Học thuyết giá trị lao động của Các Mác và sự áp dụng vào Việt Nam

Tài liệu Học thuyết giá trị lao động của Các Mác và sự áp dụng vào Việt Nam: Học thuyết giá trị lao động của Các Mác và sự áp dụng vào Việt Nam. Học thuyết kinh tế cho rằng giá trị hàng hoá là do lao động sản xuất ra hàng hoá quyết định. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là Pety (W. Petty) và Boaghinbe (P. Boisguilbert), rồi đến Xmit (A. Smith) và Ricacđô (V. Ricardo), là những người đóng góp lớn vào học thuyết giá trị lao động. Tuy vậy, phải qua nhiều thế kỉ trao đổi hàng hoá, con người mới dần dần hiểu ra được thực thể của giá trị và nhận thức được quy l... Ebook Học thuyết giá trị lao động của Các Mác và sự áp dụng vào Việt Nam

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 7263 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Học thuyết giá trị lao động của Các Mác và sự áp dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật giá trị. Phải chờ đến Mac thì học thuyết giá trị lao động mới phát triển đầy đủ. Nhờ phát hiện được tính hai mặt của lao động mới khẳng định được lao động nào tạo ra giá trị hàng hoá. Mac đã phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, khám phá ra giá trị sức lao động được xem là hàng hoá, quy luật giá trị thặng dư và hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, qua đó làm cho nhận thức về quy luật giá trị được đầy đủ hơn. C. Mác chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn hình vạn trạng, không thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu. Ông nói: "Nếu bóc tách riêng giá trị sử dụng của hàng hoá ra, hàng hoá chỉ còn lại một thuộc tính, đó là thuộc tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Cho nên, chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt buộc phải tìm trên thị trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có một thuộc tính đặc biệt làm nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó đồng thời là quá trình tạo ra giá trị. Loại hàng hoá đặc thù đó chính là sức lao động của con người. Ðiều cần lưu ý "lao động" và "sức lao động" là hai khái niệm không giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao động của con người. Sử dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá trị. Giá trị của bản thân sức lao động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức giá trị chi phí trang trải sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ cần đến) trong xã hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại sức lao động theo giá trị sức lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền sử dụng sức lao động đó trong sản xuất, và cưỡng bức người lao động phải làm việc cả ngày. Ví dụ như để họ làm việc 12 tiếng, thì trong vòng 6 tiếng (thời gian lao động "bắt buộc"), người lao động đã có thể tạo ra sản phẩm đủ bù cho chi phí đời sống của họ, 6 tiếng còn lại (thời gian lao động "dư thừa") họ tạo ra sản phẩm "dư thừa" mà nhà tư bản không phải trả thù lao nữa, tức là giá trị thặng dư. Trong lịch sử loài người, do có lao động thặng dư mới sinh ra khả năng bất bình đẳng, người bóc lột người. C.Mác chỉ rõ: lao động thặng dư không phải xuất hiện từ khi có tư bản. Trong xã hội được tạo nên bởi kẻ bóc lột và người bị bóc lột, giai cấp thống trị đều thu được lao động thặng dư trên thân thể của số đông người lao động bị bóc lột ông nói: "Sự phân biệt các kiểu hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội nô lệ và xã hội thuê mướn lao động, chỉ là các hình thức khác nhau của việc tước đoạt lao động thặng dư trên thân thể người sản xuất, người lao động". Ðặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là ngày càng bóc lột nhiều hơn lao động thặng dư, dùng những thủ đoạn tinh vi hơn, khéo léo hơn, lừa bịp hơn để đoạt lấy lao động thặng dư.Chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là xã hội sở hữu tư nhân tư bản, về mặt bóc lột lao động thặng dư, nó không khác gì về bản chất so với chủ nghĩa tư bản tự do, bởi sự phân tích của C.Mác đã được cơ bản thực hiện một cách tổng thể đối với chủ nghĩa tư bản, nên vẫn còn thích hợp với chủ nghĩa tư bản đương đại. Nhưng, do sự phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện đại cùng những ngành nghề sản xuất dựa trên nó, quá trình tự động hoá trong sản xuất tạo ra hiện tượng vai trò của lao động trực tiếp của người lao động ngày càng mờ nhạt. Vì thế, có học giả phương Tây đã đưa ra kết luận rằng, lý luận về giá trị lao động và học thuyết thặng dư của C.Mác nhằm vạch trần thực chất nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và mất tác dụng. Ví dụ như nhân vật đại biểu cho học phái Fankfurt, Marcuse đã có tuyên ngôn từ rất sớm: sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật dần dần tự động hoá sản xuất, "khiến số lượng và cường độ của thể lực cần tiêu hao trong sản xuất ngày càng giảm đi". "Sự thay đổi này dường như đánh đổ khái niệm "cấu thành hữu cơ tư bản" và lý luận về sự hình thành giá trị thặng dư của C.Mác... Ngày nay, tự động hoá dường như đã làm thay đổi về tính chất quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động sống, nó đã đạt đến mức cái quyết định sức sản xuất "không còn là hàng hoá riêng lẻ, mà là máy móc". Hơn nữa, "việc đo lường chuẩn xác hàng hoá riêng lẻ đã biến thành việc không thể có". Hoặc như nhà triết học nổi tiếng người Ðức - Habermas cũng tuyên bố. "Khi sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật biến thành một thứ nguồn giá trị thặng dư độc lập, mà lại dựa vào nền tảng giá trị sức lao động giản đơn để tính toán tổng mức đầu tư tư bản trên phương diện nghiên cứu và phát triển, là việc làm không mấy ý nghĩa, hơn nữa, nếu đem so với nguồn giá trị thặng dư độc lập ấy, thì nguồn giá trị thặng dư mà C.Mácrút ra qua khảo sát, tức sức lao động của người sản xuất trực tiếp, càng ngày càng trở nên không quan trọng nữa". Vì thế, ông cho rằng, "điều kiện để vận dụng học thuyết giá trị lao động của C.Mác đã bị mất đi". Những người như Marcuse, Habermas lập luận nghe ra có vẻ sắc sảo, cho rằng như thế đã có thể nhẹ nhàng đánh đổ lý luận giá trị lao động của C.Mác. Nhưng cần biết rằng, những ngôn luận ấy dựa trên sự suy nghĩ chưa thấu đáo.Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, tiến hành tự động hoá sản xuất đã thúc đẩy sức sản xuất tăng cao không ngừng. Trong sản xuất lớn hiện đại hoá, người sản xuất đã coi các bộ phận, khí quan của cơ thể mình như một thành phần của hệ thống tự động hoá, khiến cho việc dùng sức lực trực tiếp cho sản xuất ngày càng ít đi rất nhiều, có những ngành mà người sản xuất trực tiếp biến thành người quản lý, người điều tiết quá trình sản xuất. Vậy trong tình hình ấy, lý luận giá trị lao động của C.Mác có còn' phù hợp với chủ nghĩa tư bản đương đại không, nguyên lý lao động tạo ra giá trị có phải đã quá thời, mất đi tác dụng? Ðây là vấn đề lý luận rất lớn cần được nghiên cứu, giải đáp. Ðương nhiên, đối với cách lý giải sai lạc lý luận giá trị lao động của C.Mác của các học giả phương Tây như Marcuse, Habermas, chúng ta đồng thời có lý do phản bác.C. Mác chỉ ra rằng, sức lao động là năng lực của người tiến hành lao động, là "tổng hoà của thể lực và trí lực tồn tại trong thân thể con người hay trong cơ thể con người sống, được vận dụng mỗi khi con người sản xuất ra giá trị sử dụng nào đó". Sử dụng sức lao động chính là lao động. Nhìn chung, "quá trình lao động đều kết hợp lao động trí óc và lao động thể lực". Theo C. Mác, lao động tạo ra giá trị bao gồm lao động thể lực và cả lao động trí óc, thêm nữa, hai loại lao động này được kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất. Cái gọi là giá trị, chính là lao động trong quá khứ được ngưng kết trong hàng hoá. "Bản thận giá trị sử dụng (của sức lao động) đã có thuộc tính đặc thù để trở thành nguồn gốc của giá trị. Do đó, việc sử dụng nó thực tế chính là quá trình vật hoá lao động, từ đó sáng tạo nên giá trị". C.Mác chưa từng nói chỉ có mỗi lao động thể lực của con người mới làm nên giá trị, ông không hề coi thường vai trò của lao động trí óc và nhân tố trí tuệ trong việc tạo ra giá trị. Ngược lại, C.Mác rất đề cao vai trò quan trọng của lao động trí óc và yếu tố trí tuệ của con người trong quá trình sản xuất. Ông còn nhấn mạnh rằng, chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới tạo ra sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động thể lực. ông nói: "Ðặc điểm của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là ở chỗ nó chia tách các loại lao động khác nhau, do đó nó tách lao động trí óc và lao động thể lực, hoặc có thể nói, chia tách các loại lao động lấy lao động lấy trí óc làm chủ đạo hay lấy lao động lấy thể lực làm chủ đạo, phân phối cho những người khác nhau. Nhưng sự phân tách đó không thể xoá đi được một điểm: quan hệ của mỗi người trong số họ đối với tư bản đều là quan hệ với người thuê mướn lao động, đều là quan hệ công nhân sản xuất thẹo ý nghĩa đặc thù đó". C.Mác còn chỉ ra rằng, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do, tồn tại một hiện tượng "biến trẻ vị thành niên trở thành những máy móc đơn thuần tạo ra giá trị thặng dư, khiến trí lực của chúng bị suy thoái một cách nghiêm trọng". "Sự suy giảm về trí lực của trẻ em làm cho Nghị viện Anh cuối cùng không thể không tuyên bố, trong tất cả các ngành công nghiệp chịu chế ước của luật công xưởng, điều kiện pháp định cho việc sử dụng trẻ em dưới 14 tuổi 'trong sản xuất' là chúng phải được giáo dục sơ đẳng”. Chính vì C.Mác coi trọng tác dụng của lao động trí óc và thành quả của nó (tri thức), ông mới chỉ ra cho số đông quần chúng công nhân thấy rằng, "Công nhân có một nhân tố thành công đó là số lượng đông đảo, nhưng, chỉ khi nào quần chúng được tổ chức lại cùng với sự chỉ đạo của từ thức, số lượng đông đảo ấy mới phát huy vai trò quyết định thắng bại của nó". Ông Ðuy-rinh đã phát hiện ở Mác một sai lầm thật là thô bạo, chỉ xứng đáng với một học sinh lớp bốn, nó đồng thời lại bao hàm một tà đạo xã hội chủ nghĩa nguy hiểm cho công chúng. Lý luận của Mác về "giá trị "chẳng qua chỉ là... học thuyết thông thường cho rằng lao động là nguyên nhân sinh ra mọi giá trị, và thời gian lao động là thước do mọi giá trị. Ðồng thời cái quan niệm nêu suy nghĩ như thế nào về giá trị khác nhau của cái gọi là lao động lành nghề, thì vẫn hoàn toàn không rõ... Cố nhiên, theo lý luận của chúng tôi, cũng chỉ có thời gian lao động được sử dụng mới có thể đo được những giá thành tự nhiên và do đó, giá trị tuyệt đối của các vật phẩm kinh tế; nhưng ở đây thời gian lao động của mỗi người phải được coi trước hoàn toàn ngang nhau và chỉ cần chú ý rằng, trong những công việc thành thạo hơn, thì thêm vào thời gian lao động cá nhân của một người còn có thêm thời gian lao động của những người khác nữa... ví dụ như dưới dạng công cụ đã tiêu dùng. Như vậy là không phải như Mác đã quan niệm một cách mơ hồ, thời gian lao động của một người nào đó tự nó không có nhiều giá trị hơn thời gian lao động của một người khác, bởi vì như thế thì trong thời gian lao động của một người khác, bởi vì như thế thì trong thời gian lao động của người này dường như cô đọng nhiều thời gian lao động trung bình hơn; thực ra thì bất cứ thời gian lao động nào, không có ngoại lệ và theo nguyên tắc, do đó, không cần thiết phải đưa ra ngay từ đầu một mức trung bình, đề hoàn toàn có giá trị ngang nhau, và đối với công việc của một người cũng như đối với bất cứ thành phần nào, người ta chỉ cần xét xem bao nhiêu thời gian lao động của những người khác ẩn giấu trong cái mà mới thoạt nhìn chỉ là sự chi phí thời gian lao động của bản thân. Dù cho đó là một công cụ sản xuất do bằng tay sử dụng, hay đó là bàn tay, hay là cả đầu óc nữa, tức là những cái mà nếu không có thời gian lao động của những người khác thì không thể có một thuộc tính đặc biệt và năng lực lao động đặc biệt, - đối với giá trị chặt chẽ của lý luận thì điều đó hoàn toàn không quan trọng. Nhưng trong những lập luận của mình về giá trị thì ông Mác lại không sao thoát khỏi cái bóng ma lảng vảng ở phía sau là thời gian lao động thành thao. Cái cách suy nghĩ mà ông ta thừa kế được của các giai cấp có học thức đã làm cho ông ta không thể triệt để đi theo phương hướng đó, đối với cách suy nghĩ ấy thì sẽ là một điều kỳ quái nếu thừa nhận rằng tự nó thời gian lao động của người đẩy xe bò và thời gian lao động của một kiến trúc sư đều có một giá trị hoàn toàn ngang nhau về mặt kinh tế". Ðoạn văn của Mác đã gây ra "sự phẫn nộ mạnh mẽ" đó của ông Ðuy-rinh, thì rất ngắn. Mác nghiên cứu cái gì quyết định giá trị của các hàng hoá và trả lời: lao động của con người chứa đựng trong những hàng hoá đó. ông tiếp : lao động đó "là một sự tiêu phí sức lao động giản đơn mà trung bình bất cứ một người bình thường nào, không có sự phát triển đặc biệt, cũng đều có trong cơ thể mình... Lao động phức tạp chỉ là bội số của lao động giản đơn, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân bội lên, thành thử một số lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một số lượng lao động giản đơn lớn hơn. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn như thế là một việc thường xuyên ra. Một hàng hoá có thể là sản phẩm của một lao động phức tạp nhất, nhưng giá trị của hàng hoá đó làm cho ngang với sản phẩm của một lao động giản đơn, và do đó bản thân nó chỉ là một số lượng nào đó của lao động giản đơn. Những tỷ lệ khác nhau, theo đó các loại lao động khác nhau được quy thành lao động giản đơn với tư cách đơn vị đo lường chúng, được một quá trình xã hội xác lập ở đằng sau lưng những người sản xuất và vì vậy mà đối với họ, chúng dường như là do tập quán quy định ra".Ở Mác, ở đây trước hết chỉ là nói đến việc quy định giá trị của các hàng hoá, nghĩa là của những đồ vật, trong một xã hội gồm những người sản xuất tư nhân, do những người sản xuất tư nhân ấy sản xuất ra bằng những phương tiện riêng của họ, và để trao đổi với nhau. Do đó ở đây tuyệt nhiên không phải nói đến "giá trị tuyệt đối" không kể là nó tồn tại ở đâu, mà là nói đến giá trị có hiệu lực trong một hình thái xã hội nhất định. Giá trị đó, trong quan niệm lịch sử nhất định đó, rõ ràng là đã được tạo ra và được đo bằng lao động của con người đã nhập vào các hàng hoá và tiếp nữa lao động của con người ấy lại là sự tiêu phí sức lao động giản đơn. Nhưng không phải mọi lao động chỉ đều là sự tiêu phí sức lao động giản đơn của con người; rất nhiều loại lao động bao hàm trong bản thân nó việc vận dụng những sự khéo léo hay những hiểu biết đã đạt được nhờ nhiều hay ít công sức khó nhọc, thời gian và tiền bạc. Những loại lao động phức tạp đó, trong những khoảng thời gian giống nhau, có sản xuất ra cùng một giá trị hàng hoá như lao động giản đơn, tức sự tiêu phí thuần tuý về sức lao động giản đơn không? Hiển nhiên là không. Sản phẩm của một giờ lao động phức tạp là một hàng hoá có giá trị cao hơn, gấp đôi hay gấp ba lần so với sản phẩm của một giờ lao động giản đơn. Thông qua việc so sánh, giá trị của những sản phẩm của lao động phức tạp được biểu hiện ra trong một khối lượng lao động giản đơn nhất định; nhưng việc quy lao động phức tạp ra lao động giản đơn như thế được thực hiện bằng một quá trình xã hội diễn ra ở đằng sau lưng những người sản xuất, bằng một quá trình mà ở đây trong bản trình bày lý luận về giá trị, chúng ta chỉ có thể xác nhận, nhưng chưa giải thích. Chính cái sự thật đơn giản đó, hàng ngày diễn ra trước mắt chúng ta trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện nay, là sự thật mà Mác xác nhận ở đây. Sự thật đó đã quá rõ ràng đến nỗi chính ông Ðuy-rinh cũng không dám chối cãi cả trong tập "Giáo trình" lẫn trong cuốn "Lịch sử khoa kinh tế chính trị" của ông ta; và sự trình bày của Mác lại đơn giản và sáng tỏ đến nỗi chắc chắn là ngoài ông Ðuy-rinh ra sẽ không có ai là "vẫn hoàn toàn không rõ" cả. Chính vì sự hoàn toàn không rõ đó của mình mà ông ta mới coi giá trị hàng hoá, - lúc đầu Mác chỉ nghiên cứu giá trị này thôi, - là những "giá thành tự nhiên" là cái chỉ làm cho sự không rõ đó tăng thêm, và thậm chí ông ta còn coi nó là "giá trị tuyệt đối" nữa, một giá trị mà theo chỗ chúng tôi biết thì từ trước tới nay không hề thấy nói đến ở chỗ nào trong khoa kinh tế chính trị cả. Nhưng dù ông Ðuy-rinh có hiểu "giá thành tự nhiên" là cái gì chăng nữa, và trong năm loại giá trị của ông ta loại nào được vinh dự tiêu biểu cho giá trị tuyệt đối chăng nữa, thì một điều đã rõ ràng là : Mác hoàn toàn không nói đến tất cả những cái đó mà chỉ nói đến giá trị hàng hoá thôi; và trong toàn bộ cái phần của bộ "Tư bản" nói về giá trị, cũng không hề có một lời ám chỉ nào cho biết là liệu Mác có cho rằng lý luận về giá trị hàng hoá đó có áp dụng được cho những hình thái xã hội khác hay không và áp dụng được đến mức nào. "Như vậy là", - ông Ðuy-rinh nói tiếp, - "không phải như Mác đã quan niệm một cách mơ hồ, thời gian lao động của một người nào đó tự nó không có nhiều giá trị hơn là thời gian lao động của một người khác, bởi vì như thế thì trong thời gian lao động của người này dường như cô đọng nhiều thời gian lao động trung bình hơn; thực ra thì bất cứ thời gian lao động nào - không có ngoại lệ và theo nguyên tắc, do đó không cần thiết phải đưa ra ngay từ đầu một mức trung bình, đều hoàn toàn có giá trị ngang nhau". May thay cho ông Ðuy-rinh, số phận đã không làm cho ông ta trở thành một chủ xưởng và đã tránh cho ông ta khỏi phải quy định giá trị của hàng hoá của mình theo cái quy tắc mới đó, và do đó cũng đã tránh cho ông ta một sự phá sản không thể tránh được. Nhưng sao ! Lẽ nào chúng ta vẫn cứ còn ở trong xã hội những chủ xưởng ư? Tuyệt nhiên là không. Với những giá thành tự nhiên và giá trị tuyệt đối, ông Ðuy-rinh đã bắt chúng ta phải thực hiện một bước nhảy, một salto mortale thật sự, ra khỏi cái thế giới xấu xa hiện nay của những kẻ bóc lột, để vào cái công xã kinh tế tương lai của chính ông ta, vào cái thiên giới trong sạch của sự bình đẳng và công lý, và vì vậy mà ngay ở đây, dù có quá sớm chăng nữa, chúng ta cũng phải xem xét một chút cái thế giới mới đó. Cố nhiên, theo lý luận của ông Ðuy-rinh, ngay cả trong công xã kinh tế, cũng chỉ có thời gian lao động đã chi phí mới có thể đo giá trị của những vật kinh tế, nhưng đồng thời thời gian lao động của mỗi người sẽ được đánh giá trước là hoàn toàn ngang nhau, mọi thời gian lao động - không có ngoại lệ và theo nguyên tắc - đều có một giá trị hoàn toàn ngang nhau, và hơn nữa, không cần thiết phải đưa ra ngay từ đầu một mức trung bình. Và bây giờ xin hãy đối chiếu thứ chủ nghĩa xã hội bình đẳng cấp tiến đó với cái quan niệm mơ hồ của Mác cho rằng thời gian lao động của một người nào đó tự nó có nhiều giá trị hơn thời gian lao động của một người khác, bởi vì trong đó đã cô đọng nhiều thời gian lao động trung bình hơn, một quan niệm trong đó Mác đã bị giam cầm bởi cái cách suy nghĩ kế thừa được của các giai cấp có học thức, đối với cách suy nghĩ ấy sẽ là một điều kỳ quái nếu thừa nhận rằng thời gian lao động của một người đẩy xe bò và thời gian lao động của một kiến trúc sư đều hoàn toàn ngang nhau về mặt kinh tế! Tiếc thay là Mác đã thêm vào đoạn trích dẫn trên đây trong bộ "Tư bản" một chú thích nhỏ sau đây: "Bạn đọc nên chú ý rằng đây không phải là nói đến tiền công hay giá trị mà người công nhân nhận được về một ngày lao động, mà là nói đến giá trị của các hàng hoá trong đó ngày lao động ấy đã vật hoá". Do đó Mác, ở đây dường như đã cảm thấy trước ông Ðuy-rinh của mình, đã tự mình đề phòng để người ta khỏi đem áp dụng những luận điểm trên đây của mình dù là vào tiền công trả cho lao động phức tạp trong xã hội hiện nay. Và nếu ông Ðuy-rinh không hài lòng về việc ông ta vẫn làm điều đó, lại còn coi những luận điểm trên đây là những nguyên tắc cơ bản mà Mác muốn dùng để điều tiết sự phân phối những tư liệu sinh hoạt trong xã hội tổ chức theo chủ nghĩa xã hội, thì đó là một điều xuyên tạc trơ tráo mà người ta chỉ có thể gặp trong những sách báo lá cải mà thôi. Nhưng chúng ta hãy nghiên cứu học thuyết về sự ngang giá kỹ hơn một chút. Mọi thời gian lao động đều hoàn toàn có giá trị ngang nhau, thời gian lao động của người đẩy xe bò cũng có giá trị ngang với thời gian lao động của nhà kiến trúc. Vậy là thời gian lao động, và do đó bản thân lao động, đều có một giá trị. Nhưng lao động là kẻ sản xuất ra mọi giá trị. Chỉ có lao động mới đem lại cho các sản phẩm tìm thấy trong thiên nhiên một giá trị theo nghĩa kinh tế. Bản thân giá trị chẳng qua chỉ là biểu hiện của lao động xã hội cần thiết của con người, được vật hoá trong một vật. Vậy lao động không thể có một giá trị nào cả. Nói đến giá trị của lao động và muốn quy định giá trị đó, thì cũng như nói đến giá trị của giá trị, hay muốn quy định trọng lượng của bản thân trọng lượng chứ không phải của một vật nặng. ông Ðuy-rinh thanh toán với những người như Owen, Saint-Simon và Fouriet bằng cách gọi họ là những thuật sĩ luyện vàng xã hội. Nhưng khi nói viển vông về giá trị của thời gian lao động, tức là của lao động thì ông ta đã tỏ ra còn kém xa những thuật sĩ luyện vàng thức sự. Và bây giờ xin hãy lường thử sự táo bạo của ông Ðuy-rinh khi ông ta gán cho là Mác đã nói rằng thời gian lao động của một người nào đó tự nó có giá trị hơn thời gian lao động của một người khác, làm như thể thời gian lao động, do đó, là lao động, cũng có một giá trị, - gán cho Mác, người đầu tiên đã chỉ ra rằng lao động không thể có giá trị và đã giải thích vì sao lại như thế! Ðối với chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa muốn giải phóng sức lao động con người khỏi địa vị hàng hoá, thì điều rất quan trọng là phải hiểu rằng lao động không có giá trị và không thể có giá trị được. Với nhận thức đó, tất cả những mưu toan định điều tiết sự phân phối các tư liệu sinh hoạt trong tương lai, coi đó là một thứ tiền công cao hơn, - mưu toan mà ông Ðuy-rinh đã thừa hưởng được của thử chủ nghĩa xã hội công nhân tự phát, - sẽ sụp đổ. Từ nhận thức đó, toát ra cái kết luận cho rằng sự phân phối, chừng nào nó còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối, chừng nào nó còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, và sản xuất sẽ được kích thích nhiều nhất bởi một phương thức phân phối cho phép tất cả mọi thành viên trong xã hội phát triển, duy trì và thực hành những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất. Tất nhiên, đối với cách suy nghĩ của những giai cấp có học thức mà ông Ðuy-rinh đã thừa hưởng được, thì quả là một điều quái dị nếu một ngày kia sẽ không còn có người đẩy xe bò và kiến trúc sư chuyên nghiệp nữa, và một người ra chỉ thị trong nửa giờ với tư cách là một kiến trúc sư. Ðẹp đẽ thay cái thứ chủ nghĩa xã hội duy trì vĩnh viễn những người đẩy xe chuyên nghiệp!. Nếu việc có giá trị ngang nhau của thời gian lao động phải có nghĩa là mỗi một công nhân sản xuất những giá trị ngang nhau trong những thời gian lao động bằng nhau mà chẳng cần phải lấy trước một mức trung bình, thì điều đó rõ ràng là sai. Ðối với hai công nhân, dù cho cùng thuộc một ngành sản xuất, thì giá trị sản xuất ra trong một giờ lao động bao giờ cũng sẽ khác nhau tuỳ theo cường độ lao động và tài khéo léo; điều tai hại đó, - mà chỉ có những người à ! Ðuy-rinh mới coi là một điều tai hại, - thì không có một công xã kinh tế nào, ít ra là trên hành tinh của chúng ta, lại có thể xóa bỏ được. Vậy thì toàn bộ cái quan niệm về giá trị ngang nhau của mọi lao động còn lại cái gì? Chẳng còn lại cái gì cả ngoài cái câu nói thuần tuý khoác lác chẳng dựa trên một cơ sở kinh tế nào khác ngoài sự bất lực của ông Ðuy-rinh trong sự phân biệt việc lấy lao đông để quy định giá trị với việc lấy tiền công để quy định giá trị. - chẳng còn lại cái gì cả ngoài cái mệnh lệnh, cái quy luật cơ bản của công xã kinh tế mới : thời gian lao động ngang nhau thì tiền công phải ngang nhau ! Nhưng nếu như vậy thì những công nhân cộng sản Pháp trước kia và Weitling đã đưa ra những lý do tốt hơn nhiều để chứng minh do yêu sách của họ đòi một tiền công ngang nhau. Vậy thì toàn bộ cái vấn đề quan trọng là trả công cao hơn cho lao động phức tạp sẽ được giải quyết như thế nào ? Trong xã hội những người sản xuất tư nhân thì chính những tư nhân hay gia đình của họ trả những chi phí đào tạo công nhân lành nghề ; vậy giá cả cao hơn của sức lao động lành nghề trước hết cũng thuộc về tư nhân : người nô lệnh khéo léo được bán đắt hơn, người công nhân làm thuê khéo léo được trả công đắt hơn. Trong xã hội tổ chức theo chủ nghĩa xã hội thì xã hội trả những chi phí đó, vì vậy những kết quả, những giá trị lớn hơn do lao động phức tạp sản xuất ra, cũng thuộc về xã hội. Bản thân người công nhân không có quyền đòi hỏi một khoản phụ thêm nào cả. Từ đó, nhân tiện cũng nên rút ra cái kết luận thực tiễn sau đây nữa là : cái khẩu hiệu ưa thích về quyền của người công nhân được hưởng "thu nhập lao động đầy đủ", dù thế nào chăng nữa, không phải bao giờ cũng không có nhược điểm. Trên cơ sở cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là thành tựu của cuộc cách mạng thông tin, chúng ta buộc phải căn cứ vào nguyên lý cơ bản, thuyết giá trị lao động của C.Mác để phân tích, nghiên cứu sâu hơn giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá tri thức, hàng hoá thông tin, mới có thể giải quyết từng bước vấn đề mang tính thời đại này. Không tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ mà đã phủ định một cách đơn giản lý thuyết giá trị lao động, đó không phải là một thái độ khoa học Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu". Từ việc nghiên cứu Học thuyết của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước. Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó. Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Ðiều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Ðường lối chủ trương chính sách của Ðảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế. Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ những điều đã trình bày ở trên ta thấy rõ được ý nghĩa to lớn của học thuyết giá trị lao động trong mối liên hệ với Việt Nam. Ðất nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp và hiện đang trên con đ ường công nghiệp hóa,hiện đại hóa,việc vận dụng học thuyết của Các Mác một cách khoa học sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình đó giúp nước ta ngày càng phát triển. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12755.doc
Tài liệu liên quan