Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây thời kỳ đổi mới (1986 - Nay): Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Kể từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986), nền kinh tế nước ta bước sang một bước ngoặt mới, có ý nghĩa lịch sử, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển, tình hình kinh tế xã hội ở nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt, nhất là trong hoạt động thương mại quốc tế, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây thời kỳ đổi mới (1986 - Nay): Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và các nước trên thế giới ngày càng được đẩy mạnh, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng nhanh. Tỉnh Hà Tây cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của cả nước. Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Hà Tây có qui mô còn nhỏ so với nhiều tỉnh, thành trong cả nước và so với tiềm năng của địa phương; cơ cấu hàng xuất khẩu của tỉnh chuyển dịch còn chậm; sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường vẫn còn yếu. Để đánh giá toàn diện về hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời kỳ đổi mới, đánh giá thuận lợi, khó khăn và đưa ra các giải pháp chủ yếu để đấy mạnh xuất khẩu của tỉnh trong thời gian tới, luận văn lấy vấn đề : “Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây thời kỳ đổi mới (1986 - nay): Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 - 2007). Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây đã trải qua nhiều thời kỳ biến động với việc mở rộng và thu hẹp về địa giới cho nên việc đánh giá một cách hệ thống, toàn diện và chính xác là việc làm không đơn giản. Mặt khác, việc đổi mới chỉ thực sự đi vào cuộc sống từ sau năm 1990 nên luận văn sẽ tập trung chủ yếu phân tích trong khoảng thời gian từ năm 1991 trở lại đến năm 2007. Và ở đây, luận văn chủ yếu đề cập đến xuất khẩu hàng hoá hữu hình. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp so sánh để nghiên cứu. 4. Những đóng góp chủ yếu của luận văn - Hệ thống hoá một số lý thuyết về xuất khẩu - Khảo sát thực trạng quá trình hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời kỳ đổi mới. Phân tích những ưu nhược điểm và các vấn đề tồn tại gây cản trở cho việc mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Hà Tây. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm - Đề xuất một số quan điểm và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Hà Tây trong thời gian tới 5. Kết cấu, nội dung của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương: CHƯƠNG I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu và kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu CHƯƠNG II. Thực trạng xuất khẩu của Hà Tây trong thời kỳ đổi mới kinh tế (từ 1986 - 2007). CHƯƠNG III. Quan điểm và các giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Hà Tây thời kỳ 2006-2020 CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU 1.1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu Khái niệm xuất khẩu Theo từ điển bách khoa Việt Nam, xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài; gồm hai loại hình là xuất khẩu hàng hoá (còn gọi là xuất khẩu hàng hoá hữu hình) và xuất khẩu dịch vụ (còn gọi là xuất khẩu hàng hoá vô hình). Theo Điều 2 Nghị định 57/1998 NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ, “hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá”. - Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên của doanh nghiệp khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế, nhằm sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của doanh nghiệp; giảm chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất; nâng cao được lợi nhuận và giảm rủi ro nhờ tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu. Xuất khẩu là một hoạt động thương mại quốc tế, một hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu, kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại những hiệu quả to lớn nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Như vậy, với khái niệm như trên xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh nhưng phạm vi kinh doanh vượt khỏi biên giới quốc gia hay nói cách khác đó là hoạt động buôn bán với nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất khẩu, quốc gia có thể thu được những lợi ích to lớn cho nền kinh tế trong nước. Các lý thuyết về xuất khẩu trong thương mại quốc tế Một trong những tiền đề xuất hiện sự trao đổi hàng hoá là do sự phân công lao động xã hội cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cho nên thương mại quốc tế ngày càng phát triển thì sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nhà sản xuất riêng biệt của mỗi quốc gia ngày càng gia tăng. Điều đó được qui định bởi sự đa dạng về điều kiện sản xuất và tiêu dùng của các nước. Hoạt động xuất khẩu là một trong hai nội dung cốt lõi và hết sức quan trọng của thương mại quốc tế. Tuy cách thức tiếp cận và nhìn nhận vai trò của ngoại thương có khác nhau, nhưng ngay từ rất sớm các nhà kinh tế đã thừa nhận vai trò quan trọng của ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng đối với sự phát triển kinh tế. Quan điểm của trường phái trọng thương Lý thuyết trọng thương là lý thuyết nền tảng cho các tư duy kinh tế. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ, thường được tính bằng vàng. Các nhà kinh tế ngoại thương mà tiêu biểu là Thomas Mun đã cho rằng "nội thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm, muốn tăng của cải vật chất thì phải có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương". Do đó, theo lý thuyết này, Chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch tính theo vàng từ một nước hay nhiều nước bị thâm hụt. Sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng minh sự sai lầm phiến diện trong việc tuyệt đối hoá vai trò của ngoại thương của trường phái này. Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản trong giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã và chủ nghĩa tư bản mới ra đời. Đây là giai đoạn chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, sẵn sàng dùng bạo lực để thực hiện cướp bóc tích luỹ. Ngoại thương lúc đó là phương tiện để giai cấp tư sản thực hiện cách cướp bóc ở thuộc địa thông qua việc trao đổi không ngang giá. Để tăng cường xuất khẩu, các cường quốc thực dân không chỉ giữ độc quyền các quan hệ thương mại mà còn ngăn cản các nước thuộc địa sản xuất. Do đó mà các nước thuộc địa phải xuất khẩu nguyên liệu thô, kém giá trị hơn và nhập khẩu các sản phẩm có giá trị cao hơn. Chính vì những hạn chế đó, lý thuyết trọng thương đã nhường chỗ cho các học thuyết nghiên cứu kinh tế tư bản chủ nghĩa một cách toàn diện hơn. Tuy vậy, chủ nghĩa trọng thương đã có những cống hiến nhất định về mặt lý luận khi chỉ ra vai trò của hoạt động ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối Ông cho rằng những quốc gia khác nhau có thể sản xuất ra những loại hàng hoá khác nhau có hiệu quả hơn những thứ khác, mỗi quốc gia nếu chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, nghĩa là cho phép họ sản xuất ra những sản phẩm với chi phí thấp hơn các nước khác, gia tăng hiệu quả của họ do người lao động sẽ lành nghề hơn vì công việc được lặp đi lặp lại nhiều lần, không phải mất thời gian chuyển từ công việc sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác và do làm một công việc lâu dài sẽ nảy sinh ra các sáng kiến, đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn. Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của quốc gia đó. Đây là cách giải thích đơn giản nhất về nguyên nhân của thương mại quốc tế. Rõ ràng, việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Nếu một quốc gia nào có lợi thì quốc gia khác bị thiệt hại thì họ sẽ từ chối tham gia vào thương mại quốc tế. Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất hai loại hàng hoá A và B. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất ra hàng hoá A, còn quốc gia thứ hai có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất ra hàng hoá B. Nếu mỗi quốc gia đều tiến hành chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối, sau đó tiến hành trao đổi thì cả hai bên đều có lợi. Trong quá trình này, các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, do đó tổng sản phẩm của cả hai nước sẽ tăng lên. Sự tăng lên về số lượng là nhờ vào chuyên môn hoá và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi ngoại thương. Có thể minh hoạ về lợi thế tuyệt đối qua ví dụ sau: Bảng 1.1. Lợi thế tuyệt đối Việt Nam Đài Loan Gạo (kg/1giờ công) 6 1 Thịt bò (kg/1 giờ công) 4 5 Từ bảng 1 cho thấy, giả sử cứ 1 giờ lao động ở Việt nam thì sản xuất được 6kg gạo hoặc 4kg thịt bò, trong khi đó cứ 1 giờ lao động thì Đài Loan sản xuất được 1kg gạo hoặc 5kg thịt bò. Như vậy, Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất gạo, còn Đài Loan có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất thịt bò. Sau đó, 2 nước trao đổi một phần sản phẩm cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi là 6kg gạo của Việt Nam đổi lấy 6kg thịt bò của Đài Loan thì Việt Nam sẽ lãi được 2 kg thịt bò và tiết kiệm được ½ giờ công lao động vì mỗi giờ Việt nam chỉ sản xuất được 4kg thịt bò. Tương tự, nếu Đài Loan đổi 6 kg thịt bò lấy 6 kg gạo thì Đài Loan có lợi được 24 kg thịt bò hoặc tiết kiệm được 5h công lao động. Như vậy, Đài Loan sẽ có lợi nhiều hơn Việt nam và lợi ích đó sẽ thay đổi nếu thay đổi tỷ lệ trao đổi. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là cả hai quốc gia đều có lợi. Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ là 6/4>tỷ lệ trao đổi quốc tế (gạo/thịt bò)>1/5. Tuy vậy, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ của thương mại quốc tế là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Không thể giải thích lý thuyết tuyệt đối khi phần lớn thương mại quốc tế diễn ra giữa các nước phát triển với nhau. Lý thuyết của David Ricardo về lợi thế tương đối Trên cơ sở đưa ra mô hình kinh tế đơn giản, dựa trên 5 giả thuyết: 1) Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất 2 mặt hàng, mỗi quốc gia có một lợi thế về một mặt hàng. 2) Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thế di chuyển trong mỗi nước là cố định nhưng không thể di chuyển giữa các nước. 3) Công nghệ sản xuất ở mỗi nước là cố định. 4) Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận chuyển. 5) Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước. David Ricardo đã đưa ra kết luận về sự xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là: Thứ nhất, mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất hàng hoá đó ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu từ những nước khác những hàng hoá mà sản xuất chúng bất lợi nhất (những hàng hoá không có lợi thế tương đối). Thứ hai, những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất ra mọi sản phẩm thì vẫn có lợi thế khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Ví dụ về lợi thế tương đối của David Ricardo được minh hoạ ở bảng 2 như sau: Bảng 1.2. Lợi thế tương đối Việt Nam Đài Loan Thép (kg/giờ công) 1 6 Vải (m/giờ công) 2 4 Bảng trên cho thấy, Đài loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam cả về hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Đài Loan gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động của ngành dệt chỉ gấp 2 lần. Như vậy, giữa hai hàng hoá thép và vải, Việt Nam có lợi thế so sánh trong sản xuất vải. Theo qui luật của lợi thế so sánh, khi hai quốc gia trao đổi một phần sản phẩm cho nhau, tỷ lệ trao đổi phải ở khoảng giữa là 6/4>tỷ lệ trao đổi thép/vải>1/2. Nếu tỷ lệ trao đổi gần với tỷ lệ trao đổi của Đài Loan thì Việt nam càng có lợi và ngược lại. Tuy nhiên, lý thuyết của Ricardo chủ yếu dựa vào lý luận giá trị lao động và cho rằng lao động là yếu tố đầu vào duy nhất. Vì vậy, mô hình này chưa giải quyết được rõ ràng nguồn gốc của thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại. Lý thuyết của Eli Heckscher - Bertil Ohlin (H-O) về sự ưu đãi của các yếu tố Các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế đều có chung một hạn chế khi cho rằng thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở có sự chênh lệch năng suất lao động giữa các quốc gia. Vào đầu thế kỷ 20, hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã nhận thấy rằng chính mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất để làm ra các mặt hàng khác nhau mới là những nhân tố quan trọng quy định thương mại quốc tế. Lý thuyết mà các ông xây dựng thường được gọi là lý thuyết Heckscher-Ohlin (viết tắt là lý thuyết H-O) hay lý thuyết tân cổ điển về thương mại quốc tế. Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào các yếu tố. Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều (một cách tương đối) lao động nếu tỷ lệ giữa lao động và các yếu tố khác (như vốn, đất đai) sử dụng để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn và các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao. Chẳng hạn, nếu Lx, Ly là lượng lao động và Kx, Ky là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra hai mặt hàng X và Y, mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu: Lx Ly Kx Ky Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động (hay về vốn) nếu tỷ lệ giữa lượng lao động (hay lượng vốn) và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của quốc gia khác. LA LB KA KB Lý thuyết H-O được xây dựng dựa trên các giả thiết: i) thế giới chỉ có hai quốc gia (A và B), 2 yếu tố sản xuất là lao động L và vốn K, 2 loại hàng hoá (X và Y); ii) Cả hai quốc gia sử dụng cùng một công nghệ sản xuất; iii) Hàng hoá X là loại sử dụng nhiều lao động và hàng hóa Y là loại sử dụng nhiều vốn, không có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả của yếu tố tương quan nào; iv) Sản xuất mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo quy mô, còn mỗi yếu tố sản xuất thì có năng suất cận biên giảm dần; v) Có sự cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường hàng hoá và thị trường yếu tố sản xuất; vi) Chuyên môn hoá sản xuất là không hoàn toàn; vii) Sở thích ở hai quốc gia là như nhau; viii) Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không thể di chuyển giữa các quốc gia; ix) thương mại quốc tế là tự do, chi phí vận chuyển bằng 0. Xuất phát từ các khái niệm và giả thiết trên thì nội dung của mô hình H-O được phát biểu dưới dạng định lý như sau: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Tức là, mỗi quốc gia, chẳng hạn có nguồn nhân lực dồi dào, sẽ chuyển sản xuất và xuất khẩu loại hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu các hàng hoá sử dụng các yếu tố sản xuất mà trong nước khan hiếm. Kết quả là thương mại quốc tế sẽ làm lợi nhuận tương đối cũng như tuyệt đối của cùng một loại yếu tố sản xuất trở nên đồng đều nhau giữa các nước. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thể hiện ở những mặt sau: - Xuất khẩu thúc đẩy phân công lao động và hợp tác đôi bên cùng có lợi, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của mỗi quốc gia Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất và tăng nhanh khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Xuất khẩu tiêu thụ một bộ phận lớn tổng sản phẩm xã hội ở thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ. Nó tạo điều kiện để nền kinh tế quốc dân có thể sản xuất với quy mô lớn trên cơ sở chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế. Nhờ sản xuất với quy mô lớn nên có thể tạo thuận lợi cho đầu tư, cho việc hiện đại hoá kỹ thuật và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, qua đó tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Tiềm năng thực tế được khai thác = Tổng tiềm năng đã được điều tra có khả năng huy động Xuất khẩu tạo điều kiện khai thác triệt để lợi thế so sánh và các tiềm năng kinh tế Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng rất phong phú về tiềm năng (các nguồn lực). Song điều đó chỉ mới là khả năng. Tính hiện thực của nó lại được quyết định ở việc thực hiện hệ số khai thác tiềm năng ngày một nâng cao. Hệ số khác thác tiềm năng Hiệu suất sinh lợi kém nếu công nghệ khai thác, hình thức đối tác và bạn hàng (nhất là bạn hàng nước ngoài) xác định không đúng và ngược lại hiệu suất lợi nhuận cao nếu ta biết lựa chọn bạn hàng, đối tác khai thác tiêu thụ các tiềm năng đem lại. Chính vì vậy, bằng cách đó, xuất khẩu góp phần không nhỏ vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu suất tích luỹ có từ nội lực của tỉnh Hà Tây, một nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay. - Xuất khẩu tạo nên nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động… Các nguồn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Thông qua việc lựa chọn bạn hàng, đối tác và các hình thức xuất khẩu để thu ngoại tệ, tích luỹ vốn sẽ giúp Hà Tây nâng cao hiệu ích sử dụng vốn, nhập khẩu các công nghệ mới từ bên ngoài, đồng thời phát huy hiệu quả các nguồn lực từ bên trong và ngoại lực trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của tỉnh. Vai trò này ngày càng trở nên quan trọng khi năng lực tích luỹ và huy động trong GDP của nền kinh tế Việt Nam trong đó có Hà Tây còn hạn chế. - Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời gây phản ứng dây chuyền giúp các ngành khác phát triển theo. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội đầy đủ cho phát triển. Nó tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định; tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu còn tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước; đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Thực tế vừa qua cho thấy, thắng lợi bước đầu của sự nghiệp đổi mới sẽ chững lại hoặc tăng trưởng chậm nếu không tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý một cách đồng bộ, nếu không tập trung sức người sức của vào đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc kết hợp hài hoà giữa chiến lược công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu và chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu là một quan điểm đúng đắn. Song quá trình này có thành công hay không thì không thể thiếu vắng hoặc xem nhẹ vai trò của xuất khẩu. - Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết, sản xuất xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập cao hơn. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú nhu cầu tiêu dùng của người dân. Tài nguyên và lực lượng lao động (nhất là lao động trí tuệ) là nguồn lực rất quan trọng đòi hỏi phải được sử dụng hợp lý. Muốn khai thác nguồn lực điều quan trọng là phải có điều kiện nhất định như: vốn, khoa học-công nghệ cao, cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế hợp lý. Các điều kiện đó không tách rời vai trò của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và xuất khẩu nói riêng. Ở đây cần nhấn mạnh các khía cạnh sau: + Việc hình thành các khu công nghiệp, các khu chế xuất nằm trong địa bàn tỉnh nhằm thu hút tiềm năng của Hà Tây và các tỉnh lân cận tạo lực lượng hàng hoá được tinh chế và tái chế làm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Từ đó, tăng công ăn việc làm cho người lao động. + Thông qua việc mở rộng và hiện đại hoá các ngành dịch vụ thu ngoại tệ trên địa bàn – hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ. Bằng cách này, Hà Tây từng bước có nguồn thu ngoại tệ lớn, cho phép tăng nhanh kim ngạch nhập khẩu vật tư, khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại mà Hà Tây rất cần nhưng vẫn còn thiếu. Mặt khác, làm tăng thêm công ăn việc làm cho người lao động mà Hà Tây đang phải chịu sức ép lớn cần phải giải toả. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư và mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại nêu trên tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và khả năng hội nhập của quốc gia vào thị trường quốc tế. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu luôn là chiến lược quan trọng của mỗi quốc gia. Đối với tỉnh Hà Tây, hoạt động xuất khẩu đang ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, có đóng góp nhất định vào sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh về qui mô và tốc độ đã góp phần tăng trưởng GDP của tỉnh. 1.1.4. Các hình thức xuất khẩu Xuất khẩu trực tiếp: xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc đặt mua từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra ngoài với danh nghĩa là hàng của mình. Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của doanh nghiệp thường cao hơn các hình thức khác. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, tiếp cận thị trường, nắm bắt nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Tuy vậy, hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng trước lượng vốn lớn để sản xuất hoặc thu mua hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp có thể gặp rủi ro như không xuất được hàng, không thu mua được hàng, rủi ro do thay đổi tỷ giá hối đoái… Xuất khẩu gia công uỷ thác: theo hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các bên doanh nghiệp trực tiếp chế biến. Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được đảm bảo đầu ra chắc chắn. Song nó cũng đòi hỏi nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu. Do đó để thực hiện tốt hình thức này các doanh nghiệp cần có cán bộ kinh doanh có kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Hình thức này là đơn vị sản xuất phải tự tìm lấy nguồn nguyên liệu để sản xuất sản phẩm theo đúng đơn đặt hàng. Xuất khẩu uỷ thác: Trong hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò là trung gian xuất khẩu làm thay cho các đơn vị sản xuất (bên có hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận. ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt không cần bỏ vốn để mua hàng, nhận tiền nhanh, ít thủ tục và tương đối tin cậy Buôn bán đối lưu: Đây là phương thức giao dịch mà xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương nhau. Mục đích của hình thức này không phải nhằm thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị tương đương giá trị của lô hàng đã xuất. Có nhiều loại hình thức buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ, mua lại sản phẩm…. Xuất khẩu theo nghị định thư: Xuất khẩu theo nghị định thư là xuất khẩu hàng hoá trả nợ được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Ưu điểm của hình thức này là được đảm bảo thanh toán (do Nhà nước là người thanh toán cho doanh nghiệp). Xuất khẩu tại chỗ: Đó là hình thức cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm chi phí đóng gói, chi phí bảo quản, vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh. Gia công quốc tế: là hình thức trong đó bên nhận gia công nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. Ưu điểm của hình thức này là giúp cho bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Đây là hình thức được áp dụng khá phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân công dồi dào. Đối với nước đặt gia công cũng có lợi khi khai thác nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ, nguồn nguyên liệu sẵn có của các nước nhận gia công. Tạm nhập tái xuất: là hình thức xuất khẩu đi những hàng hoá đã nhập khẩu trước đây và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Mục đích của hình thức này là thu về lượng ngoại tệ lớn hơn số bỏ ra ban đầu. Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất sang nước nhập khẩu hoặc đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Sau đó nước tái xuất sẽ thu tiền của nước nhập khẩu và trả tiền cho nước xuất khẩu. 1.1.5. Một số công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu 1.1.5.1 Chính sách tỷ giá: Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái là hai mặt để xác định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền trong nước. Tỷ giá hối đoái được gọi là một công cụ tác động tới thương mại quốc tế, trước hết là tác động đến xuất nhập khẩu, trong hai trường hợp nâng hoặc giảm đồng nội tệ - Nâng giá đồng nội tệ: Khi đồng nội tệ được nâng giá tức là cần ít đồng nội tệ hơn để có thể đổi được một đồng ngoại tệ dẫn đến nhập khẩu hàng hoá sẽ có lợi hơn. Điều này giúp các nhà sản xuất trong nước có cơ hội nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị trung gian để sản xuất hàng hoá cuối cùng. Vì vậy, các nước đang phát triển theo đuổi chính sách thay thế nhập khẩu để giữ tỷ giá đồng nội tệ luôn luôn cao hơn cộng với hàng rào thuế quan đối với sản phẩm sẽ tạo điều kiện để hàng hoá trong nước được tồn tại. Tuy nhiên, hàng hoá trong nước sẽ mất khả năng cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài, giá bán cao dẫn đến xuất khẩu giảm sút. Vì vậy, việc nâng giá đồng nội tệ sẽ dẫn đến hiện tượng giảm xuất khẩu. - Hạ giá đồng nội tệ: Những nước theo đuổi chính sách hướng về xuất khẩu thường dùng chính sách hạ giá (phá giá) đồng nội tệ để thúc đẩy xuất khẩu. Khi đồng tiền nội tệ giảm giá, giá cả hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài sẽ rẻ tương đối so với hàng hoá cùng loại trên thế giới. Vì vậy, cầu về sản phẩm xuất khẩu sẽ cao hơn, thúc đẩy các nhà sản xuất tăng cường xuất khẩu, tăng quy mô sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh. Việc giảm giá đồng nội tệ sẽ bất lợi cho việc nhập khẩu. Các nhà sản xuất trong nước có cơ hội cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Từ đó cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên tỷ giá hối đoái thấp không phải lúc nào cũng tăng được xuất khẩu. Nguyên nhân: + Hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng, chủng loại hàng hoá, khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh của các nhà xuất khẩu, thị hiếu thói quen tiêu dùng, môi trường thương mại quốc tế, chính sách của các nước… + Tác động phá giá đồng nội tệ phụ thuộc vào điều kiện sản xuất và thương mại của mỗi nước. Tác động tích cực của phá giá đồng tiền nhiều khi bị vô hiệu hoá hoàn toàn, nhất là sản xuất trong nước phụ thuộc quá nhiều vào các điều kiện sản xuất nhập khẩu. + Đôi khi sau một thời gian nhất định khi giảm đồng nội tệ, nước nhập khẩu cũng thực hiện chính sách phá giá đồng tiền và khi đó xuất khẩu sẽ không có cơ hội tăng trưởng. Một số hạn chế khi phá giá đồng nội tệ: + Nguy cơ làm tăng tỷ lệ lạm phát + Hậu quả về tâm lý Nhìn chung, trước năm 1989, đặc trưng của chính sách ngoại hối của Việt Nam có đặc điểm sau: + Nhà nước độc quyền quản lý và không có thị trường ngoại tệ tự do Nhà nước quy định tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc định giá của cơ chế hành chính, bao cấp. Do đó, tỷ giá thường bị méo mó, không phán ánh đúng sức mua của đồng VND so với USD hoặc đồng RUP. Mức chênh lệch tỷ này thực chất làm xuất khẩu đi vào ngõ cụt, trong một thời gian dài không khuyến khích được việc sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu, tạo cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, không kích thích được cán cân thương mại quốc tế phát triển theo hướng tích cực. Từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và đã chuyển sang trạng thái thả nổi cho đến năm 1991. Từ 1992 đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành theo phương pháp ổn định có điều chỉnh. Việc chuyển từ chế độ tỷ giá theo mục tiêu sang chế độ tỷ giá sát với thị trường hối đoái là một bước đi có tính chất mở đầu trong chính sách m._.ở cửa ở nước ta. Chế độ tỷ giá này đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc đẩy mạnh xuất khẩu. Có thể nói, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng rất nhanh. 1.1.5.2 Chính sách thuế xuất nhập khẩu Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị nhập khẩu theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc thu được. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều tác động đến giá cả hàng hóa có liên quan. Nhưng thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở 2 điểm: Một là, thuế xuất khẩu đánh vào hàng hoá xuất khẩu chứ không phải đánh vào hàng hoá nhập khẩu, Hai là, thuế xuất khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá xa giá cả trong nước, hay nói cách khác nó hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu so với giá quốc tế. Điều này sẽ làm cho sản lượng trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho mặt hàng này. Vì vậy, các nước phát triển hiện nay hầu như không áp dụng thuế xuất khẩu. Còn thuế nhập khẩu được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển, tuy rằng mức thuế khác nhau. Đương nhiên kết quả kinh tế của thuế nhập khẩu và chính người tiêu dùng trong nước phải trang trải gánh nặng giá nhập khẩu. Vì vậy việc quy định thuế nhập khẩu là vấn đề quan tâm từ mọi phương diện. Thuế xuất nhập khẩu tác động đến hoạt động xuất khẩu như sau: + Miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu ở một nước sản xuất nhỏ, khi không có thuế: nếu chính phủ giảm thuế nhập khẩu giá cả trong nước sẽ giảm xuống dẫn đến sản xuất trong nước giảm và khuyến khích xuất khẩu. + Miễn hoặc giảm thuế xuất khẩu: Khi đánh thuế xuất khẩu, giá cả trong nước thấp hơn giá cả quốc tế dẫn đến sản xuất trong nước giảm, tiêu dùng trong nước tăng và xuất khẩu sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu Chính phủ miễn hoặc giảm thuế xuất khẩu, sản xuất trong nước tăng lên và khuyến khích xuất khẩu. Ở Việt Nam, bên cạnh chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thuế xuất nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong điều hành hoạt động xuất nhập khẩu. Thời gian qua, chính sách thuế nói chung và thuế xuất nhập khẩu nói riêng đã được Chính phủ rất quan tâm. Hàng loạt những thay đổi, những quy định mới đã được ban hành để hoàn thiện theo hướng mở cửa, dần hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, thuế xuất nhập khẩu nhìn chung còn cao chưa phù hợp với xu thế chung của quá trình hội nhập đòi hỏi phải tích cực sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. 1.1.5.3 Hạn ngạch (Quota) xuất khẩu Hạn ngạch xuất khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị của một mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu. Đây là hình thức quan trọng nhằm hạn chế xuất khẩu hay nhập khẩu. Thường hạn ngạch được ban hành cho các mặt hàng xuất khẩu và những mặt hàng nhập khẩu mà có sự ký kết hiệp định giữa hai nước. Hạn ngạch được áp dụng ở các nước là khác nhau, đối với từng thời gian, mặt hàng khác nhau. Cũng như thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu ít được sử dụng hơn hạn ngạch nhập khẩu. Trong thời kỳ đổi mới, chính sách hạn ngạch xuất nhập khẩu có tầm quan trọng rất lớn trong việc ổn định tình hình sản xuất, tiêu dùng trong nước , bảo vệ những ngành công nghiệp, sản xuất non trẻ của Việt nam trước sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại. Ví dụ, sử dụng hạn ngạch xuất khẩu gạo, hàng dệt may là do bắt buộc để đảm bảo tình hình an ninh lương thực trong nước và cam kết Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước. Hạn ngạch nhập khẩu là chính sách để quản lý thị trường, thông qua xác định nhu cầu thực tế về chủng loại, số lượng hàng hoá mà thị trường cần, từ đó lên kế hoạch nhập khẩu. Tuy nhiên, khi Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại thế giới như WTO, APEC, AFTA thì đây là trở ngại lớn. Nếu quản lý hạn ngạch xuất nhập khẩu không tốt sẽ xảy ra nhiều cơn sốt hàng như “sốt nóng”, tức là thiếu hàng và “sốt lạnh” tức là thừa hàng đối với một số mặt hàng, còn đối với hàng xuất khẩu thì các doanh nghiệp tranh mua tranh bán, ép giá người sản xuất. Nếu quản lý hạn ngạch không tốt sẽ xảy ra hiện tượng mua bán hạn ngạch, tiêu cực trong cơ chế cấp hạn ngạch, thậm chí nhiều doanh nghiệp khi có hạn ngạch thu mua hàng để xuất khẩu không có kế hoạch trước nên thu mua không có lựa chọn, kể cả hàng không đủ quy cách, chất lượng, giá cả làm ảnh hưởng không tốt đến vị thế hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. 1.1.5.4 Quản lý ngoại tệ Đây là hình thức Nhà nước đòi hỏi tất cả các khoản thu chi ngoại tệ phải được thực hiện qua hệ thống ngân hàng hoặc cơ quan quản lý ngoại hối. Trên cơ sở đó Nhà nước có thể kiểm soát được các nghiệp vụ thanh toán ngoại tệ của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu để điều tiết hoạt động ngoại thương. Do đa số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam đều có quy mô nhỏ, thiếu vốn, vì vậy việc quản lý ngoại tệ là cần thiết để nhằm tạo sự ổn định trong thị trường ngoại hối của Việt nam thực hiện tốt chức năng quản lý nợ nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, tạo môi trường cung cấp tín dụng có hiệu quả. 1.1.5.5 Những công cụ mang tính hỗ trợ - Nhà nước thành lập các Quỹ bảo lãnh xuất nhập khẩu thông qua việc sử dụng các phương thức thanh toán hợp lý. Ví dụ cho phép thương nhân bán chịu, bán trả chậm những lô hàng xuất khẩu có giá trị lớn thông qua hoạt động chiết khấu thư tín dụng (L/C), phương thức thanh toán chậm… góp phần tăng thêm vốn kinh doanh của thương nhân và đẩy mạnh xuất khẩu. - Tín dụng xuất khẩu: là hình thức khuyến khích mở rộng xuất khẩu bằng cách nhà nước cho thương nhân nước ngoài vay vốn mua hàng của nước cho vay. Trong trường hợp này, nước cho vay thường có những tiềm năng kinh tế lớn, muốn cạnh tranh giành thị trường hàng xuất khẩu hoặc nâng cao uy tín cũng như sản phẩm của nước mình trên trường quốc tế. - Trợ cấp xuất khẩu: + Trợ cấp trực tiếp: là hình thức Chính phủ thực hiện các ưu đãi cho nhà sản xuất và kinh doanh xuất khẩu về cơ sở hạ tầng, các dịch vụ thanh toán, điện nước, thông tin liên lạc…. + Trợ cấp gián tiếp là hình thức Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô để qua đó hỗ trợ hoạt động xuất khẩu. 1.1.5.6 Một số công cụ khác Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: đây là biện pháp theo đó quốc gia nhập khẩu yêu cầu quốc gia xuất khẩu phải hạn chế số lượng hàng xuất khẩu sang quốc gia mình một cách “tự nguyện” nếu không họ sẽ áp dụng các biện pháp trả đũa kiên quyết. Thực tế hạn chế xuất khẩu tự nguyên mang tính chất miễn cưỡng và gắn với các quốc gia có khối lượng xuất khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó như xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc và hàng điện tử của Nhật Bản chẳng hạn… Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: bao gồm tất cả những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, tiêu chuẩn bảo đảm an toàn lao động, tiêu chuẩn bao bì đóng gói, tiêu chuẩn về độ an toàn chính xác của máy móc thiết bị… Những quy định này xuất phát từ đòi hỏi thực tế của đời sống xã hội và phản ánh trình độ phát triển của nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, những công cụ này thường được các quốc gia sử dụng một cách khéo léo để biến chúng thành những công cụ cạnh tranh có lợi trong hoạt động kinh doanh thương mại. 1.2. Kinh nghiệm phát triển hoạt động xuất khẩu của một số địa phương trong nước 1.2.1. Kinh nghiệm của Thủ đô Hà Nội Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, hoạt động xuất khẩu của Hà Nội đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế chung của thủ đô. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu của Hà Nội vẫn còn bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục. Ngay sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Thành phố Hà Nội đã đề ra chiến lược xây dựng thủ đô đến năm 2000 và kế hoạch 5 năm 1986 – 1990, với chủ trương đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và xuất khẩu. Trong giai đoạn này, Hà Nội đã thực hiện các chính sách và biện pháp chủ yếu như sau: - Tiến hành tổ chức lại sản xuất, lấy công nghiệp làm trọng tâm, liên kết chặt chẽ với nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. - Quy hoạch vùng chuyên canh tác các mặt hàng nông sản xuất khẩu với khối lượng lớn. Đầu tư giống mới, kỹ thuật bảo quản để chế biến nông sản. - Thành phố thực hiện các chương trình đầu tư vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến cho sản xuất hàng xuất khẩu. Yêu cầu những xí nghiệp xây dựng mới phải có kỹ thuật tiên tiến, sản phẩm sản xuất ra phải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Ưu tiên các dự án đầu tư tốn ít vốn và tạo được hàng xuất khẩu nhanh, không phân biệt hình thức sở hữu. Ưu tiên vốn cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật. Với những chính sách trên, hoạt động xuất khẩu của Hà Nội đã đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kể (năm 1990 tăng 69,8% so với năm 1986). Đã có sự đa dạng hoá thị trường và đối tác xuất khẩu, đồng thời đã thu hút được các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, sự đổi mới trong hoạt động xuất khẩu của Hà Nội trong thời gian này còn diễn ra khá chậm chạp. Sang giai đoạn từ 1991 đến nay, Hà Nội đã có những điều chỉnh trong chính sách phát triển xuất khẩu và tập trung vào một số chương trình như: - Tập trung sản xuất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu, tăng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Xây dựng chính sách ưu tiên các ngành sản xuất có khối lượng hàng hoá lớn. - Đa phương hoá thị trường xuất khẩu, chú trọng khai thác các thị trường mới. - Phát triển mạnh công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng nâng cao chất lượng các mặt hàng truyền thống đi đôi với mở rộng các mặt hàng mới. - Khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, đặc biệt là vốn FDI. Xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất với hạ tầng kỹ thuật hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư về thủ tục cấp phép, cho thuê mặt bằng, các thủ tục hành chính liên quan…. Từ chủ trương trên, hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn thành phố tăng trưởng liên tục với mức tăng bình quân 16,6%/năm. Thành phố đã hình thành được nhóm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực có khối lượng lớn và thị trường khá ổn định như may mặc, giày dép, điện tử…. một số mặt hàng mới có hàm lượng công nghệ cao được hình thành và phát triển như các sản phẩm cơ khí, phần mềm…. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, Hà Nội đã có quan hệ với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới và xây dựng được một số thị trường xuất khẩu lớn, ổn định như EU, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ…. Tham gia hoạt động xuất khẩu đã có các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tỷ trọng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đóng góp tỷ trọng lớn hơn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Thành phố. Kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội tăng trưởng khá cao, tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu của Thành phố trong xuất khẩu của cả nước lại có xu hướng giảm. Nguyên nhân là do trong số các mặt hàng xuất khẩu trên địa bàn Thành phố không có dầu thô và một số nông, lâm sản chủ lực như gạo, gỗ, cà phê…. là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và tốc độ tăng trưởng cao nhất Việt Nam. Về các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu trên địa bàn Thành phố, tỷ trọng của các doanh nghiệp địa phương ngày càng cao, các doanh nghiệp này có tốc độ tăng trưởng cao hơn trung bình của toàn Hà Nội. Điều này cho thấy, Hà Nội đã có những biện pháp hiệu quả thúc đẩy các doanh nghiệp địa phương phát triển. Hiện nay, Hà Nội đã nhất quán coi xuất khẩu là hướng ưu tiên hàng đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Tiếp tục kiên trì chủ trương coi đẩy mạnh xuất khẩu như một hướng ưu tiên quan trọng nhất để tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất, tạo nguồn vốn để nhập khẩu, tăng cường chuyển giao công nghệ, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Xây dựng Hà Nội thành đầu mối xuất nhập khẩu lớn của khu vực. 1.2.2. Kinh nghiệm của TP. Hồ Chí Minh Kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế phía nam và cả nước. Trong quá trình phát triển của Thành phố, hoạt động ngoại thương cũng trải qua các bước thăng trầm, còn nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết song phải khẳng định rằng Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu to lớn, đi đầu trong cả nước về thực hiện chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hoạt động ngoại thương do nhà nước độc quyền. Trong thời kỳ này, quan hệ đối ngoại của Thành phố chủ yếu được tiến hành với các nước XHCN trong khối SEV. Mặc dù trong thời kỳ này Thành phố đã có nhiều cố gắng để sản xuất và thu mua phục vụ xuất khẩu do tình trạng khó khăn của nền kinh tế nên kim ngạch xuất khẩu còn rất nhỏ bé. Hàng xuất khẩu trong thời kỳ này chủ yếu là một số loại hàng thủ công mỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp. Bước vào đầu những năm 80, cùng với chính sách “bung sản xuất” cả khu vực kinh tế trong nước, lĩnh vực kinh tế đối ngoại có những thay đổi và mở rộng. Số lượng các đơn vị tham gia xuất khẩu tăng lên và bắt đầu mở rộng buôn bán với các nước ngoài hệ thống XHCN. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ II (1980) đã xác định: “Phát triển mạnh xuất khẩu tương xứng với tiềm năng, vị trí và yêu cầu phát triển của Thành phố là một trong những Trung tâm giao dịch lớn của cả nước….” (15, trang 99) Từ năm 1980, thực hiện chủ trương cho phép địa phương tham gia xuất khẩu trực tiếp, Thành phố đã tiến hành thành lập một số công ty chuyên về xuất khẩu trực tiếp và ngoài nghĩa vụ nộp hàng xuất khẩu cho Trung Ương, Thành phố đã chủ động mở rộng hoạt động xuất khẩu của địa phương mình. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 24,7 triệu USD/Rup năm 1979 lên 130,8 triệu USD/Rup năm 1982 (15, trang 100) Đến năm 1986, Thành phố lại xác định xuất nhập khẩu là mũi nhọn chiến lược của kinh tế thành phố. Đầu tiên là thực hiện các chương trình sản xuất lớn (sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu). Sản xuất hàng xuất khẩu tăng rất nhanh sau năm 1986. Mặc dù vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 khi khối các nước Liên Xô (cũ) và Đông Âu sụp đổ, thị trường truyền thống này giảm đột ngột, nhưng nhờ có sự linh hoạt nhanh chuyển sang quan hệ với thị trường các nước ngoài hệ thống XHCN như Singapore, Hong Kong, Pháp, Đài Loan… nên kim ngạch xuất khẩu của Thành phố không giảm mà còn tăng. Đây là mặt năng động của Thành phố Hồ Chí Minh so với Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Kim ngạch xuất khẩu năm 1987 tăng 50% so với 1986, kim ngạch 1989 tăng 102% so với 1988 và các năm sau 1990 có tốc độ tăng rất cao. Chỉ tính riêng kim ngạch địa phương năm 1990 là 372 triệu Rup/USD, năm 1992 là 464 triệu Rup/USD (Nếu tính trên địa bàn năm 1992 xuất khẩu của thành phố đạt 1.550 triệu USD, chiếm 41,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 1993-1999 trên địa bàn là 18,4%/năm. Đây là tốc độ tăng trưởng khá cao nếu so với cả nước và so với các nước có mô hình phát triển hướng về xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 1993 là 1.655 triệu USD, tăng lên là 4.599 triệu USD năm 1999. Về cơ cấu hàng xuất khẩu: Từ năm 1991 đến nay, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có những chuyển dịch tiến bộ. Nếu trước đây, hàng xuất khẩu của thành phố chủ yếu là hàng của các tỉnh khác sản xuất như hàng nông sản thô và nông sản chế biến, thủ công mỹ nghệ thì đến nay chủ yếu là xuất khẩu hàng công nghiệp. Theo số liệu thống kê thì đến năm 1999, xuất khẩu hàng công nghiệp (không kể dầu khí) chiếm tỷ trọng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn. Còn lại là các hàng nông sản, hải sản và lâm sản. Việc thay đổi này phản ánh đúng lợi thế so sánh của thành phố Hồ Chí Minh. Nếu như thời kỳ đầu đổi mới, Thành phố là đầu mối xuất khẩu cho các tỉnh về mặt hàng nông sản, hải sản và lâm sản thì nay các tỉnh đã tự chế biến và xuất khẩu. Như vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đã tập trung đi vào phát triển các ngành công nghiệp khác dựa trên ưu thế về kỹ thuật, lao động có kỹ năng, hạ tầng kỹ thuật tốt…. Các mặt hàng công nghiệp sử dụng nhiều lao động là may mặc, giầy dép… Hiện nay các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao thường tập trung trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nằm trong các khu chế xuất. Do vậy, hiện nay thành phố Hồ Chí Minh đang cố gắng khuyến khích liên kết nhiều hơn nữa giữa các doanh nghiệp trong và ngoài khu chế xuất, khu công nghiệp để thúc đẩy sự khuyếch tán về công nghệ, quản lý… vào nền kinh tế nội địa. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là đơn vị đi đầu trong việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang lĩnh vực công nghiệp chế biến. Yếu tố chính quyết định sự thành công của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến. 1.2.3. Kinh nghiệm phát triển xuất khẩu của TP. Hải phòng Hải phòng là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam sau Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hải phòng là thành phố cảng biển. Do thành phố là trung tâm công nghiệp chế biến và công nghiệp xuất khẩu nên những năm qua từ các nguồn đầu tư, Thành phố đã hiện đại hoá kỹ thuật, công nghệ và xây dựng các khu công nghiệp tập trung, kỹ nghệ cao gắn với gia công và phát triển công nghiệp nông thôn. Khối lượng và chủng loại sản phẩm được gia công chế biến tại thành phố này rất lớn. Từ những năm 1994-1997, kim ngạch xuất khẩu của Hải phòng so với những năm trước đều tăng 25-33%/năm, bước đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng tỷ trọng sản xuất dịch vụ và đẩy mạnh xuất khẩu. Thời kỳ 1991-2000, tốc độ phát triển xuất khẩu tăng bình quân 24%/năm. Tỷ trọng các nhóm, mặt hàng chế biến sâu và cơ khí tăng dần. Chất lượng hàng xuất khẩu được nâng lên đáng kể, có sức cạnh tranh trên thế giới. Về cơ cấu hàng xuất khẩu, Hải phòng đã hình thành và phát triển một số ngành nghề mới, mặt hàng xuất khẩu chủ lực như thuỷ sản, thịt lợn, rau quả, giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ, cơ khí… Hoạt động thu gom hàng xuất khẩu từ các địa phương khác, tạm nhập – tái xuất cũng đóng góp một lượng kim ngạch đáng kể. Tuy nhiên, so với tiềm năng và lợi thế của Hải phòng thì hoạt động xuất khẩu của Thành phố này còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chưa vững chắc, tình hình các năm khá chênh lệch (có năm tăng cao nhưng có năm lại không tăng). Tốc độ phát triển xuất khẩu mấy năm gần đây thấp hơn so với cả nước. (tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 1996-2000 cả nước tăng 19%, trong khi Hải phòng tăng 13,6%, chưa đạt mức đề ra). Nguyên nhân là do: - Hải phòng không có mặt hàng chủ lực như dầu thô và vùng nguyên liệu nông sản như lúa, cà phê, cao su…. - Thời gian qua, định hướng phát triển kinh tế “thay thế nhập khẩu” lần át “hướng về xuất khẩu”. Một số vấn đề chưa được xử lý triệt để như chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, quá cảnh hàng hoá và vận chuyển hàng hoá quá cảnh, tạm nhập tái xuất theo đầu mối. - Cơ cấu nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý; tỷ lệ hàng gia công, hàng tạm nhập tái xuất và hàng thu mua ở các địa phương khác chiếm tỷ trọng lớn làm giảm hiệu quả sản xuất. - Hải phòng chưa tận dụng lợi thế so sánh của địa phương mình để xây dựng những mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Ví dụ về thuỷ sản, Hải phòng có nhiều ngư trường lớn, có nhiều loại hải sản có giá trị xuất khẩu cao, có điều kiện tự nhiên tốt để nuôi trồng nhưng trong thời gian qua, Hải phòng còn chậm có một chiến lược phát triển lĩnh vực này một cách có hệ thống khép kín từ nuôi trồng, khai thác, chế biến. Do “thiếu vốn” nên doanh nghiệp chế biến thuỷ sản của Hải phòng vẫn phải “vật lộn” để thu mua nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, vay vốn đầu tư cho dân để nuôi tôm nguyên liệu. - Thị trường xuất khẩu của Hải phòng còn hạn hẹp, cả nước có 164 thị trường thì Hải phòng mới tiếp cận được 26 thị trường. 1.2.4. Bài học kinh nghiệm về hoạt động xuất khẩu tỉnh Hà Tây từ một số địa phương trong nước. - Chỉ có hướng về xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh, mới phát huy được lợi thế so sánh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đẩy nhanh đổi mới công nghệ và chuyển dịch cơ cấu có hiệu quả. Tuy nhiên, hướng về xuất khẩu không có nghĩa là loại trừ thay thế hàng nhập khẩu. Cần kết hợp chúng một cách hợp lý nhằm đạt tới hiệu quả tối đa. - Tỉnh Hà Tây cần xây dựng được một chiến lược xuất khẩu mang tính khả thi cao, trước hết cần xác định các ngành kinh tế, các sản phẩm mũi nhọn của địa phương trên cơ sở đánh giá lợi thế về điều kiện tự nhiên, lao động, khả năng tài chính, hiệu quả kinh tế xã hội. - Có kế hoạch đồng bộ trong các khâu, công đoạn của quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu, đảm bảo hiệu quả toàn diện của hệ thống. Để phát triển xuất khẩu, đạt được những bước đột phá, không chỉ dựa vào tiềm năng sẵn có của địa phương hoặc chú trọng đến công nghệ mà phải xuất phát từ việc nghiên cứu nhu cầu thị trường để lựa chọn phương án đầu tư. - Cần xác định rõ mặt hàng xuất khẩu chủ lực của địa phương để có biện pháp đầu tư tập trung có hiệu quả, tránh giàn trải, manh mún. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, tăng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô hoặc sơ chế. - Liên kết các tỉnh để phát triển vùng nguyên liệu nông lâm thuỷ sản phục vụ công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA HÀ TÂY TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – 2007) Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây tác động đến hoạt động xuất khẩu 2.1.1. Những lợi thế của Hà Tây trong công tác xuất khẩu. Nằm trong vùng châu thổ Sông Hồng, tỉnh Hà Tây có vị trí liền kề với thành phố Hà Nội – là thủ đô và là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá – xã hội của cả nước. Hiện nay Hà Tây có 5 cửa ngõ vào thành phố Hà Nội là Quốc lộ 1, quốc lộ 6, đường 32, đường Láng-Hoà Lạc và đường Cầu Giẽ-Pháp Vân. Hà Tây còn là tỉnh nối liền các tỉnh miền Tây bắc của tổ quốc với đồng bằng Bắc bộ. Với diện tích tự nhiên 2192 km2, tỉnh Hà Tây có địa hình thổ nhưỡng đa dạng gồm đồng bằng, trung du, đồi gò, miền núi và hệ thống mặt nước sông hồ rộng lớn, là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và xây dựng các khu, cụm công nghiệp để sản xuất hàng hoá nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng. Hà Tây còn là tỉnh có hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ trong tương lai có đường hàng không thuận lợi cho giao thông Dân số Hà Tây gần 2,5 triệu người với gần 1,5 triệu lao động, trong đó có hàng chục vạn lao động có tay nghề làm hàng thủ công truyền thống… đó là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Hiện nay Hà Tây có 1160 làng có nghề (trong tổng số 1460 làng trên địa bàn) trong đó có 219 làng đã được công nhận là làng nghề (là tỉnh đứng đầu cả nước trong số các tỉnh, thành phố có số lượng làng nghề được công nhận), nhiều nghề truyền thống đã và đang được phát triển như mây tre đan, thêu, ren, gỗ mỹ nghệ, lụa tơ tằm… Trong những năm qua và trong tương lai với sự nghiệp CNH-HĐH nhiều ngành sản xuất công nghiệp đã và đang phát triển như may mặc, dệt, cơ khí, chế biến nông sản thực phẩm… Đây là nguồn lực quan trọng trong việc sản xuất hàng hoá tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Với cơ chế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, số cơ sở sản xuất và hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tây hiện có 35.200 đơn vị, trong đó có 125 doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn… Trên địa bàn tỉnh Hà Tây, dọc đường 21A và đường Láng – Hoà Lạc, Chính phủ và tỉnh Hà Tây đã qui hoạch và thực hiện nhiều công trình quan trọng như chuỗi đô thị Miếu Môn-Xuân Mai-Hoà Lạc-Sơn Tây. Làng văn hoá dân tộc Việt Nam, khu công nghệ cao Hoà Lạc, khu Đại học Quốc Gia, khu công nghiệp Phú cát… Cả vùng đồi núi rộng lớn từ Trung Hà (Ba Vì) tới Quan Sơn, Hương Sơn (Mỹ Đức) dài hàng trăm km đã được qui hoạch để xây dựng các khu du lịch. Nhiều tuyến điểm du lịch của Hà Tây nổi tiếng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như Chùa Hương, Ao Vua, Hồ Quan Sơn, Sân Golf Đồng Mô, Khoang Xanh, Suối Mơ… Với các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội như trên, Hà Tây là tỉnh có tiềm năng để phát triển thương mại, trong đó xuất khẩu lớn cả về hàng hoá và dịch vụ. Trong những năm qua, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường và kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Hà Tây không ngừng tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước. Hoạt động thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm và thu nhập cho nhân dân, đóng góp ngày một nhiều cho ngân sách Nhà nước của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng của tỉnh còn nhiều hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của tỉnh như cơ sở hạ tầng thương mại còn nghèo, kim ngạch xuất khẩu chưa cao. Sức cạnh tranh hàng hoá còn yếu, hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao còn quá ít, chưa tạo ra được các nhóm ngành hàng chủ lực có giá trị và khối lượng lớn để xuất khẩu, thị trường xuất khẩu còn nhiều khó khăn, chưa ổn định, thị trường nội bộ chưa đồng bộ và sự phát triển chưa toàn diện. Để phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển thương mại theo tinh thần Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX, việc nghiên cứu rà soát bổ sung quy hoạch phát triển tổng thể thương mại giai đoạn tiếp theo trên địa bàn tỉnh là rất cần thiết, Quy hoạch phát triển tổng thể thương mại là cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch thương mại ngắn hạn, xây dựng các chương trình phát triển cụ thể trong lĩnh vực thương mại đồng thời cũng là tài liệu khoa học nhằm phát triển thương mại theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần đắc lực phục vụ sản xuất và đời sống, đồng thời phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa phương 2.1.2. Những khó khăn của Hà Tây trong công tác xuất khẩu - Hà Tây không có cảng biển, mà chỉ có cảng sông nhỏ bé, hơn nữa, các cảng này còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức để mở rộng luồng lạch. - Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Hà Tây vẫn là hàng gia công truyền thống nên hiệu quả thấp. Công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, hải sản… chưa phát triển nên ít có sản phẩm chất lượng cao đủ sức cạnh tranh xuất khẩu - Cơ sở sản xuất kinh doanh của tỉnh Hà Tây còn nhỏ bé, chưa được sắp xếp và củng cố để tạo sức cạnh tranh và phát huy tốt tiềm năng. Vẫn còn những cơ sở sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu với trang thiết bị, công nghệ lạc hậu của thế hệ trước, ít được đổi mới hoặc nếu có đầu tư mới thì cũng còn chắp vá, chưa đồng bộ. - Chỉ đạo điều hành chưa tập trung, sự phối kết hợp của các ngành chưa cao. - Đầu tư nước ngoài vào tỉnh Hà Tây còn thấp so với một số địa phương khác trong nước. 2.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước và tỉnh Hà Tây về xuất khẩu 2.2.1. Chủ trương của Nhà nước Đại hội Đảng toàn quốc VI diễn ra vào ngày 15/12/1986 tại Hà Nội đã khẳng định vị trí và vai trò, tác dụng của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế quốc dân “ Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại”. Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề ra, kinh tế đối ngoại được coi là mũi nhọn của sự nghiệp đổi mới. Trong thời kỳ này, một loạt chính sách, chương trình để đẩy mạnh xuất khẩu được ban hành như: - Quyết định số 217 – HĐBT tháng 11/1987 về chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh đối với các xí nghiệp quốc doanh. Theo tinh thần của quyết định này, Nhà nước khuyến khích mọi xí nghiệp quốc doanh phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thêm quyền trực tiếp tham gia xuất khẩu cho nhiều xí nghiệp. Cũng thời kỳ này, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng được quan tâm hơn thời kỳ trước. - Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu được đề ra năm 1988 là một trong 3 chương trình kinh tế lớn của Việt Nam. Chương trình kinh tế này xuất phát từ nhu cầu và nguồn lực hiện có của đất nước, coi xuất khẩu là một trong những nguồn đảm bảo tăng trưởng kinh tế và tạo tiền đề cho công nghiệp hoá ở giai đoạn sau - Sự ra đời của Thuế xuất nhập khẩu do Quốc hội ban hành ngày 29/12/1987 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương của nước ta. Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành đã thay thế cho chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương tồn tại trong suốt thời kỳ quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Điều này làm cho quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp bình đẳng hơn trong hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời Luật thuế xuất nhập khẩu cũng làm nền tảng pháp lý cho sự ra đời các Nghị định. Quyết định của Chính phủ nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý xuất nhập khẩu một cách hiệu quả hơn. - Việc đổi mới cơ chế quản lý xuất khẩu như trên nhằm mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế trong sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, bước đầu mở rộng quyền kinh doanh cho các đơn vị ngoài quốc doanh và hạn chế bớt tính độc quyền của doanh nghiệp nhà nước chuyên kinh doanh xuất khẩu trước đây. Tuy nhiên, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu vẫn chưa thoát khỏi nguyên tắc “Nhà nước độc quyền ngoại thương, trung ương thống nhất quản lý ngoại thương”. - Vào cuối thập kỷ 80, Nhà nước đã tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong đó có cơ chế quản lý xuất khẩu theo cơ chế thị trường. Nghị định 64/HĐBT ngày 16/6/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về chế độ tổ chức, quản lý kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu đã thể chế hoá chủ trương đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương thời kỳ này. Theo tinh thần của Nghị định này, hoạt động xuất khẩu được tiến hành theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh XHCN, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của tất cả các tổ chức kinh doanh tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, tự chủ về tài chính, tự hoà._.nhân cấy nghề mới… . Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật, kinh nghiệm… nhất là đối với các chủ doanh nghiệp, chủ hộ sản xuất kinh doanh. 3.5.2. Chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là yêu cầu quan trọng đối với địa phương và đối với doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, ngoài những nỗ lực của bản thân doanh nghiệp rất cần có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và địa phương. Đối với các doanh nghiệp, cần thực hiện các biện pháp sau: - Phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh. Dựa trên tình hình cụ thể của doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức để xác định lựa chọn chiến lược phù hợp với doanh nghiệp mình. - Cần nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, huy động sức mạnh của mọi nguồn lực cho đầu tư mới và đầu tư mở rộng các hoạt động sản xuất. Trong đầu tư cần chú ý phát huy hiệu quả các nguồn tiềm lực vật chất và phi vật chất của doanh nghiệp. Tiềm lực vật chất của doanh nghiệp bao gồm các nguồn lực về nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất và công nghệ. Tiềm lực phi vật chất như nhãn hiệu hàng hoá, uy tín doanh nghiệp, bản quyền, bí quyết công nghệ hay kỹ năng điều hành sản xuất. Khai thác tối đa các nguồn tiềm lực của mình sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. - Phát triển thị trường xuất khẩu trên cơ sở kết hợp với thị trường trong nước. Doanh nghiệp cần mở văn phòng đại diện tại các thị trường xuất khẩu tiềm năng, đào tạo đội ngũ nhân viên giỏi về nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, vi tính, có khả năng giao dịch tốt, am hiểu về văn hoá của thị trường mình sắp tiếp cận…. - Hình thành và xây dựng văn hoá công ty, văn hoá doanh nghiệp. Văn hoá công ty là tài sản vô hình nhưng rất quan trọng, văn hoá công ty biểu hiện mối quan hệ giữa các thành viên của công ty, là phong cách lãnh đạo và phong cách ứng xử. Nhiều công ty đã trở nên nổi tiếng do xây dựng cho mình một văn hoá công ty phù hợp. - Cần tăng cường hợp tác, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp khác. Hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi sẽ giúp các doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh cho bản thân, đồng thời giảm bớt những cạnh tranh trong phạm vi giữa các doanh nghiệp. Việc tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp là rất cần thiết đặc biệt trong điều kiện các doanh nghiệp của Việt nam còn yếu về quy mô và năng lực. - Cần chú trọng đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ tiên tiến, đi tắt đón đầu trong sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật trong quản lý và sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng chất lượng sản phẩm. Đổi mới phương pháp quản lý sản xuất và quản trị kinh doanh nhằm hợp lý hoá một cách tốt nhất các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Cần nâng cao tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. 3.5.3. Chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Thực hiện các hình thức đào tạo đa dạng, linh hoạt, chú trọng chất lượng đào tạo, phát triển hình thức đào tạo từ xa, đào tạo ngắn hạn không tập trung để thoả mãn nhu cầu đa dạng của các ngành, các đơn vị kinh tế cơ sở. Phối hợp với các tổ chức xã hội, các trường đại học và viện chuyên ngành để mở các lớp học dài hạn, ngắn hạn cho đội ngũ lãnh đạo và quản lý của từng ngành hàng riêng. Mở rộng hợp tác quốc tế để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực thông qua các nguồn tài trợ, các dự án của các tổ chức quốc tế và các công ty nước ngoài, mời chuyên gia đào tạo để tăng cường kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ. Có cơ chế chính sách đưa cán bộ đi học và đào tạo ở nước ngoài, tiếp thu những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật và quản lý. Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo lao động các ngành nghề công nghệ cao, ngành dịch vụ chất lượng và trình độ cao để thúc đẩy phát triển vào nền kinh tế tri thức. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, kỹ sư lành nghề đủ khả năng tiếp thu các tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đào tạo đội ngũ thợ, công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu với yêu cầu ngày càng cao. Tăng cường xã hội hoá, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, đào tạo và dạy nghề. Đổi mới nội dung và công nghệ giáo dục, đào tạo phù hợp với xu thế của thế giới. Thúc đẩy hợp tác hiệu quả với các hang, các tập đoàn sản xuất kinh doanh lớn có khoa học-công nghệ hiện đại và với các tổ chức phát triển khoa học-công nghệ trên thế giới. Chú trọng đào tạo và dạy nghề đáp ứng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, đào tạo lao động cho chuyển dịch cơ cấu khu vực nông thôn đủ điều kiện phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Trong đào tạo cần chú ý khắc phục những hạn chế phổ biến tồn tại của nhân lực Việt Nam và Hà Tây đó là trình độ về ngoại ngữ, tác phong làm việc, thái độ nghiêm túc trong công việc…. đồng thời chú trọng giáo dục thể chất cho cán bộ và lao động. Trong đào tạo cần kết hợp lý thuyết và thực hành, định hướng nghề nghiệp cho lao động sớm, từ bậc phổ thông, việc định hướng phát triển nghề nghiệp cần chú ý phát huy sở trường của các cá nhân. Bên cạnh vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, việc ưu đãi nhân tài, thu hút và sử dụng nhân tài là vấn đề hết sức quan trọng, để đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển xuất khẩu của địa phương. Tỉnh cần có chính sách ưu đãi đối với nhân tài ở nơi khác đến, khuyến khích người địa phương về phục vụ quê hương sau khi đi đào tạo ở nước ngoài về hoặc đào tạo chuyên sâu ở nơi khác. Nhân tài cần được sử dụng đúng chỗ, phát huy sở trường, tạo môi trường làm việc năng động, sáng tạo với nhiều cơ hội phát triển, tránh việc lãng phí nguồn nhân lực giá trị. 3.5.4. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong xuất khẩu của tỉnh, đã tạo ra sản lượng lớn với giá trị sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật tăng cao để thay thế hàng nhập khẩu và tham gia xuất khẩu. Các sản phẩm của khu vực này đều có ưu thế về kỹ thuật, chất lượng và thị trường tiêu thụ. Trong thời kỳ 10 năm tới, khu vực doanh nghiệp này có triển vọng tiếp tục đóng góp phần lớn giá trị kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh và đi đầu trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ phần mềm và công nghệ sinh học bằng những ưu thế nổi trội của mình so với các doanh nghiệp sản xuất hiện tại trong nước. Để thu hút vốn đầu tư FDI và sử dụng vốn có hiệu quả, tỉnh cần: - Xây dụng chiến lược và quy hoạch thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích thu hút ĐTNN. Để xây dựng được quy hoạch thu hút ĐTNN phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh, đảm bảo sự thống nhất giữa quy hoạch và kế hoạch, thống nhất giữa quy hoạch của các cán bộ ngành và của địa phương. - Cải thiện môi trường đầu tư: Việc cải thiện môi trường đầu tư cần được thực hiện đồng bộ trên cả 5 mặt là pháp luật, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh, hệ thống trọng tài và toà án. + Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN cần xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và ổn định. Sửa đổi các khoản thu như thuế, phí, lệ phí liên quan đến lĩnh vực này, tránh phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới, lĩnh vực cho phép nhà ĐTNN được mua cổ phiếu, tham gia thị trường chứng khoán. + Đổi mới và hoàn thiện chính sách về ĐTNN: Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư, điều chỉnh giá, phí các loại hàng hoá. dịch vụ để áp dụn một mặt bằng giá đối với doanh nghiệp ĐTNN và các doanh nghiệp trong nước. Đối với đất đai, tỉnh nghiên cứu, xem xét việc miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm tuỳ theo địa bàn và lĩnh vực khuyến khích ĐTNN. Cải thiện công cụ thuế, tín dụng, cơ chế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan. Xử lý linh hoạt hơn về chuyển đổi các hình thức đầu tư. - Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư: xây dựng các trung tâm xúc tiến đầu tư tại các cơ quan của tỉnh. Tăng cường các hình thức hợp tác, liên kết các vùng, các địa phương trong và ngoài nước. Tăng cường tổ chức các hoạt động hội chợ, triển lãm. Xây dựng các kênh thông tin trực tuyến nhằm giải đáp nhanh nhất các thắc mắc của nhà đầu tư. - Đổi mới, hoàn thiện quản lý nhà nước, cải thiện thủ tục hành chính đối với ĐTNN: Tập trung điều hành, tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp ĐTNN hoạt động hiệu quả nhất. Thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về ĐTNN. Từng bước mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư, thực hiện thí điểm cơ chế đăng ký đầu tư. Xây dựng các đề án tổ chức đào tạo cán bộ kinh doanh, quản lý, công nhân lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu về nhân lực cho các doanh nghiệp ĐTNN. 3.5.5. Phát triển thị trường xuất khẩu Để chủ động duy trì và mở rộng thị trường, bảo đảm đầu ra cho sản phẩm hàng hoá địa phương sản xuất là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết. Vì vậy, các giải pháp về thị trường cần thực hiện theo các hướng sau: - Về phía Nhà nước: + Trước hết, công tác thị trường phải được coi là một trong những nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan Nhà nước có liên quan. + Tổ chức tốt thị trường nội địa, tạo lập các kênh lưu thông hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống. Phát triển hệ thống hợp đồng hai chiều giữa doanh nghiệp với hợp tác xã hoặc hộ nông dân, hộ ngành nghề nhằm tiêu thụ nông sản và sản phẩm ngành nghề nông thôn, kết hợp với cung ứng các yếu tố đầu vào thiết yếu cho sản xuất và xuất khẩu. + Tăng cường công tác thông tin về thị trường, dự báo các chiều hướng cung cầu hàng hoá, dịch vụ … để định hướng cho các doanh nghiệp + Từng bước nghiên cứu thực hiện các chương trình xuất khẩu trọng điểm để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá của các làng nghề, hàng nông sản - thực phẩm của nông dân, nông nghiệp và nông thôn. + Có chế độ chính sách khuyến khích thoả đáng các hoạt động môi giới trợ giúp tiếp cận thâm nhập thị trường mới (ví dụ như cho phép tính vào chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp trên cơ sở định mức hoặc hiệu quả sản xuất- kinh doanh) + Thực hiện các chương trình tạo việc làm tăng thu nhập để tăng sứa mua. - Về phía doanh nghiệp và nhà sản xuất + Trước hết cần chủ động trong việc tìm kiếm và khai thác thị trường + Thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, đa phương hoá thị trường, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài tỉnh. + Đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị để kịp thời nắm bắt các diễn biến của thị trường, bán sát các thay đổi trong sản xuất và kinh doanh. Chủ động lo tìm bạn hàng và thị trường, chủ động lo tổ chức sản xuất kinh doanh theo năng lực của mình và nhu cầu thị trường. + Chú trọng giữ “chữ tín” trên thương trường và với bạn hàng, chủ động phối hợp giữa các doanh nghiệp với nhau trong việc tìm kiếm thị trường cũng như tìm kiếm bạn hàng. + Cố gắng có các văn phòng đại diện, chi nhánh chính thức hoặc theo cơ chế “mềm” ở nước ngoài, ở ngoài tỉnh để bám sát tình hình diễn biến của thị trường cũng như hoạt động xúc tiến thương mại. + Đẩy mạnh xúc tiến thương mại Hoạt động xúc tiến thương mại đã và đang trở thành yếu tố quan trọng để tăng trưởng tổng mức lưu chuyển hàng hoá cũng như kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại (tham gia hội chợ, triển lãm, cử đoàn đi nước ngoài tìm kiếm thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin…). Để tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại nói chung, xúc tiến xuất khẩu nói riêng cần tập trung vào những việc chủ yếu là: - Định kỳ hàng năm tổ chức triển lãm, hội chợ tại địa phương về các sản phẩm do địa phương sản xuất - Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia hội chợ triển lãm ở trong nước và nước ngoài. - Xây dựng nhà trưng bày, quảng bá cho sản phẩm hàng hoá do địa phương sản xuất tại trung tâm tỉnh để khách hàng trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu và giao dịch. - Đẩy mạnh các hoạt động khuyến mãi, quảng cáo, giới thiệu các sản phẩm hàng hoá. Xây dựng thương hiệu hàng hoá và các tiêu chuẩn chất lượng. - Từng bước đẩy mạnh công tác thông tin, tư vấn về thị trường, giá cả tình hình cung cầu hàng hoá dịch vụ. - Tham vấn xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, tư vấn chính sách pháp luật đối với doanh nghiệp. - Chủ động quan hệ với tham tán thương mại, cũng như đại diện của các hãng, các công ty nước ngoài tại Việt nam để tìm hiểu thị trường và thiết lập quan hệ buôn bán. - Nghiên cứu, thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại từ nguồn ngân sách Nhà nước và đóng góp của các doanh nghiệp để phục vụ chung cho hoạt động xúc tiến thương mại. 3.5.6. Phát triển các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu, thành lập các hiệp hội ngành nghề, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường mặt hàng xuất khẩu. - Về phát triển các chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cần khuyến khích các loại hình hợp tác xã, công ty cổ phần, các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động xuất khẩu. Việc tổ chức kinh doanh hiện nay của các loại hình doanh nghiệp đang phổ biến là đan xen vừa sản xuất vừa kinh doanh thương mại, có thể theo các hướng: + Kinh doanh thương mại dịch vụ thuần tuý (tổng hợp hay chuyên doanh) + Vừa sản xuất vừa kinh doanh thương mại dịch vụ (sản xuất là chính, thương mại dịch vụ là phụ và ngược lại). Tỉnh cần có chính sách, cơ chế để khuyến khích thương nhân đầu tư vào các hoạt động thương mại dịch vụ nói chung và xuất khẩu nói riêng như: + Thương mại dịch vụ cung ứng vật tư, hang hoá phục vụ sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp (thương mại dịch vụ đầu vào) + Thương mại dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của nông dân, nông nghiệp, nông thôn (thương mại dịch vụ đầu ra) + Thương mại dịch vụ về xuất khẩu hang hoá do địa phương sản xuất (thương mại dịch vụ đầu ra) Đồng thời tạo điều kiện để các thương nhân kinh doanh hàng tiêu dùng phục vụ đời sống, các tầng lớp dân cư, nhất là ở nông thôn, miền núi. Trong quá trình hoạt động, cần tạo sự gắn kết giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa sản xuất với chế biến hàng nông sản, giữa các thành phần kinh tế. - Về thành lập các hiệp hội ngành nghề Cho đến nay cả nước ta có khoảng 30 Hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng. Với điều kiện của tỉnh Hà Tây, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động sản xuất kinh doanh cùng ngành nhóm hàng. Vì vậy, cần thiết thành lập các Hiệp hội ngành hàng ở địa phương, từ đó tham gia là thành viên của Hiệp hội cấp Quốc Gia. Các doanh nghiệp ngành hàng Hà Tây có thể thành lập Hiệp hội là: + Hiệp hội Mây tre đan Hà Tây (hiện nay có khoảng 25 doanh nghiệp hoạt động). + Hiệp hội thảm, Thêu ren Hà Tây (hiện có khoảng 12 doanh nghiệp đang hoạt động) + Hiệp hội dệt may Hà Tây (có khoảng 30 doanh nghiệp đang hoạt động). + Hiệp hội gỗ mỹ nghệ Hà Tây (có khoảng 23 doanh nghiệp hoạt động và trong tương lại số doanh nghiệp còn phát triển nhiều hơn nữa) Các Hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là: + Tập hợp các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong ngành hàng nhằm liên kết, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển sản xuất kinh doanh. + Thực hiện chức năng cầu nối giữa các hội viên và cơ quan quản lý Nhà nước, phổ biến cơ chế chính sách của Nhà nước tới các hội viên và phản ánh các kiến nghị của hội viên, tham gia đề xuất xây dựng chiến lược, cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động của ngành hàng. + Thực hiện nhiệm vụ thông tin, xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ các hội viên trong việc mở rộng thị trường - Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng hoá và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá Đặc điểm chung của các doanh nghiệp thuộc tỉnh Hà Tây là hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó có nhiều hạn chế trong hoạt động, từ đó cần được hỗ trợ của Nhà nước nói chung và của cơ quan tổ chức nói riêng đối với các doanh nghiệp Trong điều kiện hiện nay việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần tập trung vào các lĩnh vực: + Hỗ trợ về vốn: Các tổ chức tín dụng Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi, nhất là vay trung hạn và vay dài hạn. Các quỹ hỗ trợ phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh phục vụ cho lưu thông hàng hoá nói chung và xuất khẩu nói riêng. + Hỗ trợ nhân lực – khoa học – công nghệ: Trên cơ sở tạo nguồn nhân lực, thực hiện đào tạo, đào tạo lại nhân lực cho các doanh nghiệp với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Tiến hành cung cấp thông tin về các giải pháp công nghệ các thành tựu khoa học để các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời, từ đó có điều kiện áp dụng vào đơn vị. + Hỗ trợ xúc tiến thương mại: Nhà nước cần dành một khoản ngân sách hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến thương mại như tham gia hội chợ, mở văn phòng, chi nhánh hoặc đại diện ở nước ngoài, quảng cáo giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty…. Cung cấp thông tin về thị trường cho doanh nghiệp. Tạo điều kiện về pháp lý cho các doanh nghiệp đẩy mạnh liên doanh, liên kết, thu hút đầu tư… - Về tăng cường mặt hàng xuất khẩu Với nền kinh tế đang phát triển và đòi hỏi của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nên địa phương cần có chính sách mặt hàng phù hợp nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu cũng như cơ cấu mặt hàng để phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo đó, cần chú trọng các hướng: + Khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm làng nghề + Không ngừng gia tăng tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu qua chế biến, tiếp tục phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. + Đối với các mặt hàng gia công thu hút nhiều lao động như may mặc, giầy dép… cần mở rộng thị trường, gia tăng số lượng, chủng loại, mặt khác cần giảm dần tỷ lệ gia công, tăng tỷ lệ nội địa hoá để thực hiện dần xuất khẩu trực tiếp. 3.5.7. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đẩy mạnh xuất khẩu - Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu. Thường xuyên nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là lĩnh vực thuế, hải quan. Qui định trách nhiệm cá nhân rõ rang, cụ thể, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. - Trong quá trình soạn thảo và xây dựng các văn bản pháp luật, cần tăng cường tham khảo ý kiến của doanh nghiệp. Xây dựng mặt bằng pháp lý chung cho các doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh, các luật về hợp đồng, về tín dụng, về giải quyết tranh chấp và nhất là về thuế, tiến tới thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để tuân thủ các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) trong những Hiệp định thương mại đã ký với nước ngoài, cần chủ động từng bước giảm bớt các phân biệt đối xử này. - Điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách nhằm tạo lập được “sân chơi” bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc hỗ trợ vốn ngân sách, trong việc giải quyết vốn tín dụng (hình thức tín chấp), trong việc giải quyết đất đai, hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học, cung cấp thông tin… Việc tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải được thể hiện trên cả văn bản pháp lý và trong tổ chức thực hiện, có như vậy mới có cơ sở đánh giá một cách đúng đắn hiệu quả sản xuất của từng doanh nghiệp và có căn cứ để hoạch định chính sách đầu tư. Tập trung đầu tư vào một số ngành trọng điểm thông qua các dự án có hiệu quả, tạo nhiều việc làm cho người lao động, không nên đầu tư tràn lan, phân tán. - Cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, nghiên cứu, sửa đổi qui định về thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu vốn sản xuất, kinh doanh phục vụ xuất khẩu. - Tiếp tục cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Xây dựng biểu thuế chi tiết, cụ thể, mã hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sớm áp dụng giá theo hợp đồng trong tính thuế hải quan. - Lưu ý mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khuyến khích các Hiệp hội tự thành lập Quĩ phòng ngừa rủi ro và tham gia các hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hanh động, ổn định giá cả… - Hoàn thiện Quĩ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu để trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng thông qua việc cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiền vay và cấp tín dụng xuất khẩu cho người nước ngoài, tiến tới thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thành lập Quĩ hay công ty bảo hiểm xuất nhập khẩu để bảo hiểm rủi ro thanh toán khi tiếp cận các thị trường mới. Khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự hình thành các quĩ bảo hiểm để phòng rủi ro, kể cả trong trường hợp giá thị trường thế giới biến động. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tây. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vừa là mục tiêu quan trọng, vừa là động lực thúc đẩy hoạt động kinh tế của tỉnh. Quy hoạch phát triển kinh tế thương mại của tỉnh Hà Tây đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được xây dựng theo tinh thần Nghị Quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX và Quy hoach tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây đến 2020 là yêu cầu bức thiết góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa phương. Với mục đích nghiên cứu một cách hệ thống quá trình phát triển hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời kỳ đổi mới kinh tế (1986-2007), luận văn đã hoàn thành các công việc chủ yếu sau: Luận văn đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế. Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia: xuất khẩu thúc đẩy phân công lao động và hợp tác hai bên cùng có lợi, tạo điều kiện mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dung của mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm; xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Để làm rõ những vấn đề thực tiễn, luận văn đưa ra một số mô hình phát triển xuất khẩu của một số tỉnh, thành phố trong nước và nước ngoài. Từ chiến lược phát triển xuất khẩu của các thành phố này để rút ra những bài học kinh nghiệm để có những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của tỉnh Hà Tây Luận văn đã đi sâu vào phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời kỳ đổi mới Giai đoạn 1986 – 1995: hoạt động xuất khẩu của tỉnh trong thời kỳ đầu đổi mới. Kim ngạch xuất khẩu còn hạn chế, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 50,3%/năm với mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống. Hoạt động xuất khẩu của tỉnh Hà tây vẫn ở tình trạng nhỏ bé, vị thế chung trong cả nước còn ở mức khiêm tốn, chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Giai đoạn 1996 – 2007: Thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại, cơ chế chính sách ngoại thương tiếp tục có sự thay đổi tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. Do vậy, qui mô, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có những thay đổi tích cực. Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu, luận văn đã rút ra những bài học kinh nghiệm như: phải chú trọng khai thác lợi thế so sánh giữa Hà Tây và các tỉnh để lựa chọn phát triển ngành nghề và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu; đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu đồng thời chú trọng xây dựng các mặt hàng chủ lực; đa dạng hoá thị trường xuất khẩu song chú ý xây dựng thị trường trọng điểm; giải quyết tốt mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu; tăng cường vai trò điều hành, quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu…. 3. Để xây dựng chiến lược xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời gian tới, luận văn đưa ra mục tiêu phát triển xuất khẩu như sau: Phát triển thị trường nước ngoài nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn. Phấn đấu giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân từ 13,5-17,5%/năm. Chú trọng phát triển các mặt hàng do địa phương sản xuất, nhất là các sản phẩm làng nghề truyền thống như mây tre, giang đan, gỗ mỹ nghệ, lụa, thảm, thêu, ren… Đồng thời, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như hàng dệt may, giầy dép, đá ốp lát…. cũng như các mặt hàng nông sản thực phẩm; Trên cơ sở xác định các mục tiêu phát triển xuất khẩu của tỉnh Hà Tây trong thời kỳ 2006-2020, luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu của tỉnh như sau: Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng; tăng cường đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá, tạo nguồn hàng xuất khẩu; phát triển thị trường xuất khẩu; Phát triển thương nhân, thành lập các hiệp hội ngành nghề, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường mặt hàng xuất khẩu; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đẩy mạnh xuất khẩu. Để tăng tính khả thi cho các giải pháp trên, luận văn xin nêu lên một số kiến nghị sau: - Kiến nghị với Trung Ương: + Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu, nhất là cần nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thuế và hải quan. + Cần bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, trong việc hỗ trợ vốn ngân sách, vốn tín dụng, trong việc giải quyết đất đai, hỗ trợ nghiên cứu khoa học, cung cấp thông tin… + Cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn, sửa đổi các quy định về thế chấp tài sản khi vay vốn cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu vốn sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. + Tiếp tục cải cách chính sách thuế theo hướng khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu: xây dựng biểu thuế chi tiết, cụ thể, mã hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. + Mở rộng việc hình thành và củng cố vai trò của các hiệp hội ngành hàng kinh doanh xuất nhập khẩu để tăng cường tính tổ chức và tính tập thể trong môi trường cạnh tranh. Khuyến khích các Hiệp hội tự thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro và tham gia các Hiệp hội ngành hàng quốc tế để phối hợp hành động, ổn định giá cả. + Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam làm cầu nối tới các cơ quan tổ chức quốc tế hỗ trợ và cung cấp thông tin giúp doanh nghiệp có khả năng tiếp cận thị trường quốc tế; tìm kiếm thị trường mới; đưa ra công nghệ sản xuất mới; liên doanh, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho tỉnh. - Kiến nghị với lãnh đạo tỉnh Hà Tây: + Tỉnh cần có một số chính sách, cơ chế để đẩy mạnh xuất khẩu như hỗ trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ thuế, mặt bằng, đào tạo, các hoạt động xúc tiến thương mại… + Tỉnh cần rà soát lại quy hoạch và chiến lược phát triển các hàng hoá xuất khẩu chủ lực của tỉnh Hà Tây, đánh giá lại năng lực của các doanh nghiệp, của từng ngành hàng… để xây dựng đề án ngành nghề cụ thể, có phương án đầu tư hỗ trợ cho các mặt hàng có thị trường tiêu thụ và khả năng xuất khẩu lớn. + Tỉnh nên tổ chức các cuộc toạ đàm, đối thoại định kỳ với các doanh nghiệp để nắm được những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh để có sự tháo gỡ kịp thời. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Thương mại (2000), Báo cáo các năm 1995-2000 Chính phủ (1994), Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu Chính phủ (1998), Nghị định 57/CP ngày 31/7/1998 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Cục Thống kê Hà Tây (2000), Niên gián thống kê từ 1995-1999 Cục Thống kê Hà Tây (2001), Báo cáo phân tích điều tra khảo sát xác định các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực sản xuất các mặt hàng có thế mạnh và xuất khẩu hàng hoá tỉnh Hà Tây những năm tới (năm 2001) Đại học kinh tế quốc dân – Giáo trình kinh doanh quốc tế - XB 1998 Đại học ngoại thương – Giáo trình kinh tế ngoại thương – XB 1998 Đảng Cộng sản Việt Nam - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật 1987 Hội đồng Bộ trưởng (1987), Quyết định số 217/HĐBT tháng 11/1987 về chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh đối với các xí nghiệp quốc doanh. Quốc hôi, Luật thương mại (năm 1999) Quốc hội, Luật thuế xuất nhập khẩu Sở Thương mại Hà Tây (2004), Báo cáo rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển tổng thế thương mại tỉnh Hà Tây đến 2010 Sở Thương mại Hà Tây (2007), Báo cáo tình hình hoạt động xuất nhập khẩu các năm 2000 - 2007 Sở Thương mại Hà Tây (2005), Báo cáo 60 năm thành lập ngành thương mại Việt Nam và 55 năm thành lập ngành thương mại Hà Tây Sở Thương mại Hà Tây ( 2003), Hội nghị triển khai chiến lược xuất nhập khẩu tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2010 Sở Thương mại Hải phòng (2001), Chương trình phát triển xuất khẩu của thành phố Hải phòng đến năm 2010 Sở Thương mại Hà Nội (2005), Báo cáo năm 1996-2005 Tỉnh Uỷ Hà Tây (2000), Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá VIII trình Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây khoá IX (2000-2005) Tỉnh Uỷ Hà Tây, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây(2005), Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2020 Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây (2007), Quyết định phê duyệt đề án “ Chiến lược Hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Hà Tây giai đoạn 2007-2010 tầm nhìn đến năm 2015 Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2000), Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 25 năm xây dựng và phát triển (1975-2000) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-46.doc
Tài liệu liên quan