Học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội với vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang đi vào cuộc sống. Trong đường lối đó, vấn đề phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, ĐHXHCN là vấn đề được đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Chủ trương trên, được triển khai trong thực tiễn, đã thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đây là một hướng đi rất mới của con đường CNXH. Con đường đó chưa có tiền l

doc205 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4409 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội với vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ trong lịch sử. Do tính mới mẻ mà có những người hoài nghi vào sự thắng lợi của con đường đó, thậm chí còn cho rằng con đường đó là không thể thực hiện được, rằng thực hiện CNXH trong kinh tế thị trường là "con đường hầm" không có lối ra v.v... Do tính mới mẻ của nó, hướng đi này sẽ có những khó khăn, thách thức và cũng chứa đựng những nguy cơ, trong đó nguy cơ chệch hướng XHCN nổi lên hàng đầu. Rõ ràng vấn đề ĐHXHCN cần được xem xét và khẳng định rõ hơn trong điều kiện mới. Vì vậy, ĐHXHCN trở thành vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cấp bách cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ. ĐHXHCN ở Việt Nam được khẳng định dựa trên những cơ sở khoa học, trong đó cơ sở lý luận có tầm quan trọng đặc biệt là học thuyết Mác - Lênin về HTKT-XH. Tuy vậy từ sau khi CNXH hiện thực ở một số nước tan rã, sụp đổ thì học thuyết Mác - Lênin nói chung, HTKT-XH nói riêng đang bị xuyên tạc và công kích từ nhiều phía. Kẻ thù của CNXH đang lớn tiếng cho rằng lý luận HTKT-XH đã lạc hậu lỗi thời, cần được thay thế. Các phần tử cơ hội dưới mọi màu sắc, tìm mọi cách phủ nhận học thuyết. Có những người trong cán bộ, Đảng viên cũng tỏ ra nghi ngờ, kém tin tưởng ở sức sống của học thuyết, do dự trong việc vận dụng học thuyết vào thực tiễn... Vì vậy việc khẳng định những giá trị khoa học đích thực của học thuyết, từ đó mà có phương hướng vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào trong thực tiễn xây dựng CNXH là vấn đề đang được đặt ra. Trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam những năm trước đây, việc vận dụng học thuyết HTKT-XH cũng còn những sai lầm, hạn chế. Những sai lầm, hạn chế đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nhận thức. Do trình độ nhận thức về học thuyết còn hạn chế, thậm chí còn lệch lạc ở một số vấn đề cụ thể, mặt khác do sự vận dụng còn mang tính giáo điều, thiếu sáng tạo, chưa phản ánh đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước mà đã dẫn đến những sai lầm trong thực tiễn xây dựng CNXH, ảnh hưởng tiêu cực tới tiến trình phát triển của đất nước. Muốn đưa đất nước tiến lên CNXH phải đổi mới nhận thức, phải vận dụng sáng tạo học thuyết vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và đặc điểm mới của thời đại. Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài "Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội với vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" làm đề tài luận án của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Vấn đề nghiên cứu và vận dụng lý luận HTKT-XH vào công cuộc xây dựng CNXH từ lâu đã được nhiều nhà khoa học và chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN khác quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt từ sau khi CNXH hiện thực ở Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ thì vấn đề trên được nhiều nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đề cập tới. Chẳng hạn tác giả Du Thúy "Mùa đông và mùa xuân Matxcơva - Sự chấm dứt một thời đại" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995) đã đề cập đến một số nguyên nhân sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô. Một tập thể tác giả do Mã Hồng Chủ chủ biên "Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995) đã đưa ra một số quan điểm về xây dựng CNXH trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đăng trên các tạp chí... Vấn đề trên được đặc biệt chú ý ở Việt Nam. Trước đây các công trình nghiên cứu ở nước ta tập trung giải quyết vấn đề quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Tuy vậy thời gian đó, hệ thống CNXH vẫn chưa có khủng hoảng trầm trọng, chưa tan rã, nhận thức về CNXH vẫn chưa có những biến đổi bước ngoặt, cho nên vấn đề trên được đặt ra và giải quyết có những điểm khác so với hiện nay. Không thể nói những công trình nghiên cứu trước đây không còn giá trị đối với ngày nay, song, đúng là thực tiễn đang đặt ra những vấn đề mới, cần được bổ sung làm sáng tỏ. Gần đây, ở trong nước đã xuất hiện các công trình: - Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX10 "Dự thảo một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay" (Hà Nội 1994) có một phần quan trọng đề cập đến giá trị của học thuyết HTKT-XH với tính cách là cơ sở khoa học của con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam. - Đề tài KX 05 - 04 "Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1992 - 1994) của Khoa Triết học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long làm chủ nhiệm - đã nêu những quan điểm có tính phương pháp luận trong xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH. Vấn đề nêu trên đã được đề cập tới một số khía cạnh trong các sách và bài viết của tác giả. - Đào Duy Tùng: "Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994) đã khái quát các giai đoạn tiến hành cách mạng XHCN ở nước ta. - Giáo sư Trần Xuân Trường: "Định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một số vấn đề lý luận cấp bách" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996) có đề cập đến một số vấn đề của lý luận hình thái và sự vận dụng nó trong tình hình mới. - Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đức Bách, tiến sĩ Lê Văn Yên, Nhị Lê: "Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" (Nxb Lao động, Hà Nội 1998) đã xem xét những đặc thù của con đường XHCN ở Việt Nam và một số nội dung của con đường đó. - Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Duy Quý (chủ biên) "Những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998) đã trên cơ sở khái quát quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về CNXH làm sáng tỏ quan điểm đổi mới sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam của Đảng ta. - Giáo sư Hồ Văn Thông: "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 4-1994) đã nêu lên sự cần thiết phải bổ sung, phát triển nhận thức về một số vấn đề của lý luận đó. - Phó giáo sư, tiến sĩ Tô Huy Rứa "Con đường và điều kiện đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta" (Tạp chí Cộng sản số 6-1996) đã nêu lên một số điều kiện nhằm đảm bảo ĐHXHCN. - Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long "Triết học Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thế giới ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 23-1998) đã đưa ra quan điểm khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận hình thái nói riêng và vận dụng nó vào nhận thức xu thế xã hội hiện nay. - Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa "Về nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 1-1999) đã khẳng định việc thực hiện kinh tế thị trường theo ĐHXHCN là một bước ngoặt trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta. - Giáo sư, tiến sĩ Phạm Ngọc Quang "Định hướng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa - một số vấn đề lý luận" (Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 1-1999) đã đưa ra quan điểm trong nhận thức về vấn đề định hướng và giữ vững ĐHXHCN ở nước ta. - Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Tĩnh Gia: "Cách tiếp cận lịch sử bằng các nền văn minh" (Tạp chí Cộng sản số 1-2000) đã trên cơ sở chỉ rõ các hạn chế của cách tiếp cận bằng các nền văn minh để khẳng định giá trị của học thuyết HTKT-XH. - Phó giáo sư, tiến sĩ Vũ Văn Viên: "Sự chuyển đổi mô hình kinh tế ở nước ta hiện nay và quan niệm của Mác về con đường đi lên CNXH". - Tiến sĩ Nguyễn Thế Nghĩa: "Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội - cơ sở lý luận của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa". v.v... Ngoài các sách và bài viết, trong thời gian gần đây cũng có một số luận án tiến sĩ tập trung nghiên cứu các đề tài gần gũi với vấn đề như: - Nguyễn Văn Oánh: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: nội dung cơ bản và những điều kiện chủ yếu để thực hiện" (Luận án Phó tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNCSKH, mã số 5.01.03, Hà Nội 1994). Tác giả đã phân tích nội dung và các điều kiện chủ yếu để thực hiện ĐHXHCN ở nước ta. - Trương Hữu Hoàn: "Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và vấn đề nhận thức, vận dụng quy luật này ở một số nước xã hội chủ nghĩa" (Luận án Phó tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS, mã số 5.01.02, Hà Nội 1995). Tác giả đã có khía cạnh đề cập đến sự vận dụng quy luật nói trên trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. - Đoàn Quang Thọ: "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam" (Luận án Phó tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS, mã số 5.01.02, Hà Nội 1995). Tác giả đã trên cơ sở khẳng định giá trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để luận giải tính tất yếu và một số nội dung công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Nhìn chung các công trình trên, đặc biệt là các công trình trong nước đều tập trung vào việc bảo vệ lý luận HTKT-XH và vận dụng nó vào việc xác định mục tiêu, thực hiện mục tiêu XHCN ở Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên thực tiễn luôn vận động, ĐHXHCN ở nước ta đang đặt ra những vấn đề mới cần được tiếp tục lý giải và khẳng định. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 3.1 Mục đích: Dưới góc độ lý luận HTKT-XH, luận án góp phần làm sáng tỏ thực chất vấn đề ĐHXHCN và việc giữ vững định hướng đó trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ: 1) Trên cơ sở khẳng định giá trị bền vững của lý luận HTKT-XH để luận giải tính đúng đắn của sự lựa chọn mục tiêu tiến lên CNXH của Việt Nam. 2) Xem xét làm sáng tỏ thuật ngữ "định hướng xã hội chủ nghĩa" và chỉ ra một số vấn đề từ thực tiễn vận dụng học thuyết HTKT-XH đặt ra đối với quá trình thực hiện ĐHXHCN ở Việt Nam. 3) Nêu lên những nguyên tắc và giải pháp cơ bản quán triệt học thuyết HTKT-XH để thực hiện ĐHXHCN trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận án Luận án không đi vào xem xét một cách toàn diện các vấn đề của học thuyết HTKT-XH, cũng không xem xét toàn diện các mặt của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Luận án trên hướng tiếp cận của học thuyết HTKT-XH để đi vào luận giải một số khía cạnh của vấn đề ĐHXHCN và giữ vững ĐHXHCN hiện nay ở Việt Nam. - Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về HTKT-XH, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng CNXH để giải quyết những vấn đề trong đề tài. - Cơ sở thực tiễn: Dựa vào thực tiễn xây dựng CNXH đã và đang diễn ra ở Việt Nam, tham khảo bài học kinh nghiệm về đảm bảo mục tiêu CNXH ở một số nước khác trước đây và hiện nay để luận chứng những vấn đề trong đề tài. Đồng thời đó cũng là những cơ sở thực tiễn quan trọng để luận án đưa ra những giải pháp nhằm giữ vững ĐHXHCN trong điều kiện mới hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt ra, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp khảo sát thực tế v.v... 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Luận án góp phần làm rõ hơn vấn đề ĐHXHCN và tính đúng đắn của sự lựa chọn ĐHXHCN ở nước ta hiện nay. - Luận án góp phần vào việc tìm ra các nguyên tắc và giải pháp lớn nhằm giữ vững mục tiêu XHCN trong điều kiện mới của Việt Nam. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận án Với những đóng góp trên, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy, nghiên cứu về học thuyết HTKT-XH và sự vận dụng học thuyết đó trong xây dựng CNXH ở các trường Đại học, trường Chính trị và những người quan tâm. 8. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm 3 chương 6 tiết và phần danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 : Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội - cơ sở khoa học của sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1.1. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong nhận thức xã hội và xu thế chủ nghĩa xã hội của thời đại 1.1.1. Giá trị và ý nghĩa thời đại của học thuyết HTKT-XH Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết HTKT-XH giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Học thuyết không những là cốt lõi, nền tảng cho một thế giới quan mới - chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà còn là cơ sở khoa học vững chắc cho toàn bộ các khoa học về xã hội nói chung. Học thuyết HTKT-XH là một hệ thống các quan điểm lý luận có liên hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhằm vạch ra cơ cấu và các quy luật phát triển cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Sự xuất hiện của học thuyết không phải là ngẫu nhiên hay là sản phẩm thuần túy chủ quan của C.Mác, như một số người nào đó nhận định, mà là kết quả hợp quy luật của một quá trình nhận thức dựa trên sự khái quát thực tiễn hoạt động cách mạng, sự kế thừa mang tính phê phán các nguồn tri thức nhân loại và một khả năng tư duy thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen. Xuất phát từ quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận cho rằng xã hội không phải là tổ hợp ngẫu nhiên của các mặt, các yếu tố riêng biệt, không phải là tổng số máy móc của các nhân riêng rẽ mà là một chỉnh thể của các quan hệ xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khám phá ra các quy luật của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, từ quan điểm xuất phát đến chỗ vạch ra được các quy luật phát triển xã hội là không đơn giản. Nói một cách khác là để làm được điều đó phải chọn lựa được con đường nghiên cứu đúng đắn, khác về chất với tất cả các quan điểm trước đó. Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, Hêghen cũng có quan điểm xuất phát tương tự nhưng ông lại luận giải sự thống nhất, tính chỉnh thể của xã hội dựa trên một bản nguyên tinh thần. Do vậy, tuy có những đóng góp vào việc mở ra con đường nghiên cứu lịch sử nhưng Hêghen không thể đi đến những quy luật lịch sử đích thực. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi theo con đường khác hẳn, đó là con đường dựa trên một nền tảng thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng trong nghiên cứu xã hội. Xuất phát từ tiền đề đầu tiên của lịch sử là những con người cụ thể, "đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ, và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra" [39, tr. 28-29], C.Mác đã khám phá ra một chân lý hiển nhiên là con người có nhiều hoạt động nhưng hoạt động đầu tiên phải là hoạt động để duy trì sự sống của con người. Nghĩa là con người trước hết phải lao động sản xuất để tạo ra thức ăn, nhà ở, nước uống, quần áo v.v... trước khi có những hoạt động khác. Do đó có thể khẳng định: hành động lịch sử đầu tiên của con người là hành động sản xuất ra của cải vật chất. Chính trong quá trình sản xuất vật chất đã buộc những con người, dù có nguyện vọng khác nhau, phải tham gia vào các mối quan hệ với nhau mà trước hết là quan hệ với nhau trong sản xuất vật chất. Và đến lượt nó, sự vận động của nền sản xuất vật chất lại quy định diện mạo và sự vận động của các quan hệ xã hội. Với quan điểm đó, học thuyết HTKT-XH đã đi đến kết luận sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội, là cơ sở của tính thống nhất, tính chỉnh thể của xã hội. Nghiên cứu lịch sử trước hết phải xuất phát từ cơ sở thực tại đó. Cơ sở thực tại đó là do con người tham gia vào và tạo ra. Tuy nhiên, con người tham gia vào quá trình sản xuất vật chất và đồng thời là vào các quan hệ xã hội, không phải với tư cách là những cá nhân trừu tượng mà với tư cách là những cá nhân hiện thực đã đạt đến một trình độ nhất định của LLSX. Các mối quan hệ xã hội, trước hết là QHSX, cũng do con người tạo ra, nhưng không phải tạo ra một cách tùy tiện mà là trên một trình độ nhất định của LLSX. Đến lượt mình, các quan hệ xã hội lại quy định nhu cầu của con người và sự vận động của nền sản xuất. Với lập luận đó, lý luận HTKT-XH đã chỉ rõ nhân tố cốt lõi, quyết định trong nền sản xuất vật chất của xã hội là PTSX với hai mặt gắn bó hữu cơ là LLSX và QHSX. C.Mác nghiên cứu sâu sắc hơn các mặt của PTSX và đã chỉ rõ giữa LLSX và QHSX luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó LLSX bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển của QHSX và QHSX có sự tác động trở lại LLSX. Do sự vận động của LLSX, một khi đạt đến trình độ mới, nó sẽ mâu thuẫn với những QHSX hiện đang tồn tại và, dù sớm hay muộn, mâu thuẫn đó sẽ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới cao hơn phù hợp với trình độ đã phát triển của LLSX. Khi đó cũng có nghĩa là PTSX cũ đã bị thay thế bởi một PTSX mới cao hơn. Cứ như vậy, PTSX mới tới một chừng mực nào đó, lại bị thay thế bởi một PTSX cao hơn nữa... Đó chính là quy luật phát triển phổ biến của lịch sử xã hội. C.Mác khẳng định: Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất của mình, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình [40, tr. 187]. Không dừng lại ở đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm sâu sắc hơn về quy luật bằng các tiếp tục xem xét sự tác động của nó trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Các ông đã chỉ rõ rằng trong các xã hội có đối kháng giai cấp thì việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX vẫn là nguyên nhân sâu xa quyết định sự thay thế PTSX và sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong các xã hội đó, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX bao giờ cũng được giải quyết thông qua mâu thuẫn giai cấp, qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội. Các ông viết: Như chúng ta đã thấy, mâu thuẫn ấy giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước đến nay, song vẫn không làm biến đổi cơ sở cơ bản của nó, thì lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời lại mang những hình thức phụ khác như: sự tổng hợp của những xung đột, những sự va chạm giữa các giai cấp khác nhau, sự mâu thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị v.v... [39, tr. 107]. Từ nghiên cứu về PTSX, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục xem xét tới các mặt khác của xã hội. Các ông chỉ rõ bất kỳ xã hội cụ thể nào cũng có những QHSX hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó và tương ứng với nó là một KTTT xã hội phù hợp. KTTT là một khái niệm có nội dung rộng lớn bao quát các tư tưởng xã hội, các thể chế xã hội và mối quan hệ qua lại giữa chúng. KTTT bao giờ cũng được hình thành trên một cơ sở hiện thực, đó là CSHT của xã hội. Xem xét quan hệ giữa CSHT và KTTT, học thuyết HTKT-XH đã chỉ ra rằng: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định" [42, tr. 15]. Như vậy theo quan niệm HTKT-XH thì giữa CSHT và KTTT có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó CSHT bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên cần phải nói thêm rằng luận điểm về vai trò quyết định của cơ sở kinh tế, mà sau này C.Mác và Ph.Ăngghen đã lưu ý, phải được hiểu là "xét cho đến cùng" chứ không phải là tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế mà không thấy vai trò to lớn của các nhân tố trong KTTT. Các nhân tố trong KTTT có tính độc lập tương đối và luôn luôn có sự tác động trở lại tới sự vận động của cơ sở kinh tế. Việc xem xét xã hội như một chỉnh thể đã cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng nên một học thuyết HTKT-XH hoàn chỉnh. Vấn đề HTKT-XH lần đầu tiên được các ông đặt ra và xem xét trong "Hệ tư tưởng Đức". Các ông quan niệm HTKT-XH là xã hội "ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc đáo riêng biệt" [41, tr. 553]. Và ở trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển rõ hơn tư tưởng đó. Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883, Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của "Tuyên ngôn" là: Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy" [46, tr. 11]. Chúng ta có thể diễn đạt quan điểm trên: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy [27, tr. 59]. HTKT-XH là khái niệm bao quát các xã hội cụ thể ở những mặt cơ bản nhất là LLSX, QHSX và KTTT, ở những quy luật cơ bản nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ LLSX và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT với KTTT. Việc phát hiện các quy luật chi phối sự vận động của HTKT-XH đã bao hàm quan điểm về "quá trình vận động lịch sử - tự nhiên" của nó. Mỗi một HTKT-XH đều là một chỉnh thể toàn vẹn luôn luôn vận động và phát triển. Sự vận động phát triển của các HTKT-XH, xét đến cùng là do sự phát triển LLSX quy định và luôn luôn tuân theo những quy luật khách quan. Do sự tác động của các quy luật khách quan, trong đó quyết định nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, mà các HTKT-XH vận động như một quá trình lịch sử tự nhiên. Tức là xuất phát từ sự vận động của LLSX, khi đạt tới một trình độ mới, sẽ làm thay thế QHSX hiện tồn đã trở thành lạc hậu bằng một QHSX mới cao hơn và khi có QHSX mới, nó sẽ tác động làm cho KTTT xã hội mới ra đời phù hợp. Khi đó cũng có nghĩa một HTKT-XH cao hơn đã bắt đầu xuất hiện. Con đường phát triển đó vừa là kết quả của hoạt động con người, vừa tuân theo những quy luật khách quan. Chính con đường phát triển lịch sử - tự nhiên của HTKT-XH đã tạo ra xu thế phát triển liên tục của xã hội từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn theo cả hai khuynh hướng, trình tự hoặc rút ngắn, tùy từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Như vậy có thể thấy học thuyết HTKT-XH là một học thuyết hoàn chỉnh, đưa lại một cách tiếp cận về xã hội hoàn toàn mới. Sự ra đời của học thuyết đã đưa lại một thế giới quan và phương pháp luận mới, mang bản chất khoa học và cách mạng trong nhận thức và cải tạo xã hội. Với nội dung như vậy, học thuyết "hình thái" có một giá trị khoa học và cách mạng sâu sắc. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết gắn liền với nhau, không thể tách bạch. Trong tính khoa học đã bao hàm tính cách mạng và ngược lại. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết bao hàm nhiều vấn đề, song có thể nhận thức giá trị của nó ở những điểm chính. Một là: Học thuyết đã đưa lại một cách tiếp cận khoa học và cách mạng trong nhận thức về xã hội. Trước khi học thuyết HTKT-XH xuất hiện, tất cả các quan điểm giải thích về lịch sử đều lúng túng trước tính phức tạp của đời sống xã hội và vì vậy đã đi vào cắt nghĩa lịch sử hoặc từ những nguyên nhân tinh thần ý thức, hoặc từ một vài yếu tố riêng lẻ nào đó. Do đó tất cả các quan điểm nghiên cứu về xã hội trước đó, hoặc rơi vào lập trường duy tâm chủ nghĩa, hoặc rơi vào quan điểm duy vật siêu hình, trong đó lập trường duy tâm chủ nghĩa thống trị. Với sự xuất hiện của học thuyết "hình thái", lần đầu tiên đã đưa lại một cách giải thích lịch sử duy vật khoa học, đã đẩy chủ nghĩa duy tâm ra khỏi "cái hầm trú ẩn" cuối cùng của nó, đã đem lại một cuộc cách mạng trong nhận thức về lĩnh vực xã hội. Học thuyết đã đưa ra một cách nhìn khoa học về nguyên nhân, động lực của sự phát triển lịch sử, về sự phân loại các chế độ xã hội và sự phân kỳ lịch sử nói chung. Phương pháp duy vật khoa học của học thuyết được biểu hiện ngay ở việc xác định căn cứ xuất phát đầu tiên để nghiên cứu lịch sử. Nếu như các quan điểm trước đó xuất phát từ những tiền đề tinh thần, từ những cá nhân trừu tượng phi hiện thực thì C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định tư tưởng về xã hội của mình dựa trên một tiền đề vững chắc: "Nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không phút nào xa rời những tiền đề ấy" [39, tr. 38]. Đó là con người hiện thực, đang sống, đang hoạt động trong thực tiễn. Xuất phát từ tiền đề hiện thực đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét vai trò của nền sản xuất xã hội, chỉ ra cơ cấu cơ bản và phổ biến của nó, chỉ ra những quan hệ tất yếu, những quy luật chi phối sự vận động của nó. ở đây các ông đã rút ra những kết luận khoa học về vai trò của các yếu tố LLSX và QHSX, về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Từ quan niệm về vai trò nền tảng của nền sản xuất vật chất, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục xem xét quan hệ của nó tới các mặt khác của xã hội, chỉ ra vai trò của các nhân tố trong KTTT xã hội và quan hệ biện chứng giữa các nhân tố đó với cơ sở kinh tế. Như vậy, nhất quán với cách tiếp cận duy vật biện chứng C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra những mặt cơ bản của HTKT-XH và các quy luật cơ bản chi phối sự vận động phát triển của nó. Những phát hiện đó cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên một hệ thống quan điểm hoàn chỉnh, phản ánh quan hệ nội tại giữa LLSX, QHSX và đời sống chính trị, tư tưởng, từ đó chỉ ra kết cấu và các quy luật chung của sự vận động xã hội [74]. Hệ thống quan điểm hoàn chỉnh đó đã đem lại một quan niệm mới trong nghiên cứu xã hội. Quan điểm đó xem xét xã hội như một chỉnh thể, một hệ thống toàn vẹn của các lĩnh vực và các quan hệ xã hội. Trong các lĩnh vực và các quan hệ xã hội đó thì lĩnh vực kinh tế và các quan hệ vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định các lĩnh vực và các quan hệ xã hội khác. Trong lĩnh vực kinh tế và các quan hệ vật chất của xã hội thì LLSX và QHSX là những nhân tố cốt lõi tạo thành nền tảng của xã hội. V.I.Lênin đã cho rằng bằng cách "đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất" [33, tr. 163], C.Mác đã tạo ra một cơ sở khoa học vững chắc trong nghiên cứu về xã hội. Cách nhìn mới đó đòi hỏi xem xét xã hội phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của các nhân tố hợp thành nó nhưng lại không được tuyệt đối hóa một nhân tố riêng lẻ nào. Việc tách LLSX, QHSX ra là để thấy cái chi phối nhưng phải hiểu chúng trong sự tương tác biện chứng với các nhân tố, các mặt xã hội khác. Trong đời sống xã hội, chỉ xét đến cùng nhân tố kinh tế mới có vai trò quyết định. Cách nhìn mới đó đòi hỏi phải nhận thức được các quan hệ cơ bản của xã hội, đánh giá đúng đắn vai trò của các chiều tác động trong từng quan hệ, không được tuyệt đối hóa một quan hệ nào đó, hoặc tuyệt đối hóa một chiều riêng biệt của một quan hệ nào đó. Mọi sự tuyệt đối hóa một nhân tố riêng lẻ, một mối quan hệ đến mức không thấy hết vai trò của các nhân tố, quan hệ khác đều có thể dẫn đến những nhận thức sai lầm về xã hội. Với những phát hiện này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, vốn là tinh hoa của tư tưởng nhân loại, lên một trình độ mới, khác về chất trong nhận thức xã hội. Có thể nói rằng chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã là người đầu tiên đưa ra một phương pháp tiếp cận hoàn toàn mới, có tính cách mạng về xã hội, vượt lên mọi tư tưởng đương thời. Phương pháp mới đó đòi hỏi phải nhận thức xã hội trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng - Tức là xem xét xã hội phải xuất phát từ những cơ sở vật chất hiện thực của nó. Trên cơ sở đó mà đánh giá đúng vị trí, vai trò của các nhân tố, liên hệ đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ngày nay có những quan điểm phản đối C.Mác, phủ nhận lý luận HTKT-XH, nhưng thực ra vẫn không vượt ra ngoài khuôn khổ tiếp cận mà C.Mác đã vạch ra. Chẳng hạn tác giả của phương pháp tiếp cận bằng các nền văn minh phê phán học thuyết HTKT-XH là phương pháp tiếp cận hạn hẹp, phiến diện vì nó "dựa trên định đề cơ bản coi sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội", nó không còn phù hợp với nhận thức thời đại hiện nay; rằng đó là thứ lý luận theo chủ thuyết "trọng vật chất" "thô thiển", "ngạo mạn và tự đắc" [78, tr. 121]; rằng lý luận đó đã không nhìn thấy mối liên hệ nhiều vẻ, đặc biệt là "mối liên hệ ngược" của các nhân tố xã hội v.v... [78, tr. 147]. Chúng ta thừa nhận, do sự vận động của thực tiễn, có một số vấn đề cụ thể của học thuyết cần được phát triển, chẳng hạn về vị trí và vai trò của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của sản xuất nói riêng, xã hội nói chung; chẳng hạn hiểu về LLSX hiện nay cần thấy vị trí ngày càng chủ yếu của lao động trí tuệ và do vậy phải nhấn mạnh chiều sâu trong sự phát triển của nó; chẳng hạn hiểu về chế độ sở hữu cần thấy vị trí của sở hữu trí tuệ v.v... Tuy nhiên với tính cách là phương pháp tiếp cận, học thuyết vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cách tiếp cận khoa học nhất trong thời đại hiện nay. Thực ra chính những quan điểm phê phán học thuyết lại chỉ xuất phát từ một nhân tố đơn lẻ mà bỏ qua những mặt cơ bản khác, chẳng hạn chỉ thấy vai trò của khoa học công nghệ mà bỏ qua QHSX, quan hệ giai cấp. Quan điểm đó chỉ nhấn mạnh một chiều quan hệ mà bỏ qua sự tác động biện chứng của các nhân tố của xã hội, chẳng hạn tuyệt đối hóa một chiều quan hệ từ khoa học công nghệ tới kinh tế, xã hội mà không thấy đầy đủ chiều ngược lại. Thực chất, quan điểm đó vẫn ở trong quỹ đạo tiếp cận "hình thái" nhưng phiến diện hơn, thiếu tính khoa học hơn. Hai là: Học thuyết HTKT-XH đã chỉ rõ những động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử. Dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử, bằng sự phân tích khoa học, học thuyết "hình thái" đã chỉ rõ những động lực cơ bản và phổ biến của sự phát triển lịch sử xã hội. Học thuyết đã khẳng định rằng lịch sử xã hội là lịch sử vận động trải qua các giai đoạn từ thấp đến cao và tương ứng với từng giai đoạn ấy là một HTKT-XH nhất định. Xu hướng vận động của các HTKT-XH là xu hướng ngày càng văn minh, tiến bộ hơn. Nguồn gốc để tạo nên xu hướng phát triển ấy là sự phát triển của các nhân tố cơ bản trong HTKT-XH và mối quan hệ nội tại của chúng. Học thuyết HTKT-XH, trước hết coi động lực chung nhất, phổ biến nhất của sự phát triển xã hội là hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác viết: "Chính con người, khi phát triển sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình đã làm biến đổi, cùng với sự tồn tại hiện thực của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình" [39, tr. 38]. Mác nhấn mạnh rằng trong những nhân tố tham dự vào sự phát triển lịch sử, thì trước hết đó là con người vì họ phải lao động để tạo ra các tư liệu sinh hoạt cho mình, phải tái tạo ra đời sống của mình và thế hệ kế tiếp mình. Tư tưởng đó được C.Mác khẳng định rất rõ trong "Hệ tư tưởng Đức": Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của các thế hệ riêng rẽ, trong đó._. mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ trước để lại, do đó mỗi thế hệ, một mặt tiếp tục phương thức hoạt động được truyền lại, nhưng trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động đã hoàn toàn thay đổi [39, tr. 65]. Rõ ràng nếu không có con người và hoạt động thực tiễn của con người thì không có xã hội, không có lịch sử. Con người là một nhân tố năng động, sáng tạo. Hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức. Chính con người là nhân tố hàng đầu trong LLSX, là chủ thể trong toàn bộ quá trình sản xuất và mọi hoạt động xã hội. Hoạt động thực tiễn của con người trên tất cả các lĩnh vực, trải qua các thế hệ, các thời đại đã tạo ra dòng chảy liên tục của lịch sử xã hội, tạo ra sự phát triển của lịch sử. Với những khẳng định đó, học thuyết "Hình thái" đã chỉ rõ động lực vĩnh hằng của sự phát triển lịch sử xã hội là hoạt động thực tiễn của con người. Điều đó cho thấy tính chất vô lý của các luận điểm phê phán học thuyết cho rằng học thuyết chỉ thấy vai trò của yếu tố kinh tế mà bỏ qua con người, không thấy vai trò của con người trong sự phát triển xã hội. Trái lại, thông qua cách đánh giá đúng về hoạt động của nhân tố đó, học thuyết đã nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân tố con người, đề cao vị trí của con người đối với sự vận động của lịch sử. Học thuyết đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao cả và một giá trị khoa học không thể phủ nhận được. Đồng thời và gắn bó khăng khít với hoạt động thực tiễn. Học thuyết "Hình thái" đã chỉ ra vai trò chi phối có tính quyết định của các quy luật lịch sử khách quan. Sự phát triển của xã hội không phải hiện tượng ngẫu nhiên, không phải do thượng đế quyết định, không tuân theo ý chí chủ quan của một lực lượng xã hội nào đó mà luôn tuân theo các quy luật khách quan. Trong đó, những quy luật có vai trò quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất, trình độ của LLSX và quy luật về quan hệ giữa CSHT với KTTT xã hội. Học thuyết đã chỉ rõ LLSX và QHSX vốn được hình thành trong quá trình sản xuất của con người nhưng bản thân chúng lại không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của những cá nhân con người. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng khách quan và quan hệ đó đã tạo thành quy luật khách quan chi phối mọi quá trình sản xuất. Chính quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là một quy luật khách quan cơ bản của mọi PTSX, mọi thời kỳ lịch sử. Quy luật đó là một động lực quan trong nhất chi phối sự phát triển của lịch sử xã hội. C.Mác chỉ rõ rằng, do sự vận động có tính cách mạng hơn, nên đến một chừng mực nào đó LLSX của xã hội sẽ mâu thuẫn với QHSX hiện đang tồn tại, và theo tính tất yếu, những QHSX đó sẽ bị thay thế bởi một QHSX cao hơn, phù hợp với LLSX đã phát triển. Tuy quá trình giải quyết mâu thuẫn đó là không đơn giản mà phải thông qua nhiều nhân tố xã hội khác, song đó chính là nguồn gốc sâu xa của sự phát triển lịch sử. C.Mác đã viết: Như vậy là theo quan điểm của chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp. Ngoài ra, hoàn toàn không cần thiết là mâu thuẫn đã phải đẩy đến cực độ trong một nước, mới gây ra những cuộc xung đột trong nước ấy. Sự cạnh tranh với những nước phát triển hơn về công nghiệp... cũng đủ gây ra những mâu thuẫn loại đó, ngay cả nước kém phát triển hơn về mặt công nghiệp [39, tr. 107]. Quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX sẽ làm thay đổi cơ sở kinh tế của xã hội và khi đó sẽ làm cho chính trị, pháp quyền và các mặt xã hội khác biến đổi theo. Tức là xã hội đã quá độ sang một giai đoạn mới, cao hơn. Rõ ràng các quan hệ giữa LLSX với QHSX, giữa CSHT với KTTT là những quy luật khách quan của sự vận động xã hội và là những động lực khách quan của sự phát triển lịch sử. Không có một xã hội cụ thể nào, không có một giai đoạn lịch sử nào không chịu sự chi phối của các quy luật đó. Thực tiễn lịch sử đã và đang chứng minh vai trò của các quy luật trên đối với sự vận động của một xã hội cụ thể, cũng như của từng giai đoạn lịch sử. Việc nhận thức các động lực nói trên cùng với các động lực xã hội khác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động xã hội. Đó là một giá trị khoa học còn mãi soi đường cho hoạt động cải tạo có tính cách mạng xã hội. Giá trị đó không thể phủ nhận được. Ba là: Học thuyết HTKT-XH đã chỉ ra tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội và sự phân kỳ lịch sử. Xã hội là một cơ thể hết sức phức tạp bao gồm các hiện tượng xã hội và các quan hệ xã hội đan xen, chồng chéo lên nhau. Đó chính là lý do để hầu hết các quan điểm về xã hội trước Mác không thể phát hiện ra tiêu chuẩn khách quan của sự phân kỳ lịch sử và phân loại các chế độ xã hội. Sự ra đời của học thuyết HTKT-XH đã đem lại một cách nhìn hoàn toàn mới. Từ vô số các quan hệ xã hội, học thuyết đã phân thành hai loại quan hệ cơ bản là quan hệ vật chất và các quan hệ tinh thần tư tưởng. Trong các quan hệ vật chất - những quan hệ hình thành một cách khách quan đối với ý thức con người - Học thuyết đã làm nổi bật quan hệ vật chất đầu tiên, tất yếu đó là QHSX. QHSX tồn tại một cách khách quan, không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ một giai cấp, cá nhân nào: Như vậy là ngay từ đầu đã có một hệ thống những mối liên hệ vật chất giữa người với người, một hệ thống bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu đời như bản thân loài người - một hệ thống những mối liên hệ không ngừng mang những hình thức mới... Ngay cả khi chưa có bất cứ một điều nhảm nhí nào về chính trị hoặc về tôn giáo gắn bó thêm con người với nhau [39, tr. 43]. QHSX tồn tại trong sự thống nhất của cả hai chức năng: chức năng kinh tế và chức năng xã hội. ở chức năng kinh tế, QHSX bao giờ cũng tồn tại gắn liền với những LLSX nhất định, là môi trường, điều kiện và là một trong những động lực cho LLSX phát triển. ở chức năng xã hội, QHSX là quan hệ nền tảng quy định các quan hệ chính trị và tinh thần của xã hội, là cơ sở của các mối quan hệ xã hội. ở những xã hội có giai cấp, QHSX mà xét cho tới cùng là chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định sự chiếm hữu và chi phối quyền lực chính trị, và sau đó là các lĩnh vực tinh thần, tư tưởng của xã hội. QHSX chính là cái "tạo thành cơ sở nền tảng cho tính chỉnh thể", "cho sự cố kết, thống nhất các bộ phận, yếu tố cấu thành và các mối liên hệ của xã hội" [69, tr. 33]. Với ý nghĩa đó, V.I.Lênin cho rằng việc Mác phát hiện ra QHSX là đã tìm ra một quan hệ cơ bản nhất của cơ thể xã hội. Với chức năng và vị trí như vậy, QHSX, thống nhất với một trình độ LLSX nhất định, trở thành tiêu chuẩn khách quan để xem xét sự tiến bộ của lịch sử, để phân biệt tính chất xã hội của các thời kỳ lịch sử khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau. Căn cứ vào tiêu chuẩn khách quan đó mà xem xét tính lặp lại, tính quy luật của lịch sử. Từ tiêu chuẩn khách quan đó mà học thuyết "Hình thái" đã đưa ra sự phân kỳ lịch sử một cách khoa học: lịch sử bao gồm các thời kỳ là xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN và cộng sản chủ nghĩa. Mỗi thời kỳ đó được biểu hiện tập trung trong một HTKT-XH. Mỗi thời kỳ đó có QHSX đặc trưng riêng phù hợp với một trình độ phát triển của LLSX, có chế độ, tính chất chính trị và các tư tưởng xã hội riêng. Rõ ràng phương pháp tiếp cận "Hình thái" không chỉ giúp ta thấy sự khác nhau giữa các HTKT-XH mà còn thấy sự khác nhau giữa các xã hội trong một hình thái. Phương pháp tiếp cận theo nền văn minh và một số quan điểm đối lập khác có lẽ cũng nhận ra tính chất quan trọng của phát hiện này, nhất là nó lại không phù hợp với mục đích chính trị của họ, cho nên đã cố tình lờ đi vấn đề QHSX trong luận giải của mình hoặc, bằng mọi cách phủ nhận quan niệm về QHSX của học thuyết. Bốn là: Học thuyết đã chỉ ra xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội. Trên cơ sở phát hiện các quy luật khách quan chi phối sự vận động của các HTKT-XH, học thuyết đã chỉ ra xu thế phát triển tất yếu của toàn bộ lịch sử. Xu thế đó chính là xu thế tiến lên không ngừng từ trình độ thấp đến cao hơn. Xu thế ấy được quyết định từ sự tác động biện chứng của các nhân tố khách quan trong chính ngay HTKT-XH. C.Mác viết: Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện chứng... về thực chất thì có tính chất phê phán và cách mạng... [47, tr. 35-36]. Xu thế đó là bắt nguồn từ sự vận động của các mâu thuẫn nội tại trong HTKT-XH, trong đó mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là quyết định nhất. Xuất phát từ sự giải quyết mâu thuẫn đó mà các mặt của xã hội không ngừng phát triển, mà tạo ra xu thế cho sự ra đời của hình thái mới cao hơn. Xu thế đó là khách quan, tất yếu, không một lực lượng xã hội nào kìm hãm nổi. Như vậy, khi nghiên cứu một HTKT-XH nhất định, học thuyết không chỉ có giá trị trong xem xét cái hiện tồn mà còn chỉ ra xu thế chuyển hóa của nó lên một hình thái mới, trật tự xã hội mới cao hơn. Hình thái cao hơn ra đời bao giờ cũng có tiền đề từ hình thái đang tồn tại, là sự phủ định có kế thừa và phát triển những nhân tố hợp lý, tích cực của cái đang tồn tại, tóm lại là kết quả vận động của những tiền đề hiện đang tồn tại. Như vậy cũng có thể nói rằng, khi chứng minh tính tất yếu của một trật tự xã hội hiện đang tồn tại, Học thuyết "Hình thái" cũng chứng minh luôn tính tất yếu của sự diệt vong của nó, chứng minh luôn tính tất yếu của một trật tự khác mà trật tự hiện tồn tại nhất định phải đi tới. Học thuyết HTKT-XH nghiên cứu trật tự TBCN và chỉ ra rằng CNTB là một chế độ xã hội tiến bộ của lịch sử. Sự xuất hiện của nó không phải từ hư không mà từ những tiền đề do xã hội phong kiến tạo ra, đồng thời trật tự tư sản cũng không thể tồn tại vĩnh hằng mà do những quy luật của chính nó, những mâu thuẫn nội tại của nó, những tiền đề mà nó bắt buộc phải tạo ra, nó sẽ bị thay thế bằng một trật tự xã hội cao hơn là chủ nghĩa cộng sản. Những dự đoán của C.Mác về điều đó đang được lịch sử hiện đại chứng minh. CNTB càng tìm cách phát triển LLSX thì lại càng thúc đẩy tính xã hội hóa về sở hữu, quản lý, phân phối, càng thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa đời sống nhân loại. Đó chính là những đặc trưng của một xã hội khác cao hơn hình thái TBCN. CNTB đang tiến dần đến giới hạn cuối cùng của nó, đến sự diệt vong tất yếu của nó. Rõ ràng học thuyết HTKT-XH đã thể hiện tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Giá trị khoa học và cách mạng thống nhất chặt chẽ với nhau ở chỗ "nó giải thích rõ những quy luật đặc thù chi phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong của một trật tự xã hội nhất định và sự thay thế nó bằng một cơ thể khác cao hơn" [26, tr. 12]. Mặt khác, giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết còn được thể hiện ở chính chức năng phương pháp luận của nó. Học thuyết không chỉ giải thích sự tiến lên của lịch sử mà còn là phương pháp chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong xây dựng một xã hội cụ thể một cách tự giác hơn. Học thuyết đòi hỏi sự vận dụng nó không phải như một bản thiết kế có sẵn mà phải với tinh thần linh hoạt, sáng tạo, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. Mọi sự áp dụng giáo điều, rập khuôn, máy móc đều xa lạ với tính phương pháp, tính cách mạng của học thuyết. Do tính cách mạng và khoa học của nó, học thuyết HTKT-XH từ khi ra đời đến nay đã nhiều lần phải đương đầu với sự chống đối, công kích của các trào lưu tư tưởng đối lập. Giai cấp tư sản không thể chấp nhận được học thuyết vì nó đã luận chứng một cách khoa học và chặt chẽ về sự thay thế tất yếu của xã hội TBCN bằng một xã hội khác cao hơn. Các phần tử cơ hội dưới mọi màu sắc cũng luôn tìm cách chống lại học thuyết vì nó đã tuyên ngôn một thế giới quan mới đối lập với lợi ích của chúng. Từ những năm 1960, "chủ nghĩa kỹ trị" tuyên bố rằng nhân tố kỹ thuật, công nghiệp là nhân tố quyết định sự vận động, phát triển của xã hội. Những năm 1980, thuyết "xã hội hậu công nghiệp" trên hướng tiếp cận của "chủ nghĩa kỹ trị" nhưng tìm mọi cách lảng tránh các vấn đề về hệ tư tưởng, về tính chất của chế độ chính trị. Gần đây nhất, thuyết "các nền văn minh" đã đưa ra cách tiếp cận từ văn hóa mà cốt lõi là từ phát triển của khoa học - công nghệ. Thuyết "các nền văn minh" cũng tìm mọi cách lảng tránh vấn đề về QHSX, quan hệ giai cấp, cách mạng xã hội, sự khác biệt giữa chế độ chính trị TBCN và XHCN. Với những thuyết đó, giai cấp tư sản đã tuyên bố rằng học thuyết HTKT-XH là "giới hạn", "xơ cứng", "không tưởng", "lạc hậu", không còn phù hợp với thời đại hiện nay [81, tr. 61-62]. Đặc biệt từ sau khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phạm vi và cường độ chống lại học thuyết càng tăng lên. Đây thực sự là một giai đoạn thử thách khắc nghiệt vị trí, ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, học thuyết HTKT-XH nói riêng. Đây chính là giai đoạn quan trọng kiểm chứng giá trị và sức sống của học thuyết. Sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Đông Âu, sự phát triển của CNTB thế giới, chính là những căn cứ chủ yếu để các quan điểm đối lập phê phán và phủ định học thuyết. Họ nói rằng học thuyết do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo phản ánh thời đại các ông sống, không còn phù hợp với thời đại hiện nay. Trong khi khẳng định giá trị của học thuyết HTKT-XH, chúng tôi đã phần nào chỉ ra sức sống của học thuyết gắn với những giá trị của nó. Tuy nhiên nhìn một cách chung nhất, cần khẳng định rằng những diễn biến của thời đại hiện nay, đặc biệt của những thập niên cuối thế kỷ 20, lại đang khẳng định sức sống của học thuyết. Những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự phát triển của LLSX, về tính xã hội hóa của LLSX, về sự thay đổi lớn lao của các quan hệ xã hội, về xu thế "quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến" của các dân tộc [40, tr. 542], ngay cả về sự "cải cách", điều chỉnh của CNTB [40, tr. 600-601] v.v... đang được lịch sử hiện đại chứng minh. Sự đúng đắn của những dự báo ấy lại là minh chứng cho tính đúng đắn của những dự báo về xu thế tiến lên tất yếu của lịch sử. C.Mác thật sự vẫn là "một nhà triết học vĩ đại" [18, tr. 78]. Học thuyết "Hình thái" vẫn đang tỏ rõ sức sống mãnh liệt của nó. Dĩ nhiên sức sống của học thuyết còn đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung, phát triển dựa trên những thay đổi của thời đại. Nội dung các khái niệm LLSX, QHSX cần phải hiểu gắn với thời đại hiện nay (xem trang 16), xem xét vấn đề bản chất của nhà nước không được tuyệt đối hóa quan hệ giai cấp đến mức chỉ có nó, mà phải thấy sự thống nhất giữa tính giai cấp - dân tộc - nhân loại, phải đánh giá đúng chức năng xã hội của nhà nước... Nếu đem so sánh các quan điểm và học thuyết đã từng phê phán nói trên với học thuyết HTKT-XH, chúng ta thấy những học thuyết đó, kể cả học thuyết "các nền văn minh", có thể có những giá trị nhất định trong nhận định diễn biến của xã hội hiện đại về mặt kinh tế - kỹ thuật, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, nhưng chưa đạt tới tính toàn diện, tính chỉnh thể, khoa học như phương pháp HTKT-XH. Tất cả những học thuyết đó đều tuyệt đối hóa một vài nhân tố riêng biệt nào đó, một vài quan hệ nào đó, mà không thấy hết vai trò của các nhân tố và quan hệ xã hội khác. Các cách tiếp cận ấy thậm chí còn những "sai lầm, lệch lạc" [21, tr. 24-25] trong xem xét một số lĩnh vực xã hội. Học thuyết HTKT-XH vẫn là cách tiếp cận đúng đắn trong thời đại hiện nay. Học thuyết vẫn đang định hướng cho hoạt động tự giác, sáng tạo của con người hướng tới xây dựng một xã hội tiến bộ hơn theo đúng quy luật khách quan của lịch sử. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết vẫn đang tỏa sáng trong thời đại chúng ta. 1.1.2. Học thuyết HTKT-XH trong nhận thức xu thế CNXH của thời đại hiện nay Học thuyết HTKT-XH, trên cơ sở vạch ra những quy luật khách quan chi phối, đã chỉ rõ xu thế vận động tất yếu của xã hội là loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH. Xu thế đó không chỉ là lý luận mà còn là thực tiễn của thời đại. Thứ nhất: Tiếp cận của lý luận HTKT-XH đối với sự ra đời của CNXH Trong bộ "Tư bản" C.Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên" [47, tr. 21]. Luận điểm đó của Mác đã bao hàm quan điểm xem xét xã hội không chỉ trong tính cơ cấu, tính chỉnh thể của nó mà còn trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Lý luận HTKT-XH coi cơ sở của mọi biến đổi lịch sử là hoạt động của con người. Con người hoạt động theo đuổi những mục đích khác nhau nhưng hoạt động đó không phải là tùy tiện mà vẫn bị chi phối, phải tuân theo những quy luật khách quan nhất định. Quy luật xã hội không nằm ngoài hoạt động con người, nó được hình thành thông qua hoạt động của con người nhưng lại tồn tại khách quan đối với hoạt động đó. Vì vậy mỗi một HTKT-XH trong lịch sử là kết quả của hoạt động thực tiễn con người tuân theo những quy luật khách quan nhất định. Mỗi HTKT-XH là một cơ thể xã hội hoàn chỉnh, tự vận động và phát triển theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Mỗi một hình thái là "một cơ thể xã hội riêng biệt, có những quy luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và bước chuyển của nó lên một hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác" [33, tr. 538]. Do sự chi phối của hệ thống các quy luật xã hội khách quan, trong đó quy luật chung nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, mà lịch sử đã phát triển trải qua các HTKT-XH từ thấp đến cao và tương ứng với nó là các giai đoạn lịch sử. Cho đến nay xã hội đã trải qua các giai đoạn và tương ứng với nó là các HTKT-XH là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN và ngày nay nhân loại đang bước vào một thời kỳ quá độ mới tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp là CNXH. HTKT-XH cộng sản chủ nghĩa, với tính cách là hình thái ra đời sau và cao hơn CNTB đã được C.Mác và Ph.Ăngghen phác thảo ở những nét cơ bản nhất: đó là xã hội mà LLSX đã phát triển mang tính xã hội hóa cao độ, xã hội tiến hành điều tiết sản xuất trao đổi sản phẩm một cách có kế hoạch, sản xuất được mở rộng và phát triển dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi sự áp bức giai cấp, phân chia giai cấp bị xóa bỏ, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn được xóa bỏ, con người được phát triển tự do những năng lực của cá nhân mình [69, tr. 104]. CNXH là giai đoạn đầu của hình thái đó, dĩ nhiên các đặc trưng trên chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ nhưng chúng đã có và đang vận động, phát triển trong thực tế. ở CNXH, mục tiêu khai thác và phát triển LLSX phải được chú ý và phải là kết quả của sự "liên hợp" tất cả các thành viên trong xã hội, phải từng bước xây dựng và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phải xóa bỏ áp bức giai cấp, xóa bỏ tình trạng thỏa mãn nhu cầu của một số người này bằng sự hy sinh nhu cầu của một số người khác, phải tạo công bằng xã hội dựa trên chế độ phân phối theo lao động, phải xây dựng nhà nước XHCN ngày càng vững mạnh... Tuân theo tính lịch sử tự nhiên của sự phát triển các HTKT-XH, loài người nhất định sẽ tiến tới xã hội XHCN. Tiến tới xã hội XHCN là quy luật tất yếu của sự phát triển các HTKT-XH sau giai đoạn TBCN. Bởi vì thông qua quan niệm lịch sử - tự nhiên, học thuyết "hình thái" đã chứng minh rằng không có một hình thái cụ thể nào có thể tồn tại một cách vĩnh cửu, không bị thay thế bởi một xã hội khác cao hơn, kể cả hình thái TBCN hiện nay. CNTB không thể là hình thái cuối cùng của lịch sử mà sớm muộn nó sẽ bị phủ định bởi một hình thái cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản. Vận dụng quan điểm về sự phát triển lịch sử - tự nhiên vào nghiên cứu xã hội TBCN đương thời, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những phân tích khách quan và khoa học. Các ông luôn xem xét CNTB một cách toàn diện trên cả hai bình diện chủ yếu là những đóng góp của nó đối với tiến bộ lịch sử và cả những hạn chế to lớn của nó, từ đó mà chỉ ra xu thế tất yếu của CNXH. Ngay từ những tác phẩm trước và đặc biệt trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen "đã đem lại một cách nhìn nhận, đánh giá cái trật tự tư sản hiện tồn và chỉ ra sự cần thiết tất yếu phải xóa bỏ trật tự ấy" [69, tr. 63]. Các ông đã chỉ rõ CNTB là giai đoạn tất yếu trong sự phát triển lịch sử - tự nhiên của các HTKT-XH, là giai đoạn tất yếu của lịch sử. Sự ra đời xã hội TBCN là kết quả của những tiền đề vật chất và những mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội phong kiến. CNTB có vai trò hết sức to lớn trong tiến bộ của lịch sử. Vai trò tích cực của CNTB trước hết được biểu hiện ở sự thúc đẩy LLSX của xã hội phát triển hết sức nhanh chóng. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước gộp lại" [40, tr. 603]. Có thể nói CNTB đã thực hiện một bước nhảy vọt vĩ đại trong LLSX nhờ cuộc cách mạng công cụ lao động, dùng máy móc công nghiệp thay thế cho công cụ sản xuất thủ công. Từ chỗ thực hiện bước nhảy vọt trong LLSX, CNTB đã làm thay đổi căn bản cơ sở vật chất kỹ thuật của toàn xã hội, thúc đẩy các mặt cơ bản khác của đời sống xã hội phát triển lên trình độ của một nền văn minh mới trong lịch sử. Những đóng góp to lớn ấy của CNTB đối với lịch sử là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên ngay ở điểm mạnh nhất của CNTB thì cũng đã là sự chuẩn bị những tiền đề vật chất cho một xã hội trong tương lai phủ định nó. CNTB càng ra sức phát triển LLSX thì lại càng làm nảy sinh và thúc đẩy những mâu thuẫn nội tại vượt ra ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Điều đó được thể hiện thông qua những biểu hiện chủ yếu sau đây: Một là: Giai cấp tư sản càng thúc đẩy LLSX phát triển cũng có nghĩa là càng tích cực chuẩn bị những điều kiện vật chất cho sự diệt vong của mình. CNTB chiến thắng chế độ phong kiến vì nó đã tạo ra một LLSX phát triển hơn hẳn. CNTB không thể tồn tại nếu không có một LLSX hùng mạnh. Nhưng phát triển LLSX, có nghĩa là phải đồng thời tạo ra những công cụ lao động, những tư liệu sản xuất ngày càng hiện đại và tạo ra lực lượng lao động ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trình độ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu của tư liệu lao động và con người sử dụng các tư liệu ấy đã quyết định sự sống còn của CNTB. Các nhân tố trên càng phát triển cũng có nghĩa những tiền đề vật chất chuẩn bị cho sự ra đời của một xã hội cao hơn - chủ nghĩa cộng sản - càng hoàn thiện, đầy đủ hơn. Bởi vì không có một xã hội nào ra đời từ hư không mà chính là từ những tiền đề do xã hội cũ tạo ra. Chủ nghĩa cộng sản cũng vậy, nó là một xã hội phát triển cao hơn CNTB nhưng những tiền đề vật chất ban đầu của nó là LLSX đã do CNTB tạo ra rồi. LLSX hiện đại với công cụ lao động bằng máy móc công nghiệp ngày càng phát triển ở trình độ cao, với giai cấp công nhân ngày càng hùng mạnh chính là tiền đề vật chất cho xã hội mới xuất hiện. Đó là những yếu tố quyết định sự diệt vong của CNTB. Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: "Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản" [40, tr. 605]. Hai là: Giai cấp tư sản càng thúc đẩy LLSX phát triển thì càng làm tăng mức gay gắt của các mâu thuẫn nội tại, trong đó sự gia tăng của mâu thuẫn cơ bản giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của LLSX với quan hệ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất sẽ quyết định sự diệt vong của CNTB. Như trên đã phân tích, CNTB không thể tồn tại nếu không phát triển LLSX và CNTB muốn kéo dài thời gian tồn tại, không có cách nào khác là phải không ngừng phát triển LLSX cả về chiều rộng và chiều sâu của nó. Tuy nhiên xu thế của LLSX không những không tương hợp mà ngày càng mâu thuẫn với QHSX TBCN. C.Mác thông qua bộ "Tư bản" đã giải phẫu quan hệ kinh tế của xã hội TBCN và chỉ rõ quan hệ bản chất của nền kinh tế đó là chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân TBCN khác với các loại sở hữu tư nhân khác ở chỗ nó đã hoàn toàn tách người lao động ra khỏi các tư liệu sản xuất mà họ sử dụng trong quá trình sản xuất. Chế độ sở hữu đó đã đưa lại một phương thức bóc lột mới cho giai cấp tư sản, hoàn toàn có tính chất kinh tế, tinh vi xảo quyệt đó là tước đoạt giá trị thặng dư của người lao động. Chế độ sở hữu đó chính là nguồn gốc của những bất công, bất bình đẳng trong xã hội, của nạn thất nghiệp, tệ bần cùng hóa tương đối và tuyệt đối người công nhân v.v... Tức là, nó là cơ sở của những mâu thuẫn về giai cấp, về xã hội trong xã hội TBCN. Một khi LLSX càng phát triển mà bản chất sở hữu TBCN không thay đổi phù hợp thì QHSX đó ngày càng trở thành vật chướng ngại cho LLSX, và những mâu thuẫn xã hội cũng ngày càng tăng lên. Đó là quy luật khách quan. Các mâu thuẫn đó sớm muộn sẽ phá bung chế độ xã hội đang chứa đựng nó. Đây chính là cơ sở vững chắc để các nhà sáng lập học thuyết HTKT-XH "vạch ra xu hướng "thủ tiêu tư bản" thông qua chính sự phát triển của nó" [38, tr. 22] và đi đến kết luận về sự ra đời tất yếu của CNXH. Ngày nay có một số người ra sức phản bác lời khẳng định nói trên. Họ cho rằng những kết luận đó của Mác, Ăngghen là thuần túy tư biện chủ quan, là không tưởng... bởi vì chưa có cuộc cách mạng XHCN nào xảy ra ở các nước tư bản phát triển cả. Ngay ở Việt Nam cũng có những người cho rằng những dự kiến của C.Mác về CNXH "chẳng qua chỉ là những dự báo mang tính giả thiết chủ quan, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm thực tế và càng chưa được thực tế kiểm nghiệm" [24, tr. 5], rằng đó chỉ là "một thứ chủ nghĩa xã hội lôgic" [66, tr. 1], rằng chủ nghĩa Mác "đã phơi bày mặt trái tệ hại của nó khi nó không có sức sống trong thực tiễn" [77] v.v... Mục đích của những người đưa ra quan điểm nói trên là muốn phủ nhận cơ sở lý luận của CNXH, đòi xóa bỏ con đường XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, thực tế phát triển của lịch sử ở thế kỷ 20, với sự ra đời của Liên Xô và hệ thống XHCN đã bác bỏ những lập luận đó. Ngày nay thực tế lịch sử phát triển của CNTB hiện đại cũng đang chứng minh rằng, cho dù có cố gắng điều chỉnh về QHSX bao nhiêu thì giai cấp tư sản cũng không bao giờ chấp nhận sự thay đổi bản chất sở hữu tư bản về tư liệu sản xuất. Vì vậy những mâu thuẫn nói trên có thể tạm thời lắng dịu đi hoặc biểu hiện bằng những hình thức khác nhưng vẫn tồn tại khách quan. Những lập luận nói trên chỉ là sự lặp lại quan điểm tư tưởng tư sản mà đương thời V.I.Lênin đã nhấn mạnh: "Chủ nghĩa xã hội không phải là những điều bịa đặt của những kẻ mộng tưởng mà là mục đích cuối cùng, là kết quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội hiện đại" [34, tr. 3]. Đánh giá về cách tiếp cận của Mác đối với sự ra đời của CNXH, V.I.Lênin đã khẳng định rằng Mác "đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó" [35, tr. 104]. Như vậy, với quan điểm HTKT-XH, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chứng minh tính tạm thời của CNTB và tính tất yếu lịch sử của bước quá độ sang xã hội mới XHCN. Đây là cống hiến to lớn về mặt khoa học của học thuyết HTKT-XH. Tuy nhiên cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn về những dự báo của Mác, Ăngghen về xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là CNXH. Có thể nói rằng C.Mác, Ph.Ăngghen và sau đó là V.I.Lênin đã chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời CNXH, chỉ ra con đường và lực lượng vật chất thực hiện bước chuyển từ CNTB lên CNXH, chỉ ra mô hình nói chung và những nguyên tắc cơ bản để xây dựng CNXH. Còn những vấn đề cụ thể, các bước đi cụ thể, thời gian cụ thể v.v... để thực hiện bước chuyển và xây dựng xã hội mới thì các ông chưa có đủ cơ sở thực tiễn để kết luận. Điều đó không có gì khó hiểu vì thời đại lịch sử của các ông sống chưa cho phép có những nhận định đầy đủ. Hơn nữa học thuyết của các ông, như các ông từng nhất mạnh, không phải là một cái gì đã hoàn toàn đầy đủ, xong xuôi, đóng kín mà nó là một học thuyết mở, cần không ngừng bổ sung phát triển trên cơ sở vận động của thực tiễn lịch sử. Thứ hai: CNXH vẫn là xu thế trong thời đại hiện nay. Từ sau khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trong khi CNTB vẫn tồn tại và đang còn sức phát triển, lại càng có nhiều ý kiến cho rằng những dự đoán của chủ nghĩa Mác về sự ra đời của CNXH chỉ là những giả định chủ quan, không thực tế và không thể xảy ra, cho rằng học thuyết về CNXH là một sai lầm, con đường CNXH mà một số nước thực hiện là một "lầm lạc của lịch sử", CNTB sẽ là chế độ xã hội tồn tại vĩnh viễn và tốt đẹp nhất trong lịch sử [64]. Có đúng như vậy không? Để luận giải điều đó đòi hỏi phải làm sáng tỏ được hai vấn đề cơ bản: Những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực và thực trạng vận động của các nước TBCN phát triển hiện nay. Một là: Nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu. Chúng ta đều biết, từ những dự báo khoa học của Mác, chế độ XHCN đã ra đời và tồn tại ở Liên Xô hơn 70 năm. Trong suốt thời gian tồn tại của mình, CNXH hiện thực đã để lại những thành tựu to lớn không thể phủ nhận được về tất cả các phương diện. Toàn bộ thời gian tồn tại của nó, CNXH đã trở thành một đối trọng của CNTB. Bản thân sự phát triển của CNTB cũng có một nguyên nhân từ phía tồn tại của CNXH. Nhờ cạnh tranh, nhờ rút kinh nghiệm từ những khuyết điểm của CNXH, nhờ học tập những ưu việt của chế độ XHCN... mà CNTB đã có những điều chỉnh và phát triển. Những tiến bộ mà CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước khác để lại cho lịch sử nhân loại là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên trong hơn 70 năm tồn tại, CNXH hiện thực ở Liên Xô và một số nước Đông Âu khác cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết, sai lầm. Những sai lầm đó đã dần dần trở thành những chướng ngại kìm hãm sự phát triển của xã hội và cuối cùng đã làm sụp đổ chế độ XHCN. Sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu do sự tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên những nguyên nhân chủ yếu: - Do chậm đổi mới về QHSX, dẫn đến chỗ QHSX không đáp ứng yêu cầu phát triển LLSX, trở thành chướng ngại, kìm hãm nền sản xuất. Có thể nói tư duy về xây dựng QHSX mới phù ._. tác hiện nay cần có sự tìm tòi, đổi mới để nó xứng đáng là một bộ phận hợp thành QHSX XHCN đồng thời là một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. - Xây dựng kinh tế hợp tác phải triệt để tuân theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, tránh mọi biểu hiện gò ép, cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào. Xây dựng kinh tế hợp tác không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn. - Đa dạng hóa các loại hình, các hình thức và các quy mô của kinh tế hợp tác. Hình thức và quy mô của kinh tế hợp tác phải dựa trên sự liên kết của người lao động, các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp, giữa công nghiệp với nông nghiệp v.v... Xây dựng hợp tác xã, bộ phận quan trọng của kinh tế hợp tác, phải căn cứ vào yêu cầu khách quan của từng địa phương. Tiêu chuẩn cao nhất của sự phù hợp đó là hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã. - Nhà nước cần có chính sách giúp đỡ, hỗ trợ về vốn đầu tư, địa bàn sản xuất, địa bàn tiêu thụ sản phẩm, đào tạo cán bộ v.v... tạo điều kiện cho các hợp tác xã hoạt động tốt và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. 3.2.5. Giải quyết những bức xúc về mặt văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Thứ nhất: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Theo nghĩa rộng văn hóa là sự kết tinh những giá trị vật chất, tinh thần của xã hội, được thể hiện trong toàn bộ lĩnh vực tinh thần của xã hội. Theo nghĩa hẹp văn hóa được hiểu như là những giá trị đặc trưng của một xã hội thể hiện trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống của xã hội đó. Cho dù hiểu theo nghĩa nào thì văn hóa cũng tồn tại trên một cơ sở kinh tế, phản ánh trình độ phát triển kinh tế, đồng thời luôn tác động đến sự phát triển của kinh tế, xã hội. ĐHXHCN, đồng thời với việc không ngừng phát triển LLSX, xây dựng QHSX mới, xây dựng hệ thống chính trị XHCN vững mạnh, phải luôn quan tâm xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một mục tiêu không thể thiếu được của đất nước ta. Mục tiêu đó được quy định bởi chính mục tiêu xây dựng CNXH của đất nước. Đồng thời, lĩnh vực văn hóa của nước ta hiện nay đang chịu nhiều luồng tác động, ảnh hưởng, đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa các xu hướng. - Hiện nay nước ta đang duy trì nền kinh tế thị trường, ĐHXHCN. Cho dù có ĐHXHCN, nhưng những mặt trái của cơ chế thị trường vẫn phát sinh tác dụng ở mức độ nhất định. Có thể nói "những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đang thâm nhập vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội" [58, tr. 30]. Những tiêu cực đó đang tự phát tác động đến văn hóa, gây nên tính phức tạp trong sự vận động của văn hóa, đặc biệt trong tư tưởng, đạo đức và lối sống. - Nền văn hóa Việt Nam hiện nay đang vận động trong điều kiện mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của thông tin và các phương diện truyền thông hiện đại đã làm cho không gian văn hóa của hành tinh thu hẹp lại, tạo môi trường thuận lợi cho các luồng văn hóa thâm nhập lẫn nhau. Trong môi trường đó, văn hóa nước ta đang đứng trước cả thách thức và thời cơ, thuận lợi và khó khăn. Văn hóa bên ngoài đang chảy vào nước ta bằng nhiều con đường. Trong dòng chảy đó, ngoài những giá trị tích cực, những tư tưởng, đạo đức, lối sống tiêu cực đang thâm nhập và ảnh hưởng xấu đến văn hóa của dân tộc ta. Đây là thực trạng đáng lo ngại hiện nay. - Ngoài ra, vốn từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu đi lên, văn hóa của nước ta hiện nay còn chịu ảnh hưởng của văn hóa cũ lạc hậu về tập tục, lối sống, thói quen. Trong quản lý văn hóa của chúng ta cũng còn nhiều sơ hở, bất cập. Những tác động nhiều vẻ nói trên đã tạo nên những diễn biến phức tạp trong lĩnh vực văn hóa của đất nước. Những diễn biến trên lĩnh vực văn hóa đang đòi hỏi Đảng, nhà nước và toàn thể nhân dân ta phải giải quyết nhằm đem lại bầu không khí lành mạnh cho văn hóa dân tộc phát triển. Cái cốt lõi của nền văn hóa dân tộc ta là tinh thần cần cù sáng tạo, chủ nghĩa yêu nước và tình yêu thương. Cái cốt lõi của nền văn hóa xã hội XHCN cũng là sự sáng tạo và tính nhân văn cao cả. Xây dựng nền văn hóa dân tộc theo mục tiêu CNXH là một quá trình thống nhất và cũng là một phương hướng cơ bản để chúng ta giữ vững ĐHXHCN của đất nước ta. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa có lý tưởng cao đẹp, tư tưởng cách mạng và khoa học, đạo đức và tâm hồn trong sáng, lối sống lành mạnh. Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa có sự nghiệp giáo dục phát triển với trình độ dân trí và học vấn cao. Nền văn hóa tiên tiến không bao giờ đoạn tuyệt với những giá trị truyền thống, trái lại nó là sự kế thừa, phát huy những tinh hoa truyền thống lên tầm tiên tiến của thời đại. Để từng bước xây dựng nền văn hóa như vậy, trong thời gian hiện nay chúng ta cần chú ý: - Tiến hành giáo dục thường xuyên chủ nghĩa Mác - Lênin, và những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Phải nâng cao và khắc sâu nhận thức của mọi người dân về truyền thống văn hóa dân tộc với các giá trị tiêu biểu như giàu lòng yêu nước, yêu quê hương; tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường, sáng tạo, vượt mọi khó khăn; giàu lòng nhân ái, vị tha, sống thủy chung, tình nghĩa, ghét bất công, trọng lẽ phải; tế nhị và sâu sắc trong tình cảm, phong phú trong tâm hồn v.v... giáo dục bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp với từng đối tượng. - Phát động phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới, động viên toàn dân và mọi tổ chức tham gia vào các phong trào đó. Coi trọng xây dựng đời sống văn hóa từ gia đình và từ các cộng đồng dân cư. - Xây dựng pháp luật về văn hóa và các chính sách văn hóa, sửa đổi bổ sung các điều luật và các sắc lệnh về văn hóa phù hợp với tình hình mới, xây dựng quy chế về các giải thưởng văn hóa, quy định về lễ hội, hiếu, hỷ v.v... Hoàn thiện các chính sách về văn hóa như chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, bảo tồn di sản văn hóa v.v... - Không ngừng mở rộng quan hệ giao lưu văn hóa với các dân tộc trên thế giới. Trong giao lưu văn hóa phải đảm bảo nguyên tắc làm phong phú văn hóa dân tộc bằng các tri thức mới, có chọn lọc kỹ càng trong tiếp thu văn hóa, chống khuynh hướng lai căng, sùng ngoại, mất gốc trong giao lưu văn hóa. - Tăng cường đầu tư cho văn hóa, cho con người, tăng nguồn nhân lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa, nhất là những công trình văn hóa trọng điểm; củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức cho hoạt động và đào tạo văn hóa; tăng đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa. - Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, đảm bảo cho văn hóa phát triển đúng ĐHXHCN, đồng thời đảm bảo quyền tự do dân chủ trong sáng tạo văn hóa. Khuyến khích mọi sự sáng tạo văn hóa lành mạnh. - Chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng cực đoan, bài trừ các biểu hiện văn hóa lệch lạc hoặc lợi dụng văn hóa để tuyên truyền tư tưởng và quan niệm văn hóa không phù hợp với mục tiêu phát triển của văn hóa Việt Nam như mê tín, di đoan, lối sống tư sản v.v... Nghiêm cấm truyền bá các sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động, kích động bạo lực. Thứ hai: Giải quyết những bức xúc về mặt xã hội, xây dựng xã hội Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh. Lĩnh vực xã hội là lĩnh vực hội tụ và phản ánh đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa. Sự phát triển lành mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh của xã hội là sự biểu hiện trực tiếp của văn hóa, đồng thời là thước đo trình độ phát triển của kinh tế, chính trị. Trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta, mức sống của các tầng lớp nhân dân được nâng cao hơn, các tiêu chí công bằng, dân chủ được nâng lên. Tuy nhiên đồng thời với sự phát triển kinh tế, về mặt xã hội đã nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Trong những vấn đề xã hội đặt ra hiện nay, mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và sự nảy sinh, diễn biến của các loại tội phạm, tệ nạn xã hội là những vấn đề bức xúc hàng đầu. Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ĐHXHCN chúng ta phải giải quyết được các bức xúc đó. Một là: Đảm bảo tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Thành tựu nổi bật của đổi mới ở Việt Nam là thành tựu phát triển kinh tế. Trong những năm 1992 - 1997 chúng ta luôn có tốc độ phát triển kinh tế khá cao, sau năm 1997 tốc độ tăng trưởng có giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực, nhưng vẫn duy trì được tăng trưởng vào loại cao trong khu vực. Sự tăng trưởng kinh tế đã tạo ra điều kiện nâng cao mức sống của nhân dân, có một số hộ trở thành giàu có. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một bộ phận dân cư sống trong cảnh nghèo khổ. Tăng trưởng kinh tế đã bộc lộ mặt trái của nó. Sự không công bằng được thể hiện chủ yếu ở sự bất bình đẳng trong thu nhập, sự chênh lệch có khoảng cách lớn trong thu nhập giữa các hộ, các ngành, các vùng, các giai tầng trong xã hội. Thực tế một số năm qua cho thấy sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng lên; khoảng cách thu nhập giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các ngành, vùng sản xuất ngày càng giãn rộng; tỷ lệ dân số nghèo ở Việt Nam rất đông, các xã nghèo ở nước ta còn nhiều [73, tr. 36-37]. Tình hình đó do nhiều nguyên nhân tác động, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là do sự vận động của kinh tế. Nền kinh tế trong giai đoạn đầu chuyển đổi cơ chế, chưa đầy đủ khả năng để dung nạp toàn bộ lực lượng lao động vào làm việc, gây nên hiện tượng thất nghiệp khá cao, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Nói theo một nghĩa nào đó thì, nền kinh tế thị trường đã tạo nên sự bất bình đẳng về cơ hội làm việc của người lao động. Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế đã tạo ra một số ngành, vùng, công việc có năng suất cao, thu nhập cao, trong khi ở những ngành, vùng, công việc khác còn thấp. Đó là nguyên nhân chính tạo ra sự chênh lệch thu nhập, cách biệt giàu nghèo, tức là sự bất bình đẳng về hưởng thụ thành quả vật chất và tinh thần trong xã hội. Thêm vào đó, sự bất công bằng còn có sự tham gia của những nhân tố làm ăn bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả, bòn rút của cải nhà nước... Tình trạng bất công bằng có thể là mầm mống gây nên những bất ổn về mặt xã hội và là hiện tượng mâu thuẫn trực tiếp với mục đích thực hiện bình đẳng, công bằng của con đường CNXH. Tình trạng đó đòi hỏi phải được giải quyết bằng những giải pháp phù hợp. Giải quyết vấn đề công bằng xã hội hiện nay phải tuân theo nguyên tắc là nhằm không ngừng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống của mọi tầng lớp nhân dân chứ không phải là đem chia đều sự nghèo khổ cho mọi người. Nguyên tắc giải quyết sự bất công bằng đòi hỏi phải chú ý tới nguồn gốc của nó là kinh tế, là phát triển kinh tế. Do vậy cần chú ý: - Phải đẩy mạnh chiến lược CNH, HĐH phát huy lợi thế so sánh. Việt Nam là nước có lực lượng lao động đông, số lao động sống ở nông thôn còn lớn, số lao động thiếu việc làm và thất nghiệp khá cao, vì vậy chiến lược CNH, HĐH phải ưu tiên phát triển những ngành, những cơ sở xí nghiệp sử dụng nhiều lao động, tăng cường xuất khẩu lao động. Đây là giải pháp thiết thực tạo ra sự công bằng về việc làm. - Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay Việt Nam vẫn có hơn 70% dân cư sống trong khu vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn, trong khi đó sản xuất nông nghiệp phát triển chậm, sự nghèo khổ ở khu vực này còn lớn, khoảng cách chênh lệch thu nhập so với thành thị khá cao. CNH, HĐH ở khu vực này phải theo hướng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển trên cơ sở không ngừng đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, mở rộng và phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp tăng cường hàm lượng chất xám trong sản phẩm nông nghiệp v.v... - Đẩy mạnh giáo dục đào tạo, chú trọng phát triển giáo dục đào tạo cho nông dân và các tầng lớp lao động nghèo để họ và con em họ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với yêu cầu của nền kinh tế, từ đó mà có cơ hội làm việc, tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội. - Xây dựng chính sách xã hội hướng vào lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện các chính sách xã hội ưu đãi để khuyến khích sản xuất và trợ giúp các hộ nghèo, các vùng đặc biệt khó khăn, các gia đình có công với cách mạng. - Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn xu hướng làm giàu bất chính, phi pháp như tham nhũng, buôn lậu, hàng giả v.v... xử lý nghiêm khắc các đối tượng vi phạm. Hai là: Đấu tranh chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Đảm bảo an ninh trật tự là một nhiệm vụ thường xuyên của mọi quốc gia. Đảm bảo an ninh - trật tự là điều kiện giữ vững ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế. ĐHXHCN được thực hiện dựa trên tiền đề ổn định và phát triển. Vì vậy đấu tranh bảo đảm an ninh, trật tự là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với ĐHXHCN ở nước ta. Việt Nam từ khi bước vào cơ chế thị trường, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội có diễn biến phức tạp. Tính phức tạp thể hiện ở cả quy mô, nhịp độ, tính chất của tội phạm và tệ nạn xã hội. Có những loại tội phạm và tệ nạn mới phát sinh mà giai đoạn trước đây không có. Có những loại tội phạm và tệ nạn trước đây đã có nhưng phạm vi nhỏ hẹp thì nay phát triển mạnh mẽ hơn. Tính chất và thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm và tệ nạn cũng biến đổi theo hướng nguy hiểm và tinh vi xảo quyệt hơn. Tình trạng diễn biến của tội phạm và tệ nạn xã hội đã trở thành nỗi ám ảnh cho nhiều người dân, làm mất ổn định về an ninh trật tự xã hội, ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế và đang góp phần làm tha hóa đạo đức, lối sống của xã hội. Tình hình tội phạm và tệ nạn mâu thuẫn với mục tiêu xây dựng xã hội lành mạnh và văn minh của CNXH. Đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội vốn là công việc thường xuyên của mọi quốc gia, nhưng với nước ta hiện nay là một việc làm cấp bách. Để cuộc đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội thu được hiệu quả cao cần phải chú ý: - Nâng cao nhận thức của nhân dân về yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Coi cuộc đấu tranh là nhiệm vụ của mọi người dân, mọi tổ chức, ngành của toàn xã hội. Phải huy động được sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào việc tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc, đặc biệt ở các địa bàn trọng yếu. - Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Công tác tuyên truyền giáo dục phải được thực hiện bằng nhiều hình thức phù hợp và thiết thực. - Lấy việc đẩy mạnh sản xuất, mở rộng và phát triển các ngành nghề sản xuất, nhằm tạo việc làm, thu hút lao động, tăng thu nhập của người lao động là giải pháp gốc để ngăn chặn sự phát sinh, phát triển của các loại tội phạm và tệ nạn. Thông qua phát triển sản xuất mà hạn chế các điều kiện phát sinh tội phạm và tệ nạn. - Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội thông qua các hình thức đấu tranh nghiệp vụ và quần chúng, thông qua các lực lượng nòng cốt và chức năng, bằng phương pháp đấu tranh sắc bén, sát hợp. Xây dựng các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Tuyên truyền rộng rãi pháp luật trong nhân dân và thực hiện nghiêm minh pháp luật trong thực tế. - Không ngừng xây dựng và phát triển các lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh về cả số lượng và chất lượng, cả năng lực và phẩm chất, cả trang bị kỹ thuật và trình độ nghiệp vụ, chăm lo đời sống các lực lượng vũ trang nhân dân, để các lực lượng đó hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, chăm lo xây dựng tổ chức Đảng trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Kết luận chương 3 Để vận dụng lý luận HTKT-XH vào việc giữ vững ĐHXHCN ở Việt Nam có hiệu quả cần có những nguyên tắc đúng đắn và một hệ giải pháp đồng bộ, toàn diện. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc về bỏ qua và sử dụng CNTB, nguyên tắc đổi mới phát triển toàn diện, hệ giải pháp cần chú ý tập trung vào một số giải pháp chính là: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng kinh tế nhà nước và tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; giữ vững ĐHXHCN trên lĩnh vực văn hóa và giải quyết những vấn đề bức xúc về mặt xã hội. Những giải pháp nêu trên là những giải pháp cơ bản nhưng cần được triển khai cụ thể, sát hợp hơn với từng lĩnh vực bằng một hệ giải pháp cụ thể và toàn diện hơn. Giữ vững ĐHXHCN và phát triển toàn diện đất nước thống nhất chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Việc thực hiện tốt các giải pháp sẽ góp phần vào thực hiện mục tiêu thống nhất đó. Kết luận Trong giai đoạn hiện nay, học thuyết HTKT-XH là một trọng điểm tấn công của các trào lưu và quan điểm đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc đấu tranh bảo vệ học thuyết và khẳng định giá trị của nó vốn là việc làm thường xuyên thì ngày nay càng trở thành cấp bách. Khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết HTKT-XH sẽ làm sáng tỏ hơn xu thế tất yếu lên CNXH của thời đại hiện nay. Khẳng định giá trị của học thuyết càng làm sáng rõ hơn tính đúng đắn của sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH và định hướng quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. ĐHXHCN ở Việt Nam là sự vận dụng sáng tạo lý luận HTKT-XH vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. ĐHXHCN là sự lựa chọn con đường rút ngắn nhằm đưa dân tộc Việt Nam tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh của CNXH. Vì là con đường rút ngắn, lại ở trong bối cảnh CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, thế giới diễn biến phức tạp, cho nên ĐHXHCN ở nước ta cần được nhận thức rõ hơn. Nhận thức về ĐHXHCN cần thiết phải làm rõ các khía cạnh về dấu hiệu chủ quan, khách quan, nội dung và cơ sở thực tiễn của nó. ĐHXHCN là con đường phát triển mới mẻ, do đó trong quá trình thực hiện còn nhiều khó khăn, thử thách, đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải được chúng ta nhận thức và giải quyết. Trong những vấn đề đó, nổi lên là vấn đề khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế và nguy cơ chệch hướng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Nhận thức rõ mục tiêu, những khó khăn thử thách trong thực tế là rất cần thiết nhằm tìm ra các giải pháp thực hiện thắng lợi ĐHXHCN ở nước ta. Để giữ vững ĐHXHCN cần có những nguyên tắc đúng đắn và thực hiện một hệ giải pháp đồng bộ, toàn diện. Dưới góc độ của học thuyết HTKT-XH cần nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản là kết hợp giữa bỏ qua với sử dụng CNTB và đổi mới phát triển toàn diện các lĩnh vực của xã hội. Đồng thời vận dụng lý luận HTKT-XH, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản là: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và giải quyết những bức xúc về mặt xã hội. Trên cơ sở những giải pháp lớn, cơ bản, cần triển khai thành một hệ giải pháp cụ thể, sát hợp với từng lĩnh vực xã hội. Vận dụng học thuyết HTKT-XH trong nhận thức và thực hiện ĐHXHCN ở nước ta là một vấn đề rất lớn và phức tạp. Luận án mới chỉ đề cập được một số khía cạnh của vấn đề đó, mà chưa có điều kiện đi sâu và đề cập toàn diện mọi mặt của vấn đề (do khuôn khổ của luận án quy định). Vì vậy tác giả luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề còn lại trong những công trình tiếp theo. Tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và cộng tác của các nhà khoa học trong và ngoài lĩnh vực triết học. các công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án Lê Văn Hệ (1996), "Vấn đề công bằng xã hội hiện nay và trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân", Trật tự an toàn xã hội, (9), tr. 9-12. Lê Văn Hệ (1997), "Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên công an hiện nay", Trật tự an toàn xã hội, (8-9), tr. 26-28. Lê Văn Hệ (1998), "Nhân dân làm chủ sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay", Đề tài cấp bộ: Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lê Văn Hệ (2000), ""Định huớng xã hội chủ nghĩa" nhìn từ góc độ triết học", Triết học, (4), tr. 60-62. Lê Văn Hệ (2001), "Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới của đất nước", Công an nhân dân, (3), tr. 57-58; 64. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương (1999), Tài liệu nghiên cứu nghị quyết hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Viện Nghiên cứu chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Nội vụ (1998), Báo cáo tổng kết 10 năm công tác công an bảo đảm an ninh nông thôn (1988 - 1998), Hà Nội. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. Lê Duẩn (1986), Nội dung cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Lê Duẩn (1987), Tuyển tập, tập I, 1955 - 1975, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tập I, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đêriđa G. (1994), Những bóng ma của Mác, Nxb Chính trị quốc gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Lê Xuân Đình (1999), "Ưu tiên phát triển Lực lượng sản xuất", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 25. Nguyễn Tĩnh Gia (1993), Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường - Những vấn đề đặt ra đối với kiến trúc thượng tầng chính trị ở nước ta, Đề tài KX 05 - 04, tập 1, tr. 68. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), "Cách tiếp cận lịch sử bằng các nền văn minh", Tạp chí Cộng sản, (1), tr. 24-25. Ngô Đình Giao (1996), Suy nghĩ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Kiến Giang, Chủ nghĩa Mác - Lênin còn lại là cái gì, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (phòng đọc hạn chế), (Tài liệu số 11). Hồng Hà, Nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa Mác, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (phòng đọc hạn chế), (Tài liệu số 47). Nguyễn Thị Hằng (1998), "Xóa đói giảm nghèo", Tạp chí Cộng sản, (22) tr. 19. Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1994), Dự thảo một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay, Hà Nội. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (1997), "Xã hội loài người đang vận động theo hướng mà Cách mạng tháng Mười đã vạch ra", Giáo dục lý luận, (5), tr. 21. Đặng Hữu (2000), "Kinh tế trí thức: thời cơ và thách thức đối với nước ta", Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 28. Cốc Văn Khang (1994), Cuộc đọ sức giữa hai chế độ xã hội - Bàn về chống diễn biến hòa bình, Nxb Chính trị quốc gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Nguyễn Khánh (1998), Giá trị thời đại của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, (Bài nói tại lớp tập huấn giáo viên Mác - Lênin các trường đại học và cao đẳng), Hà Nội. Đặng Xuân Kỳ (1998), "Một số vấn đề về đường lối, quan điểm hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (9), tr. 35. Lênin V.I. (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Lênin V.I. (1974), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Lênin V.I. (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Lênin V.I. (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Lênin V.I. (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Nguyễn Ngọc Long (1998), "Triết học Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thế giới này nay", Tạp chí Cộng sản, (23), tr. 22. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mác, C. Ăngghen, Ph. (1997), Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Mười (1998), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, (20), tr. 4. Nguyễn Chí Mỳ (1998), "Về định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa", Tư tưởng - Văn hóa, (7), tr. 27-29. Lê Hữu Nghĩa (1988), "Toàn cầu hóa: Những vấn đề chính trị - xã hội", Tạp chí Cộng sản, (22), tr. 30. Lê Hữu Nghĩa (1999), "Về nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Sinh hoạt lý luận, (1), tr. 30. Trần Quang Nhiếp (1998), "Tư tưởng, đạo đức, lối sống - Những vấn đề then chốt của văn hóa", Tạp chí Cộng sản, (20), tr. 34. Nixơn R. (1991), Chớp lấy thời cơ, Nxb Ximơn và Xớtxtơ, Viện Thông tin khoa học Viện Mác - Lênin. Lê Khả Phiêu (1999), "Học tập, rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách mạng, thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 4. Lê Khả Phiêu (2000), "Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi vì dân, vì nước, thủy chung với bè bạn", Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 7. Lê Khả Phiêu (2000), Đảng Cộng sản Việt Nam 70 năm xây dựng và trưởng thành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hà Sĩ Phu, Đôi điều suy nghĩ của một công dân, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (phòng đọc hạn chế), (Tài liệu số 21). Đỗ Nguyên Phương (1994), Về phân tầng xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Nxb Hà Nội. Lữ Phương, Chủ nghĩa xã hội hiện thực và chủ nghĩa xã hội mácxít, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (phòng đọc hạn chế), (Tài liệu số 13). Trần Quang, Nhị Lê (1998), "Kiên định và phát triển con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn", Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 20. Phạm Ngọc Quang (1999), "Định hướng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa - một số vấn đề lý luận", Sinh hoạt lý luận, (1), tr. 20-22. Nguyễn Duy Quý (1998), 150 năm tuyên ngôn của Đảng cộng sản - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Số liệu mới nhất" (1998), Thông tin lý luận, (8), tr. 60. Trần Phúc Thăng (1993), Đặc trưng xã hội chủ nghĩa của hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đề tài KX 05-04, (tập 1), tr. 64. Đoàn Quang Thọ (1995), Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Tóm tắt luận án phó tiến sĩ triết học, Hà Nội. Trần Văn Thọ, Hitômi Asanô (1999), "Phát triển kinh tế và công bằng xã hội đánh giá thành quả đổi mới và suy nghĩ về chiến lược phát triển của Việt Nam", Sinh hoạt lý luận, (1), tr. 36-37. Hồ Văn Thông (1994), "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay", Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 21. Vũ Minh Thông (1999), "Về vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (18), tr. 19. Du Thúy (1995), Mùa đông và mùa xuân Matxcơva - Chấm dứt một thời đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Tín, Mặt thật, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (phòng đọc hạn chế), (Tài liệu số 15). Toffler A. (1996), Tạo dựng một nền văn minh mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tổng niên giám thống kê 1988, (1990), Nxb Thống kê, Hà Nội, tr. 115. Tổng cục Thống kê (1994), Tài liệu công bố ngày 20/8. Triết học tư sản phương Tây hôm nay (1986), Nxb Thông tin - lý luận, Hà Nội. Nguyễn Phú Trọng (2000), "Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh - Điều kiện bảo đảm và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 10. Trần Xuân Trường (1996), Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận cấp bách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Tuân (1999), "Chủ nghĩa tư bản hiện đại với những cuộc "Tự điều chỉnh" của nó", Tạp chí Cộng sản, (23), tr. 57. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tư liệu lịch sử Đảng, Ký hiệu II 3/1/38, 1. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học (1986), "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở các nước đang phát triển", Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 147. Từ điển Tiếng Việt (1988), "Định hướng", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 347. Văn phòng Chính phủ (1999), Báo cáo số 07/TTBC, ngày 5/1. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2673.DOC
Tài liệu liên quan