lời mở đầu
Ngày nay, quốc tế hoá đang là xu thế chung của toàn cầu. Không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ được. Trong bối cảnh đó thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Trước xu thế phát triển của thời đại và yêu cầu thực tế phát triển của nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá hướng về
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty may Hanotex - Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu thay thế nhập khẩu. Đây là một chủ trương mang ý nghĩa chiến lược, gắn liền với quá trình phát triển mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn ngoại tệ của nước ngoài thông qua xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước ta có lợi để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật tiên tiến nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Ngành Công nghiệp dệt may được coi là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Với đặc điểm của một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công nghệ đơn giản, ít vốn mà giá trị xuất khẩu lớn. Ngành dệt may thực sự phù hợp và đóng vai trò then chốt trong chiến lược Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu nước ta.
Công ty may HANOTEX là một Công ty Trách nhiệm hữu hạn, tuy mới đi vào hoạt động được một thời gian ngắn nhưng Công ty đã dần khẳng định được chỗ đứng của mình trong việc xuất khẩu hàng may mặc ra các thị trường nước ngoài.
Xuất phát từ thực tế đó, qua thời gian thực tập tại Công ty HANOTEX, tôi đã chọn đề tài: “Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty may HANOTEX – Thực trạng và một số giải pháp đẩy mạnh” để viết Luận văn tốt nghiệp.
Luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty HANOTEX.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may tại Công ty HANOTEX.
Do thời gian thực tập ngắn, luận văn tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp của Thầy Cô và bạn bè để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo TS. Trần Việt Lâm cùng toàn thể cán bộ Công ty may HANOTEX đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập và hoàn thiện luận văn này.
Chương 1
Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
1.1. Khái quát về hoạt động xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận cơ bản của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Hoạt động xuất khẩu là buôn bán hàng hoá, dịch vụ cho người nước ngoài nhằm thu ngoại tệ để tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác ưu thế, tiềm năng của đất nước. Đây là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế quan trọng nhất phản ánh quan hệ buôn bán trao đổi qua biên giới quốc gia, giữa thị trường nội địa với khu chế xuất.
Thị trường xuất khẩu là nơi diễn ra quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ với phạm vi ngoài biên giới quốc gia vì thế thị trường xuất khẩu cũng mang đầy đủ chức năng cơ bản của thị trường nói chung đó là điều tiết và đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Ngoài ra thị trường xuất khẩu còn có những đặc điểm mà nhờ chúng có thể phân biệt với các thị trường khác như thị trường nội địa.
1.1.2. Các hình thức của hoạt động xuất khẩu
1.1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước, xuất khẩu ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Ưu điểm của hình thức này là lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp thường cao hơn các hình thức khác, có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, có thể tiếp cận trực tiếp thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
Nhược điểm: đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn lớn để sản xuất hoặc thu mua và rủi ro kinh doanh là lớn.
1.1.2.2. Xuất khẩu gia công uỷ thác
Theo hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất khẩu cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp này sẽ được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến.
Hình thức này có ưu điểm: không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn.
Nhược điểm: đòi hỏi nhiều thủ tục xuất khẩu và nhập khẩu do đó cần phải có những cán bộ có kinh nghiệm và thông thạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
1.1.2.3. Xuất khẩu uỷ thác
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò trung gian xuất khẩu làm thay cho các đơn vị sản xuất những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận.
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng đặc biệt là không cần bỏ vốn ra để mua hàng, nhận tiền nhanh, ít thủ tục và tương đối tin cậy.
1.1.2.4. Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là hình thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương với giá trị lô hàng đã xuất.
Các loại hình buôn bán đối lưu bao gồm: Hàng đổi hàng, nghiệp vụ bù trừ, chuyển giao nghiệp vụ, nghiệp vụ mua lại.
1.1.2.5. Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ.
Ưu điểm của hình thức này là tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, đảm bảo được thanh toán.
1.1.2.6. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức mà hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng giống như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế…
Hoạt động này có thể đạt hiệu quả kinh tế cao do giảm bớt chi phí bao bì, đóng gói, bảo quản chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
1.1.2.7. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên nhập nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên đặt gia công để chế biến thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được phí gia công.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên giá công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
Hình thức này được áp dụng rất phổ biến ở các nước đang phát triển, có nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ và nguồn nguyên liệu sẵn có của các nước nhận gia công.
1.1.3.Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
1.1.3.1.Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Đối với nền kinh tế quốc dân
Đối với một nước nghèo và chậm phát triển như nước ta thì việc chọn bước đi CNH - HĐH là con đường thích hợp nhất. Để thực hiện công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một đất nước thường dựa vào các nguồn chủ yếu: viện trợ, vay nợ, đầu tư nước ngoài… Tất cả các nguồn đó đều phải hoàn trả lại dưới các hình thức khác nhau còn phát triển xuất khẩu là sự bảo đảm, quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu có vai trò tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây là yếu tố then chốt trong quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá. Đồng thời sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu được áp dụng kỹ thuật tiên tiến, sản xuất ra hàng hoá có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới, giúp ta có nguồn lực công nghiệp mới, tăng sản xuất cả về số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí lao động xã hội. Bên cạnh đó tạo khả năng mở rộng thị trường, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào, góp phần cho sản xuất, phát triển kinh tế ổn định.
- Xuất khẩu có tác động tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu sẽ thu hút rất nhiều lao động vào làm việc, với mức sống ổn định. Ngoài ra xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của con người.
- Xuất khẩu là nền tảng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, nâng cao vai trò của Nhà nước ta trên trường quốc tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà có nhiều nước đã, đang và sẽ thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư với nước ta.
- Xuất khẩu góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Việc đưa các nguồn tài nguyên thiên nhiên tham gia vào sự phân công lao động quốc tế thông qua các ngành chế biến xuất khẩu đã góp phần nâng cao giá trị hàng hoá, giảm bớt những thiên tai do điều kiện thiên nhiên ngày càng trở nên bất lợi cho hàng hoá và nguyên liệu cho xuất khẩu.
Đối với các doanh nghiệp
- Xuất khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
- Có điều kiện tiếp cận với công nghệ sản xuất mới, trong bước chuyển giao công nghệ hiện đại, nâng cao tay nghề người lao động, từ lao động không có kỹ năng hoặc bán kỹ năng thành lao động kỹ năng.
- Tạo thu nhập cho doanh nghiệp bằng ngoại tệ và tất nhiên nguồn thu nhập này sẽ lớn hơn kinh doanh nội địa, nâng cao đời sống công nhân viên chức trong công ty.
Tóm lại đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
- Khai thác hiệu quả mọi nguồn lực trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá ở từng quốc gia.
- Mở rộng thị trường và đa phương hoá đối tác.
- Hình thành các vùng, các nguồn sản xuất hàng xuất khẩu, tạo các chân hàng vững chắc, phát triển hệ thống thu mua hàng xuất khẩu .
- Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng ngày càng chứa đựng nhiều hàm lượng chất xám, kỹ thuật và công nghệ.
- Xây dựng danh mục các mặt hàng chủ lực ở phạm vi chiến lược, từ đó có kế hoạch phát triển và mở rộng mặt hàng chủ lực.
1.2. Các nội dung chính của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là một quy trình kinh doanh bao gồm nhiều bước kế tiếp nhau. Mỗi bước có một đặc điểm riêng biệt và được tiến hành theo những cách thức nhất định nhưng nhìn chung hoạt động xuất khẩu được tiến hành theo các bước sau:
1.2.1. Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu
Nhận biết hàng hoá
Hàng hoá mua bán phải được tìm hiểu kỹ về khía cạnh thương phẩm để hiểu rõ và những yêu cầu có thể ở trong các giai đoạn sau: thâm nhập, phát triển, bão hoà, thoái trào.
Nắm vững thị trường ngoài nước
Là những điều kiện chính trị – thương mại chung, luật pháp và chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải và hình thành giá cước…
Ngoài ra cần nắm vững những điều kiện liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng, kênh tiêu thụ.
Lựa chọn khách hàng
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh lựa chọn thị trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và giao dịch thích hợp.
1.2.2. Xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất khẩu
Kế hoạch kinh doanh xuất khẩu là một loạt các hoạt động từ việc tạo nguồn hàng cho đến khi giao hàng… nhằm đưa hàng hoá ra ngoài biên giới quốc gia sau khi đã thực hiện bước nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Xây dựng kế hoạch tạo nguồn hàng bằng 2 cách:
Đối với doanh nghiệp sản xuất thì tạo nguồn hàng là việc tổ chức quản lý sản xuất hàng hoá theo nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp sản xuất cần phải đầu tư trang thiết bị máy móc, nhà xưởng, nguyên liệu để sản xuất ra các sản phẩm xuất khẩu. Kế hoạch tổ chức sản xuất cần phải lập chi tiết, hạch toán chi phí cụ thể cho từng đối tượng. Trình độ công nhân sản xuất, số lượng công nhân, trình độ, chi phí đều ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và giá thành sản xuất.
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì tạo nguồn hàng bằng cách gom hàng từ các cơ sở sản xuất hàng hoá trong nước. Loại hình doanh nghiệp này cần lập kế hoạch gom hàng bao gồm: số lượng hàng hóa, thời gian gom hàng, các chi phí có liên quan…
Lập kế hoạch xuất khẩu.
Khi đã lựa chọn được thị trường xuất khẩu doanh nghiệp cần lập kế hoạch sang thị trường đó, nó bao gồm hàng hoá nào, khối lượng, giá cả, phương thức sản xuất và xuất khẩu ra sao.
Kế tiếp doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch giao dịch, ký hợp đồng gồm:
- Lập danh mục khách hàng.
- Lập danh mục hàng hoá.
- Dự kiến bán hàng cho từng khách hàng.
- Thời gian giao dịch.
1.2.3. Lựa chọn đối tác giao dịch
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người hoặc tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ. Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề sau:
- Tình hình sản xuất của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hoá.
- Thái độ và quan điểm kinh doanh lại chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng giành lấy độc quyền về hàng hoá.
- Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Uy tín của bạn hàng.
Trong việc lựa chọn thông thường, người giao dịch tốt nhất là nên chọn đối tác trực tiếp tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà chưa có kinh nghiệm.
Việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, song nó phụ thuộc nhiều vào khả năng của người làm công tác giao dịch.
1.2.4. Tổ chức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
Chuẩn bị cho giao dịch
Để công tác giao dịch diễn ra tốt đẹp doanh nghiệp phải biết thông tin đầy đủ về hàng hoá, thị trường tiêu thụ, khách hàng…
Việc lựa chọn khách hàng để giao dịch cần căn cứ các điều kiện sau:
- Tình hình kinh doanh của khách hàng.
- Khả năng về vốn, cơ sở vật chất của khách hàng.
- Uy tín danh tiếng của khách hàng.
-Thái độ của khách hàng.
Các phương thức giao dịch
Trên thị trường thế giới đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm và kỹ thuật riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch phù hợp. Dưới đây là hai phương thức giao dịch cơ bản nhất:
- Giao dịch trực tiếp
Giao dịch trực tiếp trong thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông qua thư từ điện tín) về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch và phương thức thanh toán…
Giao dịch trực tiếp thường tiến hành thông qua bốn bước sau:
+ Hỏi giá ( Inquiry).
Là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện bán hàng như giá cả, thì hạn giao hàng, điều kiện thanh toán… hỏi giá thực chất là thăm dò để giao dịch chứ không bắt buộc người hỏi giá trở thành người mua.
+ Báo giá.
Báo giá là nghiệp vụ tiếp theo của giao dịch và ký hợp đồng. Nếu đã là báo giá là đã có sự cam kết của người bán sẽ bán hàng với giá đó và kèm theo các điều kiện trong thư báo giá mà người bán không có quyền từ chối.
+ Chào hàng (Offer).
Là đề nghị của một bên (người bán hoặc người mua) gửi cho bên kia biểu thị muốn bán hoặc muốn mua một hoặc một số hàng hoá nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương tiện thanh toán …
+ Chấp nhận (Acceptance).
Chấp nhận là người chào hàng hay người báo giá đồng ý hoàn toàn với giá chào hàng hay báo giá đó. Mọi sự đồng ý nếu kèm theo báo lưu thì chưa phải là chấp nhận.
- Giao dịch qua trung gian.
Là giao dịch mà người mua và người bán quy định điều kiện mua bán hàng hoá phải thông qua một người thứ ba – người trung gian mua bán.
Hiện nay giao dịch qua trung gian chiếm khoảng 50% kim ngạch buôn bán trên thế giới. ở đây trung gian được hiểu có thể là một số cá nhân hoặc tổ chức hay một doanh nghiệp.
Trung gian buôn bán chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các đại lý và các tổ chức môi giới, hay các môi giới.
Ký kết hợp đồng
Hợp đồng xuất nhập khẩu là loại hợp đồng mua bán đặc biệt trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua vượt qua biên giới quốc gia, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị hàng hoá bằng các phương thức thanh toán quốc tế.
Một hợp đồng xuất nhập khẩu về cơ bản có một số đặc điểm sau đây:
- Các điều kiện cơ bản về hàng hoá (tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì, giá cả…) điều kiện cơ sở giao hàng và điều kiện giao hàng.
- Luật điều chỉnh hợp đồng (là cam kết để giải quyết tranh chấp nếu có).
- Chủ thể của hợp đồng.
- Ngôn ngữ của hợp đồng.
- Đồng tiền và phương thức thanh toán.
1.2.5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Tuỳ theo các điều kiện trong hợp đồng xuất khẩu mà doanh nghiệp cần phải thực hiện các nhiệm vụ để hoàn thành hợp đồng xuất khẩu của mình và thu được tiền từ khách hàng. Thông thường các doanh nghiệp đều phải thực hiện các bước công việc chung nhất được mô tả sau đây:
Sơ đồ - 1: Quy trình xuất khẩu
Làm thủ tục hải quan
Kiểm tra
Hàng hoá
Thuê tàu
(nếu cần)
Giao hàng lên tàu
Ký hợp đồng
Kiểm tra
L/C
Xin giấy phép XK
Chuẩn bị hàng hoá
Giải quyết tranh chấp
(nếu cần)
Thanh toán
Mua bảo hiểm
Ký hợp đồng
Bên bán và bên mua cùng thoả thuận với nhau số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá mua bán, cùng các điều kiện liên quan đến việc giao hàng, thanh toán, khiếu nại và giải quyết tranh chấp.
Kiểm tra L/C
Bên xuất khẩu phải có trách nhiệm kiểm tra L/C xem có phù hợp với hợp đồng hay không, nếu không phù hợp thì phải đề nghị bên mở L/C sửa đổi cho phù hợp trước khi tiến hành hoạt động giao hàng.
Xin giấy phép xuất khẩu
Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh làm hàng xuất khẩu và xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước không hạn chế. Nhà nước thường quản lý xuất khẩu bằng hạn ngạch và bằng luật pháp.
Hiện nay, việc cấp giấy phép xuất khẩu được Bộ thương mại cấp đối với hàng mậu dịch và tổng cục hải quan cấp đối với hàng phi mậu dịch.
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất khẩu một số mặt hàng với một nước nhất định trên một phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định.
Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm rất nhiều công việc từ thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu đến việc bao bì đóng gói, kẻ, ký mã hiệu. Tất cả các công việc này phải được thực hiện theo đúng như quy định của hợp đồng và đảm bảo tiến độ cho công tác giao hàng.
Kiểm tra hàng hoá
Kiểm tra xuất khẩu hàng hoá là yêu cầu cần thiết, đó là sự tiếp tục quá trình các công đoạn thực hiện hợp đồng trong kinh doanh thương mại. Bởi vì kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu sẽ ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu và đảm bảo uy tín cho nhà sản xuất cũng như tổ chức xuất khẩu trong quan hệ mua bán.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì (kiểm nghiệm). Nếu hàng hoá là động vật, thực vật phải kiểm tra khả năng lây lan, bệnh tật (kiểm dịch).
Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch phải được tiến hành ở hai cấp: ở cơ sở và ở cửa khẩu, kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành có vai trò quyết định và có tác dụng triệt để nhất. Kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở.
Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau đây:
- Những điều khoản hợp đồng mua bán.
- Đặc điểm hàng hoá mua bán.
- Điều kiện vận tải.
- Thông thường trong nhiều trường hợp, đơn vị kinh doanh xuất khẩu thường ủy thác việc thuê tàu cho một công ty vận tải.
Mua bảo hiểm
Các đơn vị kinh doanh ngoại thương khi cần mua bảo hiểm đều mua lại tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Hợp đồng bảo hiểm có thể chia thành hai loại:
- Hợp đồng bảo hiểm bao (Open Policy)
- Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy)
Làm thủ tục hải quan
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ để ngăn chặn xuất nhập khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra hàng hoá có bị sai sót, giả mạo không, để thống kê số lượng hàng xuất nhập khẩu. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan.
- Xuất trình hàng hoá.
- Thực hiện các quyết định của hải quan.
- Giao hàng lên tàu.
Giao hàng lên tàu
Theo điều kiện giao hàng trong hợp đồng đến thời hạn giao hàng, các nhà xuất nhập khẩu hàng hoá phải làm thủ tục giao hàng. Bên xuất khẩu phải thực hiện tất cả các bước cần thiết để thực hiện giao hàng đúng thời hạn và có được vận đơn để lập bộ chứng từ thanh toán.
Thủ tục thanh toán
Thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế, do đặc điểm buôn bán với nước ngoài nên thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế phức tạp hơn rất nhiều. Có rất nhiều cách thanh toán bằng thư tín dụng hoặc phương thức L/C.
1.3. Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
1.3.1.Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
1.3.1.1. Đặc điểm
Hầu hết các hợp đồng xuất khẩu may mặc được ký kết theo hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm. Nhiều khi các nguyên phụ liệu cũng do bên đặt gia công cung cấp, chúng ta ít có cơ hội sử dụng được các nguyên liệu trong nước.
Chúng ta vẫn thường thực hiện giao thành phẩm theo điều kiện FOB và nhận nguyên liệu theo điều kiện CIF cảng của Việt Nam.
Các hợp đồng gia công xuất khẩu thường tập trung vào một số công ty lớn cuả Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và một số Công ty thuộc EU. Việc ký kết các hoạt động với EU thường phải trải qua môi giới là các công ty Đài Loan, Hồng Kông…
Giá gia công tại Việt Nam thường thấp, lại có sự cạnh tranh cả trong và ngoài nước làm giá gia công giảm nhiều.
Gia công quốc tế thường sử dụng phương pháp thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) hoặc điện chuyển tiền (T/T).
1.3.1.2. Tình hình chung và thị trường của các doanh nghiệp may ở Việt Nam
Tình hình chung
- Đặc điểm ngành may.
Công nghiệp may được hình thành từ lâu và là đòn bẩy chiến lược để phát triển kinh tế ở nhiều nước. Với tính chất là một ngành đặc thù, công nghiệp may có sự khác biệt từ chủng loại sản phẩm đến công nghệ sản xuất cũng như nhu cầu thị trường về các sản phẩm may mặc. Điều này thể hiện ở các đặc điểm sau:
Ngành may mặc được phát triển và dịch chuyển từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông… và chuyển sang các nước đang phát triển.
Sản phẩm may mặc là loại sản phẩm thiết yếu, không những yêu cầu về chất lượng mà còn đòi hỏi cao về chủng loại mẫu mã với sự phong phú về mầu sắc kích cỡ phù hợp với xu hướng mốt thời gian của người tiêu dùng.
Ngành may được đánh giá là ngành quản lý gọn nhẹ song do các nguyên nhân vật liệu sử dụng chủ yếu là mềm mỏng nên việc tự động hoá là khó, tuy nhiên đầu tư không đòi hỏi lớn do đó thu hồi vốn nhanh. Điều này quy định tính chất ngành may đó là giải quyết được nhiều việc làm.
Ngành may là ngành chịu sự quản lý phần lớn bằng hạn ngạch.
- Thực trạng các doanh nghiệp mayViệt Nam hiện nay.
Sau khi chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, ngành may mặc Việt Nam đã bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh cùng với sự hình thành, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây là hướng đi đúng cần quan tâm và phát triển hơn nữa vì Việt Nam có lợi thế để phát triển để phát triển may mặc: lực lượng lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công thấp…Việt Nam là một nước đang phát triển nên được hưởng chế độ hạn ngạch và thuế ưu đãi nhập khẩu hàng may mặc của các nước trong khối thị trường chung Châu Âu. Mặt khác Việt Nam là thành viên chính thức của hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và đang trong quá trình xúc tiến gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) nên Việt Nam sẽ có cơ hội để tăng cường buôn bán với các nước trên thế giới và trong khu vực. Việt Nam đã thực hiện đưa hàng may mặc trở thành một trong những mặt hàng chủ lực đem lại kim ngạch xuất khẩu hàng năm cao. Theo thống kê của Bộ Thương Mại những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu hàng hằng năm chiếm 60 – 70% tổng giá trị xuất khẩu công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp.
Hiện nay Việt Nam có khoảng trên 600 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng may mặc thu hút khoảng 500.000 lao động và hơn 60.000 đơn vị máy móc thiết bị sản xuất. Ngành may đã xuất khẩu hàng trăm chủng loại hàng hoá từ thông thường đến cao cấp, đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng ở nhiều khu vực khác nhau. Nhiều mặt hàng như áo sơ mi, quần âu, áo Jaket đã có uy tín trên thị trường thế giới.
Ngành may Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, kim ngạch xuất khẩu hàng năm cao chỉ đứng sau dầu khí.
Thị trường các doanh nghiệp may Việt Nam hiện nay
- Thị trường xuất khẩu hạn ngạch
EU là thi trường hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam nhưng cũng là thị trường rất khó tính. Mỗi năm thị trường này phải nhập khẩu khoảng 63 tỷ USD cho các sản phẩm may mặc. Xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang EU đặc biệt phát triển từ sau Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết vào ngày 15/12/1992 và được thực hiện từ năm 1993 với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 2,3% so với giai đoạn 93-97.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU giai đoạn 1998-2000 được ký kết vào ngày 17/11/1997 cho phép nâng cao kim ngạch hàng năm từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 93-97 với mức tăng trưởng từ 3-6% năm.
Các nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Đức (40-42%), Pháp (13-15%)… cùng với việc mở rộng quan hệ buôn bán của Việt Nam với các nước EU khác, tỷ trọng nhập khẩu của các nước này tăng lên trong khi tỷ trọng của nhóm đứng đầu có xu hướng giảm.
Bảng - 1 : kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Đơn vị : Triệu USD
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Tổng kim ngạch của cả nước
1.480
1.642
189.000
Kim ngạch vào EU
546
700
750
Tỷ trọng (%)
37,7
42,6
37,7
Ngoài thị trường EU Việt Nam còn xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch theo một số nước như: Canada, Thổ Nhĩ Kỳ…với tỷ trọng tương đối ổn định.
- Thị trường không hạn ngạch
Thị trường Nhật Bản
Là thị trường xuất khẩu không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng rất nhanh, đặc biệt là từ năm 1994, năm 1997 Việt Nam đã trở thành một trong bảy nước xuất khẩu may mặc lớn nhất vào Nhật Bản với thị phần dệt thoi là 3,6% và hàng dệt kim là 2,3%.
Tuy nhiên xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản năm 1998 bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Kinh tế suy thoái, sức mua giảm, tồn kho cao và sự mất giá đồng yên Nhật làm tăng giá thành nhập khẩu đã buộc nhiều công ty nhập khẩu phải cắt giảm nhập khẩu nói chung và hàng dệt may của Việt Nam nói riêng. Ước tính, nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam năm 1998 giảm trên dưới 180 triệu USD. Đến nay cuộc khủng hoảng đã tạm rời xa, mặt hàng này đã được phục hồi dần và Nhật Bản sẽ là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong thời gian tới.
Thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ là thị trường được đánh giá là thị trường xuất khẩu hàng may mặc có nhiều tiềm năng củaViệt Nam. Năm 1993 trong khi nhiều thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ còn rất nhỏ bé, năm 1998 chỉ đạt 24,6 triệu USD so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ là 62.760 triệu USD, trong khi kim ngạch của Trung Quốc sang Mỹ là 5.998 triệu USD (chiếm 9,6%), Mêhico là 5.246 triệu USD (8,6%), Hồng Kông là 3.979 triệu USD (6,3%).
Thị trường SNG và Đông Âu
Trong những năm gần đây xuất khẩu sang những thị trường truyền thống SNG và Đông Âu đã bắt đầu khôi phục. Cộng hoà Liên bang Nga đã trở thành một trong mười nước nhập khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam với kim ngạch nhập khẩu là 41,4 triệu USD năm 1997 và 59,3 triệu USD năm 1998.
Các doanh nghiệp của Việt Nam cũng bắt đầu khôi phục lại thị trường Đông Âu (hiện chủ yếu xuất theo phương thức hàng đổi hàng) với giá trị kim ngạch dệt may khoảng 100 triệu USD.
Thị trường các nước trong khu vực
Hàng năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu một lượng sản phẩm lớn sang các nước trong khu vực (Hàn Quốc, Đài Loan, HồngKông, Singapore…), tuy nhiên các nước này không phải là thị trường nhật khẩu chính mà là các nước nhập khẩu qua trung gian hoặc thuê gia công để tái xuất khẩu sang nước thứ ba.
Theo xu hướng dịch chuyển ngành dệt may của thế giới, đầu tư của các nước trong khu vực vào sản xuất và gia công tại Việt Nam là xu hướng tất yếu. Và tìm các giải pháp tăng cường trong xuất khẩu trực tiếp giảm gia công và xuất khẩu qua trung gian là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả thực tế của ngành dệt mayViệt Nam.
Thị trường Trung Đông
Đây là hướng đi mới cho xuất khẩu của Việt Nam trong khi xuất khẩu sang các nước Châu á đang gặp khó khăn. Xuất khẩu sang thị trường Trung Đông có nhiều điều kiện thuận lợi, khả năng thanh toán cao, nhu cầu nhập khẩu cao do công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của các nước này chưa phát triển, vận tải đường biển tuy xa nhưng tuyến đường khá thuận lợi… Mặc dù kim ngạch còn thấp nhưng một số mặt hàng dệt may của Việt Nam đã tỏ ra có khả năng thâm nhập vào thị trường này.
1.3.2. Vài nét về hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam trong những năm qua
Hơn mười năm qua ngành dệt may nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, kim ngạch không ngừng tăng nhanh, nhiều năm liền đứng thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo thêm việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, uy tín và chất lượng sản phẩm hàng dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường thế giới.
Có sự tăng trưởng liên tục và vững chắc như vậy là nhờ ở đường lối đổi mới của Đảng đã tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, sự nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành trong việc tìm kiếm mở rộng thị trường, sự sáng tạo trong sản xuất của các doanh nghiệp.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,85 đến 1,9 tỷ USD, tăng khoảng 8-9% so với năm 1999, thấp hơn so với kế hoạch ban đầu nhưng t._.ăng gấp 10 lần so với năm 1991. Tình hình thị trường năm 2000 có những diễn biến phức tạp đồng EURO của châu Âu mất giá trên 20% so với đồng USD đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá nói chung, hàng dệt may nói riêng tại thị trường này – một thị trường chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta. Mặc dù từ năm 2000 ta và EU đã thoả thuận tăng mức hạn ngạch lên trên 20% và liên bộ Thương Mại – Công nghiệp – Kế Hoạch và Đầu tư đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích tận dụng hạn ngạch nhưng vẫn không đạt kết quả tốt.
Một yếu tố khác không thể bỏ qua đó là sau khủng hoảng khu vực 1997 – 1998, các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn như Indonexia, ấn Độ, Thái Lan, ... đã phục hồi. Cùng với Trung Quốc bắt đầu các chương trình phát triển mới, mạnh mẽ hơn trước đây bằng việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị, khuyến khích đầu tư, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nên đã góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm của họ. Yếu tố này là một thách thức lớn và lâu dài cho ngành dệt may nước ta.
Thêm vào đó, hàng dệt may Việt Nam trên cả ba thị trường lớn là EU, Nhật Bản, Hoa kỳ đang mất dần lợi thế cạnh tranh và thị phần. Giá trị hợp đồng xuất khẩu vào EU trong sáu tháng đầu năm 2001 giảm 26% so cùng kì năm trước; thị trường Nhật Bản không tăng, một số khách hàng Nhật Bản chuyển từ Việt Nam sang Trung Quốc. Thị trường nhập khẩu trên 50 tỷ USD dệt may một năm mà trong sáu tháng qua chỉ nhập của Việt Nam 22 triệu USD. Tính tổng cộng có tới 16/40 thị trường dệt may giảm sút, trong đó có những thị trường chiếm tỷ trọng nhập khẩu của ta khá lớn như CHLB Đức (chiếm 46,9% tổng lượng hàng nhập khẩu toàn EU từ Việt Nam ), Hoa Kỳ, Oxtraylia, Tây Ban Nha, Singapore, HồngKông, Thụy Sỹ, Thụy Điển…
Khối lượng buôn bán hàng dệt may trên thế giới khoảng 350tỷ USD, trong đó 150 tỷ USD là hàng dệt, 200 tỷ USD là hàng may mặc sẵn.
Qua đây ta thấy rằng ngành dệt may xuất khẩu nước ta còn rất khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng của một đất nước gần 80 triệu dân, đồng thời cũng thấy rõ những thị trường ta có khả năng và cơ hội tiếp cận, khai thác, cũng như các đối thủ cạnh tranh lâu dài. Từ đó tạo cho ta cơ hội phát triển nhanh ngành may mặc.
Chương 2
Thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty HANOTEX
2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty may HANOTEX
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty HANOTEX
Tên gọi: Công ty HANOTEX.
Tên giao dịch: HANOTEX COMPANY LIMITED.
Trụ sở chính: Ngõ 538 Đường Láng- Quận Đống Đa- Hà Nội.
ĐT: 84.4.7661849-7661850.
FAX: 84.4.7661854.
Công ty HANOTEX là một Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập ngày 1/12/1998, theo quyết định của Sở Thương Mại Hà Nội. Công ty chuyên sản xuất hàng may mặc, găng tay da, thảm dệt len dưới các hình thức gia công (CPM); mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm( FOB).
Về hình thức kinh doanh, công ty Hanotex là loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, mặt hàng chủ đạo của Công ty là sản phẩm may mặc được sản xuất trên dây chuyền thiết bị tiên tiến, hiện đại nhập từ các nước công nghiệp phát triển như: Nhật Bản, CHLB Đức, HongKong... Sản phẩm may của công ty đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như : EU, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan... và đã được khách hàng đánh giá cao. Hiện nay, thị trường chính mà Công ty đang tập trung khai thác là thị trường Mỹ, do đó Công ty đã tích cực tìm hiểu thị hiếu cũng như nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ để thị trường này thực sự trở thành thị trường hoạt động có hiệu quả của Công ty.
Là một doanh nghiệp mới thành lập nên hiệu quả kinh doanh của Công ty ở những năm đầu chưa cao, công ty cũng gặp những khó khăn về vốn, kỹ thuật, lao động... Khởi đầu tổng số lao động của Công ty là 550 người, bao gồm cả lao động sản xuất và lao động quản lý. Cho đến nay lao động của Công ty là 1250 người (năm 2002) trong đó lao động quản lý là 70 người chiếm 5.6% tổng số lao động trong toàn công ty. Từ năm 2000 bằng các hình thức huy động vốn, số vốn công ty đã tăng nhiều và đáp ứng được nhu cầu của sản xuất kinh doanh và nhu cầu đổi mới máy móc, thiết bị, cụ thể là công ty đã nhập về các loại máy móc hiện đại của các nước công nghiệp tiên tiến, từ đó giúp cho năng suất lao động của Công ty tăng lên và công ty đi vào hoạt động có hiệu quả.
Năng lực sản xuất của công ty hiện nay
Sản phẩm may mặc: 1.500.000 sp/năm (quy đổi Jacket)
Găng tay da: 3.000.000 sp/năm
Thảm dệt len: 2000 m2/năm
Về quy mô hoạt động sản xuất
Trụ sở chính của Công ty là ngõ 538 Đường Láng Quận Đống Đa Hà Nội. Hiện nay Công ty đã phát triển thêm một trụ sở nữa ở số 684 Phố Minh Khai, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội và mở rộng thêm một số xưởng may khác.
Cán bộ và nhân viên của Công ty
Là những người có năng lực thực sự và tâm huyết với nghề nghiệp. Hàng năm số công nhân này ngày càng khẳng định được vai trò của mình, là đội ngũ trẻ thích ứng nhanh với công việc được giao.
Tuy là doanh nghiệp mới đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng hoạt động của Công ty HANOTEX đã bắt đầu có hiệu quả. Điều đó có ý nghĩa thực sự cho sự phát triển kinh tế đất nước, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều người lao động.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty may HANOTEX
2.1.2.1. Chức năng
Công ty HANOTEX là một Công ty thuộc ngành dệt may do đó mang chức năng chung của ngành Dệt may Việt Nam, đó là:
- Công ty chuyên sản xuất các sản phẩm may mặc, dệt kim phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Nhập khẩu nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị phụ tùng ngành may mặc phục vụ cho các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.
- Liên doanh liên kết với các đối tác khác nhằm mở rộng quy mô sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
2.1.2.2. Nhiệm vụ
Công ty HANOTEX được thành lập theo quyết định của Sở Thương Mại Hà Nội. Là một Công ty thuộc ngành Dệt May Việt Nam, Công ty HANOTEX có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng may mặc. Trên cơ sở các hoạt động của mình, Công ty có nhiệm vụ không ngừng nâng cao hiệu quả và mở rộng sản xuất kinh doanh, đáp ứng ngày càng nhiều cho nhu cầu của xã hội. Công ty tự bù đắp chi phí, tự trang trải vốn và làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước.
Dưới đây là những nhiệm vụ chính của công ty:
- Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm may mặc và trên cơ sở đó phải luôn nâng cao hiệu quả và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Độc lập trong hoạt động sản xuất kinh doanh và làm tròn nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, với người lao động.
- Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn cũng như tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác.
2.1.3. Cơ cấu và bộ máy tổ chức
Công ty HANOTEX tổ chức bộ máy quản trị theo mô hình “Trực tuyến- chức năng” nghĩa là vừa duy trì hệ thống trực tuyến vừa kết hợp với việc tổ chức các bộ phận chức năng. Do đó đã gắn việc sử dụng các chuyên gia ở các bộ phận chức năng với hệ thống trực tuyến mà vẫn giữ được tính thống nhất quản trị ở mức độ nhất định.
Giám đốc: là đại diện pháp nhân của Công ty, là người chịu trách nhiệm sản xuất kinh doanh và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định hiện hành.
Giám đốc trực tiếp điều hành các hoạt động của Công ty từ việc tìm hiểu thị trường, tìm đối tác liên doanh, tiêu thụ sản phẩm và quản lý các hoạt động của Công ty.
Sơ đồ - 2: cơ cấu và bộ máy tổ chức của Công ty HANOTEX.
Giám đốc
PGĐkỹ thuật
PGĐ
Kinh tế
Phòng
kỹ thuật
và
kcs
Phòng
Kế hoạch
vật tư –
xnk
Phòng
phục vụ
sản
xuất
Phòng
tổ chức
lao
động
Phòng
kinh doanh tiếp thị
Phòng
hành
chính
Phòng
tàI
vụ
Phân
xưởng
thêu
Các
phân xưởng may
CáC
Phân
xưởng
cắt
Kho
Thảm
len
Kho
cơ
khí
Kho nguyên
Phụ liệu
Các
cửa
hàng gtsp
Phó giám đốc sản xuất kỹ thuật: là người giúp việc cho giám đốc, phụ trách về mảng kỹ thuật của hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, kiểm tra hàng hoá, quy cách đóng gói.
Phó giám đốc kinh tế: phụ trách mảng tìm hiểu nghiên cứu thị trường và tìm các đầu mối cung cấp nguyên phụ liệu đầu vào và tìm kiếm các đối tác tiêu thụ.
Các phòng ban: là các đơn vị chuyên môn có nghĩa vụ làm tham mưu cho giám đốc trong việc chỉ đạo, tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý kinh doanh, tổ chức đời sống, giữ gìn trật tự an ninh. Các phòng ban có trách nhiệm theo dõi hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc khách hàng, đảm bảo tiến độ sản xuất, quy trình công nghệ, định mức kinh tế kỹ thuật và các mặt quản lý chuyên môn.
Hiện nay Công ty có các phòng ban chức năng, bao gồm:
Phòng kế hoạch vật tư và xuất nhập khẩu
Bao gồm: Bộ phận kế hoạch, Bộ phận vật tư, Bộ phận xuất nhập khẩu.
Phòng này có trách nhiệm tham mưu, giúp đỡ cho giám đốc công ty trong việc điều tra nắm bắt thị trườngvà trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch, lập tiến độ sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp để thực hiện kế hoạch, lập kế hoạch thông tin quảng cáo các sản phẩm của công ty trên thị trường, thu thập và xử lý thông tin, phân tích tình hình trong công tác xây dựng định hướng của xí nghiệp, theo dõi, ký kết các hợp đồng kinh tế, phản ánh kịp thời tình hình kế hoạch hàng tháng, quý, năm và thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, làm mọi thủ tục xuất nhập khẩu và mua sắm vật tư cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất. Phòng tổ chức giao nhận và bảo quản vật tư hàng hoá trong kho, cấp phát vật tư kịp thời cho quá trình sản xuất, tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra quá trình thực hiện kế hoạch, tổ chức mạng lưới tiêu thụ của công ty.
- Phòng tổ chức lao động
Tham mưu cho giám đốc về tổ chức sản xuất, về tổ chức hợp lý, theo dõi và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch lao động, tiền lương, nghiên cứu đưa vào áp dụng các hình thức trả lương, thưởng nhằm khuyến khích người lao động, xây dựng kế hoạch đào tạo, tổ chức hợp lý việc đào tạo cán bộ, thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người lao động, xây dựng nội quy về an toàn lao động, xây dựng các quy chế làm việc, các mối quan hệ giữa các đơn vị trong công ty nhằm xây dựng nề nếp, tổ chức và nâng cao hiệu quả của người lao động.
Tổ chức tốt đội ngũ nhân viên bảo vệ kinh tế, bảo vệ tốt tài sản, cơ sở vật chất của công ty, đảm bảo an toàn lao động cũng như an ninh trật tự trong công ty.
- Phòng hành chính quản trị
Tổ chức hợp lý công tác hành chính, văn thư, sửa chữa nhà cửa, phương tiện quản lý.
Tổ chức khám chữa bệnh cho các bộ công nhân viên, kết hợp với các đơn vị quản lý ngày công, bảo hiểm xã hội của cán bộ công nhân viên để đảm bảo chính xác việc chấm công,… cho cán bộ công nhân viên.
Mỗi phòng ban trong công ty tuy có chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng phục vụ cho việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
- Phòng tài vụ
Thực hiện theo đúng pháp lệnh về kế toán mà nhà nước ban hành, có quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra và tính đúng, tính đủ các khoản thu nhập, chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch để đảm bảo cho việc hạch toán kế toán được chính xác và tổ chức phân tích đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phòng kỹ thuật và KCS
Được chia thành 3 bộ phận là: Bộ phận chế mẫu, Bộ phận giác mẫu, Bộ phận KCS.
Phòng có nhiệm vụ xây dựng và tiêu chuẩn hoá quy trình công nghệ sản xuất mới. Theo dõi các quy trình công nghệ, nghiên cứu, thiết kế, giác mẫu, chế thử các sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng và thị hiếu của người tiêu dùng. Xây dựng định mức tiêu hao vật tư phù hợp với yêu cầu sản phẩm, yêu cầu của khách hàng và mang lại lợi ích cho công ty. Kết hợp với phòng đào tạo nghiệp vụ chuyên môn xây dựng quy trình công nghệ an toàn trong lao động và sử dụng máy móc thiết bị.
Tổ chức hợp lý mạng lưới kiểm tra kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm. Xây dựng các thông số về chất lượng sản phẩm qua các công đoạn của quy trình sản phẩm. Xây dựng và đưa vào các biện pháp nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, tiến hành tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
- Phòng phục vụ sản xuất
Phòng phục vụ sản xuất có nhiệm vụ bám sát kế hoạch phục vụ sản xuất, kịp thời cung ứng nguyên phụ liệu, quản lý điều động phương tiện vận tải, quản lý kho nguyên phụ liệu, thành phẩm xuất khẩu, kho cơ khí, thu gom vật tư, phế liệu, định hình phân loại.
- Phòng kinh doanh tiếp thị
Phòng kinh doanh tiếp thị có nhiệm vụ theo dõi thị trường, nhu cầu của khách hàng, ký kết các hợp đồng đồng thời tổ chức tiếp thị thị trường để khai thác kinh doanh hàng may mặc và vật tư hàng hoá.
Các phân xưởng sản xuất
Trực tiếp thực hiện tổ chức sản xuất, làm ra các sản phẩm theo tiến độ, kế hoạch sản xuất của công ty giao.
Đứng đầu các phân xưởng có ban quản đốc làm nhiệm vụ theo dõi chỉ đạo trực tiếp các thành viên trong phân xưởng của mình và phải thường xuyên báo cáo lên lãnh đạo của công ty và hoạt động sản xuất của các phân xưởng.
2.1.4. Đội ngũ lao động
Hanotex là Công ty thuộc ngành dệt may nên Công ty cần những lao động có sự khéo léo, cần mẫn do đó số lượng lao động trong công ty chủ yếu là nữ. Đó là đội ngũ lao động trẻ thích ứng nhanh với công việc và ngày càng được đào tạo để nâng cao tay nghề. Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên toàn Công ty là 1250 người, trong đó lao động trực tiếp là 1180 người, chiếm 94,4% và lao động gián tiếp là 70 người, chiếm 5,6%.
Để tìm hiểu tình hình biến động về số lượng lao động trong Công ty, ta có thể theo dõi bảng số liệu sau :
biểu: Sự biến động của lao động qua từng năm
Đơn vị: người
Năm
1999
2000
2001
2002
Số lao động
870
985
1170
1250
Qua đây ta thấy số lượng lao động của Công ty đã tăng lên rất nhanh từ năm 1999 đến năm 2002. Điều đó phản ánh nhu cầu của sản xuất và phản ánh quy mô của sản xuất kinh doanh là tương đối lớn. Mặc dù số lượng lao động trong công ty tăng nhanh qua các năm nhưng Công ty vẫn đảm bảo về mặt chất lượng lao động. Để hiểu thêm về vấn đề số lượng và chất lượng lao động của Công ty chúng ta có thể tham khảo bảng số liệu sau :
Bảng -2: Tình hình nguồn lao động trong công ty
Đơn vị : Người.
Tên chỉ tiêu
2001
2002
Cán bộ quản lý phục vụ:
-Trình độ ĐH:
-Trình độ CĐ:
-Trình độ SC:
60
20
16
24
70
23
19
28
Công nhân trực tiếp SX:
Bậc 1:
Bậc 2:
Bậc 3:
Bậc 4:
Bậc 5:
1110
188
175
190
215
342
1180
105
290
202
230
353
Tổng lao động bình quân năm:
Nữ:
Nam:
1170
1000
170
1250
1070
180
Qua các số liệu trên ta thấy số công nhân năm sau đều cao hơn năm trước, điều đó chứng tỏ công ty ngày càng lớn mạnh, làm ăn có lãi và ngày càng được mở rộng. Đồng thời chất lượng lao động được cải thiện đáng kể, điều này được thể hiện ở số liệu năm 2001 và 2002. Mỗi năm khi tiến hành xây dựng kế hoạch sản xuất công ty tiến hành lập kế hoach tuyển và chủ động cơ cấu lại lao động theo kế hoạch.
Năm 2001: Lao động trực tiếp: 94,8%
Lao động gián tiếp: 5,2%
Năm 2002: Lao động trực tiếp: 94,4%
Lao động gián tiếp: 5,6%
Hiện tại số lao động gián tiếp của Công ty là: 70 người, trong đó cán bộ tốt nghiệp Đại học là: 23 người, chiếm 1,84% tổng số lao động trong Công ty, đó là những cán bộ am hiểu về chuyên môn và có kinh nghiệm quản lý. Còn lại 3,76% lao động gián tiếp là những người có trình độ Cao đẳng, Trung học về các chuyên môn nghiệp vụ như: kế toán tài chính, thương mại, xuất nhập khẩu, kỹ thuật công nghệ, ngoại ngữ… Bên cạnh đó, Công ty có chế độ tuyển dụng hợp lý, từ đó tạo cho mình một đội ngũ nhân viên có năng lực, đảm bảo được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra Công ty liên tục tổ chức đưa cán bộ đi bồi dưỡng kiến thức chuyên môn hàng năm qua các khoá đào tạo Tại chức, các khoá học dài hạn, ngắn hạn phục vụ cho công tác quản lý. Công ty có chính sách lương bổng và các khoản ưu đãi, phụ cấp hợp lý nên ý thức trách nhiệm của cán bộ công nhân viên rất cao, nhờ đó hiệu quả công việc được nâng lên rõ rệt.
2.1.5. Máy móc thiết bị và tiềm lực tài chính
2.1.5.1. Máy móc thiết bị
Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển của công cụ lao động, sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng, tăng hiệu quả kinh doanh. Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, chịu tác động mạnh mẽ của trình độ khoa học kỹ thuật, cơ cấu, tính đồng bộ của máy móc thiết bị, chất lượng công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị ,...
Hàng năm Công ty may HANOTEX đã sử dụng nguồn vốn đầu tư để trang bị máy móc thiết bị và mở rộng sản xuất. Từ năm 1999 đến năm 2002 Công ty đã tăng mức đầu tư vào tài sản cố định rất nhiều. Trong mấy năm gần đây mua sắm và xây dung mới tăng nhanh, đặc biệt là đầu tư tài sản trong năm 2002, điều đó được thể hiện ở bảng sau:
Bảng -3: Bảng tổng hợp tăng giảm tài sản cố định
qua các năm
Đơn vị: Nghìn đồng
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Nguyên giá TSCĐ
Mua sắm mới
Xây dựng mới
45.789.624
733.274
167.725
46.690.623
752.907
153.299
47.596.829
16.680.436
986.966
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm của Công ty HANOTEX )
Như vậy trong các năm qua tài sản cố định của Công có xu hướng tăng tạo điều kiện thuận lợi để công ty thực hiện các mục tiêu đề ra.
Tính đến năm 2002, Công ty có 17 dây chuyền sản xuất, tổng số máy móc đưa vào hoạt động là 1446 máy: trong đó có 1065 máy may, 176 máy giác mẫu, 5 máy cắt di động, 41 bàn là treo, 2 máy trải cắt vải tự động,…Các máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty hầu hết được nhập từ CHLB Đức, Nhật Bản và Pháp.
Theo đánh giá chung của ngành may thì Công ty HANOTEX có trình độ công nghệ vào loại khá. Để mặt hàng xuất khẩu của Công ty đảm bảo yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao, Công ty phải đầu tư một cách hợp lý để mở rộng sản xuất và có máy móc thiết bị phù hợp với quy trình sản xuất.
2.1.5.2. Tiềm lực tài chính
Tính đến cuối năm 2001, Công ty HANOTEX có tổng số vốn kinh doanh là 10.136.349.522 VND.
Trong đó:
Vốn cố định: 6.513.500.000 VND, chiếm 64%
Vốn lưu động: 3.622.849.522 VND, chiếm 36%
Ta thấy vốn kinh doanh của Công ty còn hạn chế, Công ty cần huy động thêm vốn đặc biệt là vốn lưu động.
Tuy mới được thành lập trong một thời gian ngắn nhưng lãnh đạo công ty đã xác định rõ xu hướng phát triển của thị trường nói chung và thị trường may mặc nói riêng. Công ty HANOTEX đã tích cực tập trung vào việc hiện đại hoá máy móc thiết bị, nâng cấp dần các cơ sở sản xuất.
Trên thực tế việc đánh giá tình hình hoạt động của công ty không thể chỉ dựa vào con số tuyệt đối mà bên cạnh đó còn phải sử dụng linh hoạt các chỉ tiêu tương đối bởi vì các chỉ tiêu này phản ánh phần nào trung thực hơn hiệu quả thực hiện của một doanh nghiệp.
Bảng - 4: một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình
TàI chính của Công ty HANOTEX
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
1. Cơ cấu vốn
- TSCĐ (%)
- TSLĐ (%)
61,63
38,37
63,95
36,05
64,00
36,00
2. Tình hình tài chính
- Vốn CSH/tổng nguồn vốn (%)
- Vốn vay/tổng tài sản (%)
- Hệ số khả năng thanh toán
- Doanh lợi của doanh thu (%)
27,39
72,61
2,07
1,85
30,3
69,7
1,87
2,33
17,70
82,30
1,65
2,46
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty HANOTEX )
Từ bảng số liệu trên ta thấy: Năm 2001 số vốn vay của Công ty giảm so với năm 2000, làm cho chỉ tiêu vốn vay/ tổng tài sản giảm 2,91%. Đồng thời vốn chủ sở hữu của Công ty năm 2001 tăng so năm 2000, làm cho chỉ tiêu vốn chủ sở hữu/ tổng nguồn vốn tăng lên 2,91%.
Năm 2002, nguồn vốn chủ sở hữu giảm làm cho chỉ tiêu vốn vay/ tổng tài sản tăng lên đáng kể, tăng 12,6% so năm 2001.
Khả năng thanh toán hiện thời của Công ty năm 2001 đã giảm so năm 2000 và năm 2002 giảm so năm 2001: từ 2,07 năm 2000 xuống còn 1,78 năm 2001 rồi 1,65 năm 2002 với tỉ lệ giảm lần lượt là 0,2và 0,22. Đây là công cụ đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của Công ty, hệ số này vào khoảng 2 đến 2,5 được đánh giá là tốt nhất.
Trong thời kì mở cửa hiện nay, thời kỳ tự do hoá, toàn cầu hoá thương mại cùng với xu thế sát nhập của các tập đoàn có ảnh hưởng lớn đến thị trường thế giới. Thêm vào đó, hiện nay thị trường Việt Nam cũng đang trong thời kỳ bùng nổ về các loại sản phẩm may mặc nhiều doanh nghiệp may mặc cùng sản xuất các loại sản phẩm cạnh tranh với Công ty. Vì vậy, Công ty không thể tránh khỏi sự cạnh tranh với các đối thủ có vốn lớn, công nghệ sản xuất tiên tiến.
Gần đây, Công ty đang thực hiện nhiều hợp đồng mới theo phương thức mua nguyên liệu,bán thành phẩm. Đây là một bước đi đúng hướng, có hiệu quả. Để thực hiện được bước đi này Công ty cần tiếp tục phát huy nhưng đồng thời phải tự tạo được cho mình một nguồn vốn đủ để đảm bảo hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công ty
2.2.1. Nhân tố bên trong
Các yếu tố thuộc doanh nghiệp là một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, bao gồm:
2.2.1.1. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp biểu thị qua doanh số bán hàng và lợi nhuận thu được của doanh nghiệp. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực tài chính của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm, chiến lược Marketing, dịch vụ sau khi bán…
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp : Nguồn vốn kinh doanh, khả năng chi trả nhanh tại một thời điểm bất kỳ, khả năng huy động vốn lớn cho các hợp đồng xuất khẩu lớn là những nhân tố không thể thiếu khi tiếp cận khía cạnh tài chính của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh quyết định tốc độ tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai và quan trọng hơn nó còn cho mọi người biết rằng doanh nghiệp có tồn tại và vững mạnh được không.
- Chất lượng sản phẩm: là tổng thể các chỉ tiêu đặc trưng thể hiện qua việc thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định, phù hợp với giá trị của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn.
- Giá cả sản phẩm: giá cả ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng tiêu thụ của doanh nghiệp đặc biệt đối với những sản phẩm tiêu dùng thông dụng có nhiều nhãn hiệu trên thị trường. Bởi vì giá cả sản phẩm luôn gắn liền với thu nhập của người tiêu dùng. Và tất nhiên hàng hoá có mức giá dễ chịu hơn thì sẽ bán được nhiều hơn.
- Chiến lược Marketing
Có rất nhiều doanh nghiệp thành công trên thị trường nhờ vào các chiến lược Marketing đúng đắn và kịp thời giúp doanh nghiệp mang sản phẩm được từ doanh nghiệp tới tay người tiêu dùng thông qua một loạt các biện pháp bán hàng, quảng cáo, tiếp thị…
- Dịch vụ đi kèm: Bán hàng trong thị trường hiện nay đòi hỏi rất nhiều dịch vụ chăm sóc khách hàng. Các dịch vụ vận chuyển, giao hàng, bảo hành, thanh toán thẻ… là hầu như không thể thiếu được với mỗi nhà kinh doanh.
Đối với Công ty HANOTEX - một Công ty Trách nhiệm hữu hạn mới đi vào hoạt động được một vài năm nhưng cũng đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. Trong những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã đạt được những kết quả nhất định: chất lượng sản phẩm của Công ty được nâng cao, mẫu mã, chủng loại hàng hoá ngày càng đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường kể cả những thị trường khó tính.
Tuy nhiên trên thị trường trong và ngoài nước, Công ty cũng phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh, họ có ưu thế về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, có chính sách hỗ trợ của chính phủ... Chẳng hạn như Trung Quốc họ cũng có lợi thế như ta về nguồn nhân lực trong sản xuất hàng may mặc nhưng cách sản xuất truyền thống của họ đã rất tốt nên hiệu quả sản xuất cao hơn và đó chính là thể hiện của năng lực cạnh tranh. Còn giữa các doanh nghiệp may trong nước thì lại cạnh tranh gay gắt với nhau khiến cho khách hàng đặt gia công lựa chọn, ép giá,... nên giá cả gia công ngày càng giảm.
2.2.1.2. Trình độ quản lý
- Ban lãnh đạo doanh nghiệp
Là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược do doanh nghiệp đề ra mục tiêu đồng thời giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một chiến lược đúng đắn phù hợp với thực tế thị trường và được sự điều hành giỏi của các cán bộ trong doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ phát huy được trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể, đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được nhanh chóng và chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết các vấn đề nảy sinh, đồng thời thích ứng được với các điều kiện biến đổi của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội nhanh nhất, hiệu quả nhất.
- Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu
Đóng vai trò quyết định tới sự thành công hay thất bại của các hợp đồng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể được thực hiện khi có sự nghiên cưú tỉ mỉ về thị trường hàng hoá dịch vụ, về các đối tác, các đối thủ cạch tranh, phương thức giao dịch, đàm phán ký hợp đồng… Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu về thị trường quốc tế, có khả năng phân tích và dự báo những xu hướng vận động của thị trường, khả năng giao dịch đàm phán…Đồng thời phải thông thạo các kỹ năng về thủ tục xuất nhập khẩu và vận chuyển hàng hoá.
2.2.1.3. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có
- Đây là yếu tố phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp bao gồm các nguồn vốn phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và năng lực của nó phục vụ cho doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời nó cũng là nền tảng cho doanh nghiệp để giữ vững và phát triển mở rộng sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có phản ánh khả năng sản xuất và thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp không thể có những hợp đồng lớn nếu cơ sở vật chất kỹ thuật nhỏ bé và thiếu thốn.
Trong những năm qua Công ty HANOTEX đã tập trung vào việc đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất, máy móc thiết bị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để có khả năng sản xuất những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Nhờ vậy chất lượng sản phẩm của Công ty được nâng lên đáng kể, giúp Công ty dần có chỗ đứng trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
2.2.2. Nhân tố bên ngoài
2.2.2.1. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng một số đơn vị tiền tệ của một nước khác. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là mức tỷ giá giao dịch hàng ngày ở các trung tâm tài chính. Tỷ giá này phản ánh giá trị danh nghĩa của đồng tiền mà không phản ánh được sức cạnh tranh quốc tế hàng hoá của một nước ở thị trường nước ngoài.
Khi tỷ giá thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu xuất khẩu hoặc chi phí nhập khẩu và đầu tư nước ngoài, sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường nước ngoài. Vì vậy việc quy định chế độ tỷ giá của Ngân Hàng Nhà nước có tác động rất lớn tới tốc độ phát triển thương mại quốc tế của đất nước.
2.2.2.2. Nhân tố pháp luật
Mỗi quốc gia đều có một hệ thống pháp luật riêng và hệ thống pháp luật này phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Ngược lại các nhân tố pháp luật chi phối mạnh mẽ đến mọi hoạt động của nền kinh tế và xã hội của nước đó. Doanh nghiệp xuất khẩu cần hiểu rõ môi trường luật pháp của quốc gia mình và ở các quốc gia mà doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá sang hoặc dự định xuất khẩu sang, bởi vì hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các mặt sau:
- Quy định về thuế, hạn ngạch, chủng loại, khối lượng, quy cách kỹ thuật.
- Quy định về hợp đồng, giao dịch, quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ.
- Quy định về quy chế sử dụng lao động – tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm, phúc lợi.
- Quy định về cạnh tranh, độc quyền.
- Quy định về tự do hoá mậu dịch hay hàng rào thuế quan và phi thuế quan chặt chẽ.
Từ đó có thể nhận ra một điều rằng yếu tố pháp luật có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu bằng một loạt các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ. Mặt khác cũng sẽ tạo ra những rào cản sự hoạt động của những doanh nghiệp xuất khẩu khi muốn bán sản phẩm ra thị trường nước ngoài hoặc xâm nhập thị trường mới.
2.2.2.3. Nhân tố văn hoá xã hội
Là nền tảng của thị hiếu tiêu dùng, sự yêu thích trong tiêu dùng sản phẩm, là nhân tố quyết định đến đặc điểm của cầu. Thị hiếu tiêu dùng thể hiện trình độ văn hoá, thói quen tiêu dùng… Các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thành công trên thị trường quốc tế khi có hiểu biết nhất định về môi trường văn hoá xã hội của các quốc gia, khu vực thị trường mà mình dự định đưa hàng hoá vào chào bán. Từ việc hiểu biết này doanh nghiệp có thể định vị được sản phẩm của mình một cách tốt nhất, phù hợp với nhu cầu của thị trường, bán được với số lượng sản phẩm lớn và tối đa hoá lợi nhuận.
Với Công ty HANOTEX, do nhận thức được mức độ ảnh của yếu tố văn hoá xã hội nên Công ty đã có những hoạt động tích cực trong việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường nhằm thu thập các thông tin về thị hiếu, thói quen tiêu dùng của từng thị trường và đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của các thị trường này.
2.2.2.4. Nhân tố kinh tế
- Các chính sách và công cụ kinh tế khác nhau ở các quốc gia khác nhau sẽ tạo ra điều kiện và cơ hội kinh doanh khác nhau cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế phát triển và các liên minh kinh tể có mậu dịch tự do phát triển sẽ cho phép hàng hóa và dịch vụ tự do qua lại trên biên giới quốc gia thuận lợi rất lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu.
- Hệ thống tài chính Ngân hàng
Hệ thống tài chính Ngân hàng được coi là linh hồn của nền kinh tế, thông qua hệ thống này các chính sách kinh tế của chính phủ như chính sách tài khoá và tiền tệ… được đảm bảo một cách triệt để và có hiệu quả tạo tiền đề và điểm tựa cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ thống tái chính ngân hàng còn thực hiện vai trò quản lý tài chính, cung cấp vốn, thanh toán cho các doanh nghiệp hoạt động._.h của mình. Từ đó Công ty có kế hoạch, biện pháp tổ chức và đầu tư thích đáng.
Công tác nghiên cứu thị trường được thực hiện ở hai mức độ khác nhau. Trước tiên Công ty cần nghiên cứu khái quát thị trường, các nhân tố ảnh hưởng: môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội… sau đó tiến hành nghiên cứu chi tiết thị trường để có những thông tin cụ thể hơn. Trong bước này Công ty cần thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu thức khác nhau như: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thu nhập, tập quán tiêu dùng… nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng của từng đoạn thị trường khác nhau đối với sản phẩm của Công ty, hành vi mua sắm của họ cũng như nhân tố ảnh hưởng đến hành vi đó để có cách ứng xử thích hợp.
Thông qua mối quan hệ với các bạn hàng vào tìm hiểu, làm ăn với Công ty cần có ý thức tận tâm chịu khó tìm hiểu để nắm bắt được kinh nghiệm của họ trong công tác nghiên cứu thị trường. Đó là cách hiệu quả nhất để hiểu biết thị trường một cách sát thực trong khi điều kiện khảo sát thị trường còn khó khăn. Bởi vì họ là những chuyên gia dày dạn kinh nghiệm, am hiểu về thị trường thế giới, thành thạo trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc.
Muốn nắm bắt thông tin và tìm bạn hàng, Công ty cần duy trì tốt các mối quan hệ với các cơ quan chức năng trong và ngoài nước cũng như phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng Công ty Dệt may Việt nam, Hiệp hội may Thương vụ của ta tại các nước… đồng thời, bằng các mối quan hệ năng động như các mối liên kết với Việt Kiều tại nước ngoài, các văn phòng và nhiều cơ quan khác ở nước ngoài để khai thác nắm bắt thông tin của các thị trường khác nhau.
Vì kinh phí còn hạn hẹp, ngoài các mối quan hệ trên Công ty còn phải làm tốt công tác thông tin quảng cáo coi đó là nghiệp vụ quan trọng trong chiến lược Marketing. Bằng các hình thức như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Để giới thiệu về Công ty, Công ty cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tham gia các hội chợ triển lãm hàng dệt may quốc tế tại Việt nam và các nước. Tuy vậy Công ty vẫn cần phải tính toán sao cho việc tham dự có hiệu quả nhất như lựa chọn hội chợ mà Công ty đã có vị trí tương đối thu hút khách hàng, mặt hàng giới thiệu phải được lựa chọn kỹ càng về mẫu mốt và chất lượng sản phẩm, việc thuê và thiết kế gian hàng để trưng bày sao cho rẻ, đẹp và phù hợp…
Ngoài ra Công ty cũng cần phải tiến tới thành lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài, các văn phòng này sẽ cung cấp đầy đủ các thông tin về thị trường tiêu thụ, thị trường giá cả và dự báo những thông tin về nhu cầu thị trường để Công ty có những bước xử lý chính xác và ra quyết định kịp thời. Nó còn có nhiệm vụ thay mặt Công ty đàm phán, giao dịch, chào hàng, giới thiệu mặt hàng xuất khẩu của Công ty tới các khách hàng, các Công ty nước ngoài để làm cơ sở cho Tổng Giám đốc ký kết các hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả.
Để làm tốt công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường Công ty cần quan tâm nhiều hơn đến bộ phận chức năng chuyên làm công tác thị trường sao cho bộ phận này trở thành một trợ thủ đắc lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty phải thực sự đề cao vai trò của công tác này, biến nó thành một hoạt động mang tính thường xuyên và có chính sách đầu tư thích đáng cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi chuyên có trách nhiệm nghiên cứu và tiếp cận thị trường với chức danh và đãi ngộ một cách thoả đáng.
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nếu quan tâm đúng mức và chú trọng thích đáng chắc chắn Công ty sẽ cải thiện được những yếu kém về công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường như hiện nay góp phần đưa Công ty HANOTEX trở thành một doanh nghiệp có kinh nghiệm trên thương trường từ đó đẩy mạnh quá trình xuất nhập khẩu của Công ty.
3.2.2. Mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay vai trò của các đối tác thật sự quan trọng, nó quyết định sự thành bại của bất kỳ một Công ty nào. Hoạt động hợp tác kinh doanh có được duy trì hay không phụ thuộc vào sự lựa chọn đối tác. Mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau thì sự tác động của các yếu tố này là khác nhau nhưng nhìn chung đều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh.
Trong hoạt động gia công hàng xuất khẩu, vai trò của công tác lựa chọn đúng đối tác hết sức quan trọng. Do đặc điểm của hoạt động này, sự phụ thuộc của mỗi bên là rất lớn, nên cả hai phía phải tìm hiểu kỹ về nhau để quan hệ thương mại giữa hai bên đạt hiệu quả cao nhất.
Công tác mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài do phòng kinh doanh tiếp thị đảm nhiệm thông qua các hoạt động như: cử đại diện ra nước ngoài, qua các phòng thương mại, các tổ chức thông tin… nhằm tìm kiếm thông tin về các thị trường cũng như các đối tác nước ngoài mà Công ty cần thiết lập mối quan hệ làm ăn, từ đó công ty có thể mở rộng thị trường xuất khẩu của mình đồng thời mở rộng được các mối quan hệ thương mại với các đối tác kinh doanh.
Trong tương lai Công ty sẽ tích cực mở rộng quan hệ với các đối tác của các nước: Mỹ, Nhật Bản, EU, đặc biệt là thị trường Mỹ – một thị trường mà công ty đã và đang tập trung khai thác và doanh số đạt được trên thị trường này là lớn.
Những năm qua hiệu quả đạt được từ hoạt động mở rộng quan hệ với với các đối tác nước ngoài chưa cao do công ty được thành lập trong một thời gian ngắn nên chưa có mối quan hệ truyền thống với khách hàngvà một phần cũng là do hoạt động của phòng kinh doanh tiềp thị chưa đạt hiệu quả. Vì vậy trong những năm tới Công ty sẽ tăng cường hơn nữa công tác mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài để hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty đạt hiệu quả cao nhất.
3.2.3. Mở rộng hình thức xuất khẩu trực tiếp
Gia công là hoạt động chủ yếu của Công ty, đó cũng là bước đi tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Tuy nhiên phương thức kinh doanh này mang lại hiệu quả không cao, do đó Công ty nên tiến tới xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình. Điều này sẽ giúp Công ty tăng được doanh thu từ xuất khẩu, chủ động hơn trong sản xuất và đặc biệt sản phẩm sản xuất sẽ mang nhãn hiệu Công ty thể hiện danh tiếng, uy tín trên thị trường. Để tiến tới xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình Công ty cần chú trọng tới: tự chủ thêm một số nguyên phụ liệu để dần tới tự cung ứng toàn bộ nguyên phụ liệu bằng việc mua trong nước. Như vậy Công ty cần liên kết chặt chẽ hơn với các ngành cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào. Đạt được sự chủ động này, Công ty sẽ tự tổ chức sản xuất và như vậy cơ hội để đạt hiệu quả cao sẽ nhiều hơn so với gia công đơn thuần. Hơn nữa tiến tới phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp, sự phát triển của Công ty sẽ kéo theo các ngành cung cấp nguyên phụ liệu phát triển.
Tiến hành nghiên cứu thị trường vì hoạt động theo phương thức xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm sản xuất ra không còn được bao tiêu toàn bộ, nó phảt đáp ứng phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng thì mới được thị trường chấp nhận. Do đó cần nghiên cứu để biết được những cái thị trường cần và có sự cung ứng cho phù hợp.
Thiết kế mẫu mốt: Sau khi nghiên cứu để nắm bắt được nhu cầu thị trường, Công ty cần phải đầu tư phát triển hoạt động thiết kế mẫu mốt sao cho phù hợp với nhu cầu đó. Sản phẩm do Công ty tự thiết kế, sản xuất phải đảm bảo phù hợp về kiểu mẫu, chất lượng, màu sắc, giá cả… với thị trường này thì mới được thị trường đó chấp nhận. Ngoài những mặt hàng chính mà Công ty gia công theo yêu cầu của khách hàng, khi xuất khẩu hàng hoá Công ty cần đa dàng hoá các mặt hàng để đáp ứng mọi nhu cầu về chủng loại.
Điều đặc biệt quan trọng khi phát triển từ hình thức gia công đơn thuần sang xuất khẩu trực tiếp là kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Trước đây Công ty thường chỉ gia công cho khách hàng truyền thống thì mọi quan hệ đơn giản hơn. Còn khi tiến lên xuất khẩu trực tiếp, để hoạt động này đạt hiệu quả cao, Công ty cần bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu để họ có đủ năng lực, tích luỹ kinh nghiệm, bảo vệ cho lợi ích của Công ty trước những khách hàng từng trải.
Khi hoạt động xuất khẩu trực tiếp, Công ty sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Dựa vào những khách hàng gia công truyền thống của mình Công ty tiến hành chào hàng theo hình thức xuất khẩu đặc biệt là những thị trường mà ta được ưu đãi về chính sách thuế nhập khẩu thì nên tận dụng để thâm nhập. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh luôn được khẳng định thông qua mẫu mã, chất lượng, giá cả hàng hoá nên Công ty cần chú trọng vấn đề này.
Chuyển từ hình thức kinh doanh là gia công sang xuất khẩu đòi hỏi cả một quá trình nên Công ty cần tiến hành dần theo từng bước để ngày càng nâng cao thế chủ động của mình, khẳng định năng lực của mình khi đứng trước một thị trường mà cơ hội thì nhiều song khó khăn cũng rất to lớn.
3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động hậu cần kinh doanh
Đối với nguyên liệu, phụ liệu
Hiện nay, nguồn nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu của Công ty vẫn chủ yếu là được nhập từ nước ngoài bởi vì vải và các nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và chủng loại đa dạng của khách hàng. Do đó Công ty cần có mối quan hệ chặt chẽ với cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu của nước ngoài nhằm tạo cho Công ty có nguồn nguyên phụ liệu đảm bảo chất lượng và ổn định hơn cho sản xuất và xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc. Điều đó đòi hỏi Công ty phải thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường quốc tế để đảm có những thông tin cần thiết về cơ sở đó, tránh cho Công ty phải mua qua các tổ chức trung gian hay những thiệt hại do không hiểu biết về thị trường.
Ngoài ra Công ty cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ sở cung cấp nguyên phụ liệu trong nước. Điều đó sẽ cho Công ty tạo nên sức mạnh tổng hợp cho một chu trình khép kín, đồng bộ từ nguyên phụ liệu cho đến sản phẩm cuối cùng. Từ đó Công ty chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh mà cụ thể là kế hoạch đẩy nhanh quá trình chuyển sang xuất khẩu trực tiếp của Công ty đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
Đối với máy móc thiết bị
Công ty may HANOTEX cũng như nhiều doanh nghiệp may mặc khác đứng trước nhu cầu to lớn về đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị máy móc phục vụ cho may xuất khẩu buộc các Công ty phải nhập chúng từ nước ngoài, kể cả phụ tùng thay thế. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp như hiên nay thì đó là một vấn đề khá nan giải với Công ty vì vậy Công ty cần phải hợp tác tốt với các Công ty cơ khí may, cung cấp cho họ những thông tin về những nhu cầu đổi mới, thay thế, sửa chữa máy móc thiết bị của Công ty. Thậm chí Công ty có thể hỗ trợ một phần kinh phí cho họ có thể sản xuất ra các máy móc thiết bị, phụ tùng thay thế với giá rẻ và chất lượng đảm bảo, giúp cho Công ty tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn mà vẫn đảm bảo cho hoạt động sản xuất hàng gia công và trực tiếp. Đồng thời nếu chưa sản xuất được thì họ cũng có thể tư vấn thông tin kịp thời cho Công ty trong việc đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ một cách có hiệu quả.
Đối với trình độ tay nghề của đội ngũ lao động
Đây chính là nơi sẽ đào tạo và cung cấp cho Công ty những công nhân kỹ thuật lành nghề những cán bộ có năng lực giúp cho Công ty vượt qua khó khăn không ngừng vươn lên để khẳng định mình trên thị trường may mặc thế giới bằng những sản phẩm có chất lượng cao. Sự phối hợp của Công ty với các cơ sở đào tạo sẽ giúp việc đào tạo gắn liền với nhu cầu sử dụng, đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh của Công ty. Công tác này có thể thực hiện dưới các hình thức tổ chức các cuộc kiểm tra tay nghề công nhân, tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn cho cán bộ công nhân viên để nâng cao trình độ… Những người được có những kiến thức và phẩm chất cho nghề nghiệp và sẽ là nhân tố quyết định sự thành công của Công ty trong việc thực hiện chuyển đổi từ gia công đơn thuần sang gia công mua NL bán TP.
Đối với vấn đề cung ứng vốn
Quan hệ hợp tác tốt với tổ chức tín dụng có thể nhanh chóng tiếp cận được với những nguồn vốn cho vay ưu đãi giúp Công ty giải quyết vấn đề nan giải hiện nay là thiếu vốn. Họ cũng có thể hỗ trợ Công ty kịp thời những lúc nhu cầu vốn lên cao.
3.2.5. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm
Trong bất cứ một môi trường kinh doanh nào, chất lượng sản phẩm là yếu tố hàng đầu, sản phẩm đảm bảo chất lượng thì người tiêu dùng mới chấp nhận, bạn hàng mới tìm đặt. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp.
Để thoả mãn kịp thời các yêu cầu về chất lượng, Công ty HANOTEX cần thực hiện các biện pháp thiết thực sau:
Chăm lo đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề
Yếu tố con người có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty may HANOTEX. Muốn làm ra sản phẩm có chất lượng lượng cao, người lao động phải có trình độ nghề nghiệp tinh thông. Nhiều chuyên gía hàng đầu về công nghiệp dệt may thế giới đã rút ra kết luận rằng: “đối với quần áo, khâu quan trọng nhất là khâu may và điều này phụ thuộc vào tay nghề của công nhân nên lĩnh vực mà họ cần cải tiến trước hết không phải là công nghệ mà là trình độ tay nghề của công nhân”.
Do vậy chăm lo đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng, khuyến khích vật chất đối với cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề là động lực quan trọng, thiết thực nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Công ty thường xuyên tổ chức các khoá học đào tạo nâng cao trình độ cho công nhân, cán bộ kỹ thuật và có chế độ đãi ngộ hợp lý với những người có năng lực. Đặc biệt Công ty có thể cử một số công nhân, cán bộ kỹ thuật đi học ở nước ngoài và khi về họ sẽ là nòng cốt cho việc nâng cao trình độ cho toàn bộ lực lượng công nhân và cán bộ kỹ thuật của Công ty.
Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại, đồng bộ, có trọng điểm nhằm tạo sự thay đổi căn bản về chất lượng sản phẩm của Công ty
Điều này đảm bảo được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại phù hợp, đó là yếu tố then chốt nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, thực sự mang lại sức cạnh tranh mạnh mẽ cho sản phẩm của Công ty trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên cần tránh hiện tượng đầu tư ồ ạt tạo nên sự mất cân đối về cơ cấu, các thiết bị chuyên dùng, nhập nhiều nhưng vẫn thiếu về chủng loại. Việc nhập công nghệ nói chung, máy móc thiết bị nói riêng phải được cân nhắc kỹ lưỡng về đặc điểm kỹ thuật cũng như các chỉ tiêu kinh tế thương mại, tránh hiện tượng nhập thiết bị lạc hậu và thiết bị tân trang.
Công ty cũng cần tập trung nguồn lực để đầu tư các thiết bị hiện đại thuộc thế hệ mới nhằm nâng cao năng suất tạo ra sản phẩm may mặc cao cấp, có giá trị cao, đa dạng phong phú về chủng loại nhằm đáp ứng mọi khu vực thị trường.
Cũng như nhiều doanh nghiệp dệt may khác, đầu tư đổi mới trang thiết bị là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, song khó khăn lớn nhất đối với công ty may HANOTEX hiện nay là vấn đề vốn. Do vậy việc huy động có hiệu quả nguồn vốn trong và ngoài nước là giải pháp quan trọng để tháo gỡ khó khăn đó.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm
Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm phải được tiến hành tốt thì mới hạn chế được những tổn thất do những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng phải trả lại, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường may mặc thế giới. Quan trọng hơn nữa là giữ được chữ tín của công ty trên thị trường, đó là tài sản vô hình rất quí báu để đảm bảo cho công ty chỗ đứng vững chắc và ngày càng phát triển trên thị trường thế giới góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của công ty.
Đúng vậy, dù công ty có cố gắng bao nhiêu về mặt thời gian giao hàng nhưng nếu sản phẩm không đáp ứng những quy định tiêu chuẩn thị trường nhập khẩu cũng không được thị trường chấp nhận và chỉ là sự lãng phí vô ích. Chất lượng không đạt tiêu chuẩn cao của nước nhập khẩu chính là sự tồn tại đang cản trở khả năng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp của công ty may HANOTEX.
Do vậy trước hết nhận thức công ty cần coi công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, phải xem xét nó là một bộ phận không thể thiếu khi doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu chất lượng.
Trước mắt công ty phải đảm bảo đáp ứng tốt hơn những quy định tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu thông qua các khách hàng của doanh nghiệp. Đó cũng chính là cơ sở để công ty phấn đấu nâng cao trình độ sản xuất và chất lượng sản phẩm cuả mình.
Để làm được điều đó công ty cần chú trọng công tác chăm lo đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm để họ không chỉ là những người có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm mà còn là những trợ thủ đắc lực cố vấn trong việc tham gia sáng kiến cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty về tiêu chuẩn chất lượng.
Tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000 – 2000
Trong những năm qua chất lượng sản phẩm của công ty mặc dù đã được nâng lên đáng kể nhưng so với các doanh nghiệp may khác trong khu vực và trên thế giới, công ty vẫn phải nỗ lực hơn trong công tác cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Để cho sản phẩm may mặc của Công ty may HANOTEX chiếm lĩnh trên thị trường và phát triển trên thị trường thế giới gắn với các biểu tượng uy tín chất lượng cao của nhãn hiệu Việt Nam thì việc tiến tới áp dụng ISO 9000: 2000 là mục tiêu chất lượng hàng đầu của công ty. Do đó trong tương lai công ty sẽ tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000: 2000 - Đây là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là phương tiện để bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định về sản xuất và chất lượng trước khi tiến hành ký hợp đồng.
3.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước
3.3.1. Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự cân đối giữa ngành dệt với ngành may
Ngành dệt trong nước hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu ngành may. Các doanh nghiệp may hầu như phải nhập khẩu nhất là với các mặt hàng cao cấp, mặt hàng có chất lượng cao. Đặc biệt đối với các mặt hàng gia công xuất khẩu thì 100% các loại vải là do nhập khẩu. Còn vải trong nước sản xuất chất lượng thấp, chưa đồng bộ, chưa đạt tiêu chuẩn cho xuất khẩu. Mặc dù, Tổng công ty Dệt may Việt Nam ra đời với phương châm “may là lối ra cho dệt” nhưng vẫn chưa đem lại hiệu quả, vẫn còn tồn tại “dệt đi dường dệt còn may đi đường may”. Lượng hàng dệt nhập khẩu vào Vệt Nam vẫn là một con số lớn. Vì vậy phương châm “may là lối ra cho dệt” cần được thực hiện một cách triệt để và việc đầu tư cho dệt cần được làm theo chiều sâu, hình thành một số cụm sản xuất dệt, in, nhuộm hoàn tất có công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng vải cho may xuất khẩu… Điều đó vừa tạo cho sự phát triển cho cả may và dệt của Việt Nam. Hơn nữa, Tổng công ty Dệt may Việt Nam cũng cần phải tạo ra được sự kết hợp hài hoà giữa dệt và may. Ngành dệt hiện nay cần phải có những hoạt động cụ thể:
Có quy hoạch phát triển hàng dệt may theo chiều sâu nhằm đảm bảo cân đối giữa hai ngành dệt và may. Có quy hoạch sắp xếp lại ngành dệt: để có thể phối hợp phát huy năng lực hiện có bổ sung các trang thiết bị mới để dệt ra vải mà người tiêu dùng trong nước ưa thích để tạo nguồn cho ngành may xuất khẩu .
Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp may sử dụng nguồn nguyên liệu, phụ liệu trong nước.
Trên đây là một số giải pháp nhằm tạo đà cho phát triển ngành dệt, qua đó hỗ trợ các doanh nghiệp may trong quá trình sản xuất và xuất khẩu.
3.3.2. Ban hành những chính sách, chế độ nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Đứng trước xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế xã hội, các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp thuận các cuộc cạnh tranh không khoan nhượng. Hơn nữa, cùng với việc gia nhập khối AFTA, Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) sự cạnh tranh bình đẳng lúc đó không chỉ đối với các nước trong khu vực mà còn mở rộng ra đối với các nước trên thế giới tham gia WTO.
Đứng trước cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt đó, để có thể giúp cho các doanh nghiệp bước đầu làm ăn có hiệu quả trên thương trường và có thể nâng cao uy tín hơn nữa đảm bảo sự thành công của mình cũng như giúp cho các doanh nghiệp chưa có hiệu quả chuyển sang có lãi và bước đầu tạo được uy tín và chỗ đứng trên thị trường thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Thứ nhất: Nhà nước cần ban hành chính sách giúp cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng để mua sắm máy móc thiết bị hiện đại phù hợp, xây dựng nhà xưởng mở rộng sản xuất kinh doanh. Đồng thời căn cứ vào mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật về loại máy móc thiết bị, Nhà nước cũng như Tổng Công ty xem xét và cấp nguồn khấu hao cho Công ty để tiến hành đầu tư mua sắm máy móc thiết bị.
Thứ hai: Nhà nước có các giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường mới. Nhà nước tham gia đàm phán, ký kết mở rộng hạn ngạch may mặc cho Việt Nam và EU, hướng vào thị trường rộng lớn nhưng khó tính như Bắc Mỹ, Nhật Bản. Đồng thời Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ có thể tham gia vào việc gia công hàng xuất khẩu cho các nước thuộc khu vực này. Nhà nước xem xét việc cấp thêm hạn ngạch cho doanh nghiệp vào EU để tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động.
Thứ ba: Do đặc điểm ngành may mặc, số lượng lao động chiếm tỷ lệ tương đối cao, do đó Nhà nước cần ban hành các chính sách chế độ ưu đãi cho lao động nữ nhằm khuyến khích họ nhiệt tình sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cụ thể như vấn đề đề bạt cán bộ trong doanh nghiệp, vấn đề nâng bậc lương, độ tuổi nghỉ hưu, vấn đề bảo hộ lao động, bảo vệ sức khoẻ cho người lao động.
Thứ tư: Quản lý vĩ mô đối với tất cả các doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu trên phạm vi cả nước, nhằm hướng các doanh nghiệp ở bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng theo định chế lợi ích chung của ngành may Việt Nam để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, dẫn tới việc khách hàng ép giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Tránh tình trạng hiện nay, Tổng Công ty dệt may Việt Nam chỉ hỗ trợ về các mặt cũng như chỉ có chính sách quản lý vĩ mô chung. Ngoài ra các doanh nghiệp may mặc khác không nằm trong Tổng Công ty may thì vẫn phải cạnh tranh quyết liệt, không có sự hỗ trợ ở tầm vĩ mô.
3.3.3. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
Để giữ vững vị trí và thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhập các thị trường khác một cách suôn sẻ và hiệu quả, các doanh nghiệp may Việt Nam cần có sự hỗ trợ của Nhà nước một cách thích đáng.
Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với các nước để giảm thuế nhập khẩu của các nước này đối với hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng, nhằm mở rộng hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Thắt chặt và quan tâm các mối quan hệ song phương và đa phương đã xây dựng được nhằm tạo cơ hội cho ngành.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng như hội chợ triển lãm hàng may mặc Việt Nam tại các thị trường nước ngoài nhằm giới thiệu hàng dệt may Việt Nam với các thị trường đó.
Tổ chức nghiên cứu thị trường, giá cả, hỗ trợ và tư vấn cho các Công ty may xuất khẩu như: phát huy chức năng Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, thành lập một trung tâm giao dịch và xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may, đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, thu thập xử lý thông tin về thị trường về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường.
Nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện thêm nguồn khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động khuếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng mới của dệt may Việt Nam tìm được chỗ đứng vững chắc và phát triển trên thị trường này.
3.3.4. Cải tiến thủ tục xuất, nhập khẩu
Một khó khăn đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay là những rườm rà trong thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, mỗi một lô hàng trước khi được nhập vào hay xuất ra khỏi biên giới một quốc gia đều phải tiến hành khai báo thủ tục hải quan. Để có thể quản lý lượng hàng hoá ra vào một nước việc làm đó là tất yếu, song Việt Nam là một trong những nước có quy chế về thủ tục rườm rà trên thế giới mặc dù trong những năm gần đây vấn đề này đã được lưu tâm và đã có phần cải thiện so với trước đây. Trong môi trường quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân, nhu cầu hội nhập với thế giới đã là một điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế đất nước thì việc khai thông các thủ tục chồng chéo một cách hợp lý nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh tế nước ngoài tiếp xúc và tiến tới hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam là rất cần thiết. Việc làm này không chỉ có lợi ích như vậy mà kéo theo đó là cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, tạo động lực phát triển kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính trong ngành sẽ được thu gọn tránh tình trạng cồng kềnh.
Một điều quan trọng nữa của việc đơn giản một cách hợp lý các thủ tục giấy tờ, đó là hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu của các cán bộ Hải quan, tránh tình trạng chậm chạp ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và thời gian giao hàng.
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc nói riêng, trước khi tiến hành xuất nhập khẩu, phải có được hạn ngạch do Bộ Thương Mại cấp. Và đây lại là một vấn đề nữa trong việc hoàn thành thủ tục xin hạn ngạch. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành công việc này một cách đơn giản hơn, dành thời gian và sức lực cho nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp góp phần trong công cuộc CNH - HĐH đất nước, chính phủ cũng cần làm gọn hơn thủ tục này.
Một số thủ tục cụ thể đặc trưng đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu trong quá trình thực hiện hợp đồng:
- Đơn giản hoá thủ tục nhập khẩu nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn còn rườm rà, mất thời gian gây khó khăn cho doanh nghiệp .
- Cải tiến và đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu.
- Cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về.
Xuất khẩu hàng may mặc đang là vấn đề sôi động trong hoạt động thương mại của nước ta. Hiện nay giá trị do xuất khẩu hàng may mặc đem lại cho nền kinh tế nước ta rất lớn.
Để có thể phát triển và đưa ngành Dệt may Việt Nam trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải cố gắng phấn đấu và hoàn thiện mình. Là một trong những doanh nghiệp thuộc ngành dệt may Việt Nam, Công ty may HANOTEX cũng có những nét đặc trưng chung của ngành dệt may, song cũng có những nét đặc thù. Hoạt động sản xuất chính của Công ty HANOTEX là gia công hàng may mặc xuất khẩu. Tuy mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn nhưng nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được tiến hành thuận lợi và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình trên thương trường.
Trên đây là toàn bộ thực trạng và một số ý kiến góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty may HANOTEX. Bên cạnh những thành tựu đạt được còn có rất nhiều hạn chế nhưng toàn bộ cán bộ và công nhân viên của Công ty may HANOTEX sẽ nỗ lực đưa Công ty phát triển vững mạnh, đưa sản phẩm dệt may của Công ty trở thành một nhãn hiệu có uy tín trên thế giới.
Bảng 2: một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty HANOTEX.
Tổ chức tốt công tác nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
Mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài.
Mở rộng hình thức xuất khẩu trực tiếp.
Nâng cao chất lượng hậu cần kinh doanh.
Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Bảng 3: giải pháp “không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm”
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.
Tiếp tục đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại, đồng bộ, có trọng điểm nhằm tạo sự căn bản về chất lượng sản phẩm.
Tiến hành tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trọng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tiến tới áp dụng hệ thống quản trị chất lượng ISO 9000 - 2000.
Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh – công ty HANOTEX.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu và doanh thu xuất khẩu.
Chỉ tiêu
ĐV tính
1999
2000
2001
2002
Kim ngạch XK
USD
3.082.800
3.463.876
4.004.675
3.577.086
Doanh thu XK
Tr Đ
44.535
49.000
58.077
48.680,7
Bảng: báo cáo thực hiện doanh thu và lợi nhuận
năm 2001-2002.
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
KH 2001
TH 2001
TH/KH
KH 2002
TH 2002
TH/KH
1. Tổng doanh thu
52.000
63.890
122,87
58.000
52.804,28
91,04
2. Doanh thu thuần:
-Doanh thu XK
+Gia công
+Bán đứt
+XK uỷ thác
-Doanh thu nội địa
+Gia công
+Bán đứt
+Bán khác
52.000
50.000
42.000
7.540
460
2.000
539,5
1.430
30,5
63.890
58.077
48.048
10.091
836
5.812
2.809
2.905
97
122,87
116,15
114,4
133,84
181,92
290,63
420,74
103,2
319,79
58.000
55.000
45.500
9.450
550
2.500
755
1.700
45
52.804,28
48.680,70
40.187,10
7.930
563,21
4.123,6
1.029,4
3.020,7
73,53
91,04
88,50
88,32
83,90
102,40
164,90
136,34
177,70
163,40
3. Lợi nhuận sau thuế
1.232
1.488,8
120,84
1.250
1.301,3
104,10
Bảng6: Hình thức xuất khẩu
bảng: so sánh giá trung bình sản phẩm áo Jăcket giữa hai phương thức xuất khẩu
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2001
2002
1
Số lượng gia công đơn thuần
Chiếc
465.520
489.550
2
Trị giá gia công đơn thuần
USD
1.536.216
1.223.875
3
Số lượng gia công MNL - BTP
Chiếc
53.750
94.510
4
Trị giá gia công MNL – BTP
USD
1.393.750
2.173.730
5
Giá một sản phẩm:
- Gia công đơn thuần
- Gia công MNL – BTP
USD
USD
USD
3,3
25
2,5
23
Bảng: so sánh tỷ lệ gia công đơn thuần và gia công
MNL-BTP
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tuyệt đối
Số tương đối
Số tuyệt đối
Số tương đối
Số tuyệt đối
Số tương đối
Số tuyệt đối
Số tương đối
(Tr đ)
(%)
(Tr đ)
(%)
(Tr đ)
(%)
(Tr đ)
(%)
Tổng doanh thu XK
44.535
100
49.000
100
58.077
100
48.680,7
100
Gia công đơn thuần
44.535
100
43.120
88
41.815,4
72
34.076,5
65
Gia công MNL - BTP
0
0
5.880
12
16.261,6
28
14.604,2
35
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37146.doc