêu dùng nước ngoài. Không ngần ngại đầu tư cho việc thiết lập và quảng bá thương hiệu ở thị trường thế giới. Thứ ba, cần chú ý bảo hộ thương hiệu ở cả trong và ngoài nước.Tránh tình trạng bị mất thương hiệu ở một số nước như Vinataba, Trung Nguyên… Thứ tư, khi có được thương hiệu cần coi trọng việc bảo vệ, giữ gìn và phát triển thương hiệu một cách bền vững. Muốn như vậy doanh nghiệp cần coi trọng chữ tín trong kinh doanh bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng. Các doanh nghiệp cần phải hiểu rằng có được một thương hiệu mạnh đã có nhưng việc duy trì gìn giữ thương hiệu còn khó hơn. Cuối cùng, vì thương hiệu là tài sản vô hình vô giá của doanh nghiệp nên cần được quản lý chặt chẽ. Thương hiệu không đơn thuần chỉ là cái tên mà đó là ấn tượng, là khái niệm về chất lượng của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao uy tín thương hiệu vì sự phát triển bền vững của chính mình. Nói tóm lại, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, khi mà các thương hiệu của các sản phẩm Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường nội địa và thị trường thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam càng cần phải kết hợp chặt chẽ với Nhà Nước nhằm tạo dựng cho được hình ảnh chung cho hàng hoá Việt Nam và quảng bá hình ảnh đó với bạn bè quốc tế. Nếu không nhanh chóng và chủ động xây dựng thương hiệu , điều đó cũng có nghĩa các doanh nghiệp phó mặc hình ảnh sản phẩm Việt Nam cho đối thủ cạnh tranh khai thác một cách bất lợi và đặt Việt Nam vào thế khó khăn trong định đoạt quá trình phát triển kinh tế và hội nhập của mình. 1.6 Tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường. Đầu tư cho công tác nghiên cứu, tìm kiếm, nghiên cứu, phân tích, xử lý và dự báo thông tin thị trường Doanh nghiệp ngoại thương muốn định vị tên tuổi và nhãn hiệu hàng hoá của mình với người tiêu dùng nước ngoài không còn cách nào khác phải thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại như tham gia vào các hội chợ, triển lãm quốc tế, giới thiệu với khách hàng thế giới về sản phẩm của mình. Hoặc thông qua các hoạt động quảng cáo, tiếp thị để quảng bá sản phẩm của mình. Lẽ dĩ nhiên doanh nghiệp vẫn có thể bán được hàng của mình mà không cần thông qua các hình thức trên nếu sản phẩm của doanh nghiệp đã quá nổi tiếng trên thị trường nội địa và đã được khách hàng quốc tế biết đến từ trước nhưng liệu ở Việt Nam được mấy sản phẩm có được lợi thế như vậy; hoặc hàng hoá vẫn tiêu thụ được nếu bày bán ở đâu đó nhưng liệu cách đó có đủ để bù đắp những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để hàng hoá đến được người tiêu thụ không? Đó là còn chưa kể đến làm thế nào để có thể lựa chọn được sản phẩm thích hợp cho thị trường đó, và làm thế nào để sản phẩm được thị trường đó chấp nhận. Tất cả những công việc trên đã chiếm phân nửa hiệu quả của chiến lược kinh doanh xuất khẩu trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Một trong những yếu điểm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chính là sự yếu kém trong hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm Việt Nam với thị trường thế giới. Không chỉ thế các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu trầm trọng các thông tin thị trường, không đầu tư hoặc đầu tư rất ít cho nghiên cứu tìm kiếm thông tin thị trường, do vậy khả năng thu thập và xử lý thông tin thường yếu. Không những thế mối liên hệ giữa các doanh nghiệp với các cơ quan hỗ trợ của chính phủ như Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ thương mại, Sở thương mại, Tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài… lại rất yếu ớt, do đó không có được những thông tin thường xuyên về thị trường thế giới cũng như các kết quả nghiên cứu của các cơ quan này. Đó cũng là lý do tại sao các doanh nghiệp Việt Nam thường bị động trước những biến động của thị trường thế giới, và luôn chịu thiệt thòi trước những biến động tiêu cực. Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường, maketing quảng cáo và tăng cường liên kết với các cơ quan của chính phủ. Đào tạo những cán bộ nghiên cứu thị trường, có khả năng thu thập, phân tích và xử lý thông tin, giúp công ty hoạch định chiến lược một cách hợp lý hơn trước cũng như sau khi xâm nhập thị trường, quyết định cặp sản phẩm - thị trường tối ưu, đồng thời giúp doanh nghiệp tránh được những biến động không có lợi. 1.7 Tham gia và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội ngành nghề. Người Việt Nam ta có câu: "Buôn có bạn, bán có phường", cho thấy ngay từ ngày xa xưa chúng ta đã biết được tầm quan trọng của liên kết trong kinh doanh. Nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà các hiệp hội kinh tế khu vực cũng như của thế giới phát triển nhanh chóng và ngày càng tỏ rõ vai trò to lớn trong việc bảo vệ quyền lợi của các thành viên. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tập hợp nhau lại trong các hiệp hội ngành nghề, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội, làm cho các hiệp hội thực sự trở thành tổ chức có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động thương mại cũng như các hoạt động phi thương mại khác. Các tổ chức này có chức năng cung cấp và tư vấn các thông tin thị trường, thông tin pháp luật cũng như các phong tục tập quán, thói quen thương mại và xử lý các thông tin thị trường một cách tốt nhất. Hiệp hội cũng là nơi mà các doanh nghiệp chia sẻ kinh nghiệm cho nhau, tránh những xung đột không đáng có. Hơn nữa Các hiệp hội còn hoạt động như là cầu nối giữa Nhà Nước và Doanh nghiệp, vì vậy các doanh nghiệp cần phải tích cực tham gia vào các hiệp hội, làm cho mối quan hệ Nhà Nước - Hiệp Hội - Doanh nghiệp thực sự được gắn kết. 2) Tập trung xây dựng chiến lược kinh doanh và tổ chức thực hiện vì mục tiêu phát triển bền vững Một doanh nghiệp dù mạnh như thế nào chăng nữa, nếu không có một chiến lược kinh doanh hợp lý và một kế hoạch hành động được chuẩn bị chu đáo thì cũng khó có thể thành công trên thị trường được. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phải phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp, mục tiêu đó có thể là lợi nhuận, cũng có thể là mở rộng thị trường, cũng có thể là cả hai, tuy nhiên, mục tiêu đó phải là mục tiêu có tính chiến lược, vì sự phát triển bền vững của chính doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, chiến lược kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn phải là chiên lược có tầm nhìn xa trông rộng, đón đầu được xu hướng thay đổi của nhu cầu thị trường khu vực và thế giới. Trên cơ sở đó thực hiện việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Doanh nghiệp cũng cần phải đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu và triển khai, bởi đó là yếu tố trực tiếp mang lại thành công cho chiến lược xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp. Lựa chọn và hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh xuất (nhập) khẩu: Trước hết doanh nghiệp cần phải xác định mục tiêu, tham vọng và khả năng thực hiện mục tiêu, tham vọng của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp cũng như thời cơ và thách thức trên thị trường, căn cứ vào mục tiêu đã định ra, doanh nghiệp lựa chọn và hoạch định một chiến lược kinh doanh xuất khẩu phù hợp, tại giai đoạn này doanh nghiệp phải trả lời cho được các câu hỏi sau: -Sản phẩm hàng hoá nào được lựa chọn để xuất khẩu, có cần phải thích ứng những tính năng của hàng hoá với thị trường đối tượng? -Thị trường nào được lựa chọn cho chiến lược lần này? Có thể lựa chọn trên cơ sở nước hay khu vực? -Trên thị trường đã chọn có những đặc trưng gì? Văn hoá, tập quán, chính sách kiểm soát xuất nhập khẩu, mức độ liên minh của thị trường đối tượng với thị trường khu vực? -Bằng cách nào chúng ta có thể xác định được giá cho những hàng hoá xuất khẩu của mình, phương pháp xác định giá là gì? -Quy trình nghiệp vụ có đặc thù gì, vận tải, giao nhận, bảo hiểm và các điều kiện xã hội khác? -Khung thời gian tiến hành các nghiệp vụ xuất khẩu của hàng hoá đến thị trường đối tượng? - Các nguồn lực nào doanh nghiệp sẽ tập trung cho hoạt động xuất nhập khẩu? Con người, vốn, phân công nhiệm vụ, quy trình duyệt các phương án đột xuất, thể chế phản ứng trước những thay đổi của thị trường. -Thời gian và tài chính dành cho chiến lược xuất khẩu này. Xác định cặp sản phẩm thị trường tối ưu Sau khi có được một chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu, một lần nữa doanh nghiệp ngoại thương lại phải dựa trên cơ sở thực tế của doanh nghiệp, khả năng đáp ứng của mình và trên cơ sở nghiên cứu phân tích dự và dự đoán thị trường, xác định cho được cặp sản phẩm thị trường tối ưu. Nhiều khi việc cố gắng mở rộng kinh doanh làm cho phạm vi thị trường và khối lượng tiêu thụ bị thu hẹp lại, vị vậy phải luôn định vị được thị trường cụ thể, dễ dàng thích hợp với sản phẩm của doanh nghiệp nhất. Đó phải là thị trường tập trung một khối lượng lớn người tiêu dùng có nhu cầu đối với sản phẩm của công ty, ngoài ra đó còn phải là một thị trường có triển vọng phát triển và việc thâm nhập không quá khó khăn.Trong chiến lược xuất khẩu, thì việc xác định và lựa chọn cặp sản phẩm - thị trường tối ưu sẽ quyết định hiệu quả của hoạt động này. Đây là một trong những đặc thù của chiến lược xuất khẩu so với các chiến lược kinh doanh khác, việc xác lập cặp sản phẩm thị trường đúng đắn sẽ đảm bảo tính khả thi của chiến lược kinh doanh xuất khẩu. Phân bổ và bố trí nguồn lực cho chiến lược kinh doanh, đồng thời đánh giá và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch cũng như tính khả thi của chiến lược. Việc bố trí và phân bổ nguồn lực tưởng như là đơn giản nhưng trên thực tế nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thất bại trong chiến lược kinh doanh của mình, đặc biệt ở khi đàm phán với đối tác nước ngoài (nhân lực) và khi triển khai thực hiện (tài lực) đã làm ảnh hưởng rất nhiều hiệu quả kinh doanh nói chung của công ty và đối với chiến lược mà doanh nghiệp đang theo đuổi nói riêng. Chuẩn bị nguồn nhân lực và bố trí hợp lý theo đúng khả năng chuyên môn của từng người là hết sức quan trọng để đảm bảo cho kế hoạch được thực hiện đúng hướng. Chuẩn bị nguồn tài chính vững mạnh để có thể đảm bảo cho kế hoạch kinh doanh được liên tục không bị ngắt quãng, đồng thời có thể ứng phó nhanh với những tình huống xấu có thể xảy ra. Cuối cùng, một việc không thể thiếu là kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện. Các doanh nghiệp không được phép thờ ơ coi thường việc kiểm tra thường xuyên, hay quan liêu trong việc đánh giá các kết quả đạt hay chưa đạt được, nâng cao thành tích, giảm nhẹ những thất bại. Chỉ có thường xuyên kiểm tra nắm bắt tình hình, doanh nghiệp mới có thể điều chỉnh kế hoạch hành động của mình cho phù hợp với điều kiện thực tế. Và cũng chỉ bằng cách kiểm tra nghiêm túc, tìm ra nguyên nhân cốt lõi, thực sự của vấn đề doanh nghiệp cũng mới có thể tìm ra được giải pháp khắc phục đồng thời rút kinh nghiệm cho những kế hoạch tiếp theo. 3) Đào tạo nguồn nhân lực Con người chính là nhân tố quan trọng nhất trong tất cả những nhân tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Bởi con người chính là mục tiêu hướng tới để thoả mãn. Ngày nay, khi nhân loại đang tiến dần đến nền văn minh hậu công nghiệp - nền văn minh Tri Thức, thì con người, là chủ nhân của thế giới văn minh đó càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trở thành vấn đề sống còn quyết định sự phát triển của tất cả các quốc gia, của từng doanh nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, khi doanh nghiệp phải tiếp xúc với những đối tác, những khách hàng khác nhau về văn hoá và trình độ phát triển thì vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trở nên bức thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho các tài năng trẻ được phát triển, cung cấp cho họ những điều kiện làm việc tốt nhất có thể và quan trọng hơn cả là chính sách ưu đãi người tài. Đào tạo đội ngũ nhân viên có khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh quốc tế. Xây dựng một đội ngũ nhân viên có tinh thần tập thể, nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, am hiểu thị trường trong nước cũng như quốc tế, am hiểu các phong tục tập quán cũng như thói quen tiêu thụ của các thị trường khác nhau, tinh thông nghiêp vụ, giỏi ngoại ngữ, năng động nhiệt tình và có ước mơ làm lợi cho doanh nghiệp, làm giàu cho tổ quốc làm trụ cột cho các cuộc đàm phán với đối tác nước ngoài cũng như các chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời, doanh nghiệp cần rèn luyện tác phong công nghiệp và thói quen làm việc tập thể cho người lao động song song với việc xây dựng văn hóa công ty, văn hoá kinh doanh. Đó chính là nền tảng tạo nên sức mạnh tập thể, là chỗ dựa vững chắc trước khi thực hiện bất kỳ một chiến lược kinh doanh nào, và là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Kết Luận Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp như hiện nay, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài nếu không muốn bị tụt hậu, bị đẩy ra khỏi dòng chảy của thời đại. Hội nhập kinh tế quốc tế là tham gia vào các quá trình kinh tế, thương mại và đầu tư. Hiểu rõ được bản chất và nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp chúng ta có được những bước đi đúng đắn và phù hợp với tình hình hiện tại, xây dựng được lộ trình hội nhập hợp lý. Hội nhập kinh tế quốc tế không phải là công việc một sớm một chiều, cũng không phải là việc của riêng ai, đó là công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, là việc của toàn Đảng, toàn dân. Bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, xu hướng tự do hoá và đầu tư diễn ra rộng khắp đang mang lại cho Việt Nam những cơ hội hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế, đuổi kịp các nước Tư Bản phát triển, mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, toàn cầu hoá cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều nguy cơ thách thức, bị tụt hậu xa hơn về kinh tế nếu không có một lộ trình hội nhập hợp lý, không biến được những thời cơ mà thời đại mang lại để phát triển kinh tế đất nước. Với một nước có xuất phát điểm thấp và mới chuyển đổi nền kinh tế như nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt một gánh nặng lên vai hoạt động xuất nhập khẩu-động lực phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam-nhân tố trực tiếp và chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ trên những yêu cầu khắt khe, buộc phải đổi mới, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của Việt Nam nói chung. tài liệu tham khảo Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Hội nhập kinh tế, thương mại của Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới Trường đại học ngoại thương. Việt Nam hội nhậpASEAN Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam-NXB Hà nội Đổi Mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Đại học kinh tế quốc dân- Ts Lê thị Anh Vân- NXB Lao động 2003 Việt Namvới tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Tập hợp các tác giả- NXB Thống kê 2003 Kinh tế Việt Nam 2002 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW- BXB Chính trị quốc gia. Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Kỷ yếu khoa học quốc gia- Đại học ngoại thương. Tổ chức quản lý nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu PGS Vũ Hữu Tửu- Đại học ngoại thương- NXB GD 2000 Những vấn đề của Toàn cầu hoá kinh tế TS Vũ văn Dân chủ biên- NXB KHXH 2001. Đổi mới quản lý kinh tế Trung Tâm Pháp - Việt đào tạo về quản lý - NXB Thống kê 2000. - Kinh tế 2002 - 2003 Việt Nam và thế giới Thời báo kinh tế Việt Nam. - Niên giám thống kê 2002. Tổng cụ thống kê- NXB Thống kê - Giáo trình Đại cương nghiệp vụ Hải Quan Trường đại học ngoại thương Quan hệ kinh tế quốc tế GS-PTS Tô xuân Dân, PTS Vũ Chí Lộc - NXB Hà Nội Giáo trình Kinh tế ngoại thương Bùi Xuân Lưu - NXB Giáo dục 1997 Kinh tế đối ngoại GS-TS Võ Thanh Thu - NXB Thống kê 2000 Toàn cầu hoá và hội nhập tế kinh của Việt Nam Vụ Tổng hợp kinh tế - Bộ ngoạigiao - NXB Chính Trị Quốc Gia. 1999 Nghị quyết 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế Quyết định 37/TTg Tạp chí cộng sản số 4, 7, 9, 16 (1999), số5, 12, 27 (2003) Những vấn đề Kinh Tế Thế Giới số 2-1999, số 4-2000; 6- 2001 Kinh Tế và Dự báo số 1, 12 2003 Nghiên cứu kinh tế số 296 2003 Thế giới Thương mại số 2 2003 Thương mại số 37- 2003 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan Le Thu Huong - Nhat 2.doc
Tài liệu liên quan