Lời nói đầu
Gần một thập kỷ tham gia vào ASEAN, tình hình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam diễn ra trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều thay đổi. Dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá, khu vực hóa và tự do hoá thương mại, kinh tế nước ta ngày càng gắn kết với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới với những cam kết và lịch trình cụ thể. Bối cảnh đó, nó không những tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi mới, mà cũng đặt ra nhiều thách thức mới cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội c
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN với phát triển kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa đất nước.
Là những nước láng giềng của nhau và cũng nằm trong khu vực Đông Nam á, quan hệ với các nước trong tổ chức ASEAN luôn giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Do đó tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Bên trong và bên ngoài khu vực, quan hệ Việt Nam ASEAN kể tự khi tổ chức này thành lập năm 1967 đến nay đã trải qua nhiều bước thăng trầm khác nhau, phản ánh các mối quan hệ quốc tế phức tạp ở những giai đoạn khác nhau của thời kỳ chiến tranh lạnh và sau chiến tranh lạnh.
Do nhân thức được tầm quan trọng của sự hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế khu vực Đông Nam á nói riêng, cũng như sự đóng góp của nó vào sự phát triển nền kinh tế – xã hội nước ta trong những năm qua cho nên em chọn đề tài “Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN với phát triển kinh tế nước ta”.
Với trình độ hiểu biết cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế cho nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo để học hỏi thêm và bổ sung cho bài viết được hoàn thiện hơn.
ChươngI
Sự cần thiết phảI hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế khu vực của Việt Nam trong quá trình phát triển
I. Một số kháI niệm.
1. Khái niệm về nền kinh tế thế giới
Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Ngày nay, nền kinh tế thế giới là một thực thể kinh tế đặc thù, duy nhất, có cơ cấu nhiều tần nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau. Các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới rất đa dạng, chúng không ngừng vận động và tác động lẫn nhau cả về mặt lượng và mặt chất. Theo cách tiếp cận hệ thống, nền kinh tế thế giới bao gồm 2 bộ phận cơ bản sau đây:
Bộ phận thứ nhất là các chủ thể kinh tế quốc tế: Đây chính là những đại diện cho nền kinh tế thế giới, chúng tác động qua lại lẫn nhau làm xuất hiện các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Bộ phận thứ hai là các quan hệ kinh tế quốc tê: Đây là bộ phận cốt nõi của nền kinh tế thế giới, chúng là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa các chủ thể kinh tế quốc tế.
2. Quan hệ kinh tế quốc tế:
Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ vật chất và tài chính, các quan hệ về kinh tế và khoa học – công nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra giữa các quốc gia cũng như với các tổ chức kinh tế quốc tế.
Nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế là rất rộng và đa dạng, trước hết phải kể đến các hoạt động sau đây:
Thương mại quốc tê: Bao gồm thương mại quốc tế hàng hoá hữu hình và thương mại quốc tế hàng hoá vô hình, hoạt động gia công thuê cho nước ngoài và thuê nươc ngoài gia công, hoạt động tái xuất khẩu, chuyển khẩu và nhập khẩu tại chỗ.
Hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học công nghệ: Bao gồm việc chuyên môn hoá và hợp tác hoá ở tầm quốc tế giữa các tổ chức kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó; hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, thiết kế, sáng chế, trong đào tạo cán bộ ..v..v..
Các dịch vụ thu ngoại tệ: Bao gồm các hoạt động như du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế .. .. ..
Hợp tác đầu tư quốc tế: Bao gồm việc đưa vốn ra nước ngoài và tiếp nhận vốn từ nước ngoài vào trong nước với các mục tiêu đem lại lợi ích cho các bên tham gia đầu tư.
3. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế khu vực ASEAN của Việt Nam.
a. Xu hướng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới
Nền kinh tế thế giới là một thực thể đa dạng, chúng vận động theo những xu hướng khách quan. Những xu hướng này chi phối sự vận động của nền kinh tế mỗi quốc gia. Nhận thức được những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định, chính sách phát triển kinh tế nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng của mỗi quốc gia.
Sự phát triển mang tính chất bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ đã gây nên sự đột biến trong tăng trưởng kinh tế, đồng thời làm cho cơ cấu của nền kinh tế mỗi quốc gia biến đổi sâu sắc, chuyển xã hội loài người sang một nền văn minh mới - nền văn minh “trí tuệ”. Khác với cuộc cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật trước đây, cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay đặc trưng bởi những phát minh khoa học đều trực tiếp dẫn đên sự hình thành các nguyên lý công nghệ mới, làm thay đổi về chất cách thức sản xuất chứ không chỉ đơn thuần về mặt công cụ sản xuất. Điều đó đặt ra con đường phát triển kinh tế mới cho mỗi quốc gia, đưa đến quan niệm mới về yếu tố và nguồn lực của sự phát triển, trong đó vai trò của con người có trình độ khoa học và công nghệ ngày càng có tính chất quyết định.
Nền kinh tế thế giới chuyển từ trạng thái lưỡng cực sang trạng thái đa cực với sự hình thành nhiều trung tâm kinh tế mới, xu hướng đối thoại và hợp tác đang thay cho xu hướng đối đầu và biệt lập, việc xuất hiện các vấn đề mang tính chất toàn cầu càng tăng cường vai trò cho các tổ chức kinh tế quốc tế. Do vậy các quốc gia phải vừa biết chủ động tham gia và khai thác các mặt tích cực, vừa biết đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực của quá trình này. Mặt khác sự cạnh tranh quốc tế phát triển với những hình thức mới nên mâu thuẫn giữa các cường quốc, các trung tâm kinh tế, các tập đoàn xuyên quốc gia ngày càng trở nên gay gắt.
b. Chiến lược hướng xuất khẩu:
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với tốc độ ngày càng cao làm cho nền kinh tế thế giới hình thành một chỉnh thể thống nhất trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, giữa chúng có sự tuỳ thuộc lẫn nhau. Quá trình quốc tế hoá diễn ra ở những cấp độ khác nhau trong tất cả các lĩnh vực như tổ chức sản xuất, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hoá - thể thao .vv.. điều đó đưa đến sự tất yếu phải mở cửa nền kinh tế mỗi quốc gia ra thị trường thế giới và phải tham gia vào phân công lao động quốc tế, phải coi thị trường thế giới vừa là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào và là nơi tiêu thụ các sản phẩm đầu ra cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Chính đây là cơ sở khách quan cho việc hình thành chính sách mở cửa hay chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của nhiều quốc gia.
c. Nước ta là một trong những nươc nằm trong vòng cung châu á - Thái Bình Dương với các quốc gia có nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, liên tục qua nhiều năm đang làm cho trung tâm của nền kinh tế thế giới dịch chuyển dần về khu vực này. Điều đó cũng tạo ra những cơ hội mới đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho các quốc gia tồn tại trong khu vực châu á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam và các nước ASEAN.
d. Đảm bảo an ninh khu vực.
Chương II
ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam
I. Quá trình hình thành và phát triển.
Hiệp hội các nước Đông Nam á được thành lập ngày 8 – 8 – 1967 sau khi bộ trưởng ngoại giao các nước in-do-ne-xi-a, Phi-lip-pin, Xinh-ga-bo và Thái Lan ký bản tuyên bố ASEAN (hay được gọi là tuyên bố Băng-cốc). Mưòi bảy năm sau, ngày 8-1-1984, Bru-nây Đa-ru-xa-lam được kết nạp vào ASEAN, đưa số thành viên của hiệp hội lên thành 6 nước.
ASEAN ra đời trong bối cảnh nội bộ từng nước trong khu vực và trên thế giới có nhiều biến động. ở Đông Nam á cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam phát triển, đẩy Mỹ vào thế ngày càng thất bại nặng nề. Các nước Đông Nam á đứng trước nhiều thách thức về chính trị, kinh tế trong nội bộ, đồng thời phải giải quyết những khó khăn, thậm chí cả những xung đột trong quan hệ giữa họ với nhau và sức ép từ bên ngoài. Trong tình hình đó, nhu cầu tập hợp nhau dưới hình thức một tổ chức để đối phó với những thách thức nêu trên càng trở nên cấp bách.
Tuyên bố ngày 8-8-1967 nêu 7 mục tiêu:
Thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam á hoà bình và thịnh vượng.
Thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của hiến chương Liên hợp quốc.
Thúc đẩy sự hợp tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học – kỹ thuật và hành chính.
Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu trong câc lĩnh vực giáo dục, chuyên môn và hành chính.
Cộng tác có hiệu quả hơn để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các ngành công nghiệp của nhau, mở rộng mậu dịch kể cả việc nghiên cứu các vấn đề về buôn bán hàng hoá giữa các nước, cải thiện các phương tiện giao thông, liên lạc và nâng cao mức sống của nhân dân.
Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam á.
Duy trì việc hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực, có tôn chỉ và mục đích tương tự và tìm kiếm các cách thức nhằm đạt được một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các tổ chức này.
Các nước thành viên ASEAN đều cho rằng sự hợp tác bình đẳng giữa các nước trong hiệp hội sẽ đem lại lợi ích chung cho mọi quốc gia, góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho hoà bình, ổn định và phồn vinh trên thế giới nói chung và khu vực ASEAN nói riêng.
Trong những năm qua, ASEAN đã thực hiện sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều hội nghị quan trọng đã đựơc tổ chức, nhiều văn kiện cơ bản gồm các hiệp ước, hiệp định, tuyên bố đã được ký kết như:
Tuyên bố Cu-a-la Lăm-pơ ngày 17-11-1971.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất năm 1976
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 2 năm 1984
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 năm 1987
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 năm 1992
Việt Nam và Lào tham gia hiệp ước Ba-li và trở thành quan sat viên ASEAN năm 1992
Diễn đàn khu vực ASEAN được thành lập vào tháng 7-1993.
II. cơ cấu tổ chức của ASEAN và nguyên tắc hoạt động
ASEAN là một tổ chức liên chính phủ. Cơ cấu tổ chức hợp tác của ASEAN thường xuyên được cải tổ cho phù hợp với tình hình. Có thể tóm tắt quá trình đó như sau:
1. Từ khi thành lập đến hội nghị thượng đỉnh Ba-li năm 1976
Cơ cấu tổ chức ban đầu của ASEAN được nên trong tuyên bố ASEAN năm 1967 bao gồm:
hội nghị bộ trưởng(AMM) được coi là cơ quan hoạch định chính sách cao nhất của hiệp hội bao gồm bộ trưởng ngoại giao của 5 nước thành viên, mỗi năm họp một lần, luân phiên giữa các nước theo thứ tự chữ cái tiếng anh của các nước.
uỷ ban thường trực: theo dõi việc thực hiện các quyết định chính sách của AMM và chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của ASEAN giữa các hội nghị AMM. Thành phần uỷ ban bao gồm chủ tịch là bộ trưởng ngoại giao các nước chủ nhà tổ chức hội nghị AMM và Đại sứ của các nước thành viên khác tại nước đó .
Ban thư ký ASEAN quốc gia: được lập ra ở mỗi nước thành viên, chịu trách nhiệm phối hợp về các vấn đề ASEAN trong nội bộ quốc gia và bảo đảm việc thực hiện các quyết định của AMM.
Các uỷ ban thường trực, uỷ ban đặc biệt hoặc ad hoc về các lĩnh vực hoặc vấn đề hợp tác cụ thể: đến đầu năm 1976, có 11 uỷ ban thường trực và 9 uỷ ban ad hoc đã được thành lập
2. Thời kỳ sau hội nghị thượng đỉnh Ba-li năm 1976
Sau hội nghị thượng đỉnh Ba-li đã có những thay đổi lớn trong bộ máy tổ chức của ASEAN, nhưng 5 hội nghị bộ trưởng khác cũng đã được thiết lập để thảo luận và thông qua các chương trình hợp tác của ASEAN trên các lĩnh vực này, tương ứng là:
Hội nghị bộ trưởng kinh tế
Hội nghị bộ trưởng lao động
Hội nghị bộ trưởng phụ trách phúc lợi xã hội
Hội nghị bộ trưởng giáo dục
Hội nghị bộ trưởng thông tin
Trong số các hội nghị trên, hội nghị bộ trưởng kinh tế (AEM) có tầm quan trọng lớn nhất.
Tất cả các uỷ ban thường trực và uỷ ban ad hoc trước đó đã được tổ chức lại thành 9 uỷ ban sau:
Uỷ ban về công nghiệp, khoáng sản và năng lượng;
Uỷ ban về thương mại và dịch vụ;
Uỷ ban về lương thực, nông nghiệp và lâm nghiệp;
Uỷ ban về tài chính và ngân hàng;
Uỷ ban về vận tải và liên lạc;
Uỷ ban về ngân sách;
Uỷ ban về phát triển xã hội;
Uỷ ban vê văn hoá thông tin;
Uỷ ban về khoa học kỹ thuật;
Ngoài ra còn có một số tiểu ban đã đựơc thành lập nhằm bổ trợ cho các uỷ ban nói trên giải quyết những vấn đề cụ thể.
Sau 9 năm hoạt động, ASEAN mới quyết định thành lập ban thư ký ASEAN do một tổng thư ký đứng đầu. Tổng thư ký do các bộ trưởng ngoại giao ASEAN bổ nhiệm cho nhiệm kỳ 2 năm trên cơ sở luân phiên theo trình tự chữ cái tên nước. Ban thư ký có trụ sở o Gia-các-ta (In-do-ne-xi-a)
3. Thời kỳ sau Hội nghị thượng đỉnh Xinh-ga-po năm 1992
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Xinh-ga-po năm 1992 đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình cải cách tổ chức bộ máy của ASEAN.
Hiện nay cơ cấu tổ chức của ASEAN như sau:
a. Cơ quan hoạch định chính sách.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN.
Đây là diễn đàn quan trọng nhất của ASEAN lần thứ 4 họp tại Xinh-ga-po năm 1992, những người đứng đầu chính phủ ASEAN họp chính thức 3 năm một lần trên nguyên tắc luân phiên theo chữ cái tên nước; ngoài ra có thể họp không chính thức ít nhất một lần trong khoảng thời gian 3 năm đó để đề ra phương hướng và chính sách chung cho hoạt động của ASEAN và đưa ra quyết định về các vấn đề lớn.
Hội nghị bộ trưởng ASEAN (AMM)
AMM là hội nghị hàng năm của các bộ trưởng ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và quyết định các chính sách của ASEAN. Sau hội nghị thượng đỉnh ASEAN, hội nghị bộ trưởng ASEAN là cơ quan hoạch định chính sách cao nhất. AMM được tổ chức ít nhất mỗi năm một lần trên nguyên tắc luân phiên giữa các nước thành viên theo trật tự chữ cái của tên nước. Tại AMM, các ngoại trưởng ASEAN thảo luận những vấn đề chính trị khu vực và quốc tế, phát triển xã hội, văn hoá và phương hướng hoạt động của ASEAN.
- Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM).
Cũng như AMM, AEM họp chính thức hàng năm. ngoài ra AEM có thể họp không chính thức khi cần thiết nhằm chỉ đạo các mặt hợp tác kinh tế trong ASEAN. AEM có trách nhiệm báo cáo công việc lên cho những người đứng đầu chính phủ ASEAN tại các hội nghị thượng đỉnh.
Trong AEM có hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 năm 1992 tại Xinh-ga-po để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
Hội nghị bộ trưởng các ngành.
Hội nghị bộ trưởng của mỗi ngành trong hợp tác kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong nghành cụ thể đó. Hiện nay có hội nghị bộ trưởng năng lượng, hội nghị bộ trưởng nông nghiệp, lâm nghiệp. Các hội nghị bộ trưởng ngành có trách nhiệm báo cáo lên AEM
Hội nghị liên bộ trưởng (JMM)
Được thành lập tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ 3 ở Ma-ni-la năm 1978. JMM bao gồm các bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng kinh tế ASEAN, dưới sự đồng chủ toạ của chủ tịch AMM và chủ tịch AEM, JMM có thể được triệu tập theo yêu cầu của bộ trưởng ngoại giao hay bộ trưởng kinh tế để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN.
Tổng thư ký ASEAN.
Được những người đứng đầu chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến nghị của hội nghị AMM với nhiệm kỳ 5 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng không quá một nhiệm kỳ nữa.
b. Các uỷ ban của ASEAN.
Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC)
ASC bao gồm chủ tịch là bộ trưởng ngoại giao của nước đăng cai hội nghị AMM tiếp theo, tổng thư ký ASEAN và tổng vụ trưởng các ban thư ký ASEAN quốc gia. ASC họp 2 tháng một lần. ASC thực hiện các công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM
Các uỷ ban hợp tác chuyên ngành.
Có 6 uỷ ban hợp tác chuyên ngành hay còn gọi là uỷ ban phi kinh tế. Về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hoá và thông tin, môi trường, phát triển xã hội, kiểm soát ma tuý và các vấn đề về công chức. Các uỷ ban này xem xét và kiến nghị những vấn đề liên quan đến hợp tác của ASEAN về việc triển khai, chuyển giao công nghệ và nghiên cứu trên lĩnh vực cụ thể mà uỷ ban phụ trách, chủ tịch uỷ ban đựơc luân phiên giữa các thành viên. Mỗi uỷ ban đều lập ra các tiểu ban hoặc nhóm làm việc phụ trách các phần việc cụ thể.
c. Các ban thư ký ASEAN
- Ban thư ký ASEAN (quốc tê)
Ban thư ký ASEAN đựơc thành lập theo hiệp định ký tại hội nghị thượng đỉnh ký lần thứ nhất ở Ba-li năm 1976 để tăng cường sự phối hợp trong việc thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN.
Ban thư ký ASEAN quốc gia.
Mỗi nước thành viên ASEAN đều có ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy của bộ ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một tổng vụ trưởng phụ trách.
4. Nguyên tắc hoạt động
Sau gần ba thập kỷ tồn tại và phát triển, các nước thành viền ASEAN đã từng bước cùng nhau xây dựng và khẳng định các nguyên tắc chính làm cơ sở cho quan hệ trong nội bộ các nước thành viên và giữa các nước này với các nước khác trong và ngoài khu vực. Những nguyên tắc đó đã được phản ánh trong nhiều văn kiện được ASEAN thông qua, trong đó nổi bật là những nguyên tắc sau:
a. Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên và với bên ngoài.
Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN nhấn mạnh yêu cầu luôn luôn tuân thủ 6 nguyên tắc chính đã đựơc nêu trong hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á, ký tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thư i tạI Ba-li năm 1967 là:
Cùng tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc.
quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, mà không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài.
không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình.
không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực.
Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
b. Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội.
Nguyên tắc nhất trí, nghĩa là mọi quyết định về các vấn đề quan trọng chỉ đựơc coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình đàm phán lâu dài, nhưng bảo đảm được những lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là một nguyên tắc được áp dụng tại các cuộc họp ở mọi cấp và về mọi vấn đề của ASEAN.
Nguyên tắc bình đẳng thể hiện trên 2 mặt, thứ nhất là các nước ASEAN, không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi; thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho các cuộc họp được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần chữ cái tiếng anh.
Trên lĩnh vực hợp tác kinh tế, hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ký tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư ở Xinh-ga-po tháng 2-1992 nói rõ các nước ASEAN đã thoả thuận nguyên tắc 6-X, theo đó 2 hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu các nước còn lại chưa sẵn sàng tham gia, không cần phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số nguyên tắc tuy không thành văn, song mọi người đều hiểu, và tôn trọng áp dụng như: Nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ gìn bản sắc chung của Hiệp hội.. .. ..
III. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập ASEAN.
Sau 32 năm xây dựng và phát triển, đến nay ASEAN đã trở thành một khu vực có vị thế chính trị, tiềm năng kinh tế và nền văn hoá đầy bản sắc, có quan hệ với nhiều trung tâm kinh tế lớn và các khu vực khác trên thế giới. Việt Nam ra nhập ASEAN là một quyết định đúng đắn, kịp thời phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế giới và tình hình khu vực, là một mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại nói chung và quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng. Đây là cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức cần phải vượt qua.
1. Cơ hội khi Việt Nam ra nhập ASEAN.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, đã và đang tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và ngoài ASEAN. Đó là cơ hội để Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới.
Thứ nhất: Hội nhập ASEAN, Việt Nam có điều kiện tăng cường hợp tác kinh tế khu vực, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường, hội nhập với thế giới.
ASEAN là một thị trường lơn, với dân số hơn 500 triệu người, nhịp độ tăng trưởng hàng năm khá nhanh, khả năng GDP trên 35 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ và xuất khẩu tư bản lớn. Là thành viên chính thức, đầy đủ của ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để tăng cường quan hệ, hợp tác kinh tế thương mại với các nước trong hiệp hội. thông qua hoạt động hợp tác kinh tế, bước đầu 2 bên đã đạt đựơc những hiệu quả nhất định. Quan hệ kinh tê thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN gia tăng bình quân 26,8% năm và đã tạo ra những thị trường buôn bán sản phẩm mới. Chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam thu hút các nhà đầu tư ASEAN đã có những điều kiện thuận lợi để đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam đã thông qua các dự án liên doanh với các nước ASEAN để tăng thêm các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm trong một số ngành kinh tế như: công nghiệp chế biến, lâm hải sản, du lịch, dịch vụ .... Việt Nam cũng đã và đang tham gia theo lịch trình của AFTA. Đã cung cấp một danh sách những măt hàng giảm thuế và đã hoàn tất việc đưa và biểu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung. Việc tham gia AFTA của Việt Nam, tuy trước mắt có khó khăn, nhưng về lâu dài sẽ có lợi trong thúc đẩy việc hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực. Nước ta sẽ có điều kiện mở rộng buôn bán với thị trường các nước tư bản phát triển. Từ đó Việt Nam sẽ nhanh chóng hoà hợp vào môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế, ASEAN sẽ là cầu nối để Việt Nam tiếp cận các tổ chức kinh tế và các bạn hàng trong và ngoài khu vực, tham gia vào APEC, và chuẩn bị diều kiện để tham gia WTO ...
Thư hai: thông qua việc hội nhập khu vực và thế giới, nước ta có điều kiện tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, phát huy nguồn lực trong nước một cách mạnh mẽ hơn.
Hợp tác Việt Nam-ASEAN thông qua các chương trình, hiệp định, dự án trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, công nghệ và môi trường, văn hoá ... từ đó mà tăng cường đầu tư, nâng cao khả năng sản xuất, chế biến, tạo ra những sản phẩm có chất lượng, có khả năng cạnh tranh trong khu vực. Việt Nam và cả các nước ASEAN đều là những thị trường lớn của nhau, còn đầy tiềm năng và đang phát triển. Tuy có một số mặt hàng trùng nhau, song cả hai đều có điều kiện bổ xung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong một số mặt hàng nhất định như: Dầu lửa, sản xuất và xuất khẩu gạo, cao su .....Từ đó mà hàng loạt các chương trình hợp tác đã được hình thành, như phát triển thêm các khu vực kinh doanh hỗn hợp, thực hiện triển khai “chính sách nông nghiệp chung ASEAN” trên các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, trao đổi thông tin .... hợp tác và sử dụng nguồn nước sông mê - công.
ASEAN là một tổ chức có quan hệ rộng rãi và chặt chẽ với các cường quốc và tổ chức kinh tế thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, úc, Canada, EU ... nên khi gia nhập ASEAN, quan hệ Việt Nam với các nước trên sẽ tăng nên, từ đó chúng ta có thể mở rộng trao đổi hàng hoá, thu hút vốn đầu tư. Như vậy Việt Nam tham gia ASEAN sẽ có thêm một kênh mới để quan hệ với những nước và tổ chức kinh tế trên thế giới. Những năm qua, Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao vơi gần 200 nước, quan hệ thương mại với hơn 100 nước và lãnh thổ, ngày càng thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Kết quả là ta đã tăng được nguồn vốn đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất. Việc trao đổi hàng hoá giữa trong và ngoài nước, cạnh tranh sẽ là động lực thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn, nội lực của Việt Nam được tăng cường thêm một bước.
Thứ ba: Hội nhập khu vực, Việt Nam có điều kiện phát huy lợi thế so sánh, đồng thời khắc phục những hạn chế, tăng cường cạnh tranh và hợp tác của Việt Nam với các nước và các khu vực trên thế giới.
Giữa Việt Nam và các nước trong khối có những nét tương đồng về tài nguyên thiên nhiên, nông sản nhiệt đới, lao động .. khi hội nhập, ta có thể liên kết với các nước để cùng tạo ra những lợi thế chung cao hơn trong trao đổi với các khu vực khác, phát huy lợi thế so sánh trên thị trường thê giới.
ASEAN là một Hiệp hội bao gồm 10 nước, hết sức đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng kinh tê, thị trường.... Điều đó sẽ tạo điều kiện mới cho sự hợp tác, Việt Nam và thái Lan sẽ cùng hợp tác với nhau để xuất khẩu gạo phù hợp với đặc điểm của từng loại của từng nước. Malaysia sẽ cùng Việt Nam hợp tác xuất khẩu cao su. Khi AFTA được thực hiện đầy đủ sẽ cho phép các nước phát huy được sức mạnh của khu vực để cạnh tranh hợp tác với các thị trường tự do khác.
Thứ tư: Khi hội nhập ASEAN, Việt Nam sẽ học tập được những kinh nghiệm phong phú của các nước đi trước, tạo điều kiện để phát triển. Đó là các kinh nghiệm quản lý trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước, như trong lĩnh vực quan hệ mậu dịch Singapore và Malaysia; các kinh nghiệm của Thailan và Philippens về nông nghiệp và chế biến nông sản, kinh nghiêm của Singapo về tổ chức thị trường vốn, kinh nghiệm chế biến và xuất khẩu khoáng sản của Malaysia, Indonesia ... Các kinh nghiêm trong quan hệ tổ chức tài chính, tín dụng, thương mại quốc tế và các kinh nghiêm quản lý kinh vế vĩ mô, vi mô khác.
Thứ năm: Việt Nam hội nhập ASEAN còn có cơ hội về mặt chính trị – xã hội. Đó là việc tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên, củng cố hoà bình, ổn định và hạn chế, những nhân tố dẫn tới sự bất hoà, mất ổn định trong khu vực. Đông Nam á là nơi có nền văn hoá với nhiều nét tương đồng, gần gũi với Việt Nam. Vì vậy ra nhập ASEAN, ta có điều kiện tiếp thững tinh hoa văn hoá của từng nước, làm giàu thêm văn hoá của dân tộc. Việt Nam hội nhập ASEAN, nhưng không để đánh mất mình, hội nhập để phát triển một nước Việt Nam đạm đà bản sắc dân tộc.
2. Thách thức
Thứ nhất: Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN còn rất lớn, quan hệ trong một số lĩnh vực còn bất cập.
Các nước ASEAN, đến nay hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển từ nhiều thập kỷ qua, có môi trường thương mại và đầu tư quốc tế thuận lợi, là những nước đang chuyển hướng chiến lược từ việc xuất khẩu hàng hoá dựa trên nguyên liệu có sẵn và nhân công rẻ sang sản xuất và xuất khẩu hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật và chất lượng cao. Singapore là nước đi trước, gần đây các nước Malaysia, Thái Lan rồi đến Inđonêsia, Philippens cũng đã đầu tư vào những ngành có kỹ thuật cao để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Kinh tế của các nước ASEAN đã đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, mức bình quân thu nhập đầu người cao. Trước khủng hoảng, nước có thu nhập bình quân thấp là Inđônêsia cũng gấp 4 lần, còn nước cao nhất là Singapre gấp 50 lần bình quân thu nhập của Việt Nam. Cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trình độ thấp hơn các nước ASEAN, kết cấu hạ tầng, trình độ quản lý, tiếp thị còn yếu và thiếu, tỷ lệ tích luỹ của Viêt Nam trong GDP còn ở mức thấp. Tình hình thương mại quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến và phức tạp, tăng trưởng kinh tế của các nươc tư bản phát triển trậm lại, chính sách bảo hộ mậu dịch của các thị trường lớn như : Mỹ, Nhật, EU .... ngày càng chặt chẽ đã ảnh hưởng xấu đến việc tiêu thụ các sản phẩm truyền thống và hàng công nghiệp chế biến của ASEAN. Trong khi đó Việt Nam cũng cần bán những sản phẩm loại này. Mặt khác trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, các nước ASEAN đang tìm cách chuyển nhượng kỹ thuật, công nghệ xế chiều sang các nước trậm phát triển hơn.
Trong lĩnh vực quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN trong những năm gần đây đã khởi sắc, tốc độ và khối lượng đầu tư buôn bán hai bên đều tăng, song cũng có một số vấn đề cũng cần phải tính đến. Đó là quan hệ thương mại vẫn ở tình trạng cơ cấu giản đơn, xuất khẩu chủ yếu vẫn là nông sản sơ chế và nguyên liệu. Cán cân thương mại của Việt Nam với các nươc ASEAN còn mất cân đối lớn, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, trao đổi mậu dịch của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% giá trị ngoại thương của các nước ASEAN. Phần lớn các dự án đầu tư của ASEAN vào Việt Nam tập trung ở một số lĩnh vực như : Công nghiệp chế biến, nông, lâm, hải sản, dịch vụ và du lịch, với số vốn đầu tư nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng của các nứơc này. Điều này phản ảnh sức thu hút đầu tư của nước ta đối với các nhà đầu tư ASEAN chưa thật hấp dẫn, cần phải nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và giải pháp thiết thực để tạo điều kiện cho việc đầu tư nước ngoài nói chung và của ASEAN nói riêng.
Khó khăn rõ nhất của Việt Nam khi gia nhập ASEAN là phải tham gia vào AFTA, phải chấp nhận luật chơi, tuân thủ các quy định của hiệp ước thuế quan ưu đãi hiệu quả chung. Việc tham gia AFTA, Viêt Nam vừa có cơ hội, vừa có thách thức. Cơ hội vì Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào mạng lưới mậu dịch rộng lớn của ASEAN. Thách thức vì nền kinh tế sẽ bị đặt vào thế cạnh tranh không cân sức với các đối thủ mạnh hơn và có kinh nghiêm hơn. Trong điều kiện chênh lệch về trình độ, kỹ thuật, hàng hoá của Việt Nam tuy có cùng chất lưộng, mẫu mã, kiểu dáng, nhưng giá thành sản phẩm của Việt Nam cao hơn, do chi phí cao, điều kiện không có lợi trong môi trường cạnh tranh, ngược lại hàng của ASEAN sẽ chiếm lĩnh thị trường Việt nam do giá rẻ hơn, chính sách suất khẩu nhạy bén hơn. Khủng hoảng tiền tệ trong một số nước Đông Nam á vừa qua càng làm tăng thêm quan hệ bất lợi này về phía Việt Nam, nhất là đồng nội tệ của họ bị mất giá. Từ đó cho ta thấy, quan hệ Việt Nam ASEAN trong điều kiện như vậy sẽ tự nẩy sinh sự phân công lao động bất bình đẳng.
Kinh tế thị trường và cơ chế thị trường ở hầu hết các nước ASEAN đã được hình thành và phát triển từ nhiều thập kỷ qua, và đã có môi trường pháp lý tương đối hoàn chỉnh, với một thị trường đồng bộ, có quan hệ kinh tế – tài chính khá gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong khi Việt Nam mới quá độ sang kinh tế thị trường, cơ chế thị trường mới hình thành, còn sơ khai, hệ thống chính sách kinh tế chưa hoàn chỉnh, quả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35525.doc