Hoạt động Xuất khẩu giầy sang thị trường EU của Công ty TNHH 1 thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng & Giải pháp thúc đẩy

Tài liệu Hoạt động Xuất khẩu giầy sang thị trường EU của Công ty TNHH 1 thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng & Giải pháp thúc đẩy: LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này mang lại cho Việt Nam rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức. Tuy vậy, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và được khẳng định. Hoà chung với xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế, để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng một nền kinh tế mở, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và quan hệ xuất nhập khẩu nói r... Ebook Hoạt động Xuất khẩu giầy sang thị trường EU của Công ty TNHH 1 thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng & Giải pháp thúc đẩy

doc138 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Xuất khẩu giầy sang thị trường EU của Công ty TNHH 1 thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng & Giải pháp thúc đẩy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iêng là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Ở nước ta, công nghiệp da giầy là một trong những lĩnh vực có vị trí quan trọng - được xem là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế. Năm 1960, Đảng và Nhà nước ta đã xác định giầy dép là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vì vậy, việc phát triển mạnh ngành công nghiệp da giầy là hoàn toàn phù hợp với chủ trương thay thế nhập khẩu, hướng về xuất khẩu, tận dụng được lợi thế của đất nước về nhân công, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình là một trong những lực lượng quan trọng của ngành công nghiệp da giầy nước ta. Trong thời gian thực tập tại công ty, được tìm hiểu về các hoạt động của công ty đặc biệt là hoạt động xuất khẩu giầy, em nhận thấy thị trường xuất khẩu chính của công ty là thị trường EU. Tuy vậy hiệu quả xuất khẩu của công ty sang thị trường này chưa cao do rất nhiều nguyên nhân trong đó có hai nguyên nhân chủ yếu: Một là do công ty gặp phải sự cạnh tranh rất lớn của các doanh nghiệp sản xuất – xuất khẩu giầy dép khác trên thị trường EU. Hai là do công ty vẫn chỉ xuất khẩu giầy sang thị trường EU qua trung gian. Do vậy mà hiệu quả xuất khẩu mang lại chưa cao. Với thực tế như vậy, việc tìm ra giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU một cách hiệu quả hơn là một điều cần thiết. Vì vậy, em mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy”. Đề tài này được trình bày thành ba chương: Chương 1: Một số vấn đề về hoạt động xuất khẩu giầy ở các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường ở nước ta. Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình. Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình. Em hy vọng với đề tài này có thể giúp công ty tìm ra được giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU hiệu quả hơn. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP Ở CÁC DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA 1.1. Mặt hàng giầy dép và đặc điểm của xuất khẩu mặt hàng giầy dép. 1.1.1. Đặc điểm của mặt hàng giầy dép. Về phương diện tiêu dùng: Giầy dép là một trong các sản phẩm tiêu dùng thời trang không thể thiếu được. Tất cả mọi người từ mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp đặc biệt là thanh niên nam, nữ rất quan tâm đến giầy dép bởi thông qua giầy dép, trang phục mà họ sử dụng thể hiện phần nào phong cách sống, thẩm mỹ, thói quen tiêu dùng của họ. Khi đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về giầy dép cũng tăng lên không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng và mẫu mã. Ví dụ: Trung bình một người dân EU sử dụng 4 đôi giầy/năm, tiêu thụ hàng năm xấp xỉ 1,5 tỷ đôi các loại trong đó 60% là nhập khẩu từ các nước khác. Đến năm 2010 số lượng giầy dép nhập khẩu từ ngoài EU vào khoảng 1,8 tỷ đôi. Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ tiêu thụ hàng năm là 1,6 – 1,8 tỷ đôi trong đó 90% là giầy nhập khẩu từ các nước khác. Ở thị trường Nhật Bản, trung bình một người dân tiêu thụ 3 đôi giầy/năm. Mức cầu trung bình về giầy của Ấn Độ là 1,5 đôi/người/năm. Đi một đôi giầy với cảm giác thoải mái, tự tin, chất lượng tốt và mẫu mã độc đáo là cái mà người tiêu dùng cần. Chính vì vậy, giầy dép luôn cần được thay đổi để uyển chuyển nhạy bén với thị trường và nhu cầu đa dạng đó. Thị trường giầy dép hiện nay chủng loại rất đa dạng và phong phú với chất lượng ở các mức độ khác nhau tùy theo nhu cầu và thị hiếu của khách hàng: Phân loại theo dạng của giầy: Giầy cao cổ, giầy thấp cổ, dép xăngđan… Phân theo nguyên liệu làm đế giầy: Giầy đế cao su, giầy đế nhựa hoá học… Phân theo mục đích sử dụng: Người tiêu dùng có rất nhiều sự lựa chọn với các loại sản phẩm khác nhau như: Dép lê: Dùng để đi trong nhà, bãi biển, thích hợp khí hậu nóng. Các loại sandal thể thao: Dùng để mang thông dụng ngoài trời cho những vùng khí hậu nóng, phù hợp tính thời trang, dã ngoại. Dép da nữ: Dùng để mang trong những buổi tiệc hoặc dạ hội. Giày chạy: Có đặc điểm nhẹ, êm, thoáng, mũ quai có thể co dãn được, phần đế sử dụng nhựa PU thích hợp cho thể thao và chạy bộ. Giầy tây: Dùng để mang thông dụng trong công sở, tiệc tùng… Hài: Dùng để đi trong nhà, thích hợp cho cả hai mùa: Mùa nóng và mùa hè. Ngoài ra còn có: Giày tennis, giầy leo núi, giày trượt tuyết…. Như vậy, tùy thuộc vào túi tiền, vào mục đích sử dụng, gu thẩm mỹ của từng người mà người tiêu dùng có thể chọn cho mình một sản phẩm ưng ý nhất. Giầy dép là một bộ phận của thời trang, là biểu tượng của trình độ, tình trạng tiêu dùng xã hội, là tiếng nói của bản sắc văn hoá cộng đồng sử dụng. Cho nên các sản phẩm giầy dép luôn chiếm được sự quan tâm trên thị trường quốc tế. Về phương diện sản xuất: Ngành công nghiệp da giầy là một ngành thu hút rất nhiều lao động vào sản xuất. Sản xuất hàng giầy dép cần nhiều lực lượng lao động mà lại không đòi hỏi quá cao về trình độ kỹ thuật. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện của nước ta: Đó là một quốc gia đông dân với cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động phổ thông rất dồi dào, người lao động rất cần cù, chăm chỉ, thông minh, nhanh nhạy trong việc nắm bắt những kiến thức mới; Thêm vào đó, Việt Nam là một đất nước nhiệt đới cho nên khí hậu rất phù hợp cho việc trồng các loại cây đặc biệt là cây cao su – Nhựa cao su là một trong những nguyên liệu chính cho sản xuất đế giầy. Tính đến nay, vừa tròn 111 năm cây cao su được du nhập vào Việt Nam (1897) và 100 năm hình thành những đồn điền kinh doanh (1907). Diện tích trồng cây cao su đã tăng rất nhanh, từ 7.077 ha tập trung tại các tỉnh Đông Nam Bộ vào năm 1920 đã tăng lên đến 480.200 ha trên cả nước, cho tổng sản lượng mủ cao su khai thác đạt 468.600 tấn. Theo các chuyên gia ở Tập đoàn Cao su Việt Nam, vào năm 2010, diện tích cao su có thể đạt mức 700.000 ha, cho sản lượng mủ trên 600.000 tấn. Đây đúng là một thuận lợi cho việc sản xuất giầy dép. Bên cạnh cây cao su, nước ta cũng là một trong số những nước có ngành chăn nuôi rất phát triển, cho nên đây là một trong những nguồn lớn cung cấp các loại da cho sản xuất giầy dép. Theo số liệu của Viện nghiên cứu Da giầy Việt Nam, với đàn trâu bò khoảng trên 7 triệu con và mức tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 3,5%, mỗi năm có thể thu mua được khoảng 700.000 con da, ước khoảng 15.000 tấn/năm, có thể đáp ứng được nhu cầu của các cơ sở thuộc da hiện nay. Bên cạnh đó, cả nước có trên 40 triệu con lợn, mỗi con trung bình thu được 7kg da, nếu tận thu được 100% nguồn da nguyên liệu thì sẽ thu được lượng da không nhỏ, có thể thay thế việc nhập ngoại da lót từ Trung Quốc, Đài Loan. Như vậy có thể phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất của ngành giầy dép nước ta. Không những thế, trong quá trình công nghiệp hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta cũng đề ra chủ trương cần phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp trước hết là công nghiệp chế biến với khả năng cạnh tranh cao, chú ý phát triển các ngành công nghiệp tốn ít vốn, thu hút nhiều lao động, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, tích cực chủ động thâm nhập vào thị trường quốc tế. Cho nên ngành da giầy có rất nhiều điều kiện để phát triển sản xuất. Quy trình sản xuất giầy dép được chia thành nhiều công đoạn nhỏ, đây là cơ sở để bố trí từng người lao động cụ thể và việc thao tác được chuyên môn hoá. Thao tác càng đơn giản thì thời gian đào tạo càng nhanh, để đào tạo cho một người lao động sản xuất hàng giầy dép chỉ từ hai đến ba thàng là có thể đáp ứng ngay được công việc mà kinh phí lại ít tốn kém. Không những thế, do trong công nghệ sản xuất giầy có rất nhiều công đoạn trong đó có những công đoạn phải làm các chi tiết rất cầu kỳ đòi hỏi phải làm thủ công mới đạt được yêu cầu, cho nên công nghệ sản xuất rất khó có thể tự động hoá hoàn toàn. Vì vậy quá trình sản xuất giầy đòi hỏi nhiều lao động. Mặt khác, vốn đầu tư cho một chỗ làm việc không nhiều. Đây được coi là một thuận lợi cho việc đầu tư vào sản xuất trong ngành giầy dép. Ngành công nghiệp giầy dép đã có sự chuyển biến nhanh chóng từ cách làm bằng tay, cá thể, từ các cơ sở sản xuất nhỏ rồi đến các cơ sở sản xuất lớn và đến nay đã trở thành một ngành công nghiệp có tầm cỡ. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu mặt hàng giầy dép ở nước ta. Trong thời buổi hiện nay, nhu cầu giao tiếp xã hội là rất cao cho nên cơ hội cho ngành giầy dép phát triển là rất lớn. Giầy dép sản xuất ra không chỉ dành cho tiêu dùng nội địa mà đồng thời với đó là để xuất khẩu, để bán cho nước ngoài. Cho nên chúng ta phải bán những gì mà người ta cần chứ không bán những gì mà mình có. Số lượng giầy dép tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tốc độ tăng dân số hàng năm, mức tăng thu nhập và yếu tố giá cả… Vì vậy để xuất khẩu giầy dép sang các thị trường khác nhau thì chúng ta phải nghiên cứu tiêu chuẩn của các nước đó sau đó áp dụng tiêu chuẩn quốc tế đó vào các sản phẩm của mình để nhằm sản xuất ra các sản phẩm phù hợp. Đối với Việt Nam, trong thời kỳ mở cửa nền kinh tế, tận dụng được lợi thế so sánh đặc biệt trên cơ sở nền sản xuất nhiều nhân công với chi phí thấp, nguyên liệu sản xuất dồi dào đã tạo điều kiện cho sản xuất và xuất khẩu giầy dép phát triển. Ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam là một trong những ngành có lợi thế xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam, đứng thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu sau dầu thô và dệt may. Mặc dù sản xuất giầy dép ở Việt Nam còn nhiều khó khăn nhưng sản xuất giầy dép là ngành có mức tăng trưởng cao trong những năm qua và hiện nay được coi là một trong những ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển hàng tiêu dùng hướng ra xuất khẩu ở nước ta. Giầy dép là mặt hàng nằm trong nhóm hàng chế biến xuất khẩu (gồm có: Dệt may, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ…) - một trong ba nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (nhóm hàng nông thuỷ sản; nhóm khoáng sản và nhóm hàng chế biến) đã được Nhà Nước ta đề ra vào những năm 1960. Sản phẩm giầy dép Việt Nam chủ yếu dùng cho xuất khẩu (> 90%) và đã có mặt trên 40 nước. Thị trường chủ yếu của ngành giầy dép hiện hay vẫn là các nước thuộc EU, chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mỹ là thị trường nhập khẩu giầy dép lớn thứ 2 của Việt Nam với tốc độ nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua đặc biệt là từ sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định song phương với Mỹ và Việt Nam gia nhập WTO. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, thời hạn giao hàng và chủng loại sản phẩm. Ngoài 3 thị trường này, giày dép của Việt Nam còn xuất khẩu sang một số thị trường khác trong đó có nhiều khách hàng đến từ nhiều khu vực khác trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của nước ta trong những năm qua tăng lên nhanh chóng. Hiện nay Việt Nam đang đứng thứ tư trong số các nước xuất khẩu giầy dép lớn nhất thế giới sau Trung Quốc, Hồng Kông, Italia. Ngành công nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép nước ta thu hút được nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia trong đó lớn nhất là các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 41%), tiếp theo là các doanh nghiệp quốc doanh (chiếm 26%), đứng thứ ba là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (chiếm 27%) và cuối cùng là các doanh nghiệp liên doanh (chiếm 6%). Hiện nay phương thức xuất khẩu chính của các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép vẫn là gia công xuất khẩu. Trong thời kỳ đầu thì đây là phương thức xuất khẩu phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhưng đến nay thì phương thức này đã bộc lộ nhiều hạn chế như hoạt động sáng tác mẫu mốt không được chú trọng do các đối tác nước ngoài cung cấp sẵn; Việc xuất khẩu giầy dép phải thông qua đối tác trung gian cho nên doanh nghiệp không có cơ hội tiếp cận trực tiếp với khách hang và chiếm lĩnh thị trường. Ngoài những cơ chế, chính sách mà Nhà Nước ta ban hành nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy dép của nước ta (được đề cập ở mục 1.3) còn có các chính sách của các nước nhập khẩu đối với sản phẩm giầy dép của Việt Nam. Cụ thể là: Chính sách của EU đối với sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam: Việt Nam được hưởng ưu đãi mà các nước sản xuất giầy dép khác chưa có hoặc còn bị hạn chế như: Hàng giầy dép của Việt Nam nhập khẩu vào EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP với mức thuế được tính là 13,58% - 14% tuỳ loại nếu có 40% nguyên liệu được sản xuất từ Việt Nam (giấy chứng nhận xuất xứ Form A), nếu không được hưởng thì mức thuế suất sẽ là 30% ngoài ra theo nguyên tắc cộng gộp của EU, các nguyên phụ liệu nhập khẩu từ một nước thành viên của một khối kinh tế để tiếp tục gia công sẽ được coi là xuất xứ tại nước gia công và được coi là đáp ứng tiêu chuẩn về xuất xứ, mà Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN (tháng 7/1995) nên sản phẩm giầy dép của Việt Nam xuất khẩu sang EU cũng được tính theo tiêu chuẩn cộng gộp; Không bị hạn chế số lượng xuất khẩu trong khi đó giầy dép của các nước Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia, Hàn Quốc không tiếp tục được hưởng hoặc bị quy định hạn ngạch. Tuy nhiên trong thời gian qua số lượng giầy dép xuất khẩu sang EU tăng nhanh và nếu tiếp tục tăng đến 25% thì sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan và sẽ bị áp hạn ngạch nhập khẩu. Chính sách của Mỹ đối với sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam: Sau khi ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường này được hưởng thuế suất tối huệ quốc (MFN) khiến mặt hàng thuế suất chung giảm đi đáng kể : Thuế suất thuế nhập khẩu trung bình đối với giầy dép giảm từ 30 – 35% xuống còn 8,5 – 15%, hàng dệt may giảm từ 45 -90% xuống còn 29 – 33%. Theo phụ lục 2 về danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện (ban hành kèm theo Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ) cho thấy: Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có hạn ngạch bao gồm: Gạo và hàng hoá theo hạn ngạch do các tổ chức kinh tế và nước ngoài ấn định đối với Việt Nam Hàng hoá xuất nhập khẩu có giấy phép: Trong đó quy định hàng xuất khẩu có giấy phép là hàng hoá quản lý chuyên ngành theo danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Qua đây cho thấy rằng, hoạt động xuất khẩu giầy dép của nước ta thuận lợi hơn rất nhiều so với xuất khẩu các mặt hàng khác như: Gạo, dệt may,…như không phải xin giấy phép xuất khẩu, không bị áp hạn ngạch và được miễn thuế xuất khẩu. Nhiều đối tác nước ngoài nhận định, Việt Nam là một nước có tiềm năng sản xuất và xuất khẩu giầy dép lớn trong khu vực, được quốc tế biết đến như một nguồn cung cấp tiềm năng và ổn định. 1.2. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu giầy dép ở nước ta. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng trong nền kinh tế hội nhập ngày càng được khẳng định đối với Việt Nam. Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ cho đất nước, cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Chính vì điều này mà Nhà nước đã và đang thực hiện các giải pháp thúc đẩy các ngành kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng sản xuất hướng ra xuất khẩu. Ngành da giày được xem là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam với nhiều lợi thế cạnh tranh như nguồn nhân lực dồi dào, không đòi hỏi đầu tư quá nhiều vốn. Nhu cầu tiêu dùng dép của các nước trên thế giới ngày càng gia tăng cùng với sự cải thiện đời sống kinh tế xã hội. Như vậy cho thấy xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng có vai trò rất lớn không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp mà còn đóng góp vào sự phát triển chung cho nền kinh tế đất nước. Điều này được thể hiện một cách cụ thể như sau: 1.2.1. Đối với đất nước. 1.2.1.1. Xuất khẩu giầy dép góp phần làm tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam giai đoạn (1999 – 2007). (Đơn vị: Triệu USD) Năm Kim ngạch xuất khẩu giầy dép 1999 1.334 2000 1.468 2001 1.600 2002 1.864 2003 2.268 2004 2.590 2005 3.100 2006 3.560 2007 3.900 Có thể thấy rằng: Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của nước ta tăng nhanh qua các năm: Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu giầy dép là 1.334 triệu USD. Đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu giầy dép cả nước tăng lên 134 triệu USD (tức là tăng 10,04%) so với năm 1999 và đạt 1.468 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng, đến năm 2002 ngành da giầy sau 10 năm đã xuất khẩu được 1.846 triệu USD, tăng 369,2 lần so với năm 1992 (đạt 5 triệu USD, chiếm 10,6 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 1992) và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành da giầy Việt Nam đạt 2.268 triệu USD chiếm 11,43% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 2003 là 19,843 tỷ USD. Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu giầy dép đứng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hồng kông, Italia trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu vào thị trường Mỹ và EU (đây là hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới). Ở Châu Á, Việt Nam đứng thứ 3 trong số các nước xuất khẩu giầy dép vào Nhật Bản sau Trung Quốc và Italia. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu giầy dép đạt 2.590 triệu USD (tăng 14,2% so với năm năm 2003). Năm 2005 con số này đạt tới 3.100 triệu USD (tăng 19,7% so với năm 2004). Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giầy cả nước đạt khoảng 3.560 triệu USD, tăng 14,84% năm 2005, vượt 6,3% so với kế hoạch (3.350 triệu USD). Đến năm 2007, kim ngạch xuất khẩu tăng lên 3.900 triệu USD. Thông qua các số liệu trên cho thấy rằng: Giầy dép là một trong những mặt hàng đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước bên cạnh 9 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của câu lạc bộ xuất khẩu “tỷ đô”. Với nguồn thu ngoại tệ đó, hoạt động xuất khẩu giầy dép đã đóng góp không nhỏ vào giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP), góp phần tăng khả năng nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Ngoài ra, với nguồn thu ngoại tệ đó còn góp phần cải thiện tình hình mất cân đối về thu chi tài chính quốc tế, giảm bớt nợ vay nước ngoài. 1.2.1.2. Xuất khẩu giầy dép đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, thúc đẩy sản xuất phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Trước tiên, việc xuất khẩu giầy dép sẽ tác động tích cực trở lại đối với sự phát triển của ngành công nghiệp giầy dép cả về chiều rộng và chiều sâu. Chính sự tăng liên tục của kim ngạch xuất khẩu giầy dép qua các năm đã và đang tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất giầy dép với công nghệ sản xuất ngày càng hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn về mẫu mã và về chất lượng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của khách hang, điều này đồng nghĩa với việc sản lượng giầy tiêu thụ cũng ngày càng tăng lên. Đồng thời với đó là sự phát triển của ngành công nghiệp thuộc da, các ngành cung cấp nguyên vật liệu và phụ liệu cho ngành sản xuất giầy dép như: Ngành chăn nuôi gia súc , ngành sản xuất cao su, nhựa… Như ta đã biết, nước ta là một nước có lợi thế về da thuộc, cao su…mà đây lại là những nguyên vật liệu rất quan trọng và cần thiết cho sản xuất da giầy. Vì vậy, khi mà xuất khẩu giầy dép tăng lên thì sẽ kéo theo nhu cầu về nguyên vật liệu cho sản xuất càng lớn không chỉ số lượng mà còn đòi hỏi cao về chất lượng. Trước đây, khi giầy dép chưa trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì các doanh nghiệp Việt Nam thường xuất khẩu cao su thô, da sống, … sang các nước khác với giá thấp. Từ khi xuất khẩu giầy dép được chú trọng đầu tư thì các doanh nghiệp trong nước đã tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có để sản xuất giầy dép cho nên tạo điều kiện cho các ngành chăn nuôi, ngành sản xuất cao su phát triển để đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu giầy dép cho đất nước. Ngoài ra, do giầy dép là một phần của thời trang nên khi xuất khẩu giầy dép tăng lên kéo theo ngành công nghiệp thời trang cũng phát triển theo xu hướng phát triển của giầy dép. 1.2.1.3. Xuất khẩu giầy dép sẽ góp phần giải quyết các vấn đề về việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và từ đó làm ổn định đời sống kinh tế, chính trị của đất nước. Đây là một điều không thể phủ nhận được. Hiện nay dây chuyền sản xuất giầy phần lớn là lạc hậu và bán tự động cho nên bên cạnh máy móc thì con người cũng là một nhân tố quan trọng trong việc vận hành dây chuyền công nghệ cho sản xuất. Một phần cũng là do hình thức gia công xuất khẩu giầy của nước ta cần nhiều lao động, thậm chí rất nhiều khâu còn phải làm thủ công cho nên nhu cầu về lao động là rất lớn. Điều này góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, người lao động có thêm thu nhập, với mức lương trung bình của một công nhân lao động trong ngành da giầy là 1 triệu đồng /tháng có thể giúp họ ổn định và ngày càng nâng cao được chất lượng cuộc sống. Không những thế, xuất khẩu giầy dép còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm cần thiết phục vụ trực tiếp cho đời sống và đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quan trọng hơn cả là xuất khẩu giầy dép tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất giầy dép tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn và đời sống của nhân dân chắc chắn được cải thiện. Hiện nay, nước ta có khoảng hơn 200 doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động phổ thông. Điều này cũng góp phần tận dụng được lợi thế so sánh của đất nước ta. 1.2.1.4. Xuất khẩu giầy dép còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao của quốc gia với các nước trên thế giới thông qua các mối quan hệ song phương và đa phương các bên đều có lợi. Qua đó tạo khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Thành tích xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng là lực đẩy mạnh mẽ, có tính quyết định góp phần đẩy mạnh tốc độ hội nhập của nền kinh tế nước ta. Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế như AFTA, APEC, ký hiệp định thương mại với EU, Mỹ. Sau một năm gia nhập WTO, hoạt động xuất khẩu hàng hoá của nước ta nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng đã tận dụng được cơ hội. Trên cơ sở các mối quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc gia sẽ tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu giầy dép. Khi các doanh nghiệp làm ăn uy tín thì không chỉ một đối tác mà sẽ có rất nhiều đối tác làm ăn ở các nước khác nhau cũng sẽ tìm đến doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là ở các nước thuộc thị trường EU, nếu một nước trong khu vực thị trường đó biết đến và yêu thích sản phẩm giầy dép của doanh nghiệp thì khả năng các nước khác trong khối biết đến tên tuổi của doanh nghiệp và cơ hội để doanh nghiệp thâm nhập vào các thị trường đó là rất lớn. 1.2.2. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép. 1.2.2.1. Hoạt động xuất khẩu giầy dép là một quá trình thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Những kết quả mà xuất khẩu giầy dép mang lại cho đất nước đều xuất phát từ thành tựu mà các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép đã đạt được. Hoạt động xuất khẩu giầy dép chính là hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Khi xuất khẩu giầy dép, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể tiết kiệm được chi phí bởi vì doanh nghiệp có thể trang trải chi phí cố định nhờ số lượng lớn hơn, gia tăng hiệu quả nhờ kinh nghiệm sản xuất với số lượng lớn hơn, mua được nguyên phụ liệu với giá rẻ hơn và tiết kiệm được chi phí vận chuyển do mua nguyên vật liệu với khối lượng lớn. Do đó doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể tăng được lợi nhuận. Thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu giầy dép, doanh nghiệp có thể đầu tư một phần lớn vào cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc và trang thiết bị công nghệ để góp phần nâng cao năng suất lao động của chính bản thân doanh nghiệp. Không những thế, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép còn đầu tư vào các hoạt động xúc tiến, thâm nhập thị trường mới, cải thiện và phát triển quan hệ trong kinh doanh của mình. 1.2.2.2. Xuất khẩu giầy dép là một cách hiệu quả để các doanh nghiệp có thể tối thiểu hoá các biến động về nhu cầu giầy dép ở các thị trường khác nhau. Nguyên nhân là do chu kỳ kinh doanh thay đổi từ nước này sang nước khác và các sản phẩm giầy dép có thể nằm trong những giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của chúng ở các nước khác nhau, do đó mở rộng thị trường xuất khẩu các nhà sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thêm nhiều khách hàng, giảm được nguy cơ bị mất đi một khách hàng riêng lẻ nào đó và có khả năng kiểm soát tốt biến động về nhu cầu giầy dép trên thị trường. 1.2.2.3. Xuất khẩu giầy dép buộc các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải tự đổi mới mình. Khi xuất khẩu giầy dép sang các thị trường khác nhau, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sẽ gặp phải một sự cạnh tranh rất khốc liệt của các đối thủ khác như Trung Quốc với các sản phẩm giầy dép có giá rẻ hơn và chủng loại, mẫu mã phong phú, đa dạng hơn rất nhiều sản phẩm giầy dép của các doanh nghiệp Việt Nam; Các nhà sản xuất với sản phẩm giầy dép có chất lượng cao trong nội khối EU… Vì vậy để có thể cạnh tranh được trên thị trường giầy dép quốc tế thì các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu Việt Nam phải tổ chức lại sản xuất, hoàn thiện cơ cấu sản xuất cho hợp lý để có thể thích nghi được với môi trường kinh doanh. Chính hoạt động xuất khẩu mà các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép trở nên năng động, linh hoạt hơn với môi trường kinh doanh. 1.2.2.4. Hoạt động xuất khẩu giầy dép phát triển sẽ đóng góp một vai trò quan trọng trong việc phát triển các quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ công đoàn của các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép. Hoạt động xuất khẩu giầy dép góp phần làm tăng thu ngoại tệ cho các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép. Khi mà thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp tăng lên sẽ giúp cho việc tạo lập các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, làm tăng thu nhập và từ đó sẽ góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, cải thiện được điều kiện làm việc thúc đẩy việc tăng năng suất lao động. Điều này sẽ tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp. 1.3. Cơ chế và chính sách của Nhà Nước đối với hoạt động xuất khẩu giầy dép. Hiện nay Nhà Nước đang có rất nhiều các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường khác nhau. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010, Chính phủ luôn chú trọng việc đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu nhất là đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong đó có sản phẩm giầy dép. Cụ thể là Nhà nước đã tăng cường chính sách và chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm chuyên ngành, quảng bá và giới thiệu sản phẩm giầy dép tại các thị trường đó. Từ năm 2003, được sự hỗ trợ của Chính phủ thông qua chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, đến nay Hiệp hội da giầy đã tổ chức được gần 30 đoàn tham gia trưng bày sản phẩm và khảo sát thị trường tại Đức, Pháp, Mỹ, Ý. Nhà nước cũng có những chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu thay thế cho việc nhập khẩu hiện nay, các chính sách hỗ trợ phát triển dự án xây dựng các khu “chợ” vật tư, nguyên liệu cho ngành giày dép. Chính phủ, Bộ thương mại (nay là bộ công thương) đã và đang tìm cách hỗ trợ doanh nghiệp, điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu cụ thể là giúp các doanh nghiệp tiếp xúc với các nguồn trợ giúp, hỗ trợ về kinh phí và điều kiện kỹ thuật trong xúc tiến thương mại và vay vốn. Trong lĩnh vực thuế, Nhà nước cho phép các doanh nghiệp khi nhập nguyên liệu làm hàng gia công xuất khẩu không phải tính thuế; Nguyên liệu nhập theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm thì phải tính thuế nhưng khi xuất khẩu thì được thoái thu, thời gian hoàn thuế được kéo dài tới 270 ngày. Một số chính sách được ban hành như: Quyết định số 36/2007/QĐ-BCN về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành da - giầy đến năm 2010 ban hành ngày 6/8/2007. Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu ban hành ngày 20/12/2006. Quyết định số 01/2001/QĐ-TCHQ về việc đăng ký tờ khai hải quan một lần. Ngoài ra, chính phủ còn ban hành quyết định số 178 về hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu góp phần hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu. Chính phủ cho vay với lãi suất thấp hơn 0,2%/tháng so với mức lãi suất cho vay xuất khẩu mà ngân hàng thương mại áp dụng. Quyết định số 46/2001/ QĐ - TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 04/4/2001, có hiệu lực từ ngày 01/5/2001 quy định về việc quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa. Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Những chính sách này tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. 1.4. Các hình thức xuất khẩu giầy dép. 1.4.1. Xuất khẩu giầy dép trực tiếp. Đây là hình thức giao dịch trong đó các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép trực tiếp bán sản phẩm giầy dép của mình cho khách hàng nước ngoài. Một thực tế hiện nay cho thấy số lượng giầy dép xuất khẩu trực tiếp có rất ít bởi vì các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép Việt Nam quy mô còn nhỏ, vốn ít cho nên hoạt động đầu tư để sang tận thị trường mục tiêu nghiên cứu là rất ít vì vậy cho nên việc xuất khẩu trực tiếp gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp bước đầu gặp phải sự gia tăng của các chi phí phát sinh làm tăng chi phí sản xuất giầy dép như phải chịu phí ngân hàng, lãi suất tiền vay… Tuy nhiên việc lựa chọn hình thức xuất khẩu này trong tương lai là một xu thế tất yếu bởi đây là phương thức xuất khẩu có lợi cho doanh nghiệp sản xuất - xuất k._.hẩu giầy dép: Doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép có thể chủ động trong việc nắm bắt nhu cầu tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng, thị trường nguyên vật liệu, thị trường xuất khẩu giầy dép, khẳng định được thương hiệu giầy dép của mình trên thị trường giầy dép quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. 1.4.2. Gia công giầy dép xuất khẩu. Gia công giầy dép xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu trong đó người đặt hàng gia công ở nước ngoài cung cấp: Máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép là những đơn vị nhận gia công trong nước sẽ tổ chức quá trình sản xuất giầy dép theo yêu cầu của khách hàng. Toàn bộ sản phẩm làm ra đơn vị nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công. Trong thực tế có 3 loại hình thức gia công: Hình thức nhận nguyên liệu giao thành phẩm: Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho đơn vị nhận gia công giầy dép của Việt Nam và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời gian chế tạo, quyền sở hữu về nguyên liệu sản xuất giầy dép vẫn thuộc về bên đặt gia công. Hình thức mua đứt bán đoạn: Dựa trên hợp đồng mua bán hàng dài hạn với đối tác nước ngoài. Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu sản xuất giầy dép cho đơn vị nhận gia công giầy dép và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm giầy dép. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên vật liệu chuyển từ bên đặt gia công sang đơn vị nhận gia công giầy dép. Hình thức kết hợp: Trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên vật liệu sản xuất giầy dép chính, còn đơn vị nhận gia công giầy dép sẽ cung cấp những nguyên phụ liệu. Thực tế cho thấy tình hình cạnh tranh trong gia công giầy dép ở khu vực và nội địa ngày càng gay gắt làm cho giá gia công giầy dép ngày càng sụt giảm, hậu quả là hiệu quả kinh doanh gia công thấp, thu nhập của công nhân gia công giầy dép ngày càng giảm sút. Theo cục xúc tiến Thương mại, Bộ thương mại, hiện trên 95% lượng giầy dép mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài đều mang nhãn mác của khách hàng như NIKE, ADIDAS, FAMOUS FOOTWEAR… do các đối tác nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp theo các mẫu thiết kế, hay thậm chí không có nhãn mác gì. Thực tế, các doanh nghiệp sản xuất và gia công giầy dép xuất khẩu đều có đặc điểm chung là phải đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư nhân lực cho sản xuất, nhưng lại bỏ qua khâu rất quan trọng là không đầu tư cho các khâu thiết kế, tiếp thị, lưu kho, cửa hàng bán lẻ giầy dép. Các doanh nghiệp này không tham gia vào các giai đoạn thiết kế và phân phối giầy dép, mà chỉ đóng góp 30% - 50% giá trị sản phẩm trong giai đoạn sản xuất. Giá trị mà họ đóng góp thêm vào sản phẩm là rất nhỏ bé qua việc “bán” sức lao động của nhân công. Đương nhiên, các doanh nghiệp này khó có thể kiếm thêm lãi bởi chi phí lao động ngày càng có xu hướng giảm sức cạnh tranh so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Nếu phương thức sản xuất gia công giầy dép hạn chế được rủi ro, thì lợi nhuận thu được cũng bị hạn chế theo. Với phương thức xuất khẩu này có thể đem lại nguồn thu trước mắt cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép nhỏ, ngoài quốc doanh nhưng dần dần phương thức này đã bộc lộ rất nhiều nhược điểm, khiến cho ngành giầy dép của nước ta gặp phải rất nhiều khó khăn. Hiện nay, nhận ra được những điểm yếu đó, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy đang tích cực chuyển hướng từ làm thuê sang “làm chủ”. 1.5. Nội dung hoạt động xuất khẩu giầy của doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu giầy dép được tiến hành theo các bước như hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung. Sơ đồ 1.1: Mô hình hoạt động xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu giầy dép Lập phương án kinh doanh xuất khẩu giầy dép Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu giầy dép Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy dép Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu giầy dép. 1.5.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu giầy dép. Như các hoạt động xuất khẩu hàng hoá khác, vai trò của việc nghiên cứu xuất khẩu giầy dép rất quan trọng. Nó giúp các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có được nguồn thông tin toàn diện, chính xác để đánh giá chính xác về thị trường mà doanh nghiệp đó sẽ xuất khẩu sản phẩm giầy dép của mình. Từ đó, doanh nghiệp có thể xây dựng được chiến lược marketing xuất khẩu, lựa chọn ra được các đối tác giao dịch, phương thức xuất khẩu cho phù hợp. Hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu giầy dép được tiến hành theo 2 cách: Thứ nhất: Nghiên cứu gián tiếp: Đây là cách mà các doanh nghiệp sản xuất -xuất khẩu giầy dép sử dụng phổ biến nhất. Các nguồn thông tin mà các doanh nghiệp này có thể thu được là từ các tài liệu như: Báo cáo của hiệp hội da giầy; Tạp chí thương mại; Các bản tin kinh tế tổng hợp; Các ấn phẩm chính thức về kinh tế; Các thông tin hỗ trợ khác từ hiệp hội da giầy… Các số liệu này được thu thập một cách nhanh chóng, dễ dàng tuy nhiên chúng thường có độ trễ về mặt thời gian, vì vậy độ chính xác không cao. Thứ hai: Nghiên cứu trực tiếp: Thông qua các cuộc điều tra, phỏng vấn trực tiếp người tiêu dùng tại thị trường xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp hoặc tham gia hội chợ, triển lãm giầy dép ở nước ngoài để tìm kiếm thông tin. Phương pháp này thì rất tốn kém về tiền bạc và thời gian nhưng những thông tin thu được rất chính xác, cập nhật và điều này giúp cho việc đưa ra các quyết định về lựa chọn đối tác, về số lượng giầy xuất khẩu…sẽ chính xác hơn so với phương pháp thứ nhất. Như vậy, nghiên cứu thị trường xuất khẩu giầy dép thực chất là quá trình tìm kiếm thông tin về thị trường giầy dép tại các nước mà doanh nghiệp sản xuất-xuất khẩu giầy dép muốn tìm hiều nhằm xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ của mình. Thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu giầy dép này, doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp mình như: Đặc điểm và xu hướng phát triển thị trường giầy dép tại các nước mà doanh nghiệp muốn nhằm vào. Các yếu tố văn hoá tác động đến thị hiếu và thói quen tiêu dùng các sản phẩm giầy dép. Các yếu tố chính trị, pháp luật, các quy ước quốc tế có liên quan cũng như các chính sách hỗ trợ đến xuất khẩu giầy dép. Dung lượng thị trường giầy dép tại các nước doanh nghiệp sẽ xuất khẩu (cho biết lượng giầy dép mà các nước nhập khẩu có thể tiêu thụ được trong một thời gian nhất định) và các yếu tố khác ảnh hưởng đến dung lượng thị trường giầy dép nước đó. Tình hình cạnh tranh giữa sản phẩm giầy dép với các sản phẩm khác và các thương hiệu giầy dép nhập khẩu vào các thị trường đó. Thông tin về giá cả giầy dép tại thị trường mà doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép.. Sau khi đã có những đánh giá tổng quan về thị trường xuất khẩu giầy dép thì các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sẽ phải tìm kiếm và lựa chọn được các nhà nhập khẩu giầy dép - những cá nhân, tổ chức sẽ trực tiếp làm ăn với doanh nghiệp. Đối tác mà doanh nghiệp lựa chọn phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản sau: Về mặt pháp lý thì phải có tư cách pháp nhân, được quyền quan hệ với nước ngoài để ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Về mặt kinh tế kỹ thuật: Phải có vốn lớn, vững chắc về tài chính. Uy tín ở trên thị trường: Đối tác phải làm ăn nghiêm túc theo hợp đồng bảo đảm lâu dài. Doanh nghiệp có thể tìm kiếm được các nhà nhập khẩu giầy dép bằng nhiều cách khác nhau: Liên hệ với các bộ phận xúc tiến của Bộ công thương, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để có được các thông tin về các nhà nhập khẩu giầy dép nước ngoài do các nhà đại diện thương mại nước ngoài công bố.Tìm kiếm, sưu tập và đặt mua các tài liệu, tập san và các ấn phẩm thương mại quốc tế. Ở đó sẽ tìm thấy danh sách các công ty nhập khẩu giầy dép với số điện thoại liên lạc hoặc kiểm tra các thư hỏi hàng do những nhà nhập khẩu giầy dép gửi đến các văn phòng của phòng thương mại ở địa phương, quảng cáo sản phẩm qua các phương tiện truyền thông ở các thị trường nước ngoài, ứng dụng thương mại điện tử, tham gia vào các sàn giao dịch B2B. 1.5.2. Lập phương án kinh doanh xuất khẩu giầy dép. Thực chất đây là kế hoạch xuất khẩu giầy dép mà các doanh nghiệp sản xuất -xuất khẩu giầy dép xây dựng ra để đạt được mục tiêu trong kinh doanh. Việc lập phương án kinh doanh xuất khẩu giầy dép của các doanh nghiệp bao gồm: Trên cơ sở những thông tin đã được thu thập và xử lý, doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể chỉ ra được những thuận lợi, khó khăn khi doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép vào thị trường này. Tiến hành đánh giá tiềm lực của công ty để xem có đủ lực để chiếm lĩnh và duy trì được vị thế trên thị trường đã lựa chọn hay chưa. Các vấn đề cần xem xét như: Đặc điểm của giầy dép, thiết bị sản xuất, chất lượng giầy dép, bao bì, năng lực của nhân viên, năng lực tài chính, … Trên cơ sở các đánh giá đó, doanh nghiệp sẽ chỉ ra được đâu là điểm mạnh, điểm yếu của mình. Xác lập các mục tiêu xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp về khối lượng hàng xuất khẩu; giá giầy dép xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu giầy dép; thị trường xuất khẩu giầy dép. Đưa ra các biện pháp và các công cụ nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra như: Thúc đẩy hoạt động marketing xuất khẩu giầy dép; Tổ chức quảng bá thương hiệu giầy dép của doanh nghiệp trên phương tiện thông tin đại chúng, đầu tư công nghệ sản xuất giầy dép, hình thành nên các showroom về giầy dép xuất khẩu… Thực tế cho thấy các sản phẩm giầy dép có chu kỳ sống rất ngắn. Việc tiêu dùng, sản xuất và xuất khẩu giầy dép có tính thời vụ cho nên trong các phương án xuất khẩu giầy dép thì các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải chú ý đến tính mùa vụ, đến sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng giầy dép của thị trường nước ngoài. Thông qua các hội chợ, triển lãm về giầy dép ở Hồng Kông, Đức, Ý, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sẽ có được sự chỉ dẫn tốt nhất về thị hiếu giầy dép của người tiêu dùng để từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng được những phương án sản xuất và xuất khẩu giầy dép cho phù hợp. 1.5.3. Giao dịch và đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu giầy dép. Giao dịch là hoạt động trao đổi thông tin và ý định thông qua các phương tiện khác nhau giữa doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép với các nhà nhập khẩu giầy dép được thực hiện một cách có chủ đích nhằm thiết lập mối quan hệ hợp tác giữa các bên. Trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng, do có sự khác biệt về mặt quan điểm, về giá cả, về phương thức xuất khẩu, về đặc điểm của hàng hoá…Cho nên các bên phải có sự đàm phán với nhau để bàn bạc, thoả thuận nhằm đi tới một ý kiến chung về các vấn đề liên quan đến đơn hàng giầy dép xuất khẩu. Như vậy, đàm phán là một mắt xích của quá trình giao dịch. Để tiến hàng giao dịch, đàm phán về thì các bên có thể sử dụng kết hợp các hình thức sau: Giao dịch đàm phán trực tiếp: Đây là hình thức giao dịch, đàm phán mà nhà nhập khẩu cùng với các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép gặp mặt trực tiếp để bàn bạc và thoả thuận về các vấn đề có liên quan đến đơn hàng giầy dép xuất khẩu. Hình thức này thì thường rất tốn kém nhưng mà hiệu quả của đàm phán lại rất cao. Giao dịch đàm phán qua thư tín: Các nhà nhập khẩu và các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sẽ tiến hành trao đổi, thoả thuận các vấn đề xoay quanh các đơn hàng giầy dép xuất khẩu thông qua thư từ. Cách làm này luôn được các bên sử dụng bởi nó là một loại văn bản mà các bên có thể trình bày các vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc và chi phí rẻ. Giao dịch và đàm phán qua điện thoại: Với ưu điểm nhanh chóng, hình thức này được các bên sử dụng trong những tình huống khẩn cấp. Tuy nhiên nếu thời gian đàm phán mà dài thì chi phí bỏ ra sẽ rất lớn. Trên thực tế, nhà nhập khẩu và các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sử dụng kết hợp cả ba hình thức này: Đầu tiên họ sẽ tiếp xúc với nhau thông qua thư chào hàng (các mẫu giầy dép xuất khẩu trong các cuốn catologe thường được đính kèm với các thư chào hàng để phía đối tác có thể tham khảo). Trong bước chào hàng này, việc đưa ra mức giá giầy phù hợp là điều quan trọng để doanh nghiệp có thể được các nhà nhập khẩu giầy dép chấp nhận. Nếu nhận được phản hồi đầy triển vọng của phía đối tác thì các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép của Việt Nam có thể tiến hành một chuyến đi công tác. Nó cho phép nhà xuất khẩu giầy dép thiết lập được mối quan hệ trực tiếp với đối tác ở mức độ cá nhân đồng thời có thể lấy được mẫu giầy dép hiện có trên thị trường mục tiêu để so sánh với sản phẩm của doanh nghiệp nhằm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể phù hợp với nhu cầu của thị trường mục tiêu. Trong suốt quá trình đó, doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể gọi điện để xác nhận lại các thông tin đã thoả thuận. Tiếp theo đó, khi hai bên đã đàm phán xong thì phải thực hiện ký kết hợp đồng xuất khẩu giầy dép. Một hợp đồng xuất khẩu giầy dép nói riêng tương tự như một hợp đồng xuất khẩu hàng hoá nói chung, bao gồm các điều khoản quan trọng như sau: Điều khoản tên hàng. Điều khoản phẩm chất. Điều khoản về giao hàng. Điều khoản về giá cả. Điều khoản về bao bì, ký mã hiệu. Điều khoản về thanh toán. Điều khoản bảo hành. Điều khoản về phạt và bồi thường thiệt hại. Điều khoản bảo hiểm. Điều khoản về trường hợp bất khả kháng. Điều khoản về khiếu nại và trọng tài. Các điều khoản quy định khác. Bản hợp đồng xuất khẩu giầy dép này sẽ ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. 1.5.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy dép. Sơ đồ 1.2: Mô hình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy dép. Xin giấy phép xuất khẩu (nếu cần) Kiểm tra L/C Thông quan xuất khẩu Chuẩn bị đơn hàng giầy dép xuất khẩu Mua bảo hiểm cho lô hàng giầy dép xuất khẩu Thuê phương tiện vận tải Giao lô hàng giầy dép cho người vận tải Làm thủ tục thanh toán 1.5.4.1. Xin giấy phép xuất khẩu. Trước đây khi xuất khẩu mặt hàng giầy dép thì phải xin giấy phép xuất khẩu nhưng từ khi có Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài và Quyết định số 46/2001/ QĐ- TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 04/4/2001, có hiệu lực từ ngày 01/5/2001 quy định về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001-2005 thì mặt hàng giày dép mà công ty xuất khẩu không phải xin giấy phép xuất khẩu từ Bộ thương mại mà được cơ quan hải quan lấy luôn mã số thuế làm mã số hải quan và công ty sẽ sử dụng mã số này trên tờ khai hải quan, hóa đơn giá trị gia tăng và các chứng từ khi nộp cho cơ quan hải quan trong mỗi lần thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 1.5.4.2. Kiểm tra L/C. Nếu trong điều khoản thanh toán của hợp đồng, các bên lựa chọn phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì trước khi giao hàng, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải thúc giục nhà nhập khẩu mở L/C, sau đó kiểm tra L/C. Việc kiểm tra L/C là khâu cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện phương thức tín dụng chứng từ, nếu không phát hiện được sự phù hợp giữa L/C với hợp đồng xuất khẩu giầy dép mà các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép cứ tiến hành giao hàng theo hợp đồng thì sẽ không đòi được tiền nhưng nếu giao hàng theo yêu cầu của L/C thì lại vi phạm hợp đồng xuất khẩu giầy dép đã ký. Cơ sở để kiểm tra L/C chính là hợp đồng xuất khẩu giầy dép. Các nội dung của L/C cần kiểm tra kỹ là: 1. Số hiệu của L/C; Địa điểm và ngày mở L/C. Trong đó: Số hiệu của L/C dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến L/C và để ghi các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán. Địa điểm mở L/C có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có. Ngày mở L/C là căn cứ để các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép kiểm tra xem nhà nhập khẩu giầy dép có mở L/C đúng hạn không. 2. Tên ngân hàng mở L/C: Ngân hàng thông báo sẽ kiểm tra tên và địa chỉ của ngân hàng mở L/C có thật không; còn các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép kiểm tra xem L/C có được mở đúng tại ngân hàng như đã thoả thuận trong hợp đồng xuất khẩu giầy dép hay không. 3. Tên và địa chỉ ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận. 4. Tên và địa chỉ người thụ hưởng. 5. Tên và địa chỉ người mở L/C. 6. Số tiền của L/C: Số tiền này được ghi bằng số và chữ, phải thống nhất với nhau, tên đơn vị tiền tệ phải rõ rang, phù hợp với hợp đồng xuất khẩu giầy dép. 7. Loại L/C: Đối với doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép nói riêng, ngân hàng khuyến cáo loại L/C có lợi nhất là L/C không huỷ ngang miễn truy đòi. Nếu lô hàng giầy dép có giá trị lớn, ngân hàng phát hành không phải là ngân hàng có uy tín thì nên chọn L/C có xác nhận. 8. Ngày hết hiệu lực của L/C: Phải sau ngày mở L/C và sau ngày giao hàng một khoảng thời gian hợp lý thường được tính bằng khoảng thời gian giao hàng cộng với thời gian chuyển chứng từ từ ngân hàng người bán (các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép) qua ngân hàng mở L/C. 9. Thời hạn giao hàng: Trong hợp đồng quy định thời gian giao lô hàng giầy dép xuất khẩu bằng cách nào (có thể là thời gian giao hàng trong vòng hoặc khoảng hoặc ngày cụ thể) thì L/C phải quy định bằng cách ấy. 10. Cách giao hàng: Có thể là giao hàng một lần; giao hàng nhiều lần trong thời gian quy định, số lượng quy định; hoặc giao hàng nhiều lần mỗi lần có số lượng như nhau. 11. Phần mô tả hàng hoá: Các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải kiểm tra về tên hàng, quy cách, số lượng, giá cả có phù hợp với hợp đồng xuất khẩu giầy dép không. 12. Các chứng từ thanh toán: Khi nhận được L/C, doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải kiểm tra kỹ quy định về bộ chứng từ thanh toán trên các khía cạnh: Số lượng chứng từ phải xuất trình. Số lượng chứng từ phải làm đối với mỗi loại. Nội dung cơ bản được yêu cầu đối với từng loại . Thời hạn muộn nhất phải xuất trình các chứng từ. Quy định cách thức trả tiền. Khi kiểm tra, nếu có gì sai sót thì doanh nghiệp xuất khẩu phải yêu cầu nhà nhập khẩu sửa đổi và bổ sung cho phù hợp, đảm bảo cho việc thanh toán tiền sau này được thuận lợi 1.5.4.3. Chuẩn bị đơn hàng giày dép cho xuất khẩu. Tạo nguồn và mua giầy dép cho các đơn hàng xuất khẩu. Việc thu gom giầy dép cho xuất khẩu đúng về phẩm chất, số lượng, đảm bảo thời gian giao hàng là rất quan trọng. Đối với doanh nghiệp vừa sản xuất vừa xuất khẩu giầy thì cần phải đẩy mạnh hoạt động sản xuất cho kịp tiến độ. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu không tự sản xuất giầy dép thì họ phải nghiên cứu nguồn hàng giầy dép phục vụ cho xuất khẩu nhằm khai thác và phát triển được nguồn hàng phù hợp với yêu cầu của đơn hàng xuất khẩu về số lượng, chất lượng, kích cỡ giầy dép. Sau đó lựa chọn phương thức giao dịch và ký kết hợp đồng mua hàng giầy dép cho xuất khẩu. Các doanh nghiệp này có thể quan hệ với đơn vị “chân hàng” theo một trong những quan hệ hợp đồng như: Hợp đồng mua bán hàng giầy dép xuất khẩu , hợp đồng gia công giầy dép xuất khẩu, hợp đồng liên doanh, liên kết xuất khẩu giầy dép. Tiếp theo là giai đoạn tiếp nhận các lô hàng giầy dép mua về theo hợp đồng, bao gồm các hoạt động: Chuẩn bị phương tiện bốc dỡ, vận chuyển, thiết bị dụng cụ để kiểm nghiệm hàng hóa, đồng thời chuẩn bị cán bộ và công nhân tiếp nhận cùng với các giấy tờ chừng từ cần thiết khác, chuẩn bị kho chứa hàng. Các công việc thực hiện phải đảm bảo cho giầy dép không bị gẫy, không bị hỏng, không bị thiếu, đảm bảo chất lượng giầy dép theo yêu cầu. Đóng gói bao bì xuất khẩu giầy dép và kẻ ký mã hiệu Ngày nay hầu hết các hàng hoá xuất khẩu đều phải thực hiện khâu này. Việc đóng gói bao bì: Cần đảm bảo các yêu cầu về độ an toàn (kín và chắc, không để lộ hình dáng hàng hóa, sử dụng biện pháp niêm phong), tiết kiệm (tiết kiệm chi phí bao bì, chi phí vận tải, chi phí về thuế quan), thẩm mỹ. Giầy dép là mặt hàng khô nên rất dễ đóng gói, người ta có thể sử dụng các loại bao bì như hòm gỗ, bao tải, các loại thùng, các loại bao gói được chế tạo bằng các chất tổng hợp như màng mỏng PE, PVC, PP. Kẻ ký mã hiệu: Tương tự như các loại hàng hoá khác thì việc kẻ ký mã hiệu trên bao bì hàng giầy dép xuất khẩu cũng nhằm hướng dẫn vận chuyển, xếp dỡ, bảo quản giầy dép, thuận lợi cho công tác giao nhận. Với các công tác chuẩn bị như vậy doanh nghiệp đã có đầy đủ hàng hóa để xuất khẩu. 1.5.4.4. Thuê phương tiện vận tải lô giầy dép xuất khẩu. Hiện nay phần lớn việc vận chuyển giầy dép xuất khẩu đều được thực hiện bằng đường thuỷ bởi lẽ: Thứ nhất: Hệ thống giao thông đường thuỷ của nước ta dày đặc, thuận tiện cho công tác vận chuyển. Thứ hai: Số lượng giầy dép xuất khẩu lớn, trong khi đó chi phí vận chuyển bằng đường thuỷ rẻ và tương đối an toàn. Tuỳ theo khối lượng giầy dép xuất khẩu cũng như phí thuê tàu mà các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể thuê tàu chợ hoặc thuê tàu chuyến để thực hiện việc vận chuyển. Khi xuất khẩu lô hàng giầy dép với khối lượng nhỏ thì doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép nên thuê tàu chợ. Sau khi hoàn thành xong khâu chuẩn bị đơn hàng giầy dép cho xuất khẩu, tập trung hàng đủ số lượng, chất lượng quy định, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sẽ nghiên cứu kỹ lịch trình tàu chạy ở trên các báo kinh tế để từ đó có thể chọn được hãng tàu uy tín và cước phí hạ. Khi đó chủ tàu lập bảng kê khai hàng hoá và uỷ thác cho công ty đại lý vận tải giúp giữ chỗ trên tàu, chủ hàng sẽ ký đơn xin lưu khoang với hãng đại lý sau khi hãng tàu đồng ý nhận chuyên chở đồng thời đóng cước phí vận chuyển. Bước tiếp theo là các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép sẽ tập kết toàn bộ lô hàng giầy dép để giao cho tàu và lấy vận đơn sau đó thông báo cho nhà nhập khẩu giầy dép về kết quả giao hàng cho tàu. Ngược lại, nếu xuất khẩu lô hàng giầy dép với khối lượng lớn, tính chất của lô hàng giầy dép tương đối thuần nhất và thường chở đầy tàu thì các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép nên thuê tàu chuyến để chuyên chở. Cước phí tàu chuyến thường biến động hơn cước tàu chợ, nó phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa doanh nghiệp thuê tàu với người cho thuê được ghi vào trong hợp đồng thuê tàu chuyến. Thuê tàu chuyến thì phức tạp hơn công việc thuê tàu chợ vì nó đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải am hiểu về tuyến, luồng vận tải, về giá cước phí của từng hãng vận tải. Lúc này, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải xác định loại hình tàu để thuê (khi chọn thuê tàu phải đảm bảo cấp, hạng tàu, phải khai thác hết trọng tải cho phép để giảm cước khống, phải đáp ứng được yêu cầu của lô hàng giầy dép mà tàu vận chuyển); Sau đó các doanh nghiệp này sẽ uỷ thác cho người môi giới thuê tàu hoặc trực tiếp đứng ra đàm phán hợp đồng thuê tàu chuyến với người cho thuê; Bước tiếp theo là tập kết hàng để giao lên tàu (khi xuất khẩu theo điều kiện C, D) và lấy vận đơn sạch; Cuối cùng là thanh toán tiền cho người cho thuê tàu và thông báo cho nhà nhập khẩu giầy dép về kết quả giao hàng cho tàu. 1.5.4.5. Mua bảo hiểm cho lô hàng giầy dép xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép chủ mua bảo hiểm trong trường hợp xuất khẩu lô hàng giầy dép theo điều kiện giao hàng CIF, CIP và theo điều kiện giao hàng của nhóm D (gồm DAF, DES, DEQ, DDU, DDP). Nếu xuất khẩu lô hàng giầy dép theo điều kiện giao hàng CIF, CIP thì các doanh nghiệp sản xuất – xuất khẩu giầy dép mua bảo hiểm vì quyền lợi của nhà nhập khẩu giầy dép. Nếu trong hợp đồng xuất khẩu giầy dép dẫn chiếu các điều kiện cơ sở giao hàng theo Incoterms 2000 hoặc Incoterms 1990 mà không có quy định gì thêm về việc mua bảo hiểm cho lô hàng giầy dép thì các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép chỉ phải mua bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm tối thiểu. Nếu xuất khẩu lô hàng giầy dép theo các điều kiện giao hàng của nhóm D, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép mua bảo hiểm vì quyền lợi của chính mình. Khi đó doanh nghiệp cần căn cứ vào các yếu tố sau để lựa chọn hình thức bảo hiểm và nhà bảo hiểm cho phù hợp: Đặc điểm của lô hàng giầy dép. Đặc điểm của hành trình chuyên chở và phương tiện chuyên chở. Phí bảo hiểm phải nộp. Chất lượng dịch vụ bảo hiểm của các công ty bảo hiểm. Mức độ tiện lợi trong việc mua bảo hiểm, khiếu nại và bồi thường. Thực tế hiện nay thì khoảng 80% các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ký hợp đồng xuất khẩu theo giá FOB, cảng Việt Nam do nhiều nguyên nhân như: Uy tín của các công ty bảo hiểm và hãng vận tải Việt Nam chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu giầy của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ nên vốn ít, xuất khẩu không ổn định phụ thuộc vào các đơn hàng của nước ngoài, giá trị của hàng hóa xuất khẩu không cao. Cho nên quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa thuộc về các đối tác nhập khẩu giầy dép. 1.5.4.6. Thông quan xuất khẩu cho lô hàng giầy dép. Ngày nay, nhiệm vụ thông quan xuất khẩu thuộc trách nhiệm của các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép. Thủ tục thông quan xuất khẩu lô hàng giầy dép bao gồm: 1. Đăng kỹ mã số doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép tại Cục Hải quan tỉnh hoặc thành phố. 2. Khi mở tờ khai hải quan: Doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép điền đầy đủ vào tờ khai hải quan có mẫu in sẵn bán ở các chi cục hải quan. 3. Nộp hồ sơ để đăng ký làm thủ tục hải quan: Theo điều 7 Nghị định số 101/2001/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan, khi làm thủ tục hải quan, người khai hải quan (các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép) phải nộp và xuất trình hồ sơ hải quan gồm các chứng từ sau: Tờ khai hải quan giầy dép xuất khẩu: 2 bản chính. Bản kê chi tiết giầy dép đối với lô hàng có nhiều chủng loại giầy dép: 2 bản chính. Hợp đồng xuất khẩu giầy dép hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương hợp đồng trong trường hợp cần thiết do Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan quy định: 1 bản sao. Các chứng từ khác theo quy định của pháp luật đối với xuất khẩu mặt hàng giầy dép mà người khai hải quan phải nộp hoặc xuất trình cho cơ quan hải quan. 4. Nộp thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế phụ thu (nếu có): Đối với mặt hàng giầy dép xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu theo nghị quyết số 977/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 13 tháng 12 năm 2005 của Uỷ ban thường vụ quốc hội về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng. 5. Xuất trình lô hàng giầy dép xuất khẩu tại điểm kiểm tra trong hoặc ngoài cửa khẩu được hải quan công nhận và hải quan kiểm hoá: Theo điều 8 - Nghị định số 101/2001/NĐ-CP quy định mặt hàng giầy dép được miễn kiểm tra thực tế và cơ quan hải quan ghi xác nhận lô hàng giầy dép thực tế theo nội dung tự kê khai của người khai hải quan (các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép) hoặc theo kết quả kiểm tra, giám định của các tổ chức giám đinh, cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. 6. Thông quan lô hàng giầy dép xuất khẩu: Vì mặt hàng giầy dép là mặt hàng được miễn kiểm tra thực tế, nên để được thông quan thì chỉ cần có khai báo của người khai hải quan (doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép) hoặc kết luận của cơ quan kiểm tra Nhà nước, tổ chức giám định. 1.5.4.7. Giao hàng giầy dép xuất khẩu cho người vận tải. Đúng theo thời hạn giao hàng đã được ghi trong hợp đồng xuất khẩu giầy dép, doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép phải làm thủ tục giao lô hàng giày dép cho người vận tải. 1.5.4.8. Làm thủ tục thanh toán hợp động xuất khẩu giầy dép. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép có thể sử dụng rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau, phần lớn được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. Tuỳ từng phương thức thanh toán khác nhau mà trình tự thanh toán sẽ khác nhau. Bản thân các doanh nghiệp có thể căn cứ vào mối quan hệ với các nhà nhập khẩu giầy dép, giá trị của hợp đồng để lựa chọn ra được các phương thức thanh toán nhanh chóng, thuận lợi, an toàn, tốn ít chi phí. Thông thường các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép lựa chọn phương thức tín dụng chứng từ làm phương thức thanh toán của mình. Trình tự nghiệp vụ như sau: Sơ đồ 1.3: Trình tự nghiệp vụ thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ. (5) Ngân hàng đại lý Các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép. Nhà nhập khẩu giầy dép Ngân hàng phát hành (ngân hàng thanh toán) (1) (9) (8) (4) (2) – L/C (6) (7) (3)-L/C (10) Bước 1: Nhập khẩu giầy dép làm giầy đề nghị mở L/C và nộp vào ngân hàng các giấy tờ cần thiết, thực hiện ký quỹ theo yêu cầu để ngân hàng phát hành L/C cho người xuất khẩu (các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép) hưởng lợi. Bước 2: Ngân hàng phát hành L/C theo đúng yêu cầu của giấy đề nghị mở L/C và chuyển tới ngân hàng đại lý của mình ở nước của các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép. Bước 3: Ngân hàng đại lý chuyển L/C gốc tới cho các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép để họ kiểm tra L/C và đề nghị tu chỉnh nếu cần. Bước 4: Các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép giao hàng theo đúng quy định của L/C và các văn bản tu chỉnh L/C (nếu có). Bước 5: Sau khi giao hàng, các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép lập bộ chứng từ thanh toán theo quy định của L/C xuất trình tới ngân hàng đại lý. Bước 6: Ngân hàng đại lý sau khi nhận được bộ chứng từ, kiểm tra tính hợp lệ của bộ chứng từ sẽ chuyển nó tới ngân hàng phát hành (hoặc ngân hàng thanh toán). Bước 7: Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ: Nếu bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với quy định của L/C thì ngân hàng phát hành sẽ trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu (đối với L/C trả chậm). Nếu bộ chứng từ không phù hợp với quy định của L/C thì từ chối thanh toán và gửi trả bộ chứng từ cho các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép. Bước 8: Ngân hàng phát hành thư tín dụng chuyển bộ chứng từ cho._.ngũ thiết kế giầy của công ty bằng các cách như: Thuê các chuyên gia thiết kế nổi tiếng ở trong nước và nước ngoài về giảng dạy, bồi dưỡng thêm kiến thức về thiết kế giầy. Cử các nhân viên thiết kế của công ty sang nước ngoài học tâp. Ngay từ đầu công ty nên có chính sách tuyển dụng những sáng tác mẫu và thiết kế viên có trình độ. Công ty phải dành ngân sách cho đầu tư vào hiện đại hoá các trang thiết bị sản xuất giầy và các thiết bị hỗ trợ cho công tác thiết kế như: Đầu tư mua phần mềm thiết kế (phần mềm Shoesdesign, phần mềm May-a., phần mềm USM..) tuỳ thuộc vào điều kiện và năng lực của công ty; Bàn số hoá; Máy cắt mẫu… 3.3.4. Nâng cao chất lượng và hạ giá thành giầy xuất khẩu sang thị trường EU của công ty. Những nhân tố làm ảnh hưởng đến chất lượng giầy và làm gia tăng chi phí sản xuất của công ty là: Máy móc lạc hậu dẫn đến năng lực sản xuất thấp, làm phát sinh các phụ phí cho sửa chữa máy móc bị hỏng hóc làm cho chi phí sản xuất tăng lên và dẫn đến giá thành giầy cũng tăng lên. Do trình độ thiết kế kém cho nên có những sai sót xảy ra trong khâu thiết kế mà chưa được phát hiện kịp thời đã đưa vào sản xuất hàng loạt làm cho chất lượng giầy giảm và thậm chí công ty còn phải mất chi phí để khắc phục lỗi sai sót, làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Nguyên vật liệu cho sản xuất giầy của công ty một phần nhỏ được lấy từ trong nước còn lại là nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc…Cho nên chi phí mua rất tốn kém mà chất lượng nhiều khi không đảm bảo làm ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành giầy xuất khẩu. Hiện nay giầy của công ty so về chất lượng với giầy của Trung Quốc thì tốt hơn là mấy nhưng mà giá cả thì lại cao hơn trong khi đó giầy của Trung Quốc mẫu mã luôn được thay đổi cho nên các nhà nhập khẩu giầy dép của EU thích ký kết làm ăn với các doanh nghiệp Trung Quốc hơn. Vì vậy để tránh tình trạng khan hiếm đơn hàng thì công ty phải chú trọng vào việc nâng cao chất lượng giầy xuất khẩu và đưa ra một mức giá cạnh tranh nhất để thu hút được các đơn hàng từ các khách hàng EU. Muốn vậy công ty cần phải: Đầu tư trang thiết bị sản xuất giầy tiên tiến: Có thể mua mới hoặc hợp tác, liên doanh với các công ty giầy khác có dây chuyền công nghệ hiện đại hoặc sử dụng hình thức chuyển giao công nghệ hiện đại của các nước có dây chuyền và trang thiết bị sản xuất giày hiện đại. Giầy vải là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty. Để tăng sức cạnh tranh của giầy vải xuất khẩu sang thị trường EU thì công ty ngày càng phải nâng cao chất lượng giầy vải, sản xuất các loại giầy vải cao cấp, có tính độc đáo, phong cách và kiểu dáng đặc biệt thậm chí sản xuất cả những sản phẩm giầy vải công nghệ cao kết hợp với những chi tiết phức tạp nhờ vào trình độ thủ công. Muốn vậy công ty phải thay thế một số thiết bị chủ yếu trong khâu gò ráp, hấp sấy, may thủ công và đổi mới công nghệ ép dãn lưu hoá sang ép dán đối với các loại giầy vải cao cấp. Đối với giầy thể thao: Các máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất giầy cũng đã lạc hậu và đã phải tân trang nhiều lần. Điều này ảnh hưởng nhiều đến chất lượng giầy thể thao. Vì vậy công ty cũng cần phải đổi mới máy móc, đầu tư vào các loại máy may chương trình để theo kịp với các dây chuyền sản xuất giầy hiện đại của các nước khác. Đào tạo người lao động có trình độ, tay nghề, đủ khả năng tiếp thu công nghệ mới trong sản xuất sản phẩm. Công ty cần chủ động hơn nữa trong việc tạo nguồn nguyên liệu trong nước cho sản xuất giầy xuất khẩu như: Cao su, giả da (PU, PVC), hoá chất,… nhằm nâng cao việc sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, tỷ lệ vật liệu nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm giầy và được hưởng ưu đãi thuế quan. Để chủ động công ty cần tìm kiếm nguồn nguyên liệu sớm, liên kết chặt chẽ với các cơ sở sản xuất nguyên liệu trong nước, ký kết hợp đồng đặt sẵn. Một giải pháp nữa có hiệu quả trong việc huy động nguồn nguyên liệu cho việc sản xuất giầy là khuyến khích người cung ứng nguyên vật liệu góp vốn hoặc đóng cổ phần với công ty. Điều này giúp công ty có thể chủ động trong việc tạo nguồn nguyên vật liệu ổn định cho sản xuất giầy xuất khẩu. Ngoài ra công ty có thể hỗ trợ và kỹ thuật cho các cơ sở sơ chế da sống và cơ sở thuộc da để cung cấp da thuộc có đủ tiêu chuẩn chất lượng phục vụ cho sản xuất xuất giầy xuất khẩu - phù hợp với yêu cầu về chất lượng và đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng EU. Thực hiện các biện pháp nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu cho sản xuất giầy xuất khẩu: Tổ chức thi đua thực hành tiết kiệm nguyên vật liệu sản xuất; xây dựng hợp lý định mức sử dụng nguyên vật liệu và khuyến khích thưởng cho phân xưởng nào sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu; Tận dụng được các nguyên liệu thừa, những sản phẩm giầy dép hỏng có thể tái chế lại được…góp phần làm tăng doanh thu và hạ giá thành sản phẩm giầy xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh với các sản phẩm giầy của các thương hiệu khác trên thị trường EU. Phòng quản lý chất lượng của công ty cần phải hoạt động tích cực hơn nữa trong việc kiểm tra những sai sót của các sản phẩm giầy chế thử để đảm bảo giầy được sản xuất ra đủ tiêu chuẩn chất lượng; đề ra các giải pháp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giầy dép đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn chất lượng đã cam kết của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000; đẩy mạnh hệ thống áp dụng hệ thống quản lý ISO 14000 về bảo vệ môi trường. Điều này rất quan trọng vì khách hàng EU rất coi trọng các sản phẩm được sản xuất ra có chất lượng tốt, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và thân thiện với môi trường. Nếu công ty áp dụng tốt các tiêu chuẩn này, đảm bảo giầy xuất khẩu sang EU sẽ được khách hàng đón nhận, các đối tác EU sẽ rất tin tưởng để đặt hàng tại công ty. 3.3.5. Từng bước chuyển từ làm thuê sang “làm chủ” trong hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU. Thực tế ở công ty hiện nay vẫn rất bị động trong việc xuất khẩu giầy sang thị trường EU theo đơn đặt hàng của các khách hàng trung gian. Cho nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Muốn đẩy mạnh việc xuất khẩu vào thị trường EU thì công ty giầy Thượng Đình cần phải từng bước chuyển dần sang phương thức tự sản xuất toàn bộ để xuất khẩu sang EU, hạn chế bớt việc gia công thuê cho các đối tác nước ngoài nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu. Muốn làm được như vậy thì bắt buộc công ty phải kết nối được giữa công đoạn thiết kế và công đoạn sản xuất. Điều này có nghĩa là công ty phải thay thế, trang bị những dây chuyền sản xuất hiện đại để có thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất những mẫu giầy mới thiết kế. Mặt khác công ty cũng cần bổ sung thêm đội ngũ nhân viên có đủ trình độ về khai thác nguồn nguyên vật liệu để đảm bảo công ty có thể chủ động trong sản xuất và xuất khẩu. Không những thế công ty cũng cần phải có một đội ngũ bán hàng, chăm sóc khách hàng chuyên nghiệp và đội ngũ nhân viên chuyên trách việc thực hiện thủ tục xuất nhập khẩu, am hiểu về lĩnh vực tài chính. Tiếp theo, công ty cần phải thực hiện có hiệu quả hơn chức năng của một doanh nghiệp thương mại tức là thay vì công ty tiếp thị sản phẩm giầy của mình với các công ty thương mại (các khách hàng trung gian) thì công ty sẽ phải giới thiệu sản phẩm trực tiếp tới các nhà nhập khẩu tại EU hay các nhà bán lẻ có quy mô tại các nước EU. Chính điều này có thể góp phần làm tăng giá trị của sản phẩm giầy của công ty. Ngoài ra công ty cũng cần phải phát triển đội ngũ marketing được đào tạo toàn diện, thành lập các văn phòng đại diện và đại lý tại các nước EU. Mặc dù việc công ty cung ứng toàn bộ nguyên vật liệu và tự sản xuất sau đó xuất khẩu cho các đối tác với giá thoả thuận (hình thức thuận mua vừa bán) thì chi phí quản lý cao hơn, đầu tư nhiều hơn nữa vào nhà xưởng và máy móc, nhưng bù lại công ty có thể gia tăng một phần giá trị sản phẩm trong giai đoạn nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và thực hiện gia tăng giá trị sản phẩm trong toàn bộ công đoạn sản xuất do đó giá bán sản phẩm của công ty đạt được cao hơn, đảm bảo được yêu cầu về chất lượng, an toàn cho người tiêu dùng EU và bảo vệ môi trường. Điều này sẽ giúp đẩy mạnh việc xuất khẩu giầy của công ty vào thị trường này. 3.3.6. Huy động và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả trong hoạt động sản xuất - xuất khẩu giầy sang thị trường EU. Việc huy động và sử dụng vốn kinh doanh có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình. Khi công ty có được một nguồn vốn lớn thì công ty có thể chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đặc biệt là có tầm quan trọng trong hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty. Việc huy động vốn có thể từ các nguồn sau: Vay vốn ngân hàng. Vay từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Vay vốn của các doanh nghiệp khác thông qua hình thức mua chịu hàng của các đầu mối cung cấp nguyên vật liệu. Từ chính lợi nhuận của công ty tích luỹ được. Với nguồn vốn này công ty phải có một kế hoạch sử dụng hợp lý để đảm bảo đảm bảo tính sinh lời của nó. Vốn lớn công ty càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện các hoạt động nghiên cứu trực tiếp thị trường EU, đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại cho sản xuất giầy xuất khẩu, đào tạo nâng cao trình độ công nhân viên, mua nguyên vật liệu có chất lượng tốt…tất cả đều góp phần nâng cao chất lượng giầy xuất khẩu, thúc đẩy việc xuất khẩu giầy sang thị trường EU. 3.3.7. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên. ở công ty giầy Thượng Đình, công nghệ máy móc đều là bán tự động cho nên trong hoạt động sản xuất giầy không chỉ dựa vào máy móc mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của cán bộ kỹ thuật và tay nghề của người công nhân. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU thì công ty không chỉ nâng cao trình độ tay nghề của người công nhân, cán bộ kỹ thuật mà còn phải chú trọng đến đội ngũ cán bộ của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu - nguồn nhân lực chủ chốt cho hoạt động xuất khẩu của công ty: Khi tuyển dụng, công ty phải đưa ra những tiêu chuẩn, những yêu cầu đối với những ứng viên muốn làm việc tại công ty về nghiệp vụ ngoại thương, về một trong những thứ tiếng mà các thành viên EU sử dụng. Trong quá trình làm việc, công ty phải tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nhằm kịp thời nắm bắt những thay đổi để có sự điều chỉnh trong các hoạt động tác nghiệp. Công ty tiến hành quản lý chất lượng lao động theo tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000. Công ty cũng phải thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về xuất nhập khẩu da giầy để nâng cao kiến thức chuyên môn, kiến thức về thị trường EU cho cán bộ nhân viên. Ngoài ra công ty cũng cần có những chính sách hỗ trợ về mặt vật chất cho cán bộ công nhân viên để họ có thể có điều kiện tốt nhất trong việc trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn của mình và khả năng kết hợp với các phòng ban khác trong việc thực hiện mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu giầy sang EU. 3.4. Một số kiến nghị. 3.4.1. Đối với phía nhà nước. Để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép Việt Nam nói chung thì Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi để giúp công ty có thể thực hiện tốt các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy dép sang các thị trường khác đặc biệt là sang thị trường EU. 3.4.1.1. Về môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, thủ tục hàng chính hỗ trợ xuất khẩu sang thị trường EU. Để tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy của Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung thì nhà nước phải không ngừng hoàn thiện, làm minh bạch và ổn định hệ thống pháp lý của quốc gia. Nhiều văn bản pháp lý cần phải được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài những chính sách xuất khẩu giầy dép, nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên phụ liệu sản xuất giầy đã được ban hành và có hiệu lực trong thực tế thì các cơ quan quản lý Nhà nước cần thường xuyên rà soát và bổ sung, sửa đổi cho kịp thời để không ngừng hoàn thiện cơ chế và chính sách hỗ trợ đối với ngành giầy dép để thúc đẩy cho ngành này phát triển với tốc độ cao hơn trong những năm tiếp theo, mở rộng được khả năng xuất khẩu. Đặc biệt giầy dép lại là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta cho nên Nhà nước cần phải ban hành nhiều hơn nữa các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển. Một thực tế hiện nay là các thủ tục hành chính của nước ta còn rất rườm rà, gây chậm chễ trong việc làm thủ tục xuất khẩu như hải quan Việt Nam vẫn yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu giầy mỗi lần xuất khẩu phải khai báo đầy chủ trong khi đó khối lượng xuất khẩu lại rất lớn và xuất khẩu trong một thời gian dài. Điều này gây tốn kém rất nhiều chi phí và mất rất nhiều thời gian. Vì vậy Nhà nước cần ban hành các chính sách quy định việc áp dụng hình thức khai báo một lần cho một lượng lớn hàng hoá xuất khẩu trong một thời gian nhất định; đơn giản hoá các thủ tục xin cấp phép xuất khẩu, xin giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá và làm thủ tục hải quan để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu giầy dép nói riêng và hoạt động nhập khẩu nguyên phụ liệu, trang thiết bị cho xuất khẩu giầy dép được thuận lợi. Đồng thời với đó, Nhà nước cũng cần đầu tư nhiều hơn nữa để vi tính hoá các công đoạn kiểm tra trong khai báo hải quan nhằm tiết kiệm thời gian và giảm đi các tiêu cực trong khâu khai báo. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thuế đặc biệt là thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất giầy xuất khẩu. Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp sản xuất- xuất khẩu giầy của nước ta xuất khẩu theo hình thức gia công cho nên hiệu quả xuất khẩu không cao trong khi đó để sản xuất được một đôi giầy rất nhiều nguyên phụ liệu trong nước không có hoặc không phù hợp cho sản xuất cho nên phải nhập khẩu từ nước ngoài. Vì vậy để hỗ trợ cho việc sản xuất giầy xuất khẩu, chính phủ nên xem xét giảm thuế nhập khẩu một số nguyên phụ liệu quan trọng như giả da, cao su, đế giầy… Không những thế, hiện nay khi các doanh nghiệp xuất khẩu giầy muốn được hoàn thuế phải làm rất nhiều thủ tục, tốn nhiều chi phí, phải đợi rất lâu mới được giải quyết, điều này gây lãng phí thời gian và tiền bạc, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Vì vậy cần đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các nguyên phụ liệu nhập khẩu. Bên cạnh giảm thuế nguyên phụ liệu nhập khẩu, Nhà Nước cần có chính sách thông thoáng hơn trong vấn đề nhập khẩu công nghệ sản xuất giầy, cần giảm thuế đối với công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại để giúp cho các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy dép có thể dễ dàng nhập khẩu công nghệ, trang thiết bị hiện đại nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm giầy dép, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu. 3.4.1.2. Hỗ trợ vốn và tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép. Phần lớn các doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu giầy của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ cho nên nguồn tài chính có hạn, trong khi đó muốn đầu tư vào dây chuyền máy móc, công nghệ hiện đại lại cần một khoản tiền rất lớn. Cho nên nhiều doanh nghiệp không thể tự mình dầu tư được hoặc họ sẽ phải chọn mua các công nghệ giá rẻ. Mặt khác, hiện nay kim ngạch xuất khẩu giầy của Việt Nam sang thị trường EU tăng lên liên tục và có nguy cơ bị EU áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu. Để tránh bị EU để ý cũng như để cân bằng cán cân thanh toán thì chúng ta nên tăng cường nhập khẩu công nghệ hiện đại từ EU. Như vậy việc Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần vốn cho các doanh nghiệp giầy Việt Nam nhập khẩu công nghệ và thiết bị hiện đại của EU sẽ là “một mũi trúng hai đích”. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi giá thuê đất ở các khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư xây dựng các nhà máy thuộc da, nhà máy chế biến cao su, nhà máy hoá chất…để tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất giầy xuất khẩu. Ngoài ra, Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép được vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp; Thành lập các quỹ hỗ trợ kinh doanh xuất nhập khẩu, quỹ khuyến khích xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu cho mặt hàng giầy dép. 3.4.1.3. Quy hoạch phát triển vùng sản xuất nguyên vật liệu cho ngành da giầy nước ta. Không chỉ công ty giầy Thượng Đình mà các công ty giầy khác của nước ta hiện nay đều không chủ động được về nguồn nguyên liệu cho sản xuất, có tới 50 – 60% các chủng loại nguyên phụ liệu vẫn buộc phải nhập ngoại vì: Nguyên phụ liệu đó trong nước không sản xuất được. Nguyên phụ liệu đó ở trong nước sản xuất được nhưng chất lượng không đủ tiêu chuẩn để đáp ứng yêu cầu của sản xuất giầy xuất khẩu. Nguyên phụ liệu đó nhập khẩu còn hiệu quả hơn là mua trong nước. Chính vì điều này mà doanh nghiệp giầy Việt Nam nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói chung không chủ động được về chất lượng sản phẩm, về thời gian giao hàng và điều này ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu giầy dép sang EU và sang các thị trường khác. Cho nên để tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu giầy sang các thị trường đặc biệt là sang thị trường EU thì các công ty cần chủ động trong việc huy động nguyên vật liệu cho sản xuất giầy xuất khẩu và Nhà nước cũng đóng một vai trò không nhỏ trong việc đề ra chính sách quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu sản xuất giầy ở trong nước, hỗ trợ đầu vào cho sản xuất của các doanh nghiệp giầy Việt Nam: Nhà nước cần phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để đưa ra được quy hoạch phát triển các vùng chăn nuôi gia súc lấy da. Đưa ra chính sách thu hút các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các vùng nguyên phụ liệu cho ngành da giầy; Xây dựng các nhà máy thuộc da. Giao khoán cho các hộ trồng rừng cây cao su để tạo ra nguồn cao su tự nhiên, sau đó được đưa vào các nhà máy xử lý để tạo ra nhiều loại cao su tổng hợp khác nhau trong đó có một số loại phục vụ cho nhu cầu sản xuất giầy xuất khẩu như: Cao su IZO PREN, cao su ETYLEN PROPYLEN, cao su BUTADIEN STYROL;… Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các dự án xây dựng các khu “chợ” vật tư, nguyên liệu cho ngành giầy. 3.4.1.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU. Để tạo điều kiện cho các công ty giầy nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng thực hiện tốt được công tác nghiên cứu thị trường và khuếc trương thương hiệu giầy của mình trên thị trường EU thì các cơ quan Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp như sau: Bộ công thương, các sở thương mại phối hợp giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giầy dép liên hệ thường xuyên với thương vụ và đại sứ quán của Việt Nam tại thị trường EU cũng như tham tán thương mại EU tại Việt Nam để tìm kiếm, thu thập thông tin về xu hướng tiêu dùng, tình hình thị trường EU để các doanh nghiệp giầy nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng có thể chủ động trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và xuất khẩu giầy dép một cách linh hoạt sang thị trường EU. Trước mắt Nhà nước cần khuyến khích việc hình thành các trung tâm nghiên cứu và dự báo (tại hai thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh) về giá cả, xu hướng thị trường, nhu cầu của thị trường giầy dép ở trong nước, thị trường EU và các thị trường khác để cung cấp thông tin cho các nhà sản xuất, xuất khẩu giầy dép của Việt Nam, định hướng sản xuất và xuất khẩu giầy phù hợp với thị hiếu tiêu dùng sản phẩm giầy dép trên các thị trường đặc biệt là thị trường EU bằng cách hỗ trợ kinh phí và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, có trình độ chuyên môn về nghiên cứu và dự báo thị trường. Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp giầy nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng để các công ty đó có thể tham gia vào các hôi chợ, triển lãm giầy dép tại EU, tạo cơ hội tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng EU để quảng bá thương hiệu giầy của mình. 3.4.1.5. Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ thương mại Việt Nam – EU. Đây là một điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng, vì khi đó các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng các ưu đãi tối huệ quốc mà quốc gia này dành cho, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu giầy dép vào thị trường này. Để tận dụng được lợi thế đó thì Nhà nước ta cần phải: Tổ chức hoạt động viếng thăm thường xuyên giữa chính phủ hai nước nhằm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn nữa; Tạo dựng được khuôn khổ pháp lý tốt để cho hoạt động xuất khẩu giầy vào thị trường này được hưởng nhiều ưu đãi. Phải quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các nhân viên thương vụ thuộc đại sứ quán Việt Nam hoạt động tại EU trong việc cung cấp thông tin về thị trường này nhằm tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu. 3.4.2. Đối với hiệp hội da giầy Việt Nam. Hiệp hội da giầy Việt Nam là tổ chức đại diện cho lợi ích toàn ngành da giầy, là trung tâm cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp hội viên về các vấn đề có liên quan đến sản xuất và xuất khẩu giầy dép đồng thời tham gia vào hoạch định chính sách phát triển chung của ngành. Cho nên hiệp hôi da giầy Việt Nam cần phải có một đội ngũ cán bộ am hiều về ngành hàng, có kỹ năng phân tích thị trường, có khả năng sử dụng ngoại ngữ để đảm bảo thực hiện tốt vai trò của mình. Với vai trò quan trọng như vậy thì hiệp hội da giầy Việt Nam cần phải hoạt động tích cực hơn nữa trong việc hoạch định chiến lược phát triển ngành lâu dài; trong việc thành lập một trường chính quy để đào tạo các kỹ thuật viên và kỹ sư cho ngành da giầy đạt tiêu chuẩn quốc tế và đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức các đoàn khảo sát thị trường EU cũng như các thị trường khác; Liên hệ với hiệp hội giầy dép EU để tổ chức các hội chợ, triển lãm giầy tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu giầy của các doanh nghiệp giầy Việt Nam và công ty giầy Thượng Đình sang thị trường EU. KẾT LUẬN Trong suốt thời gian thực tập tại công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình, em đã hiểu biết thêm nhiều điều về lịch sử hình thành, phát triển và quá trình sản xuất giầy dép của công ty đặc biệt là hoạt động xuất khẩu giầy của công ty sang thị trường EU. Qua ba chương của đề tài: “Hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy”, em đã đề cập đến một số vấn đề về hoạt động xuất khẩu giầy dép ở các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường ở nước ta; đề cập và phân tích một cách kỹ lưỡng thực trạng hoạt động xuất khẩu giầy của công ty sang thị trường EU; nhận thấy được những thành tựu và những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động xuất khẩu giầy c ủa công ty sang thị trường này.Trên cơ sở đó, em mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giầy của công ty sang thị trường EU một cách có hiệu quả hơn. Những đánh giá, những giải pháp này có thể còn mang tính lý thuyết nhưng em hy vọng rằng chúng cũng phần nào tạo ra cơ sở để mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn của công ty về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Thạc sỹ Nguyễn Thị Liên Hương đã giúp em về mặt định hướng và lý thuyết cho bản chuyên đền thực tập tốt nghiệp, đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của của các anh chị trong phòng kinh doanh xuất nhập khẩu và các phòng ban khác đã cung cấp các số liệu cần thiết để em có thể hoàn thành tốt bản chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách 1.1. Cẩm nang nghiệp vụ xuất nhập khẩu – Nhà xuất bản thống kê năm 2005. 1.2. Thâm nhập thị trường EU - Những điều cần biết. 1.3. Giáo trình kinh doanh quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Hường – Nhà xuất bản thống kê năm 2003. 2. Tài liệu công ty cung cấp. 2.1. Báo cáo hoạt động xuất khẩu hàng hoá các năm 2004 – 2007. 2.2. Báo cáo thực hiện chương trình kinh tế xã hội năm 2006 và nhiệm vụ thực hiện năm 2007. 2.3. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ SXKD 07 tháng đầu năm 2007. 2.4. Dự kiến kế hoạch sản xuất năm 2008. 3. Một số văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. 3.1. Quyết định số 36/2007/QĐ-BCN về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành da giầy đến năm2010. 3.2. Nghị quyết số 977/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 13 tháng 12 năm 2005 của Uỷ ban thường vụ quốc hội về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng. 3.3. Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. 3.4. Nghị định số 101/2001/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan. 4.Tạp chí thương mại. Số 7/2005: Giầy Thượng Đình kinh nghiệm của thành công. Số 14/2005: Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Số 39/2005: Để thuế quan và hải quan không còn là “gánh nặng” cho doanh nghiệp. Số 8/2006: Thực trạng và giải pháp xuất khẩu giầy dép. Số 48/2007: Những sai sót thường gặp trong bộ chứng từ thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu theo L/C. Số 32/2007: Da giày cần quan tâm mở rộng thị trường xuất khẩu. Số 6/2008: Đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. 5. Tài liệu tra cứu trên mạng. www.mot.gov.vn www.viettrade www.google.com MỤC LỤC BẢN CAM ĐOAN Trong suốt quá trình thực tập tại công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình, em đã được tiếp xúc và làm việc trực tiếp với các cán bộ trong công ty và đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Với sự trợ giúp nhiệt tình của các anh chị trong phòng đã cung cấp cho em những tài liệu cần thiết và các số liệu có liên quan để em có thể hoàn thành được đề tài về nội dung: “Hoạt động xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty TNHH một thành viên giầy Thượng Đình - Thực trạng và giải pháp thúc đẩy”. Cùng với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thạc sỹ Nguyễn Thị Liên Hương và bằng sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành xong bản chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Em xin cam đoan bản chuyên đề này là kết quả của sự cố gắng, nỗ lực làm việc hết mình của bản thân và sự giúp đỡ của cô giáo cùng với các anh chị trong phòng kinh doanh xuất nhập khẩu – công ty giầy Thượng Đình. Em không sao chép từ bất kỳ một tài liệu nào. Hà Nội, ngày 23.04.2008 Người làm bản cam đoan Tăng Thị Phương DANH MỤC BẢNG BIỂU - ĐỒ THỊ - SƠ ĐỒ 1. DANH MỤC BẢNG BIỂU. Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 10 Bảng 2.1: Danh mục một số trang thiết bị sản xuất chính của công ty. 56 Bảng 2.2: Tình hình tài sản và nguồn vốn của công ty giai đoạn (2004-2007) 62 Bảng 2.3: Báo cáo tổng hợp sử dụng lao động năm 2007. 64 Bảng 2.5: Tình hình tiêu thụ sản phẩm và cơ cấu sản lượng tiêu thụ các sản phẩm giầy của công ty giầy Thượng Đình (năm 2003 – 2007). 69 Bảng 2.6: Số lượng giầy xuất khẩu của công ty giầy Thượng Đình 71 Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giai đoạn (2004 – 2007). 72 Bảng 2.8: Cơ cấu số lượng giầy xuất khẩu của công ty giai đoạn (2004 – 2007). 74 Bảng 2.9: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình 75 Bảng 2.10: Số lượng sản phẩm giầy vải xuất khẩu sang các thị trường 77 Bảng 2.11: Số lượng giầy thể thao xuất khẩu sang các thị trường 79 Bảng 2.12: Kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình sang 81 Bảng 2.13: Số lượng giầy xuất khẩu của công ty sang thị trường EU 83 Bảng 2.14 : Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của công ty sang thị trường EU giai đoạn (2004 – 2007) 85 Bảng 2.15: Cơ cấu giầy xuất khẩu của công ty sang thị trường EU theo 87 Bảng 2.16: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy sang thị trường EU của công ty giai đoạn (2004 – 2007) 90 Bảng 2.17: Kim ngạch xuất khẩu giầy sang các nước thuộc thị trường EU 92 Bảng 2.18 : Kim ngạch xuất khẩu giầy qua trung gian của công ty 98 2. DANH MỤC ĐỒ THỊ. Hình 2.1: Số lượng giầy xuất khẩu của công ty giầy Thượng Đình giai đoạn (2004 – 2007). 71 Hình 2.2: Kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình (2004 – 2007). 73 Hình 2.3: Cơ cấu số lượng giầy xuất khẩu của công ty giai đoạn (2004 – 2007). 74 Hình 2.4: Kim ngạch xuất khẩu giầy vải và giầy thể thao của công ty giầy Thượng Đình giai đoạn (2004 – 2007). 76 Hình 2.5: Số lượng giầy vải của công ty giầy Thượng Đình xuất khẩu sang các thị trường giai đoạn (2004 – 2007). 78 Hình 2.6: Số lượng giầy thể thao của công ty giầy Thượng Đình xuất khẩu sang các thị trường giai đoạn (2004 – 2007). 80 Hình 2.7: Kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình sang các thị trường giai đoạn (2004 – 2007). 82 Hình 2.8: Số lượng giầy xuất khẩu của công ty sang thị trường EU (2004 – 2007). 83 Hình 2.9: Kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình sang thị trường EU giai đoạn (2004 – 2007). 85 Hình 2.10: Cơ cấu giầy xuất khẩu sang thị trường EU của công ty giầy Thượng Đình giai đoạn (2004 – 2007). 87 Hình 2.11: Cơ cấu giầy vải xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn (2004 – 2007). 88 Hình 2.12: Cơ cấu giầy thể thao xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn (2004 – 2007). 89 Hình 2.13: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình sang thị trường EU. 91 Hình 2.14: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy vải của công ty giầy Thượng Đình sang các nước EU năm 2004. 93 Hình 2.15: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy vải của công ty giầy Thượng Đình sang các nước EU năm 2005. 94 Hình 2.16: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy vải của công ty giầy Thượng Đình sang các nước EU năm 2006. 94 Hình 2.17: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy vải của công ty giầy Thượng Đình sang các nước EU năm 2007. 94 Hình 2.18: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy qua trung gian của công ty giầy Thượng Đình năm 2004. 99 Hình 2.19: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy qua trung gian của công ty giầy Thượng Đình năm 2005. 99 Hình 2.20: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy qua trung gian của công ty giầy Thượng Đình năm 2006. 99 Hình 2.21: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy qua trung gian của công ty giầy Thượng Đình năm 2007. 100 3. DANH MỤC SƠ ĐỒ. Sơ đồ 1.1: Mô hình hoạt động xuất khẩu giầy dép của doanh nghiệp. 19 Sơ đồ 1.2: Mô hình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy dép. 25 Sơ đồ 1.3: Trình tự nghiệp vụ thanh toán bằng phương thức 33 Sơ đồ 2.1: Mô hình xuất khẩu giầy qua trung gian của công ty giầy Thượng Đình. 96 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11562.doc
Tài liệu liên quan