a.Mở Đầu
Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá ,đó là mục tiêu hàng đầu của nước ta hiện nay .Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá thì việc huy động vốn là một vấn đề rát quan trọng ,có thể nói nó ảnh hưởng trực tiếp đế quá trình phát triển .Nhưng việc thực hiện vốn trong nước ta là một vấn đề khó khăn được đề ra cho nhà nước ,vì vậy trong bản đề án này chúng ta đề cập đến vấn đề vốn và huy động vốn
Trên thực tế vốn ở nước ta đang có nhiều bất cập như doa
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Ý nghĩa rút ra đối với việc quản lý các Doanh nghiệp và thực trạng quản lý, sử dụng vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp thì thiếu vón trong khi ngân hàng thừa vốn .Hay việc sử dụng vốn bừa bãi ,lãng phí vốn cách đáng tiếc .Có thể nói rằng trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn ở nước ta đang còn rất kém và ở đây chỉ đưa ra vài giải pháp về vốn từ những thu thập khoa học dựa trên học thuyết của Mac về tuần hoàn và chu chuyển tư bản.
B.Nội dung
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu bằng nền kinh tế tập trung ,tự cung ,tự cấp.Nền kinh tế này có nhiều khuyết điểm và lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới .Do đó nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thương mại .Trong mô hình kinh tế thương mại thì việc quản lý và sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả là việc hết sức quan trọng
Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận và mở rộng quy mô sản xuất ,mở rộng thị trường .Muốn vậy cần phải tối thiểu chi phí sản xuất và phân bố nguồn lợi hợp lý .Tất cả những vấn đề trên đều phụ thuộc vào việc quản lý và sử dụng vốn
Để nghiên cứu về vấn đề vốn và lưu thông của vốn thì ta đi nghiên cứu lý luận của Max về "Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản"
I.Tư bản -Sự chuyển hoá tiền thành tư bản .
1.Tư bản:
Là giá trị mang lại giá trị thặng dư
2.Sự chuyển hoá tiền thành tư bản:
a.Công thức chung của tư bản.
Mọi tư bản lúc đầu được biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định .Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản .Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định ,khi mà tiền được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
-Tiền với tư cách là tiền trong lưu thông :Nếu tiền được dùng trong mua bán hàng hoá thì chúng là phương tiện giản đơn trong lưu thông và vận động theo công thức (H-T-H)
-Tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức (T-H-T).Bất kể tiền nào vận động theo công thức này đều được coi là tư bản
Mục đích của lưu thông tiền với tư cách là tư bản là giá trị ,hơn nữa giá trị tăng thêm .Vì vậy số tiền thu được lớn hơn số tiền ứng ra và ta có công thức chung của tư bản là (T-H-T'. T'=T+m)
m là giá trị thặng dư
b.Mâu thuẫn của công thức chung
Cong thức vận động chung của tư banrcungx chứa đựng hai hành vi mua và bán ,do vậy nó cũng tham gia vào quá trình lưu thông mà tư bản vận động tạo ra giá trị thặng dư ,tức là lưu thông tạo ra giá trị thặng dư ,điều này đúng hay sai .
Lưu thông là quá trình trog đó xảy ra hai hành vi mua và bán .Nếu trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đỏi hình thái giữa hàng và tiền ,còn tổng giá trị cũng như phần giá trị tong tay những người trước và sau khi trao đổi là không thay đổi .Nếu trao đổi không ngang giá bán cao hơn giá trị thì người bán được lời còn nếu bán thấp hơn giá trị thì người mua được lời .Nhưng trong nền kinh tế hàng hoá ,mỗi người mua đều là người bán và ngược lại ,vì thế phần lời trong khi mua sẽ bù lại phần thiệt trong khi bán và ngược lại .Trong trường hợp kẻ mua rẻ bán đắt,tổng giá trị xã hội không thay đổi mà chỉ là sự ăn chặn ,ăn cướp phần giá trị của người khác mà thôi .
Như vậy lưu thông không tạo ra thặng dư ,song nếu tiền cất trong két ,không tham gia vào lưu thông thì không tạo ra giá trị thặng dư.Đây cũng chính là mâu thuẩn của công thức vận động chung của tư bản .
c.Hàng hoá sức lao động .
-Sức lao động :Là toàn bộ những năng lực (thể lực và chí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào quá trình sản xuất hàng hoá .Việc chuyển hoá tiền thành tư bản không tách rời khỏi quá trình chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá .
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản ,C.Max là người đầu tiên giả thiết rằng trên thị trường có một loại hàng hoá khác mà việc sử dụng nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của nó và ông đã chứng minh được đó chính là hàng hoá sức lao động
Hàng hoá sức lao động cũng được mua bán trên thị trường sức lao động .Tuy cần phân biệt rõ việc mua bán sức lao động với việc mua bán con người ở thời kỳ nô lệ ,phong kiến trước đây .Con người không phải là hàng hoá trao đổi mà chỉ có sức lao động của họ ,tức là họ chỉ làm thuê cho nhà tư bản mà thôi .
-Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá :
+Người lao động bán sức lao động có khả năng làm chủ sức lao động ấy và chỉ bán trong một thời gian nhất định và bán dần dần .Nếu anh ta bán nó trong một lần thì anh ta mất quyền sở hưu và trở thành nô lệ .
+Ngoài sức lao động thì người chủ của nó không còn gì để bán .Bởi nếu có tư liệu sản xuất thì anh ta sẽ không bán sức lao động của mình mà sử dụng nó để sản xuất tự cung tự cấp .Như vậy sức lao động không trở thành hàng hoá .
-Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động :
+Gía trị sử dụng :Được thể hiện trong quá trình người lao động sử dụng nó .Trong quá trình sản xuất sức lao động tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó ,tức là tạo ra giá trị thặng dư .Đây chính là đặc điểm của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
+Gía trị của hàng hoá :Do lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định ,do vậy nó chính là giá trị của toàn bộ các tư liệu sản xuất và tái sản xuất sức lao động ,để duy trì nòi giống của công nhân làm thuê .
II.Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản .
1Ba hình thức của tư bản công nghiệp .
Mọi tư bản đều xuất hiện trước hết dưới hình thái một số tiền được sử dụng với mục đích mang lại một số tiền phụ thêm bằng cách bóc lột lao động làm thuê .Muốn đạt được kết quả ấy tư bản phải vận động qua ba giai đoạn .
a.Ba hình thức của tư bản
+Giai đoạn I: T-H
Giai đoạn này biến tiền tệ thành hàng hoá : T-H .Đối với người mua ,đó là biến tiền thành hàng .Còn đối với người bán ,thì đó là bién hàng thành tiền .Đó là một hành vi lưu thông hàng hoá thông thường .Nhưng nếu nhìn vào nội dung vật chất của hàng hoá đó ,thì sẽ thấy tính chất tư bản chủ nghĩa của nó .
Ta đi xét về bản chất của sự vận động này :Hàng hoá mua ở đây là những hàng hoá nhất định :Tư liệu sản xuất và sức lao động ,tuwc là những nhân tố của sản xuất .Qúa trình mua bán được thể hiện bằng công thức :
SLĐ
T-H
TLSX
Như vậy nghĩa là có hai hành vi mua bán :T-SLĐ, T-TLSX.Hai hành vi này xảy ra trên hai thị trường khác nhau là thị trường sức lao động và thị trường hàng hoá thong thường .Tiền của nhà tư bản phải chia làm hai phần theo thị trường thích đáng :Một phần mua sức lao động một phần mua tư liệu sản xuất .
Do đó TLSXvàSLĐ cần phải phù hợp với nhau cả về chất và về lượng .Nếu TLSX thừa so với sức lao động thì công nhân không sử dụng hết ,gây lãng phí .Nếu SLĐ thừa so với TLSX thì sẽ không có đủ việc cho công nhân làm,vì thế sẽ không đem lại giá trị thặng dư tối đa .
Khi ta xét đến quá trình T-SLĐ .Nhà tư bản có tiền ,công nhân có sức lao động ,hai bên mua bán với nhau .Đó là một quan hệ mua bán ,một quan hệ hàng hoá và tiền tệ thông thường .Tính chất tư bản chủ nghĩa trong việc mua bán treen không phải do bản thân tiền tệ gây ra mà là quá trình tách rời đó gây ra ,và tiền tệ ở đây biến thành tư bản tiền tệ chứ không còn là tiền tệ thông thường nữa .Như vậy giai đoạn Icủa sự vân động của tư bản là giai đoạn biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất .
+Giai đoạn II:
SLĐ
H ......SX.......H'
TLSX
Qúa trình sản xuất
Nhà tư bản sử dụng hàng hoá đã mua (SLĐvàTLSX) Để tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm với giá trị lớn hơn .Tư bản chuyển từ lưu thông vào sản xuất .
+Giai đoạn III: H'-T'
Trong giai đoạn này nhà tư bản đem hàng hoá đã sản xuất trong giai đoạn hai đi bán .Nhà tư bản lại xuất hiện trên thị trường ,nhưng lần này với tư cách là người bán ,nghĩa là xuát hiện trên thị trường hàng hoá thông thường
ở giai đoạn này hàng hoá đã có thêm phần giá trị thặng dư H'=H+h.án H' lấy T',T'=T+t.Tức là Tđã thêm được một phần ,sở dĩ có thể thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra trong giai đoạn đầu ,chính là vì đến giai đoạn IIIđã ném vào thị trường một số hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị ban đầu .Số lớn hơn chính là giá trị thặng dư mà công nhân đã sáng tạo ra trong giai đoạn sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không .Như vậy ,giai đoạn III của sự vận động là giai đoạn biến tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ
Sự vận đọng của công thức trên là sự vạn động có tính chát tuần hoàn .Tư bản chuyển biến liên tiếp qua ba giai đoạn với những hình thái tồn tại khác nhau và thực hiện một chức năng nhất đình .Qúa trình vận động này là một chuỗi biến hoá của tư bản ,từ đó cho thấy rằng tư bản không phải là vật ,mà là quan hệ xã hội ,quan hệ sản xuất ,nó chỉ lấy vật làm hình thái của quá trình vận động .
b.Điều kiện để tuần hoàn tư bản được bình thường :
Sự vận động của tư bản diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nó được diễn ra liên tục ,kế tiếp nhau .Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng khiến cho sự tuần hoàn này bị đình trệ .
Mặt khác ,tư bản phải tồn tại dưới cả ba hình thức là tư bản tiền tệ ,tư bản sản xuất ,tư bản hàng hoá .
c.Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp
Trong quá trình vận động trải qua ba giai đoạn ,tư bản lần lượt khoác lấy các hình thái tư bản -tiền tệ ,tư bản -sản xuất ,tư bản -hàng hoá và ở mỗi hình thái nó hoàn thành một chức năng thích
hợp
Tư bản tiền tệ ,tư bản hàng hoá và tư bản sản xuất đều không phải những loại tư bản độc lập mà chỉ là những hình thái chức năng cơ bản của tư bản công nghiệp .Tư bản này lần lượt mang ba hình thái và xét trong quá trình liên tục ,mỗi hình thái đều có thể xem là đểm xuất và cũng là điểm hồi quy của nó .Tư bản công nghiệp vì vậy vận động cùng một lúc dưới ba dạng tuần hoàn .
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có công thức :T-H....SX....H'-T',với điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T' ,biểu thị một cách rõ nhất động cơ và mục đích vận động của nó là giá trị tăng thêm là giá trị tiền đẻ ra tiền
Tuần hoàn của tư bản sản xuất có công thức :SX...H'-T'-H'...SX,nói lên sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tư bản sản xuất .Tư bản hàng hoá trong tuần hoàn này cho thấy rõ nó từ quá trình sản xuất mà ra ,là kết quả của quá trình sản xuất .Còn tư bản tiền tệ -kết thúc sự thực hiện tư bản hàng hoá (H')-là phương tiện mua chuẩn bị cho các điều kiện cần thiết cho sản xuất ,tức là chỉ làm điều kiện cho tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản sản xuất .Tuần hoàn này cũng đã vạch rõ nguồn gốc của tư bản .Dù tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng cũng đièu từ sản xuất mà ra .Song tuần hoàn này không biểu thị việc sản xuất ra giá trị thặng dư
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá có công thức :H'-T'-H...SX...H'.Khác hẳn với các hình thái tuần hoàn khác ,điểm xuát phát của nó bao giờ cungx là H'-một giá trị đã tăng thêm giá trị ,một tư bản ứng trước đã có gí trị thặng dư với bất kỳ quy mô như thế nào
2.Chu chuyển cả tư bản .
Tuần hoàn của tư bản nói lên nói lên sự bến hoá hình thái của tư bản qua các giai đoạn lưu thông và sản xuất .Nhưng tư bản không chỉ biến hoá hình thái một lần ,tư bản vận động chứ không phải là một vật đứng yên.Tư bản với tư cách là tư bản thì phải không ngừng đi vào lưu thông ,thực hiện liên tục quá trình biến hoá hình thái ,tức là tuần hoàn không ngừng .
Sự tuần hoàn của tư bản ,nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lặp đi lặp lại ,chứ không phải là một quá trình cô lập ,riêng lẻ ,thì gọi là chu chuyển của tư bản .Tuần hoàn của tư bản ,khi được coi là một quá trình định kỳ ,chứ không phải là một hành vi cá biệt thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản
3.Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển
a.Thời gian chu chuyển của tư bản:
Thời gian chu chuyểncủa tư bản:Là khoảng thời gian từ khi nhà sản xuất ứng ra một lượng tư bản dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về số lượng ấy và cũng dưới hình thái ấy
Vì chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn của tư bản xét trong quá trình định kỳ ,nên thời gian chu chuyển của nó cũng là thời gian mà tư bản trải qua các giai đoạn lưu thông và sản xuất trong quá trình tuần hoàn ,tức là bằng tổng số thời gian lưu thông và thời gian sản xuất cộng lại .
Thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất gọi là thời gian sản xuất .Phần quan trọng của thời gian sản xuất là thời kỳ làm việc .Trong thời kỳ đó ,lao động trực tiếp tác động đến đối tượng đang được lao động chế biến .Thời kỳ này làm việc dài ngắn là tuỳ theo những điều kiện cụ thể của từng nghành ,của từng xí nghiệp ... Trong thời gian sản xuất còn có những khoảng thời gian gián đoạn trong khi chế biến ,trong thời gian đó đối tượng lao độn phải chịu ảnh hưởng của quá trình tự nhiên .
Thời gian tư bản nằm trong lĩnh việc lưu thông là thời gian lưu thông .Đó là khoảng thời gian mà tư bản chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái sản xuất ,và từ hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái tiền tệ .Đó là thời gian mua hàng và thời gian bán hàng của nhà tư bản .Thời gian này dài hay ngắn là tuỳ theo điều kiện muaTLSX và điều kiện bán hàng tuỳ theo thị trường xa hay gần ,tuỳ theo điều kiện phát triển của phương tiện giao thông vận tải
b.Số vòng chu chuyển:
Thời gian chu chuyển của các tư bản dài,ngắn khác nhawu nên muốn tính toán và so sánh với nhau ,người ta tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trrong cùng một thời gian nhất định ,thường là một năm ,xem tư bản đã quay được mấy vòng .Lấy n là số vòng chu chuyển ,CH là thời gian trong một năm ,Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thời gian chu chuyển một vòng của tư bản ,thì công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản như sau :
CH
n =
ch
4.Tư bản cố định và tư bản lưu động .
Khi nghiên cứu tốc độ chu chuyển của tư bản ,chúng ta xem các bộ phận tư bản chu chuyển như nhau . Nhưng trong thực tế ,giá trị các bộ phận tư bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phương thức khác nhau .
+Tư bản cố định :Là bộ phạn sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất ,nhưng giá trị lại không chuyển hết một lần ,mà chuyển dần từng phần một vào sản phẩm
+Tư bản lưu động :Là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất ,có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ ,sau khi hang hoá đã bán xong .Đó là bộ phận giá trị tư bản dưới hình thức hình thức sức lao động và những tư liệu khác
Chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động cũng là một sự phân chia khoa học ,cầ thiết về mặt quản lý kinh tế .Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động .Trong khi tư banrcos định chu chuyển được một vòng thì tư bản lưu động chu chuển được nhiều vòng .Ngay trong tư bản cố định thời gian các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau ,nghĩa là hao mòn khác nhau
Vậy hao mòn của tài sản cố định có hai loại :
+Hao mòm hưu hình là do sự sử dụng và do tác động thiên nhiên làm cho các bộ phận đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng,không dùng được nữa
+Hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt ,nhưng bị mất giá ,vì có những máy móc mới tốt hơn ,tối tân hơn xuất hiện
Để khôi phục lại tư bản cố định đã hao mòn ,nhà tư bản phải lập quỹ khấu hao .Sau từng thời kỳ bán hàng ,họ đều trích ra một số tiền ngang với mức độ hao mòn của tư bản cố định để bỏ vào quỹ khấu hao được dùng vào việc sửa chữa cơ bản ,một phần khác được đem gửi ngân hàng ,chờ ddeens kỳ hạn mua máy móc mới ,hoawcj xây nhà xưởng mới
5.Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm .Những phương pháp tăng tốc độ chu chuyển của tư bản .
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản là để nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư tạo ra trong một năm với tư bản khả biến ứng ra trước
Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng bằng tốc độ chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động .Công thức tính tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng giá trị chu chuyển của tư bản cố định và và gí trị chu chuyển của tư bản lưu động trong năm chia cho tổng số tư bản ứng trước
Tăng tốc độ chu chuyển tư bản sẽ tăng được hiệu xuất sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản .Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định còn giúp nhà tư bản tránh được những thiệt hại cho hao mòn vô hình và tăng cường sử dụng được quỹ khấu hao vào việc mở rộng sản xuất .
Đặc biệt đối với tư bản lưu động ,việc tăng tốc độ chu chuyenr có tắc dụng rất lớn :tiết kiệm được tu bản ứng trước ,hoặc giữ nguyên số tư bản lưu động như cũ nhưng vẫn có thể mở rộng sản xuất nếu có điều kiện tận dụng được công suất máy móc thiét bị
Riêng đối với tư bản khả biến việc tăng tốc độ chu chuyển càng hết sức quan trọng ,vì nó có ý nghĩa quyết định trong việc tăng thêm giá trị thặng dư
Thời gian chu chuyển của tư bản gồm thời gina sản xuất và thời gian lưu thông ,nên muốn tăng tốc độ chu chuyển của tu bản phải ra sức rút ngắn các khoảng thời gian ấy .Phương pháp rút ngắn thời gian sản xuất được thực hiện bằng cách áp dụng kỹ thuật mới ,cải tiến cách thức sản xuất ,mở rộng phạm vi phân công hiệp tác ,cải tiến tổ chức và quản lý lao động ,kéo dìa ngày lao động và tăng cường lao động ...Tất cả nhằm rút ngắn thời gian lao động ,rút ngắn quá trình tác động của tự nhiên vào đối tượng lao động cũng như rút ngắn và giảm bớt thời gian dự trữ sản xuất .Các phương pháp đó buộc các nhà tư bản tăng thêm tư bản ứng trước và tăng cường sự bóc lột ,cho nên nó làm tăng them mâu thuẫn vốn có của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa .
Nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa đi ,thì những nguyên lý về chu chuyển của tư bản cũng thich ứng đối với kinh tế ở nước ta hiện nay .Trong nền kinh tế Việt Nam ,nếu chúng ta càng rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông ,thì việc sử dụng các nguồn nhân lực ,vật lực và tài lực càng được hợp lý ,có lợi cho xã hội .
III. ý nghĩa thực tiễn rút ra đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
1.ý nghĩa thực tiễn:
Qua hoạ thuyết của Mac về tuần hoàn và chu chuyển tư bản ,ta áp dụng vào doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng XHCN.ở đây cũng vận động theo công thức :
TLSX
T ...SX...H'-T'.
SLĐ
ở giai đoạn I:Tiền tệ thành hàng hoá .Khi doanh nghiệp đứng ở phương diện người mua ,nghĩa là doanh nghiệp phải bỏ vốn ra để mua TLSX và SLĐ .Mụa đích của doanh nghiệp khi kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận ,do đó phải tối thiểu hoá chi phí sản xuất
Việc mua TLSX phải tính toán thế nào để mua đủ TLSX đặng sử dụng hét số nhân công thuê được và việc mua sức lao động thì cần phải biết tính toán để số lao động dáp ứng đủ với sản xuất tạo ra sản phẩm tối ưu ,đồng thời phân công nhân lực hợp lý để tạo công ăn việc làm cho người dân .
Do vậy việc sử dụng vốn có hiệu quả là rất quan trọng và hết sức cần thiết ,ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Giai đoạn II;ở giai đoạn này cho thấy doanh nghiệp cần phải chú trọng vào khâu sản xuất .Việc sản xuất ra sản phẩm tưởng chừng như đơn giản khi đã giải quyết xong vấn đề ở giai đoạn I ,tuy nhiên trong sản xuất cần phải có một sự quản lý chặt chẽ .Quản lý không chỉ về vốn mà còn về khau sản xuất .Phải bố trí phân công lực lượng quản lý để người chủ vẫn có thể theo dõi sát sao việc tạp ra sản phẩm và việc làm của công nhân .Phải tạo điều kiện để phát huy năng lực làm việc của người lao động đạt hiệu quả cao trong sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao c đáo .
Phải tăng năng xuất lao động ,sử dụng hiệu quả đồng vốn đẻ rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản ,thời gian chu chuyển của tư bản được rút ngắn lại sẽ khiến cho vốn được quay vòng nhanh ,tiết kiệm được tư bản ứng trước và cho phép tăng quy mô sản xuất .Mặt khác hao mòn hưu hình và hao mòn vô hình do tác động khách quan sẽ được giảm bớt
Giai đoạn III: Doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông ,chú trọng vào việc tiêu thụ sản phẩm .Như vậy doanh nghiệp cần phải xúc tiến hỗn hợp marketing phù hợp để rút ngắn thời gian tiêu thụ ,tạo uy tín với khách hàng .Trong khâu này thì việc quản lý và sử dụng vốn trong marketing là rất quan trọng ,tuỳ vào thị trường .Sản phẩm phải được đưa ra một chién lược marketing luôn mới mẻ và hơn hẳn đối thủ cạnh tranh .Chiến lược marketing phù hợp sẽ làm tăng doanh thu giảm chi phí lưu thoongvaf đương nhiên lúc đó hiệu quả của tư bản sẽ là cao nhất .
Nước ta áp dụng lý thuyết của Mác từ rất lâu nhưng lại vạn dụng một cách máy móc và lấy mô hình kinh tế của Liên Xô áp dụng vào mô hình kinh tế của nước ta ,đó là một sự khác biệt hẳn do đó nó không những không có hiệu quả mà còn làm trì tệ nền kinh tế nước ta ,chậm hơn các nước khác rất nhiều .Tuy nhiên hiện nay nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường là một bước ngoặt lớn ,nhà nước đã áp dụng một cách sáng tạo và khoa học học thuyết của C.Mac-Lê nin và phát triển học thuyết cho phù hợp với nước ta hiện nay ,đặc biệt là vấn đề về quản lý và sử dụng vốn .
2.Vốn -quản lý và sử dụng vốn .
Việc quản lý và sử dụng vốn có hiẹu quả là một chìa khoá quan trọng cho thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung .Để thấy được vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chúng ta hãy nhìn lại tình hình kinh tế của nước ta.
Trước đây khi đang trong nền kinh tế tập trung nước ta đề ra chính sách tập trung vào việc phát triển nghành công nghiệp nặng ,nhưng nghành công nghiệp nặng đòi hỏi phải có một lượng vốn rất lớn ,thưòi gian chu chuyển của các tư bản cố định rất dài ,do đó về mặt thời gian thu lợi nhụân rất lâu trong khi nước ta mới trải qua một cuộc chiến tranh dài ,đang còn thiếu về vật chất và tinh thần ,nền kinh tế bị suy sụp và lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới ,do đó cần phải khôi phục lại kinh tế nhanh chong và lo cho nhân dân đủ cơm no áo mặc ,nghĩa là cần phải phát triển nền kinh tế theo hướng thu lợi nhuận trước ,và phải phát huy thế mạnh của nước ta đó là nông nghiệp ,như vạy việc tập trung vào phát triẻn nghành công nghiệp nặng là không hợp lý ,bởi trong tình hình đó nước ta không đủ vốn đủ có thể phát triển nghành này một cách lâu dài
Từ đó có thể thấy được việc quản lý và sử dụng vốn ở nước ta đang còn kếm hiệu quả .Chính vì sai lầm này mà mọi nguồn vốn của nước ta đã dược sử dụng vô tội vạ mà kết quả thu được rất kém ,trong khi nguồn vốn ngân sách nhà nước cạn kiệt và số nợ của nước ngoài thì lên rất lớn ,lạm phát tăng ,hẹ thóng công nghiệp nặng không được nuôi dưỡng trở thành gánh nặng của nhà nước .
Có thể thấy rằng nhà nước ta đã thấy được sai lầm này đã bước sang nền kinh tế thị trường và xác định lại các mục đích hoạch định chiến lược phát triển kinh tế mới ,tập trung vào thu hút voonns đầu tư của nước ngoài ,đồng thời tự tập trung vốn để không dựa quá nhiều vào nước ngoài ..Phát triển một nền kinh tế mới của dân do dân và vì dân .
IV.Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn ở nước ta .Một số đánh giá và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Nếu so với các nước công nghiệp phát triển ,nước ta đã tụt hậu tới cả trăm năm về trình độ công nghệ .So với những nước trong khu vực Đông Nam á ,nước ta cũng đã tụt hậu tới vài chục năm .Trong thời đại hiện nay ,khi những thành tựu khoa học công nghệ đang là động lực quan trọng cho sản xuất ,thì sự tụt hậu về trình dộ công nghệ là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự tụt hậu về kinh tế .Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ :"Giai đoạn từ năm 1996-2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ mới -đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ".Để thực hiện mục tiêu này ,chúng ta cần thực hịen hàng loạt những chính sách ,trong đó một số vấn đề quan trọng phải kể đến là vốn đầu tư ,vì vốn là một tiền đề cơ bản cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh .
1.Nhu cầu về vốn .
Kinh nghiệm các nước cho thấy rằng trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hoá ,nhu cầu về vốn thường hết sức căng thẳng .ở nước ta muốn đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 9-10%từ năm 1996-2000 như đại hội VIII của Đảng đã đề ra ,thì chúng ta phải nâng dần tỷ lệ đầu tư toàn xã hội (so với GDP) lên tới 30% vào năm 2000 ,tức là nhu cầu về vốn trong giai đoạn 1996-2000 cần khoảng 41-42 tỷ USD (tính trên mặt bằng giá cả năm 1995 ).Trong tổng nhu cầu vốn nói trên ,50% có thể huy động từ các nguồn lực trong nước ,số còn lại sẽ huy động từ bên ngoài dưới các hình thức khác nhau .Vốn trong nước sẽ được huy động chủ yếu từ bốn nguồn .Cụ thể là:
_Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước .Trong giai đoạn 1996-2000 dự tính sẽ huy động vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước đạt khoảng 5,5-6% GDP và bằng 21% tổng vốn đầu tư phát triẻn toàn xã hội
_Vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước dự tính sẽ đạt 16,6% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ,trong đó vốn huy động từ dân dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và thu hồi nợ cũ chiếm 7% vốn nhà nước huy động tư nước ngoài cho vay lại chiếm 9,6%.
_Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước ,dự kiến chiếm khoảng 14-15%tổng vốn đầu tư xã hội
_Vốn đầu tư phatts triển của dân cư sẽ chiếm khoảng chiếm khoảng 16-17%tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 1996-2000
Tuy nhiên ,nếu tính rieng cơ cấu vốn đầu tư phát triển trong nước thì vốn đầu tư từ ngân sách chiếm 25%,vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước chiếm 14%,vốn tự đầu tuwcuar doanh nghiệp 28%và vốn của dân cư chiếm khoảng 335.Một nguồn đầu tư phát triển rất quan trọng khác cần được tích cực huy động có hiệu quả trong thời gian tới là các nguồn vốn nước ngoài .
Nhưng một vấn đề cơ bản đang được đặt ra rất cấp bách đối với các nhà lập chính sách ,các nhà quản lý và các nhà khoa học trong cả nước là làm thế nào để có thể huy động được vốn đáp ứng về cơ bản nhu cầu vốn đầu tư nói trên .
2.Tình hình thực trạng về vốn ở nước ta .
a.Vốn cho doanh nghiệp nhà nước .
Nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường đã chứa đựng những nhân tố cạnh tranh .Đã cạnh tranh là tìm cách dành được nhiều lợi nhuận bằng các thủ pháp trên thương trường .Trong cuộc cạnh tranh này doanh nghiệp nhà nước có những vị thế bất lợi ,đó là thiếu vốn ,bộ máy chậm thích ứng với sự biến đổi của thị trường ,lắm tầng nấc trung gian và nhiều sự ràng buộc lẫn nhau ,phần lớn đội ngũ cán bộ rất thụ động .Trong khi đó ,các thành phần kinh tế khác lại hết sức năng động ,đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân .Họ chuyển đổi sản xuất kinh doanh nhanh ,nhạy cảm với thị trường ,chiếm lĩnh những lnhx vực mà nhà nước không tham gia nổi ,rõ nét nhất là trận địa thương nghiệp
Chúng ta còn khoảng 6000 doanh nghiệp ,phần lớn nằm trong tình trạng thiếu vốn ,có nơi thiếu trầm trọng ,sản xuất kinh doanh đình đốn trong khi thị trường vẫn có nhu cầu ,nhất là các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu của xã hội .Thực tiễn cho thấy ,sản phẩm hàng hoá nào Nhà nước không đứng ra đáp ứng yêu cầu của xã hội ,thì các thành phần kinh tế khác nhảy vào chiém lĩnh thị trường .Có những mặt hàng bị nước ngoài dành dật
Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng thiếu vốn .Có doanh nghiệp ở Hà Nội chỉ được cấp 4,1%vốn lưu động ,trong khi đó ngân hàng lại thừa vốn ,còn nước ngoài luôn tìm cơ hội đầu tư cho vay dài hạn .Thị trường vừa thừa vừa thiếu vốn đang là bài toán cần được giải quyết để cứu nền kinh tế ,để các doanh nghiệp mở rộng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh ,mà còn là biện pháp tăng cường sự giám của Nhà nước
Đối với doanh nghiệp Nhà nước trong mặt bằng kinh doanh xã hội khó có được lợi nhuận cao ,mà thông thường chỉ đủ trả lãi ngân hàng .Bởi vậy với lãi suất hiện nay ,không ít doanh nghiệp phải khoanh tay chờ phá sản
Đã đến lúc Nhà nước phải củng cố lại vị thế của hệ thống kinh tế nhà nước ,mà doanh nghiệp là nơi sáng tạo ra giá trị mới ,thực sự là tiềm năng kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa .
b.Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phat triển kinh tế ,góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội và bước vào thời kỳ phát triển mới .Một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích cực đó là việc thu hút có kết quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Những kết quả quan trọng bước đầu của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đánh dấu một bước chuyển biến về chất trong tư duy hoạch định chính sách khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đang diễn ra sâu rộng :
Kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài ,lượng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào VIệt Nam gia tăng cả về số dự án số vốn dăng ký và số vốn thực hiện .Theo thời gian ,Luật đầu tư được sửa đổi ,bboor sung theo hướng cụ thể ,rõ rằng và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và đảm bảo tương thích với luật pháp của các nước trong khu vực : Vốn đầu tư trực nước ngoài vào Việt Nam tăng khá đều đặn qua các năm .Tính đến ngày 16-6-1997,cả nước đã có 1647 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với gần 27900 triệu USD vốn đầu tư .Trong đó có 810 dự án đầu tư đối với lĩnh vực công nghiệp nặng ,khai thác dầu khí xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm với tổng số vốn đầu tư đăng ký hơn 10934 triệu USD Nghĩa là gần 50%số dự án và 40%số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp
Quy mô trung bình của các dự án tăng lên .Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam
V.Các giải pháp về vốn.
Tuy rằng trong nước ta việc thu hút vốn đầu tư và phát triển tuy có những mặt ưu nhưng nó cũng có những hạn chế nhất định .Trước nhất là việc nước ta vẫn còn thiếu vốn để phát triển kinh tế ,thứ hai là trong phần trên ta đã nhắc đến những kết quả tốt đã đạt được nhưng những mặt hạn chế của vấn đề này là :
+Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các thành phố lớn như Hà Nội ,TP Hồ Chí Minh ,Đồng Nai ... Ba tỉnh và thành phố này chiếm khoảng 70% cả về số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký và số vốn thực hiện tại Việt Nam .Còn các vùng sâu vùng xa ,những vùng điều kiện kinh tế khó khăn ,cơ sở hạ tầng ,thị trường chưa phát triển thì vốn đầu tư rất hạn chế
+Nhiều nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao vào Việt Nam công nghệ lạc hậu với giá cả cao .Chỉ có trong lĩnh vực vô tuyến viẽn thông ,khai thác dầu khí ,thì công nghệ được chuyển giao được đánh giá là công nghệ tiên tiến .Các công nghệ chuyển giao lạc hậu vào Việt Nam vừa gây thua thiệt về kinh tế vừa gây ô nhiễm về môi trường
+Thị trường đầu tư chưa được quy hoạch nhất quán theo phương châm nhà nướchướng dẫn thị trường ,thị trường hoạt động điều tiết đầu tư .Công tác q._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28271.doc