Hoạt động tư vấn Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng & Giải pháp

Lời mở đầu Đứng trước những yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước ta là một giải pháp quan trọng nhằm cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, quá trình cổ phần hóa cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, thông qua việc tạo ra môi trường,

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động tư vấn Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tâm lý, tập quán và hình ảnh cụ thể về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quan trọng nhất, cổ phần hóa chính là nguồn cung hàng chủ yếu cho thị trường chứng khoán nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy, sau gần 15 năm thực hiện, kể từ khi tiến hành thử nghiệm từ năm 1992 và bắt đầu triển khai năm 1995 cho đến nay, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn diễn ra với tiến độ rất chậm chạp, nặng về số lượng hơn chất lượng. Những thay đổi tích cực về mặt cơ chế, chính sách cổ phần hóa trong thời gian gần đây ( 2000 - 2005 ) vẫn chưa thực sự giải quyết triệt để được những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong tiến trình cổ phần hóa, trong đó phải kể tới những vấn đề các doanh nghiệp nhà nước gặp phải khi thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp mình. Nhận biết được thực trạng này, bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành..., để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa, các công ty chứng khoán cũng đã triển khai rất mạnh nghiệp vụ tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua. Đối với công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu, sau hơn 5 năm hoạt động, công ty đã tranh thủ mọi cơ hội và bằng nỗ lực vươn lên đã đạt được những thành quả không nhỏ. Tạo nên sự thành công đó phải kể đến đóng góp của sự phát triển rất khả quan của hoạt động tư vấn cổ phần hóa. Đây cũng là một trong những nghiệp vụ trọng tâm, chủ đạo của công ty trong thời gian sắp tới. Tuy nhiên, hiện nay, quá trình cổ phần hóa đang đi vào giai đoạn thay đổi về chất, chủ trương của Nhà nước là đẩy nhanh cổ phần hóa, đặc biệt đối với các doanh nghiệp lớn trực thuộc các Tổng công ty, gắn quá trình cổ phần hóa với việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.v.v.. Đây chính là thách thức mới đối với công ty chứng khoán, đòi hỏi công ty phải không ngừng đi sâu tìm hiểu và phát triển tốt hơn nữa nghiệp vụ tư vấn cổ phần hóa để đáp ứng kịp thời nhu cầu của tiến trình cổ phần hóa của nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề phát triển nghiệp vụ tư vấn cổ phần hóa, sau thời gian nghiên cứu lý luận, tìm hiểu thực tế tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu, cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo - TS. Lê Hoàng Nga và các nhân viên phòng Tư vấn - Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hoạt động tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng và giải pháp”. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề cơ bản về hoạt động tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về cổ phần hóa và chứng khoán và thực trạng hoạt động tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, so sánh... Nội dung luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương I: Lý thuyết chung về hoạt động tư vấn cổ phần hóa của công ty chứng khoán Chương II: Thực trạng hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB Chương 1: Lý thuyết chung về hoạt động tư vấn cổ phần hóa của công ty chứng khoán 1.1. Sự cần thiết của hoạt động tư vấn cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa: 1.1.1. Những vấn đề chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: 1.1.1.1. Những khái niệm liên quan đến cổ phần hóa: * Doanh nghiệp nhà nước: Theo điều 1- Luật Doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20/4/1995, khái niệm DNNN được hiểu như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do nhà nước quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. * Công ty cổ phần: Điều 1 - Luật Doanh nghiệp ban hành ngày 12/6/1999 quy định: Công ty cổ phần (CtyCP) là doanh nghiệp, trong đó: + Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. + Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. + Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. + Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. + CtyCP có quyển phát hành chứng khoán ra công chúng theo qui định của pháp luật về chứng khoán. + CtyCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy phép chứng nhận đăng ký kinh doanh. * Khái niệm Cổ phần hóa: Cổ phần hóa (CPH) được hiểu là hình thức chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần ( Điều 1 Nghị định 187/2004/NĐ-CP) * Mục tiêu, yêu cầu của Cổ phần hóa: Cũng theo Điều 1 Nghị định 187/2004/NĐ-CP, việc chuyển công ty nhà nước thành CtyCP nhằm những mục tiêu sau: Một là chuyển đổi những công ty nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hai là đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. Ba là thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. - Các hình thức cổ phần hóa: Theo Điều 3 Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định có các hình thức CPH công ty nhà nước như sau: + Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tùy thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của CtyCP. Cơ cấu vốn điều lệ của CtyCP được phản ánh trong phương án CPH. + Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. + Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. 1.1.1.2. Sự cần thiết của việc thực hiện quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước: * Thực trạng hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước: Nhìn chung, trong những năm đầu của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, DNNN đã phát huy mạnh mẽ vai trò chủ đạo trên nhiều mặt như: tạo sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế theo định hướng XHCN; là nơi để Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội và ổn định chính trị - xã hội, định hướng và thực hiện mục tiêu công bằng, văn minh, góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội về việc làm, thực hiện chế độ bảo hiểm cho người lao động, xóa đói, giảm nghèo; là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc định hướng và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên, kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần và các thành phần kinh tế như: kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp, kinh tế đầu tư nước ngoài... ngày càng phát triển nhanh, mạnh theo cơ chế thị trường, chịu sự điều tiết của các quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh thì DNNN dần dần bộc lộ những hạn chế ngày càng rõ rệt. + DNNN được thành lập một cách ồ ạt, tràn lan, nhiều về số lượng nhưng lại nhỏ về quy mô, dàn trải theo ngành nghề và phân bố không đồng đều giữa các địa phương ( hơn 12.300 DNNN năm 1989 chủ yếu là ngành nông nghiệp chiếm 27%, thương mại 43%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30%, trong khi các nước phát triển là 70%-80%), kéo theo tình trạng sử dụng lãng phí nguồn lực nhà nước, có doanh nghiệp thành lập nhưng không thực sự đi vào hoạt động. Cơ chế bao cấp quá lâu cũng làm cho hiệu quả sử dụng tài sản trong DNNN còn thấp, thiếu vốn và chiếm dụng vốn lẫn nhau trở thành 1 căn bệnh kinh niên của DNNN. Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới, khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế và khả năng cạnh tranh yếu kém, với trình độ công nghệ lạc hậu từ 3-5 thế hệ, mặt hàng đơn điệu, chất lượng chưa cao, tốc độ tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận thấp, vốn kinh doanh còn thiếu và hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp.Trên thực tế, mỗi đồng vốn chỉ tạo được 2,3 đồng doanh thu và 0,1 đồng lợi nhuận. Nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, làm mất vốn nhà nước và không có khả năng thanh toán công nợ. Theo thống kê của Bộ Tài chính, năm 1997, có đến 1.923 DNNN thua lỗ, chiếm 35% tổng số DNNN. Thực tế con số trên còn nhiều hơn, vì có nhiều trường hợp doanh nghiệp lãi giả lỗ thật. + Quy mô doanh nghiệp nhỏ, không đồng đều, vốn bình quân của 1 DNNN khoảng hơn 17 tỷ đồng, nhưng có đến 5.000 doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 1tỷ đồng, chiếm gần 68%.Năm 1996, còn 33% DNNN có vốn nhỏ hơn 1tỷ đồng, trong đó 50% doanh nghiệp vốn thấp hơn 500 triệu. + Trình độ kĩ thuật và công nghệ lạc hậu, chỉ 4% đạt trình độ tự động hóa, 41% cơ khí hóa và 55% ở trình độ thủ công. + Trình độ tay nghề người lao động còn thấp, trong số lao động dôi dư do thay đổi công nghệ có 25% vì tay nghề yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất cơ khí hóa - tự động hóa. + Quan niệm không rõ ràng về chế độ sở hữu trong doanh nghiệp, tức là chưa xác định rõ người đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước,vai trò, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu và người trực tiếp quản lý vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước tham gia, dẫn đến tình trạng bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo, xơ cứng, không thích nghi kịp với biến động của thị trường, gây nhiều tổn thất cho doanh nghiệp.Tình trạng làm chủ chung chung tồn tại 1 cách phổ biến ở hầu hết các DNNN. Công tác thông tin từ doanh nghiệp đến chính phủ với chất lượng kém, chậm chạp làm tăng tính chủ quan của nhà nước trong việc can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sự kết hợp giữa quản lý yếu kém với công nghệ lạc hậu đã dẫn tới năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của DNNN còn thấp. Các doanh nghiệp chưa có biện pháp kích thích người lao động và cán bộ quản lý do tính bình quân chủ nghĩa. Một số bộ phận quản lý không thạo kinh doanh, không đủ kiến thức và kinh nghiệm cần thiết về quản lý trong nền kinh tế thị trường, thiếu năng động và không dám mạo hiểm trong kinh doanh để giành thắng lợi. Tính đến tháng 12/2000, nước ta có khoảng 5740 DNNN. Tuy nhiên, số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả chiếm tỷ lệ không cao, thực tế chưa thể hiện rõ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Bảng 1.1: Số liệu phản ánh hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước Năm Tỷ lệ DNNN thua lỗ (%) Số VNĐ doanh thu tạo ra từ 1 đồng vốn Số VNĐ lợi nhuận tạo ra từ 1 đồng vốn Tỷ trọng GDP tạo ra so với ồGDP 1990 39% 32% 1993 8% 1995 16% 3,46 0,19 42% 1998 25% 2,9 0,13 40% ( Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - CIEM) Nhận xét: Như vậy, trong mấy năm gần đây, số DNNN làm ăn thua lỗ lại tăng lên một cách đột biến, từ 8% năm 1993 lên 16% năm 1995, tới 1998 là 25%. Hiệu quả sử dụng vốn thấp, nếu năm 1995 một đồng vốn nhà nước còn tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, thì năm 1998 con số trên chỉ còn tương ứng là 2,9 và 0,13. Tỷ trọng GDP do các DNNN tạo ra trong GDP của toàn nền kinh tế từ 32% (năm 1990) lên 42% (năm 1995), nay giảm xuống còn 40% (năm 1998). Thực trạng đó khiến DNNN không những không thể hiện được vai trò nòng cốt của kinh tế nhà nước, mà trong một chừng mực nào đó, còn là gánh nặng cho Nhà nước, cho ngân sách quốc gia trên nhiều phương diện. Tình hình yếu kém trên của DNNN cũng cho thấy nhu cầu cấp bách của việc cải cách doanh nghiệp nhà nước trước thềm hội nhập kinh tế khu vực và thế giới- trong đó, cổ phần hóa được xem là một giải pháp hiệu quả. * Ưu điểm của cổ phần hóa và lợi thế của Công ty cổ phần: Các DNNN sau khi tiến hành CPH, trở thành CtyCP sẽ chuyển sang hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nhiều vấn đề còn tồn tại trong các doanh nghiệp trước đây sẽ được giải quyết một cách căn bản. Đó là các vấn đề về vốn, về quyền sở hữu tài sản, về hiệu quả tổ chức kinh doanh và về động lực cho người lao động. Thứ nhất, CPH là giải pháp hữu hiệu cho tình trạng thiếu vốn thường xuyên ở các DNNN, giảm gánh nặng vốn bao cấp cho ngân sách nhà nước. Bằng việc phát hành cổ phiếu, CPH cho phép công ty huy động một phần vốn từ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, và một phần không nhỏ từ các cổ đông bên ngoài doanh nghiệp kể cả từ các nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của TTCK hiện nay, CtyCP là một hình thức công ty có khả năng nhất trong việc thu hút vốn với khối lượng lớn, trong một thời gian ngắn. Điều này có được là do sự hấp dẫn, linh hoạt của phương thức đầu tư chứng khoán, nhất là đầu tư cổ phiếu. Khả năng chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu càng làm cho hình thức đầu tư này có tính linh hoạt và hấp dẫn cao hơn. Nó cho phép những người có vốn đầu tư ngắn hạn vẫn có thể tham gia vào những lĩnh vực đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Vì vậy, một khối lượng lớn vốn ngắn hạn trong nền kinh tế sẽ có thể được chuyển hóa thành lượng vốn đầu tư dài hạn, đây là một ưu thế của CtyCP trong việc thu hút vốn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Sự phát triển của TTCK còn cho phép các CtyCP có khả năng thu hút những nguồn vốn lớn từ nước ngoài. Trên thực tế, đầu tư qua TTCK là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài rất ưa thích. Vì khi đầu tư qua TTCK, các nhà đầu tư có nhiều thuận lợi trong việc di chuyển các nguồn vốn giữa các nước, các khu vực khác nhau trên thế giới, cho phép họ có khả năng phản ứng linh hoạt trước những biến động bất lợi cho hoạt động đầu tư của họ tại các nước nhận đầu tư. Thứ hai, CPH là một biện pháp giúp khắc phục tình trạng không rõ ràng về quyển sở hữu trong các DNNN. Quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp đã thay đổi căn bản: từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao.Quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn được đảm bảo đầy đủ. Cụ thể, với chế độ cổ phần, chuyển từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, quyền sở hữu của Nhà nước được phân giải: từ quyền sở hữu Nhà nước đơn nhất tách ra thành quyền sở hữu pháp nhân và quyền sở hữu thể nhân ( tức là quyền sở hữu cổ phần). Một mặt, với chế độ cổ phần, doanh nghiệp có quyền sở hữu pháp nhân, do đó nó hầu như có toàn bộ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền hưởng lợi và quyền định đoạt đối với tài sản do Nhà nước và các cổ đông khác đóng góp. Đồng thời, chế độ cổ phần lại thừa nhận người đầu tư tài sản Nhà nước vào DNNN là Nhà nước. Nhà nước vẫn là người sở hữu ban đầu hoặc người sở hữu cuối cùng của số tài sản ấy. Song quyền sở hữu của Nhà nước đã yếu đi, hầu như toàn bộ quyền sở hữu ấy với ý nghĩa vốn có đã được chuyển cho pháp nhân. Quyền sở hữu của Nhà nước với tư cách là nhà đầu tư chuyển thành quyền sở hữu cổ phần. Tuy quyền sở hữu cổ phần vẫn là một hình thức biểu hiện quyền sở hữu Nhà nước, nhưng là cổ đông, Nhà nước không có quyền can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nữa, cũng không có quyền xử lý tài sản pháp nhân - tài sản doanh nghiệp. Vì một khi quyền tài sản pháp nhân đã hình thành trên cơ sở quyền tài sản ban đầu, thì tài sản của Nhà nước và tài sản của cổ đông sẽ mặc nhiên trở thành tài sản của pháp nhân - doanh nghiệp cổ phần; do doanh nghiệp có quyền sở hữu pháp nhân xử lý. Những can thiệp có tính mênh lệnh, hành chính đối với việc xử lý tài sản của doanh nghiệp sẽ không còn tồn tại. Quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhờ đó được đảm bảo. Thứ ba, CtyCP là một mô hình có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ trong nội bộ doanh nghiệp, khắc phục tình trạng thờ ơ vô trách nhiệm đối với tài sản Nhà nước tại các xí nghiệp quốc doanh trước đây. Với một cấu trúc tài chính mới, trong đó sẽ có một bộ phận cổ đông nắm một tỷ lệ cổ phần khống chế trong doanh nghiệp, sự hoạt động của doanh nghiệp trở nên năng động, các quyết định kinh doanh sẽ được thực thi một cách nhanh chóng và gắn liền với trách nhiệm cá nhân. Do vậy, các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không bị bỏ lỡ, yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Sự thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ pháp lý, lề lối làm việc... cũng góp phần làm giảm chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Trước đây, khi còn tồn tại dưới hình thức là DNNN, với bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả, thì chi phí tiếp khách, chi phí quản lý hành chính... rất lãng phí. Sau khi tiến hành CPH, mọi hoạt động chi tiêu đều chịu sự giám sát của Đại hội đồng cổ đông, các chi do đó phải hợp lý hơn. Mặt khác, Giám đốc với tư cách là người làm thuê cho CtyCP buộc phải làm sao tăng doanh thu, cắt giảm chi phí để hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn nhất, nếu không làm tốt sẽ sẵn sàng bị sa thải. Thứ tư, CPH còn tạo điều kiện cho người lao động đứng lên làm chủ thực sự theo phần vốn góp của mình vào CtyCP. Tình trạng hô hào chung chung, mang tính hình thức về quyền làm chủ tập thể trong DNNN như trước đây không còn tồn tại. Những chính sách ưu đãi về cổ phần cho người lao động trong các DNNN khi CPH đã tạo điều kiện cho họ thực sự trở thành người chủ của doanh nghiệp. Với việc nắm giữ một phần tài sản nhất định trong doanh nghiệp, người lao động đã trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp. Do đó, lợi ích của họ gắn bó chặt chẽ với lợi ích của Công ty. Điều đó khuyến khích họ năng động, sáng tạo, tự chủ hơn trong công việc. Đây cũng chính là động lực thúc đẩy họ phát huy hết năng lực bản thân, làm theo năng lực, hưởng theo lao động và tiết kiệm chi phí. Hơn nữa, với tư cách là người chủ của công ty ( ở một mức độ nào đó ), thông qua cơ chế công khai, minh bạch, dân chủ ở các DNNN CPH, người lao động sẽ kiểm tra, giám sát một cách sắt sao hoạt động quản lý của ban lãnh đạo công ty, ngăn chặn những hành vi sai trái của họ, gây thiệt hại đến lợi ích của công ty. Người lao động với vai trò là các cổ đông, các nhà đầu tư chiến lược, hoàn toàn có quyền bỏ phiếu bãi chức các thành viên của Hội đồng quản trị nếu xét thấy họ không có đủ năng lực và phẩm chất. Điều đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp. Như vậy, trên cơ sở sự gắn bó về mặt lợi ích giữa người lao động với doanh nghiệp, có thể thấy các chính sách ưu đãi cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp không những góp phần cải thiện đời sống cho người lao động mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp một cách rõ rệt. Thực tế tại Việt Nam, chỉ tính riêng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 11 công ty được CPH trong giai đoạn thí điểm và mở rộng ( trước khi có Nghị định 44/CP ) sau từ 1-3 năm hoạt động theo cơ chế mới đã cho thấy tính ưu việt của giải pháp này. Khả năng huy động vốn tăng lên rõ rệt. Trước khi CPH, tổng vốn Nhà nước của 11 doanh nghiệp này là 26,3 tỷ đồng, vốn điểu lệ sau khi chuyển thành CtyCP là 75,1 tỷ đồng, tăng 2,8 lần. Như vậy, vốn huy động thêm là 48,8 tỷ đồng, tăng 183%. Hơn thế, từ sau 1-3 năm đi vào hoạt động, các CtyCP đã bổ sung vốn từ lợi nhuận sau thuế tính đến ngày 31/12/1997 là 157 tỷ đồng, tăng gấp 2,1 lần vốn điều lệ ban đầu. Trong đó, các doanh nghiệp tăng trưởng vốn nhanh nhất là: CtyCP Đại lý liên hiệp vận chuyển tăng 10,5 lần; CtyCP Cơ điện lạnh tăng 6 lần. Vấn đề lao động và thu nhập của người lao động cũng được thực hiện khá thành công. Số lao động sau khi cổ phần hóa là 4.263 người, tăng 1.113 người (+35%). Trong đó, điển hình là: CtyCP Cơ điện lạnh ( tăng từ 244 người lên 806 người), CtyCP chế biến hàng xuất khẩu Long An (từ 900 người lên 1.400 người). Thu nhập của người lao động cũng tăng từ 564.000 đồng/người/tháng lên 1.157.000 đồng/người/tháng.Trong đó tăng nhanh nhất là: CtyCP Đại lý liên hiệp vận chuyển từ 1,1 triệu/người/tháng lên 4,4 triệu/người/tháng. Hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNN sau CPH cũng tăng lên rõ rệt. Doanh thu tăng 3,1 lần; lợi nhuận tăng 6,2 lần; nộp ngân sách nhà nước tăng 3,6 lần; tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu tăng từ 2,7% đến 52,5%. Thu nhập cổ tức/vốn góp bình quân đạt từ 2%-3%/tháng. Như vậy, mặc dù trong giai đoạn này các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do cơ chế chính sách chưa đồng bộ, đôi khi chồng chéo, hiểu biết của người lao động và các nhà quản lý còn nhiều hạn chế, song các mục tiêu cơ bản của chương trình CPH vẫn được thực hiện rất thành công. Đó là một minh chứng cụ thể cho việc CPH thực sự là 1 một chủ trương đúng đắn, một giải pháp ưu việt trong việc cải cách và đổi mới doanh nghiệp trong tình hình hiện nay. Đặc biệt, giai đoạn 2000-2005 đã ghi nhận nhiều thay đổi nhất trong chặng đường 15 năm CPH của đất nước ta. Đây là giai đoạn hoạt động CPH được xúc tiến một cách mạnh mẽ, cùng với sự thay đổi về tư duy, chỉ đạo, điều hành CPH, thể hiện qua sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong cơ chế, chính sách về CPH ( đối tượng CPH mở rộng hơn, phương thức CPH thay đổi, mở rộng thành phần, số lượng tham gia vào doanh nghiệp...). Những kết quả đạt được đã một lần nữa khẳng định CPH chính là giải pháp quan trọng nhất để tái cơ cấu khu vực DNNN. Bảng 1.2: Quy mô vốn bình quân của DNNN qua các năm 2000-2004 2001 2004 Vốn bình quân của 1 DNNN (tỷ đồng) 24 63,6 Số lượng DNNN có vốn nhà nước <5 tỷ đồng (%) 60 40 Số lượng DNNN có vốn nhà nước <1 tỷ đồng (%) 18 Hầu như không còn Bảng 1.3: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa Chỉ tiêu Chỉ số tăng (%) Vốn điều lệ bình quân 44 Doanh thu bình quân 23,6 Lợi nhuận thực hiện bình quân 140 Nộp ngân sách 24,9 Thu nhập bình quân của người lao động 12 Số lao động 6,6 ( Nguồn: Báo Chứng khoán Việt Nam ) 1.1.2. Sự cần thiết của hoạt động tư vấn cổ phần hóa của Công ty chứng khoán đối với việc thực hiện cổ phần hóa của Doanh nghiệp nhà nước: 1.1.2.1. Khái quát về Công ty chứng khoán: * Khái niệm Công ty chứng khoán: Có nhiều định nghĩa về công ty chứng khoán (CtyCK). ở Việt Nam, các CtyCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập hợp pháp tại Việt Nam và được ủy ban chứng khoán cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Loại hình tổ chức công ty này có những lợi thế về quyền sở hữu, quản trị điều hành, huy động vốn, tư cách pháp lý... rất phù hợp với các nghiệp vụ chứng khoán. * Các nghiệp vụ của Công ty chứng khoán: Theo Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003, CTCK được phép thực hiện 5 loại hình kinh doanh chứng khoán sau: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán. Ngoài ra, các CtyCK còn được thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán và các dịch vụ tài chính khác phù hợp với quy định của pháp luật. - Nghiệp vụ môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán là nghiệp vụ nối liền giữa công ty và khách hàng là các nhà đầu tư, thông qua các hợp đồng ủy thác giao dịch, nhằm cung cấp thông tin và thực hiện tư vấn cho khách hàng. Nghiệp vụ môi giới đáp ứng nhu cầu đầu tư và các nhu cầu tâm lý khác của khách hàng bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính, giúp họ thực hiện giao dịch theo yêu cầu và hoạt động vì lợi ích của họ. CtyCK phải tuân thủ tuyệt đối các quy định của khách hàng ủy thác được ghi cụ thể trên các lệnh giao dịch, và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm do sai phạm hay sai sót của mình. Đây là nghiệp vụ mà CtyCK nào cũng đăng ký thực hiện. - Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán: Tự doanh là nghiệp vụ CtyCK sử dụng nguồn vốn kinh doanh của công ty để tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh được thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp, hay gián tiếp, thông qua sự thỏa thuận của công ty với các đối tác hoặc giao dịch qua sở giao dịch chứng khoán. Giao dịch tự doanh của CtyCK được tiến hành nhằm các mục đích khác nhau: + Thu lợi cho chính công ty qua lợi tức và chênh lệnh thị giá mua vào - bán ra. Với lợi thế về thông tin và sở trường phân tích, ngoài mục đích tích lũy chứng khoán phục vụ khách hàng, hoạt động đầu tư chứng khoán của công ty thường là đầu cơ chờ chênh lệch giá ( ngay cả trong tình hình thị trường suy thoái - giá xuống dốc ), hoặc nhằm thực hiện các giao dịch arbit khi có chênh lệch giá tại các thị trường khu vực. + Dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán: Các CtyCK là các tổ chức kinh doanh trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Do đó, phạm vi kinh doanh bị phụ thuộc vào nguồn vốn và mức dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán. Chứng khoán là một công cụ tài chính có chức năng thanh khoản cao và khả năng tạo lợi nhuận lớn. Đây cũng là nguồn dự trữ để công ty có thể vay vốn từ trung tâm thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán, ngân hàng hoặc các CtyCK khác để mở rộng kinh doanh, thực hiện các giao dịch tự doanh, triển khai chiến lược lôi kéo khách hàng ủy thác giao dịch..v.v.. + Can thiệp bảo vệ giá chứng khoán: Khi giá chứng khoán bị biến động bất lợi do tình hình hoạt động chung của thị trường, các CtyCK thực hiện các giao dịch mua bán nhằm ổn định lại thị trường theo yêu cầu can thiệp của cơ quan hữu trách và tự bảo vệ mình hay khách hàng của mình khi thực hiện các đợt phát hành hay bảo lãnh phát hành. + Kinh doanh đầu tư và kinh doanh vốn CtyCK phải tách biệt hoạt động tự doanh của mình với các nghiệp vụ khác mà công ty thực hiện, nhất là phải đảm bảo ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty. - Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho CtyCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc mà khách hàng chấp nhận. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư. - Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là nghiệp vụ mà CtyCK thực hiện chức năng bảo lãnh hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục pháp lý và các thủ tục cần thiết khác trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng. Ngoài ra, không giống các tổ chức bảo lãnh phát hành như ngân hàng đầu tư, các CtyCK còn thực hiện phân phối chứng khoán cho nhà phát hành và bình ổn giá cả chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. CtyCK nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa phân phối hết. Nghiệp vụ này chiếm doanh thu khá cao trong tổng doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của CtyCK. - Nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán: Nội dung chính của hoạt động này là đưa ra những lời khuyên và thực hiện các công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng của mình dựa trên hoạt động phân tích đầu tư, phân tích tình hình tài chính công ty, phân tích các tình huống liên quan đến lĩnh vực đầu tư; thực hiện cung cấp các dịch vụ về tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán. Tùy theo từng tiêu thức phân loại, có các hình thức tư vấn khác nhau như sau: + Theo hình thức hoạt động tư vấn: Nghiệp vụ tư vấn bao gồm: tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Tư vấn trực tiếp là hình thức mà khách hàng trực tiếp gặp hoặc tiếp xúc với người tư vấn, còn tư vấn gián tiếp là hình thức tư vấn thông qua các sách báo, ấn phẩm và các thông tin gián tiếp khác do người tư vấn phát hành. + Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn của CtyCK bao gồm: tư vấn gợi ý trong trường hợp người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về các diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về phương pháp và cách thức xử lý quyết định đầu tư của khách hàng; và tư vấn ủy quyền khi nhà tư vấn thực hiện hoạt động đầu tư đồng thời quyết định cho khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng. + Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn được chia thành: tư vấn cho nhà phát hành và tư vấn cho nhà đầu tư. Họat động tư vấn là hoạt động dựa trên các nguồn lực về chất xám nên yêu cầu về vốn đối với các hoạt động này không lớn, nhưng các yêu cầu về nhân sự và tính chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên tư vấn được đề cao. - Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: Đây là nghiệp vụ không thể thiếu trong các CtyCK. Vì lưu ký chứng khoán là hoạt động bắt buộc, khách hàng muốn giao dịch chứng khoán trên thị trường thì phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các CtyCK hoặc thực hiện ký gửi các chứng khoán. Khi thực hiện nghiệp vụ này, các CtyCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, rút và chuyển nhượng chứng khoán. - Các dịch vụ tài chính khác: Ngoài ra, CtyCK còn được phép của UBCKNN thực hiện các nghiệp vụ và dịch vụ tài chính khác nhằm hỗ trợ cho các nghiệp vụ chính được thực hiện một cách tốt nhất và có hiệu quả nhất. Các nghiệp vụ đó bao gồm: nghiệp vụ tín dụng, quản lý quỹ đầu tư, quản lý thu nhập của khách hàng, và các nghiệp vụ tư vấn tài chính công ty, tư vấn mua lại, sáp nhập, tư vấn cấu trúc tài chính công ty, tư vấn định giá doanh nghiệp, tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành cho CtyCP... 1.1.2.2. Lợi ích của việc thuê dịch vụ tư vấn cổ phần hóa của công ty chứng khoán: Cổ phần hóa DNNN là một quá trình mới và phức tạp về mặt kỹ thuật, thủ tục và có liên quan đến nhiều vấn đề trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần phải hiểu rõ và nắm vững hệ thống văn bản pháp lý, các quy định hiện hành và các chính sách về cổ phần hóa cũng cũng như hệ thống pháp ._.lý điều chỉnh hoạt động của CtyCP. DNNN sẽ phải xử lý nhiều vấn đề liên quan để chuyển đổi thành CtyCP, như : tập huấn cho các cán bộ công nhân viên về cổ phần hóa, kiểm kê, phân loại tài sản, xử lý các vấn đề tài chính, xác định giá trị doanh nghiệp, lập phương án sắp xếp lại lao động, lập phương án bán cổ phần... Trong khi đó, các CtyCK được phép tham gia trực tiếp vào quá trình tư vấn CPH, định giá cổ phiếu trong quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước, gắn CPH với niêm yết trên TTCK. Xuất phát từ những lợi thế của CtyCK và hạn chế của DNNN trong quá trình chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, việc thuê tư vấn CPH sẽ mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích như sau: - Tiết kiệm thời gian, công sức và mang lại hiệu quả cao cho quá trình CPH. Đây là lợi ích lớn nhất mà dịch vụ tư vấn CPH mang lại cho doanh nghiệp. Bởi vì CPH khác hẳn với các công việc sản xuất kinh doanh thường nhật của doanh nghiệp, khi triển khai công tác CPH đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm vững và áp dụng một cách đúng đắn các chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ khi nào tiến hành CPH, doanh nghiệp mới thực sự tìm hiểu vấn đề này. Do điều kiện hạn chế về thời gian chuẩn bị và kinh nghiệm không nhiều, trong khi các thủ tục, các bước thực hiện yêu cầu phải đúng quy định, doanh nghiệp không tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn về mặt kỹ thuật, thủ tục. Với việc thuê tư vấn, các CtyCK với vai trò là các tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực CPH, có khả năng cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính tốt nhất cho các doanh nghiệp CPH. Doanh nghiệp sẽ được hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ các bước thực hiện, được các chuyên viên tư vấn lập ra một quy trình CPH áp dụng riêng cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tránh được những vướng mắc, khó khăn trên. - Việc thuê tư vấn CPH sẽ tạo ra tính khách quan trong việc xác định giá trị doanh nghiệp và bán đấu giá cổ phần ra bên ngoài. Nhất là khi Nghị dịnh 187/2004/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP, việc xác định giá trị doanh nghiệp áp dụng cơ chế Hội đồng được thay bằng việc bắt buộc phải thuê tư vấn định giá và đưa cổ phần ra đấu giá công khai, tính khách quan và hiệu quả của quá trình CPH càng được nâng cao.Với chức năng là một tổ chức trung gian, các CtyCK không chỉ là đơn vị định giá, tổ chức bán đấu giá cổ phần mà quan trọng hơn, họ còn đóng vai trò trung gian điều hòa các mối quan hệ giữa người đầu tư mua cổ phần và cơ quan quản lý Nhà nước. - Việc thuê tư vấn sẽ góp phần giúp doanh nghiệp xây dựng hình ảnh và quảng bá tên tuổi. Với kinh nghiệm thực tế hoạt động trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là kinh nghiệm về chứng khoán và TTCK, CtyCK sẽ giúp doanh nghiệp CPH giới thiệu tên tuổi và tiềm năng hoạt động để thu hút các nhà đầu tư tham gia mua cổ phần. Từ đó, việc bán cổ phần sẽ được thực hiện thuận lợi, dễ dàng hơn, đồng thời làm tăng khả năng bán được cổ phần với giá cao hơn, thu hút được các cổ đông có tiềm lực tài chính, công nghệ, thị trường. Ngoài ra, trong một số trường hợp, CtyCK có thể đứng ra bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp cổ phần, đảm bảo việc bán cổ phần được thực hiện nhanh chóng, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài như thực trạng một số doanh nghiệp đã tiến hành CPH trước đây. - Doanh nghiệp CPH sẽ được hỗ trợ toàn phần chi phí tư vấn, vì chi phí tư vấn đã nằm trong dự toán chi phí CPH được lập từ đầu và sẽ được trừ vào phần vốn Nhà nước. - Các lợi ích khác: Ngoài các lợi ích trên, sử dụng dịch vụ tư vấn CPH, doanh nghiệp còn đựơc CtyCK hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý cổ đông, và lưu ký cổ phiếu. Dịch vụ này sẽ giúp lãnh đạo doanh nghiệp nắm rõ được các đối tượng góp vốn vào doanh nghiệp mình. Đồng thời, từ việc quản lý sổ cổ đông này, công ty có thể cung cấp cho doanh nghiệp các dịch vụ liên quan như: chi trả cổ tức, làm đầu mối chuyển nhượng cổ phiếu hay truyền tải thông tin cần thiết từ doanh nghiệp đến cổ đông... Trường hợp doanh nghiệp có đủ điều kiện và muốn tham gia niêm yết trên TTCK, CtyCK sẽ tạo ra một chu trình hoàn chỉnh trong việc tư vấn, định giá và gắn với niêm yết trên TTCK, làm cho quá trình CPH và niêm yết có tính liên tục, tiết kiệm thời gian, chi phí CPH cũng như niêm yết. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích trên, doanh nghiệp vẫn còn e ngại một số vấn đề khi thuê tư vấn CPH: - Khi sử dụng dịch vụ tư vấn CPH, doanh nghiệp phải mất một khoản phí tư vấn định giá ( tối đa bằng 20% chi phí CPH). Mặc dù với mỗi quy mô vốn nhất định, Nhà nước đã ấn định chi phí CPH tối đa được trừ vào phần vốn Nhà nước, nhưng trong quá trình CPH phát sinh rất nhiều khoản chi phí. Nếu chi phí CPH lớn hơn mức tối đa này thì doanh nghiệp phải chịu phần chênh lệch. Do đó, các doanh nghiệp vẫn muốn tự mình tiến hành hơn là thuê tư vấn. - Doanh nghiệp e ngại việc cung cấp các thông tin tài chính và các thông tin khác có liên quan cho CtyCK. Vì công khai, minh bạch hóa thông tin là một yêu cầu bắt buộc khi doanh nghiệp thuê tư vấn CPH. 1.2. Nội dung hoạt động tư vấn cổ phần hóa của Công ty chứng khoán: 1.2.1. Khái niệm tư vấn cổ phần hóa: Tư vấn CPH là hoạt động hướng dẫn DNNN thực hiện việc chuyển đổi từ hình thức DNNN sang CtyCP. Như vậy, CtyCK sẽ cung cấp cho doanh nghiệp tất cả các dịch vụ có liên quan, bao gồm: xác định giá trị doanh nghiệp; lập phương án CPH ( lập phương án sắp xếp lại lao động và lập danh sách lao động được mua cổ phần ưu đãi, xây dựng dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần...); tổ chức bán đấu giá cổ phần ra công chúng; và các dịch vụ sau CPH khác. 1.2.2. Nội dung tư vấn cổ phần hóa của Công ty chứng khoán: Nội dung tư vấn CPH của CTCK được xây dựng trên cơ sở quy trình CPH do Chính phủ quy định ( ban hành kèm theo Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004). Quy trình chuyển công ty nhà nước thành CtyCP bao gồm các bước công việc sau: Bước 1: Xây dựng phương án cổ phần hóa 1. Thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa và tổ giúp việc. 1.1. Cơ quan quyết định cổ phần hóa ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo CPH đồng thời với Quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp. 1.2. Trưởng Ban Chỉ đạo lựa chọn và ra quyết định thành lập Tổ giúp việc CPH trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định thành lập. 2. Chuẩn bị hồ sơ, tài liệu: Trong thời gian tối đa 10 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định thành lập Tổ giúp việc CPH, Ban chỉ đạo có trách nhiệm chỉ đạo Tổ giúp việc cùng với doanh nghiệp tiến hành: 2.1. Lựa chọn phương pháp, hình thức xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn có liên quan sau CPH. 2.2. Chuẩn bị đầy đủ các tài liệu sau: - Các Hồ sơ pháp lý về thành lập doanh nghiệp. - Các Hồ sơ pháp lý về tài sản của doanh nghiệp ( bao gồm cả diện tích đất được giao hoặc thuê). - Hồ sơ về công nợ ( đặc biệt là các khoản nợ tồn đọng, các khoản nợ đã xử lý theo chế độ trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp). - Hồ sơ về tài sản không cần dùng, vật tư, hàng hóa ứ đọng, kém, mất phẩm chất ( nếu có), tài sản hình thành từ nguồn quỹ khen thưởng phúc lợi. - Hồ sơ về các công trình đầu tư xây dựng cơ bản dở dang ( kể cả các công trình đã có quyết định hoãn). - Hồ sơ về các khoản vốn đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác như: góp vốn liên doanh, góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty TNHH và các hình thức đầu tư dài hạn khác. - Báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế của Công ty đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. - Lập danh sách lao động thường xuyên làm việc tại công ty đến thời điểm có quyết định CPH; phân loại lao động theo các đối tượng: hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng có thời hạn từ 1-3 năm, danh sách lao động dôi dư... - Lập dự toán chi phí CPH theo chế độ quy định. 3. Kiểm kê, xử lý những vấn đề tài chính và tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp: Tổ giúp việc, doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn (nếu có) tiến hành: 3.1. Kiểm kê, phân loại tài sản và quyết toán tài chính, quyết toán thuế, phối hợp với các cơ quan có liên quan xử lý những vấn đề tài chính đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. 3.2 . Xác định giá trị doanh nghiệp: Ban chỉ đạo CPH lựa chọn tổ chức định giá để giao cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng định giá hoặc giao cho Tổ giúp việc, doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp. Trường hợp Tổ chức tư vấn có chức năng định giá thì có thể thuê trọn gói: lập phương án cổ phần hoấ, xác định giá trị doanh nghiệp, tổ chức bán cổ phần. 3.3. Ban chỉ đạo thẩm tra kết quả kiểm kê, phân loại tài sản và kết quả xác định giá trị doanh nghiệp, báo cáo cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp và Bộ Tài Chính. Thời gian để hoàn tất các công việc này không quá 50 ngày làm việc kể từ ngày chuẩn bị xong hồ sơ tài liệu. 3.4. Quyết định và công bố giá trị doanh nghiệp: Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Ban chỉ đạo CPH, cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp phải ra quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH. 4. Hoàn tất Phương án CPH: 4.1. Lập phương án CPH: Căn cứ quy định hiện hành và tình hình thực tế của doanh nghiệp, Ban chỉ đạo CPH xem xét quyết định thuê tổ chức tư vấn hoặc giao cho Tổ giúp việc và doanh nghiệp lập Phương án CPH với các nội dung chính sau: a. Giới thiệu về công ty: trong đó mô tả khái quát về quá trình thành lập công ty và mô hình tổ chức của công ty; tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3-5 năm trước khi CPH. b. Đánh giá thực trạng của công ty ở thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, bao gồm: - Thực trạng về tài sản ( bao gồm cả diện tích đất được giao hoặc thuê). - Thực trạng về tài chính, công nợ. - Thực trạng về lao động. - Những vấn đề cần tiếp tục xử lý. c. Phương án sắp xếp lại lao động: - Số lao động có tên trong danh sách thường xuyên ở thời điểm có quyết định CPH. - Số lao động tiếp tục tuyển dụng. - Số lao động dôi dư và phương án giải quyết theo từng đối tượng ( bao gồm cả phương án đào tạo lại lao động dôi dư để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần). d. Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3-5 năm tiếp theo, trong đó nêu rõ: - Phương án cơ cấu lại doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần: sắp xếp lại các bộ phận trong doanh nghiệp, đổi mới ngành nghề kinh doanh; đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. - Kế hoạch sản xuất kinh doanh của các năm tiếp theo về sản phẩm, sản lượng, thị trường, lợi nhuận... và các giải pháp về vốn, nguyên liệu, tổ chức sản xuất, lao động, tiền lương, ... đ. Phương án CPH: - Hình thức CPH và vốn điều lệ theo yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. - Dự kiến cơ cấu vốn điều lệ: số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần bán ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược ( kèm theo danh sách), số cổ phần bán ưu đãi cho người lao động ( kèm theo danh sách đăng ký mua cổ phần của người lao động) và số cổ phần dự kiến bán cho các nhà đầu tư khác. - Phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định ( đấu giá trực tiếp tại công ty, hoặc đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian, hoặc đấu giá tại TTGDCK). e. Dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần theo các quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật hiện hành. 4.2. Hoàn thiện phương án CPH: a/ Căn cứ quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH, Tổ giúp việc cùng với doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn ( nếu có) hoàn thiện Phương án CPH và gửi tới từng bộ phận trong công ty để nghiên cứu trước khi tổ chức hội nghị công nhân viên chức ( bất thường). b/ Tổ chức Hội nghị công nhân viên chức ( bất thường) để lấy ý kiến hoàn thiện phương án CPH. c/ Sau Hội nghị công nhân viên chức, Tổ giúp việc, doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn ( nếu có) hoàn thiện Phương án CPH để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. d/ Ban chỉ đạo thẩm định phương án CPH báo cáo cơ quan quyết định CPH phê duyệt. Thời gian để hoàn tất các nội dung quy định tại diểm 2.1 bước 2 này không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH. Bước 2: Tổ chức bán cổ phần 1. Ban chỉ đạo CPH lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định. 2. Tổ chức bán cổ phần: a/ Đối với trường hợp bán đấu giá trực tiếp tại doanh nghiệp: Ban chỉ đạo CPH và doanh nghiệp tổ chức bán đấu giá cổ phần cho nhà đầu tư đồng thời xác định giá đấu thành công bình quân để bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược. b/ Đối với trường hợp bán cổ phần tại tổ chức tài chính trung gian : - Ban chỉ đạo lựa chọn tổ chức tài chính trung gian giao cho doanh nghiệp ký hợp đồng. - Ban chỉ đạo và doanh nghiệp phối hơp với tổ chức tài chính trung gian thực hiện bán cổ phần theo quy định. - Ban chỉ đạo CPH chỉ đạo doanh nghiệp bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược. c/ Đối với trường hợp bán cổ phần tại Trung tâm giao dịch chứng khoán: Ban chỉ đạo CPH được quyền đăng ký trực tiếp hoặc thuê tổ chức trung gian đăng ký và phối hợp với TTGDCK để bán cổ phần. Trường hợp đăng ký trực tiếp với TTGDCK, Ban chỉ đạo và doanh nghiệp: - Nộp đơn đăng ký và tài liệu cho TTGDCK. - Phối hợp với TTGDCK tổ chức phát hành cổ phiếu. - Bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược. 3. Tổng hợp kết quả bán cổ phần báo cáo cơ quan quyết định CPH. 4. Báo cáo cơ quan quyết định CPH ra quyết định điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp CPH đối với trường hợp không bán cổ phần cho các đối tác theo đúng phương án CPH được duyệt. Bước 3: Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần. 1. Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất. Ban chỉ đạo CPH chỉ đạo Tổ giúp việc và doanh nghiệp tổ chức Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất để thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu Hội đồng quản trị, ban Kiểm soát và bộ máy điều hành công ty cổ phần. 2. Căn cứ vào kết quả Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất, Hội đồng quản trị công ty cổ phần thực hiện đăng ký kinh doanh, nộp con dấu của doanh nghiệp cũ và xin khắc con dấu của công ty cổ phần. 3. Lập báo cáo tài chính tại thời điểm công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, thực hiện quyết toán thuế, quyết toán chi phí CPH, báo cáo cơ quan quyết định CPH. Nộp tiền thu từ cổ phần hóa về công ty, Tổng công ty hoặc Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Bộ Tài chính. 5. Tổ chức ra mắt công ty cổ phần và thực hiện bố cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định. Trường hợp doanh nghiệp xác định sẽ thực hiện niêm yết ngay trên TTCK thì lập bộ hồ sơ xin cấp giấy phép niêm yết gửi Bộ Tài chính ( UBCKNN) theo quy định hiện hành. 6. Tổ chức bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quyết định CPH, Ban Chỉ đạo CPH, Tổ giúp việc và doanh nghiệp có thể tiến hành đồng thời nhiều bước một lúc để dẩy nhanh tiến độ CPH công ty nhà nước. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động tư vấn cổ phần hóa của Công ty chứng khoán. 1.3.1. Môi trường pháp lý Đây là nhân tố có tính chất quyết định tới sự hình thành và phát triển của hoạt động tư vấn CPH của CtyCK. Chính nhờ có chủ trương CPH của Chính phủ mới đặt ra nhu cầu về hoạt động tư vấn CPH. Hoạt động tư vấn CPH chịu ảnh hưởng trực tiếp của các văn bản pháp luật liên quan đến quá trình CPH. Trong đó, rõ nét nhất là việc xây dựng và thực hiện quy trình hướng dẫn doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý về CPH mà hoàn thiện, cụ thể và đồng bộ sẽ là điều kiện vững chắc tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cung cấp dịch vụ tư vấn cả về việc xây dựng quy trình cũng như tổ chức thực hiện. 1.3.2. Nhu cầu về dịch vụ tư vấn cổ phần hóa do Công ty chứng khoán cung cấp Dịch vụ tư vấn CPH ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu của các DNNN trong quá trình thực hiện chuyển đổi sang hình thức CtyCP. Do đó, nhu cầu về dịch vụ này là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động tư vấn CPH. Để mở rộng hoạt động này đòi hỏi phải làm sao gia tăng được nhu cầu của doanh nghiệp về dịch vụ tư vấn do CTCK cung cấp. Trên thực tế, có nhiều nhân tố tác động đến nhu cầu này, trong đó phải kể đến một số nhân tố chủ yếu sau: 1.3.2.1. Chủ trương chính sách của Chính phủ và các cấp quản lý Mặc dù đã thấy được lợi ích của doanh nghiệp khi chuyển sang hình thức CtyCP, tuy nhiên vì một số lí do chủ quan nhất định mà vẫn còn nhiều doanh nghiệp trì hoãn thực hiện. Trước thực trạng đó, Chính phủ cũng như các Bộ, ngành chủ quản có thể đưa ra các quyết định mang tính chất bắt buộc đối với một số doanh nghiệp. Để thực thi chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN của Chính phủ, các Bộ ngành hiện nay đã phải chủ động đưa các doanh nghiệp trực thuộc vào danh sách CPH, kể cả các tổng công ty, trừ những doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng, liên quan đến an ninh quốc phòng. Bên cạnh những quyết định mang tính bắt buộc nêu trên, những ưu đãi và những chính sách tạo điều kiên thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện CPH cũng như sau khi CPH có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp đẩy nhanh tiến trình CPH của doanh nghiệp mình. Ngoài ra, phải kể đến những quy định của Chính phủ về yêu cầu phải lựa chọn một tổ chức ngoài doanh nghiệp thực hiện việc định giá doanh nghiệp hay tham gia vào bất kỳ một khâu nào đó trong quá trình CPH. Tuy nhiên, trong các quy định của các bộ chủ quản có quy định về việc thành lập riêng một cơ quan chịu trách nhiệm về tư vấn và thực hiện CPH cho các đơn vị trực thuộc. Vô hình chung điều này đã hạn chế thị trường của CtyCK trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn CPH cho các đơn vị này. 1.3.2.2. Sự phức tạp của quá trình thực hiện cổ phần hóa Quá trình CPH là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải trải qua nhiều giai đoạn và thực hiện nhiều thủ tục để đáp ứng các điều kiện của các cấp quản lý. Chỉ xét riêng về các bước mang tính thủ tục này đã có thể gây nhiều trở ngại cho doanh nghiệp, hơn nữa, trong từng bước thực hiện còn đòi hỏi các nghiệp vụ có tính chuyên môn cao như : xác định giá trị doanh nghiệp, lập phương án CPH, lập phương án lao động, tổ chức bán cổ phần... Thông thường các doanh nghiệp vốn đã không có kinh nghiệm trong các lĩnh vực chuyên môn này, đồng thời thời gian tìm hiểu các văn bản pháp ly hướng dẫn thực hiện CPH cũng không nhiều; do đó, nếu doanh nghiệp tự mình tiến hành CPH thì sẽ gặp nhiều khó khăn vướng mắc, nhất là đối với những doanh nghiệp có đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh riêng có, mang tính đặc thù. 1.3.2.3. Chi phí cơ hội của việc thuê tư vấn cổ phần hóa Khi phải cân nhắc giữa việc thuê tư vấn CPH với việc phải tự mình tién hành quá trình CPH doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp sẽ phải xét đến chi phí bỏ ra và những lợi ích đạt được. Khi sử dụng dịch vụ tư vấn của một CtyCK, ngoài phí tư vấn phải trả, doanh nghiệp còn phải đối mặt với nguy cơ rò rỉ thông tin nội bộ, nhưng đổi lại, thời gian thực hiện CPH lại thường ngắn hơn và hiệu quả cũng cao hơn. 1.3.3. Năng lực của tổ chức cạnh tranh Trong lĩnh vực tư vấn CPH, ngoài các CtyCK, còn có nhiều tổ chức khác cung cấp dịch vụ này như: công ty kiểm toán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước có chức năng định giá... Do đó, yêu cầu CtyCK phải cạnh tranh với các tổ chức này thông qua chi phí và chất lượng của dịch vụ tư vấn để giữ vững và mở rộng thị phần. 1.3.4. Năng lực của công ty chứng khoán Ngoài các yếu tố khách quan kể trên, yếu tố có tính chất quyết định tới sự tồn tại và phát triển của hoạt động tư vấn CPH của CtyCK chính là năng lực của bản thân công ty trong lĩnh vực này. Năng lực đó thể hiện ở các mặt sau: 1.3.4.1. Nguồn nhân lực Cũng như các hoạt động tư vấn nói chung, chất lượng của dịch vụ tư vấn CPH phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của đội ngũ tư vấn viên. Công việc chủ yếu của tư vấn CPH là hướng dẫn cụ thể cho DNNN nhằm tránh được những khó khăn trở ngại trong qúa trình CPH, đồng thời rút ngắn thời gian thực hiện. Vì vậy, yêu cầu đội ngũ nhân viên phải có hiểu biết vững chắc về nội dung, quy trình và quy định của pháp luật về CPH cũng như lĩnh vực tài chính DNNN. Hơn nữa, chuyên viên tư vấn cần phải có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực có liên quan như: thẩm định tài chính doanh nghiệp, định giá tài sản, lĩnh vực pháp luật... Bên cạnh yếu tố chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ tư vấn, được quan tâm hàng đầu, ta cũng cần quan tâm đến nguồn nhân lực trên khía cạnh số lượng và phương thức phân bổ nguồn nhân lực. CtyCK cần đáp ứng được tiêu chuẩn về số lượng nhân viên tối thiểu được cấp chứng chỉ định giá. Quy mô nguồn nhân lực thích hợp sẽ là một trong những điều kiện đảm bảo chất lượng cung cấp về mặt thời gian, đồng thời tạo điều kiện mở rộng thị trường của hoạt động tư vấn. Thêm nữa, việc phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý cũng góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tư vấn. 1.3.4.2. Điều kiện về quy mô Quy mô nguồn vốn kinh doanh nói chung và quy mô vốn mà CtyCK dành riêng cho hoạt động tư vấn CPH sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của họat động này. Trên cơ sở nguồn vốn của mình, công ty mới xác định được nguồn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như đầu tư cho các nghiệp vụ khác của công ty nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của nghiệp vụ này. Ngoài các yếu tố kể trên, CtyCK cũng cần chú ý xây dựng hình ảnh, uy tín,kinh nghiệm của công ty cũng như duy trì và phát triển mối quan hệ giữa công ty với các cơ quan quản lý, với các DNNN; đưa ra được chiến lược cạnh tranh tốt; tận dụng mạng lưới hoạt động của “ngân hàng mẹ” để tiếp cận các doanh nghiệp CPH; tăng cường sự hiểu biết về DNNN được công ty tư vấn trên các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, sản phẩm, thị trường... Chương 2: Thực trạng hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB 2.1. Khái quát về Công ty chứng khoán ACB 2.1.1. Quá trình hình thành, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Công ty chứng khoán ACB Công ty chứng khoán ACB ( ACBS ) được UBCKNN cấp phép hoạt động kinh doanh ngày 29/06/2000 với số vốn điều lệ là 43 tỷ đồng do Ngân hàng TMCP á Châu - một trong những ngân hàng được xem là năng động và hoạt động hiệu quả nhất Việt Nam hiện nay - sở hữu 100% vốn. Với sự tham gia và hỗ trợ chặt chẽ của Ngân hàng á Châu ( nhân lực, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật và vốn...) cũng như các mối quan hệ hợp tác với các tổ chức chuyên nghiệp trong và ngoài nước trên lĩnh vực thị trường tiền tệ, thị trường vốn và tư vấn pháp lý, ACBS luôn có thế mạnh về hệ thống mạng lưới chi nhánh, hệ thống lưu trữ và truyền số liệu trực tuyến, cơ sở vật chất, hệ thống quản trị, nguồn nhân lực, kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính. Khách hàng của ACBS được hỗ trợ toàn diện và được sử dụng đầy đủ các sản phẩm tích hợp của Ngân hàng á Châu. ACBS được phép thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán. Ngoài ra, ACBS còn cung cấp các sản phẩm khác về Tài chính doanh nghiệp và Thị trường vốn: tư vấn CPH và tư vấn bán đấu giá, tư vấn niêm yết, tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, định giá doanh nghiệp và thẩm định dự án, tư vấn quản trị tài chính doanh nghiệp, tư vấn phát hành... ACBS có khá nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực niêm yết và là một trong ba CtyCK tư vấn niêm yết được nhiều công ty nhất. Với số lượng trên 2.500 tài khoản kinh doanh chứng khoán hiện hữu, ACBS hiện đang là CtyCK có hệ thống mạng lưới cơ sở khách hàng vào loại lớn nhất trong 14 CtyCK. Thông qua mạng lưới chi nhánh tại Hà Nội và đại lý nhận lệnh tại các trung tâm kinh tế xã hội lớn của Việt Nam (Hải Phòng, Đà Nẵng, An Giang, Cần Thơ, Cà Mau), ACBS có điều kiện thuận lợi để tiếp cận với chính quyền địa phương, các nhà đầu tư các nhân, cũng như các tổ chức. * Cơ cấu tổ chức quản lý của ACBS: ACBS là công ty TNHH một thành viên, do Ngân hàng á Châu là chủ sở hữu duy nhất. Mô hình tổ chức hoạt động của Công ty như sau: Đại lý Đà Nẵng Phó TGĐ phụ trách miền Bắc Phó TGĐ phụ trách miền Nam Tổng giám đốc Hội đồng quản trị Chi nhánh Hà Nội Đại lý Cần Thơ Đại lý An Giang Đại lý Cà Mau Đại lý Hải Phòng P.Môi giới Bộ phận lưu ký P.Kế toán P.Hành chính& nhân sự P.Phân tích & tư vấn P.Đầu tư chứng khoán * Tình hình hoạt động của ACBS: Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động kể từ tháng 6/2000, ACBS đã từng bước kiện toàn bộ máy tổ chức, triển khai các hoạt động kinh doanh chứng khoán và hoàn thiện việc xây dựng quy trình nghiệp vụ, từ đó gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ. Tính đến nay, ACBS đã thu hút được gần 3000 khách hàng mở tài khoản giao dịch tại công ty, doanh thu tăng khá ổn định qua các năm, và dần khẳng định được vị thế của mình trên TTCK, giành được sự tín nhiệm của nhiều nhà đầu tư. Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh của ACBS qua các năm Năm Doanh thu (Doanh thu+Lãi đầu tư) Chi phí (Chi phí HĐKD+Chi phí QLDN) Lợi nhuận trước thuế 2000 488 721 -233 2001 9141 1502 7639 2002 6084 3930 2034 2003 11048 9316 1732 2004 22923 5462 17461 2005 45326 12242 33084 Năm 2000, giai đoạn đầu ACBS mới đi vào hoạt động, phần lớn các hợp đồng đang trong quá trình thực hiện và chi phí thành lập ban đầu lớn, công ty vẫn chưa thu được lợi nhuận. Tuy nhiên sau đó, với những ưu thế về vốn, cơ sở vật chất và con người, công ty đã hoạt động ngày càng ổn đinh và hiệu quả. Lợi nhuận các năm tăng khá nhanh. Đáng chú ý là năm 2004, lợi nhuận tăng vọt, gấp 11 lần so với năm 2003. Năm 2005 lợi nhuận thu được là hơn 33 tỷ đồng, tăng gấp 1,89 lần năm 2004. Đây cũng là năm đánh dấu sự tăng trưởng nhảy vọt của hoạt động tư vấn của ACBS, phí tư vấn thu được tăng gấp 12,9 lần năm 2004. Kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động đến nay, ACBS đã có những chuyển biến rõ nét về chất, thông qua việc không ngừng gia tăng năng lực về vốn. Với số vốn điều lệ ban đầu là 43 tỷ đồng, tính đến nay, ACBS là một trong những công ty có mức tăng vốn cao nhất hàng năm ( 50 tỷ đồng ). 2.1.2. Kết quả triển khai các nghiệp vụ cụ thể của ACBS trong thời gian vừa qua: Ÿ Môi giới: ACBS đã thực hiện đầu tư khá tốt cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới như: xây dựng hệ thống sàn giao dịch rộng rãi với đầy đủ các thiết bị công bố thông tin gồm: bảng giao dịch điện tử, bảng công bố thông tin, thiết kế Website để giúp người đầu tư tiếp cận thị trường mọi lúc, mọi nơi. Ngoài ra, công ty còn cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí cho người đầu tư, đa dạng các hình thức nhận lệnh giao dịch (qua điện thoại, fax), áp dụng chính sách thu phí linh hoạt theo hướng khuyến khích giao dịch, kết hợp với các ngân hàng thương mại cung cấp thêm một số dịch vụ phụ trợ cho khách hàng (cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán). Do đó, số lượng người đầu tư đến mở tài khoản giao dịch tại công ty và giá trị giao dịch chứng khoán trong thời gian qua đã không ngừng tăng lên. Ÿ Tự doanh: Giá trị tự doanh của công ty khá lớn ( riêng năm 2004 doanh thu là 6 tỷ ). Giai đoạn đầu ACBS tập trung vào hoạt dộng kinh doanh các cổ phiếu chuẩn bị niêm yết. Hai năm gần đây công ty lại chuyển sang kinh doanh trái phiếu và cổ phiếu chưa niêm yết. Hoạt động tự doanh của công ty đã góp phần tăng sức cầu cho thị trường và làm TTCK sôi động hơn. Ÿ Quản lý danh mục đầu tư: ACBS là một trong số các CtyCK được cấp phép thực hiện nghiệp vụ này và thực sự triển khai trên thực tế. Công ty đã đầu tư khá nhiều vào việc đào tạo, tuyển dụng nhân sự, xây dựng quy trình đầu tư, quy trình nghiệp vụ, thiết kế sản phẩm đa dạng cho người đầu tư lựa chọn, đăng ký bảo hộ sản phẩm dịch vụ của mình. Điều này thể hiện công ty đã có những bước đi ban đầu nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ cho người đầu tư. Ÿ Bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành: Yêu cầu về vốn đối với hoạt động này là khá cao ( 22 tỷ đồng). Tuy nhiên, ACBS có sự hỗ trợ về vốn của Ngân hàng á Châu, đã thực hiện khá tốt loại hình dịch vụ này. Loại chứng khoán mà công ty bảo lãnh đến nay chủ yếu là trái phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Ÿ Nghiệp vụ tư vấn tài chính: ACBS đã tham gia tư vấn tái cấu trúc công ty, chuẩn bị hồ xin niêm yết và trợ giúp cho công ty trong các giao dịch cổ phiếu quỹ khá tích cực, bước đầu đã làm cho các công ty niêm yết hiểu được lợi ích của việc niêm yết cổ phiếu trên TTGDCK, hiểu được nghĩa vụ về công bố thông tin sau niêm yết. Ÿ Tư vấn đầu tư chúng khoán và các dịch vụ tài chính khác: Hiện nay, cũng như các CtyCK khác, ACBS thực hiện tư vấn miễn phí cho các nhà đầu tư quan tâm, dưới hình thức tổ chức các buổi phân tích tình hình thị trường, phân tích cho từng khách hàng khi khách hàng có nhu cầu tham vấn ý kiến của nhân viên môi giới, phát hành các bảng tin phân tích định kỳ... Ngoài ra, trong thời gian qua, công ty còn triển khai mạnh dịch vụ tư vấn CPH, và các dịch vụ phụ trợ khác như: quản lý cổ đông, lưu ký chứng khoán, kết hợp cùng với ngân hàng hỗ trợ tiền cho người đầu tư mua chứng khoán. 2.2. Tình hình thực hiện nghiệp vụ tư vấn cổ phần hóa tại ACBS: 2.2.1. Quy trình tư vấn cổ phần hóa của Công ty chứng khoán ACBS: Để phục vụ cho quá trình tư vấn chung của Công ty, bộ phận tư vấn tiến hành thu thập những tài liệu có liên quan sau: + Khuôn khổ pháp lý về cổ phần hóa + Phương án tổng thể sắp xếp lại DNNN của cơ quan có thẩm quyền + Tên công ty ( tên giao dịch, tên viết tắt, tên tiếng Anh...), điện thoại, fax, email, website, biểu tượng của doanh nghiệp + Giấy phép, quyết định thành lập + Các loại tài liệu về nhân sự, tiền lương và sao kê nhân lực của doanh nghiệp + Danh sách và sơ yếu lý lịch thành viên Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, Ban kiểm soát + Tài liệu tóm tăt quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp + Tài liệu mô tả sản phẩm chính, khả năng cạnh tranh, ưu thế, bất lợi so với sản phẩm cùng loại, quy trình công nghệ + Tình hình nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới trong tương lai + Phương án sản xuất kinh doanh hiện tại và trong tương lai + Cơ cấu tổ chức của công ty mẹ + Tài liệu về tổ chức bộ máy của doanh nghiệp + Tài liệu về chế độ đối với người lao động + Tài liệu về người lao động + Tài liệu về người sản xuất và cung cấp nguyên vật liệu + Quyết định và thông._.hưa thực sự thu hút được sự quan tâm, chú ý của các doanh nghiệp mỗi khi doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn CPH hoặc kết hợp nhiều loại hình dịch vụ tư vấn cùng một lúc như: chuyển đổi hình thức hoạt động, tái cơ cấu tài chính, phát hành thêm cổ phiếu... Ngoài ra còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động tư vấn CPH của ACBS như: quy mô vốn của công ty chưa phải thuộc loại lớn nhất trong các CtyCK hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường, điều kiện trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác tư vấn.v.v.. Chương III: Một số giải pháp phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB 3.1. Định hướng phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa của ACBS: 3.1.1. Mục tiêu trước mắt: Trong những năm sắp tới, để đáp ứng sự phát triển của qui mô thị trường ngày càng tăng, hoạt động CPH ngày càng sôi động, hoạt động tư vấn CPH của ACBS đòi hỏi phải tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, và phải xác định đây là sản phẩm chủ đạo, đầy tiềm năng của công ty cần được xúc tiến mạnh mẽ. Trước hết, ACBS cố gắng hoàn thành các hợp đồng tư vấn CPH đã ký kết trong thời gian ngắn nhất có thể với hiệu quả cao nhất. Nguyên tắc hoạt động tư vấn của công ty chính là đề cao quyền lợi của khách hàng trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước và đạo đức nghề nghiệp của người kinh doanh chứng khoán. Do đó, cùng với việc tăng cường nhân lực về cả số lượng và chất lượng để phục vụ cho công việc tốt hơn, ACBS sẽ triển khai những nghiệp vụ tư vấn khác như: tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp,... nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao được giá trị của mình. Nhờ vậy, công ty sẽ đảm bảo giới thiệu đến công chúng đầu tư các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, và khả năng phát triển tốt. Về việc mở rộng thị trường mục tiêu, các đối tượng khách hàng doanh nghiệp đã và đang sử dụng dịch vụ tư vấn CPH của ACBS khá đa dạng, bao gồm các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp (Cty Điện tử Biên Hòa, CtyCP xây lắp điện và viễn thông, Cty xây lắp điện Hà Nội,...), Bộ Giao thông vận tải ( Cty dịch vụ vận tải Sài Gòn...), các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ (CtyCP thương mại Nam Sài Gòn,Trung tâm kim hoàn Sài Gòn...).v..v.. Ngoài ra, công ty cũng tham gia tư vấn cho các doanh nghiệp trực thuộc các tổng công ty 90, 91, trực thuộc các bộ ngành khác như: Cty VICADI-Tcty điện lực Việt Nam, Cty lương thực Hà Bắc-TCty lương thực miền Bắc... Trong thời gian tới, ACBS tiếp tục củng cố và phát triển thị trường cũ, đồng thời nỗ lực giới thiệu tới người đầu tư các doanh nghiệp lớn và kinh doanh thực sự hiệu quả trong những lĩnh vực khác như: vật liệu xây dựng, dầu khí, xây dựng công trình, dược phẩm,... Công ty cũng cố gắng đưa được nhiều tổ chức tham gia đấu giá trên các TTGDCK, nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho công chúng đầu tư, thu lợi nhiều tỷ đồng cho Nhà nước và doanh nghiệp. Cùng với việc xác định rõ thế mạnh của công ty, ACBS sẽ từng bước tiếp cận những nhóm khách hàng là các doanh nghiệp quy mô đủ lớn, đủ điều kiện niêm yết trên TTCK sau khi thực hiện CPH. Thực tế trong thời gian vừa qua, ACBS là một trong 3 CtyCK thực hiện hoạt động tư vấn phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu, bao gồm: CtyCK Bảo Việt (hồ sơ CtyCP Vật tư xăng dầu - Comeco và CtyCP Kinh đô), CtyCK Đông á (CtyCP Giấy Đồng Nai - Cogido), CtyCK ACB (CtyCP Dược phẩm 3/2). Công ty cũng sẽ chú trọng hơn tới các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên TTCK tập trung. Đây cũng là một nhóm đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của ACBS trong thời gian sắp tới. 3.1.2. Mục tiêu dài hạn: Trong ngắn hạn, doanh thu từ hoạt động tư vấn tài chính nói chung và tư vấn CPH/niêm yết nói riêng không phải là nguồn thu lớn nhất của ACBS. Tuy nhiên, xét trong dài hạn, đây là công tác trọng tâm, mang lại thu nhập ổn định, lâu dài và chủ chốt cho công ty. Bởi vì, hướng phát triển của CtyCP trong thời gian tới là lên niêm yết tại TTCK. Nếu làm tốt công tác tư vấn CPH, công ty sẽ tạo được uy tín, thu hút được nhiều khách hàng doanh nghiệp, từ đó gia tăng được nguồn thu từ phí tư vấn cũng như các khoản phí khác có liên quan. Đồng thời, việc niêm yết chứng khoán trên TTCK của các doanh nghiệp cũng góp phần lôi kéo sự chú ý và sự tham gia của công chúng vào hoạt động của TTCK chính thức. Đây là tiền đề, cơ sở quan trọng để công ty có thể triển khai tốt hơn các nghiệp vụ môi giới, lưu ký, quản lý cổ đông và các dịch vụ tư vấn tài chính khác. Do đó, mục tiêu của ACBS về lâu dài là đảm bảo cung cấp dịch vụ tư vấn CPH với chất lượng tốt nhất, không ngừng củng cố và mở rộng thị phần, tạo dựng hình ảnh và vị thế vững chắc cho công ty trong lĩnh vực này, góp phần thúc đẩy các nghiệp vụ khác của công ty cùng phát triển. 3.2. Một số đề xuất nhằm phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán ACB: Trên cơ sở định hướng phát triển nghiệp vụ tư vấn CPH của ACBS và cơ sở lý thuyết chung về những tiền đề để ACBS thực hiện tốt công tác này, kết hợp với những điều kiện thực tế của công ty, tôi xin đưa ra một số đề xuất như sau: * Phát triển nguồn nhân lực Cần phải nhận thức rõ một điều rằng nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định đến thành công của hoạt động tư vấn nói chung, tư vấn CPH nói riêng. Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ, trước hết phải đảm bảo các điều kiện về nhân tố con người. Công ty cần xây dựng chiến lược phát triển nhân lực trong dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, về cả số lượng và chất lượng. Trên cơ sở thực trạng đội ngũ chuyên viên tư vấn của bộ phận phân tích hiện nay còn trẻ, nắm vững chuyên môn, nhiệt tình với công việc nhưng lại rất hạn chế về số lượng, đồng thời cần phải được nâng cao hơn nữa về kiến thức nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và trau dồi kinh nghiệm, tạo được sự đồng đều trong trình độ của các chuyên viên, theo ý kiến của bản thân tôi, một số điều công ty cần chú ý thực hiện trong giai đoạn sắp tới là: Trước tiên, để phục vụ cho việc mở rộng khách hàng và đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn ngày càng tăng của các doanh nghiệp, công ty cần tuyển thêm nhân viên để bổ sung cho đội ngũ tư vấn viên ở trụ sở chính cũng như chi nhánh Hà Nội, bao gồm: chuyên viên về tài chính doanh nghiệp, chuyên viên về luật, và một số tư vấn viên am hiểu các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Công ty cũng cần thực hiện chuyên môn hóa trong phân công lao động, phân định trách nhiệm một cách khoa học và phù hợp với năng lực của từng cán bộ tư vấn. Đồng thời, ACBS cần tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn cũng như tăng cường sự trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với các chuyên viên tư vấn của các CtyCK khác. Một điều quan trọng là cần khích lệ tinh thần làm việc và ý thức gắn bó lâu dài với công ty thông qua việc sử dụng các hình thức khen thưởng vật chất cũng như động viên tinh thần cho những cá nhân đạt thành tích tốt. Trong dài hạn, công ty cần triển khai kế hoạch tuyển dụng, đào tạo phù hợp và mang tính lâu dài, thường xuyên.Có như vậy, mới đảm bảo được chất lượng của đội ngũ tư vấn phục vụ cho mục tiêu mở rộng thị trường, hướng tới đối tượng khách hàng doanh nghiệp có quy mô và năng lực tài chính lớn hơn. * Hoàn thiện quy trình tư vấn Chất lượng của hoạt động tư vấn CPH không chỉ phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ tư vấn viên, mà nó còn được quyết định bởi quy trình tư vấn mà công ty xây dựng và áp dụng linh hoạt cho mỗi DNNN CPH. Có thể nói quy trình tư vấn ACBS đã được xây dựng và từng bước chuẩn hóa, theo hướng đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của doanh nghiệp khách hàng về mặt thời gian, hiệu quả cũng như chi phí tư vấn. Tuy nhiên, trên cơ sở các quy định pháp luật về CPH đang được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện từng ngày, quy trình tư vấn của công ty cũng cần được bổ sung, hoàn chỉnh thêm cho phù hợp. Trong đó, cần đặc biệt chú ý tới một số vấn đề như: • Giai đoạn xây dựng phương án CPH: Trong giai đoạn này, khó khăn lớn nhất đối vớí hoạt động tư vấn của Công ty là công tác xác định giá trị doanh nghiệp và công tác xây dựng phương án lao động. Trên thực tế, những hướng dẫn cụ thể để giải quyết các vướng mắc này vẫn chưa có. Tuy nhiên, theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định, khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, Hội đồng định giá chỉ được sử dụng một trong hai phương pháp: phương pháp định giá theo giá trị tài sản áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều tài sản hữu hình, và phương pháp dòng tiền chiết khấu sử dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tư vấn, kế toán - kiểm toán, du lịch... Việc lựa chọn phương pháp nào để tiến hành định giá doanh nghiệp CPH thực sự là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng phương pháp tài sản mới thể hiện được giá sàn của doanh nghiệp, đảm bảo không thất thoát vốn của Nhà nước nhưng chưa thể hiện được giá trị thực tế của doanh nghiệp do vẫn không tính hết các giá trị tiềm năng như: lợi thế kinh doanh, tài sản vô hình (thương hiệu, tên tuổi doanh nghiệp, nhãn mác sản phẩm...), giá trị quyền sử đụng đất, .v.v..; đặc biệt khi các doanh nghiệp này đang làm ăn có lãi và có thương hiệu, thị phần lớn trên thị trường. Còn phương pháp chiết khấu sẽ giải quyết được hầu hết các vướng mắc trong việc xác định lợi thế thương mại và tiềm năng của doanh nghiệp. Nhưng yêu cầu của phương pháp này là cần xác định được dòng tiền tương lai một cách chính xác và chắc chắn để tính toán hệ số chiết khấu dòng tiền, do đó phải có kỹ thuật phức tạp, và chỉ sử dụng một cách hiệu quả nếu hội đủ những thông tin cần thiết. Chúng ta cũng có thể áp dụng đồng thời cả hai phương pháp để thể hiện được một khoảng dao động về giá trần - giá sàn của doanh nghiệp, giúp nhà đầu tư có cái nhìn khách quan hơn đối với giá trị doanh nghiệp và mức độ rủi ro trước khi quyết dịnh đầu tư. Do đó, tùy theo điều kiện cụ thể mà công ty sẽ nghiên cứu, lựa chọn phương pháp định giá thích hợp cho từng doanh nghiệp, trên cơ sở quy trình chung đã được hoàn thiện. Trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, cũng cần lưu tâm đến một số vấn đề khác như: thủ tục tư vấn và thực hiện công tác kiểm kê, phân loại và đánh giá tài sản. Doanh nghiệp và tổ chức định giá nên kiểm kê, phân loại tài sản không sử dụng được để giảm thiểu thời gian định giá. Có thể sử dụng những thông tin ghi trong sổ sách kế toán để chứng minh với cơ quan có thẩm quyền rằng, những tài sản như: ôtô bị tai nạn, vật tư quá hạn không cần dùng, hư hỏng hoặc chờ thanh lý... không cần phải định giá. Tài sản định giá phải đảm bảo chất lượng tối thiểu bằng 20% chất lượng tài sản mới, nếu không sẽ đưa vào diện thanh lý, phá dỡ... Như vậy, quá trình định giá doanh nghiệp sẽ được tiến hành với tiến độ nhanh hơn, thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, công ty cũng cần tập trung cho vấn đề xây dựng phương án sắp xếp và đào tạo lại lao động, vì đây là một vấn đề mang tính nhạy cảm cao, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Những món nợ bằng tiền dù sao cũng dễ giải quyết hơn gánh nặng thừa lao động - một hậu quả tất yếu của quá trình chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp. Từ thời kỳ bao cấp, trong các DNNN Giám đốc các doanh nghiệp được tự chủ trong việc tuyển dụng lao động, không có quy định khống chế định mức, dẫn đến tình trạng Giám đốc tuyển dụng quá nhiều lao động so với nhu cầu sản xuất. Hậu quả là khi các doanh nghiệp tiến hành sắp xếp lại đều có một bộ phận lao động không đáp ứng được yêu cầu và trở thành lao động dôi dư. Trong khi quy định hiện hành (Điều 31 Bộ Luật lao động) đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển quyền sở hữu, thì người sử dụng lao động kế tiếp vẫn phải thực hiện hợp đồng với tất cả lao động của doanh nghiệp. Vô tình Điều luật này đã trở thành vật cản của quá trình củng cố và đổi mới doanh nghiệp. Do đó, để thực hiện tốt công tác tư vấn sắp xếp và đào tạo lại lao động cho doanh nghiệp, công ty cần tham khảo dự thảo Nghị định về chính sách đối với lao động dôi dư trong việc sắp xếp, đổi mới phát triển DNNN sắp ban hành, đồng thời kết hợp với doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh lao động một cách linh hoạt, hợp lý theo quy định của pháp luật và yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp. • Giai đoạn xây dựng kế hoạch và phương án tư vấn sau CPH: Sau CPH, doanh nghiệp chuyển đổi sang một loại hình sở hữu hoàn toàn khác với hình thức DNNN trước đây, chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, do đó không tránh khỏi những khó khăn bỡ ngỡ ban đầu về: yêu cầu quản trị công ty theo thông lệ quốc tế, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, hay về lao động dôi dư..., đặc biệt là vướng mắc trong vấn đề tài chính của doanh nghiệp. Đây chính là mảng mà công ty có thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ tư vấn hỗ trợ nhằm giúp doanh nghiệp ổn định và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi CPH. Đồng thời, chính sách của nhà nước ta hiện nay là khuyến khích các công ty CPH có đủ điều kiện lên tham gia niêm yết trên TTCK. Do đó, công ty cần tăng cường hoạt động tư vấn phát hành/niêm yết, phát huy vai trò trung gian, là chiếc cầu nối các nhà đầu tư với TTCK, giúp công chúng đầu tư cũng như các doanh nghiệp quan tâm hơn tới thị trường và đến với các dịch vụ của ACBS. Công ty cũng cần phối hợp với các CtyCK khác trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành để giải quyết kịp thời các vướng mắc về quyết toán thuế, giới hạn trong quy định về bảo lãnh phát hành, từ đó khắc phục được tình trạng thời gian xét duyệt hồ sơ bị kéo dài, nhận được nhiều hợp đồng có giá trị lớn. * Gia tăng năng lực về vốn Hiện nay, quy định của pháp luật về chứng khoán có chiều hướng khuyến khích các CtyCK nâng cao năng lực tài chính bằng cách tăng mức vốn tối thiểu yêu cầu cho mỗi loại hình dịch vụ chứng khoán. Điều này thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của mỗi CtyCK bởi, chỉ có các CtyCK có tiềm lực tài chính mạnh mới đủ điều kiện làm công ty kinh doanh đa năng (full service brokerage firm). Những công ty có quy mô nhỏ hơn hoặc là sẽ chỉ chuyên thực hiện một số loại hình dịch vụ nhất định, hoặc là làm nhà môi giới phụ (sub-broker) cho CtyCK khác. Cần phải thấy rằng việc thực hiện đa dạng các nghiệp vụ không những giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công ty, mà chính các nghiệp vụ này sẽ có tác dụng hỗ trợ tích cực cho nhau trong quá trình hoạt động. Cụ thể, hoạt động tư vấn CPH sẽ được thực hiện hiệu quả hơn nếu công ty cũng triển khai tốt các nghiệp vụ khác như: bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính doanh nghiêp hay tự doanh... ( Chẳng hạn, trong giai đoạn đấu giá bán cổ phần ra công chúng, công ty cũng có thể thực hiện bảo lãnh phát hành hay đại lý phát hành đối với những doanh nghiệp có nhu cầu và đủ điều kiện). Việc tăng vốn kinh doanh cũng tạo điều kiện để công ty có thể cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty, trong đó có lĩnh vực tư vấn CPH. Do đó, trong thời gian tới, ACBS cần tăng vốn và mở rộng phạm vi kinh doanh của các nghiệp vụ khác cũng như nghiệp vụ tư vấn CPH nói riêng. Với một nguồn lực dồi dào về tài chính dành cho hoạt động tư vấn, ACBS mới có thể tiếp tục triển khai các hoạt động tư vấn trên diện rộng. Bởi cũng như bất cứ một hoạt động nghiệp vụ nào khác, trước khi có được nguồn thu từ hoạt động tư vấn, công ty phải chi phí cho các hoạt động khuếch trương, quảng bá thương hiệu và sản phẩm dịch vụ tư vấn, cho quá trình tiếp xúc và thăm dò các doanh nghiệp. Hiện nay, công ty mới chỉ sử dụng mạng lưới quan hệ để tìm kiếm khách hàng, vẫn chưa đủ khả năng về vốn đầu tư cho hoạt động tư vấn để thực hiện các chiến dịch quảng cáo lớn, có quy mô và mang tầm chiến lược cũng như phát triển một bộ phận Marketing riêng phục vụ cho nghiệp vụ tư vấn. Bên cạnh đó, khả năng nghiên cứu và triển khai ứng dụng các kỹ thuật nghiệp vụ mới của công ty cũng còn hạn chế do chưa được quan tâm đầu tư vốn. Trong thời gian tới, công ty cần thành lập một bộ phận riêng để thực hiện các nghiên cứu, đánh giá nhu cầu thị trường hoặc nghiên cứu, tìm hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ tiên tiến, phức tạp trên thế giới để áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Ngoài ra, ACBS phải thường xuyên theo dõi, nắm bắt các thông tin về CPH DNNN nhất là lịch trình CPH từ các Bộ và Tổng công ty, cũng như các văn bản pháp luật có liên quan để điều tiết hoạt động tư vấn của công ty cho phù hợp. Đồng thời, công ty cần tiếp tục duy trì các mối quan hệ sẵn có với các cấp quản lý, các doanh nghiệp, tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm và mở rộng mạng lưới khách hàng mới, đặc biệt chú trọng tới nhóm khách hàng là doanh nghiệp lớn trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và các ngân hàng TMCP có đủ điều kiện niêm yết trên TTCK. Để gia tăng năng lực hoạt động tư vấn của công ty, ACBS cũng cần tích cực tìm kiếm các dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA) từ các tổ chức quốc tế để hỗ trợ công ty nhanh chóng hiện đại hóa hoạt động, cập nhật hóa và hiện đại hóa kiến thức tài chính cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ tư vấn, phân tích tại công ty. 3.3. Kiến nghị Để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tư vấn CPH của các CtyCK nói chung và của ACBS nói riêng, vai trò của Chính phủ, UBCKNN, các Bộ, Ban, ngành có liên quan là rất quan trọng. Trước tiên, cần đưa tiến trình CPH DNNN của nước ta bước sang giai đoạn thay đổi về chất, chuyển từ đẩy mạnh sang đẩy nhanh, không chỉ tăng tốc về tốc độ mà quan trọng hơn, đối tượng, phạm vi, cách thức, phương pháp CPH cũng phải có những bước nhảy vọt về cả lượng và chất. Trong bối cảnh tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay, việc nâng cao sức cạnh tranh cho các DNNN và cho cả nền kinh tế là một trong những vấn đề cần ưu tiên nhất. Một trong nhiều giải pháp khả thi có thể triển khai ngay là đa dạng hóa sở hữu để thay đổi hẳn phương thức quản lý và nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp. Và như vậy, CPH DNNN là con đường ngắn nhất và chủ động nhất để thực hiện được các mục tiêu này. Đẩy nhanh tiến độ, CPH DNNN không những góp phần gia tăng nguồn cung trên TTCK, mà còn gia tăng một số lượng đáng kể các nhà đầu tư chứng khoán ngay từ bên trong của chính doanh nghiệp được CPH và các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. Đối với các CtyCK, CPH cũng đã tạo điều kiện để các trung gian tài chính này có thể triển khai các dịch vụ môi giới, tự doanh, tư vấn CPH, xác định giá trị doanh nghiệp, đại lý và bảo lãnh phát hành chứng khoán..., bởi thói quen và nhu cầu sử dụng các dịch vụ mà CtyCK cung cấp của các khách hàng doanh nghiệp gia tăng. Hiện nay, do vẫn còn tồn tại nhiều bất cập từ chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tín dụng, chính sách quản lý phát hành, nhiều CtyCP đủ điều kiện niêm yết vẫn e ngại phát hành các công cụ tài chính và niêm yết chứng khoán trên TTCK. Để thực hiện chủ trương gắn CPH DNNN với niêm yết chứng khoán và khuyến khích các DNNN có quy mô tương đối lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng phát triển tốt để CPH và niêm yết ngay trên TTCK, Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế (miễn, giảm) đủ mạnh để hấp dẫn các CtyCP đủ điều kiện niêm yết thực hiện niêm yết trên TTCK. Từ nay đến năm 2010, nên thực hiện chính sách ưu đãi lũy thoái cho các Công ty thực hiện niêm yết chứng khoán trên TTCK. Theo đó, lấy thời điểm 2005 làm mốc, mức ưu đãi về thuế khi niêm yết chứng khoán sẽ giảm dần qua các năm tính từ năm 2005. Sau 2010, mọi chế độ ưu đãi về thuế sẽ chấm dứt. Cho đến nay, cơ sở pháp lý về CPH đã được hình thành một cách có hệ thống, nhiều văn bản, chính sách chỉ đạo, hướng dẫn công tác CPH của cơ quan quản lý được ban hành như: Chỉ thị 11/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết TW 9 khóa IX, trong đó yêu cầu Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung ngay các văn bản pháp quy đảm bảo căn cứ cho việc mở rộng diện CPH các DNNN; Quyết định 155/2004/QĐ-TTg về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty nhà nước; Nghị định 187/2004/NĐ-CP ( ngày 16/11/2004), về việc chuyển công ty nhà nước thành CtyCP đã mở rộng diện DNNN cần CPH, thực hiện nguyên tắc thị trường đối với việc định giá doanh nghiệp CPH và mua bán công khai cổ phiếu, khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; Quyết định 528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/6/2005 phê duyệt danh sách công ty CPH thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các TTGDCK Việt Nam.v.v.. Tuy nhiên, nhu cầu có một bộ Luật Chứng khoán hoàn chỉnh để tạo lòng tin cho các chủ thể tham gia trên TTCK là hết sức cấp bách. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của thị trường, khắc phục những khó khăn mà ở tầm pháp lý hiện nay Nghị định 144/2003/NĐ-CP (ngày 28/11/2003) và các văn bản hướng dẫn khác chưa thể giải quyết được. Để có thể xây dựng được một bộ Luật Chứng khoán minh bạch, đầy đủ, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu của TTCK còn non trẻ của Việt Nam và xu thế phát triển của ngành công nghiệp chứng khoán trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và quốc tế hóa các TTCK, trước hết khi bàn đến những chi tiết cụ thể trong dự luật, thiết nghĩ, cần thống nhất một số nguyên tắc chỉ đạo để làm cơ sở cho việc xây dựng bộ Luật. Có thể kể đến một số quan điểm định hướng mang tính nguyên tắc sau: Một là, Luật Chứng khoán cần phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ quốc tế chứ không nên và không thể vin vào lý do xuất phát điểm nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn thấp để sáng tạo riêng cho mình một luật chơi, dẫn đến không tránh khỏi tính tùy tiện, chắp vá, thiếu tính hệ thống. Hai là, Luật Chứng khoán phải đủ cụ thể, đủ chi tiết, nhất là các chế tài đối với các hành vi công bố những thông tin sai lệch và thiếu trung thực trong hồ sơ phát hành và bản cáo bạch, các thủ tục đình chỉ phát hành để có thể làm căn cứ điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong thực tế, nhằm bảo vệ các nhà đầu tư có hiệu quả, tránh cách hiểu và hướng dẫn thực hiện tùy tiện. Ba là, Luật Chứng khoán phải được thiết kế đủ mở để phạm vi điều chỉnh của Luật có thể bao quát đến các chủ thể tham gia thị trường, các cơ quan quản lý, các sản phẩm tài chính đã có, sẽ có và của chính bản thân thị trường. Đây là điều kiện cần để đảm bảo tính ổn định của Luật. Dĩ nhiên, hai yêu cầu trên là mâu thuẫn, khó có thể cùng tồn tại trong một bộ luật. Vì vậy, để có thể đồng thời thỏa mãn cả hai yêu cầu đầy đủ, chi tiết và đủ mở, UBCKNN nên tập trung sức xây dựng song song hai bộ Luật: Luật Chứng khoán và Luật Sở Giao dịch chứng khoán. Sau đó, cần vạch một lộ trình cụ thể để xây dựng các bộ luật liên quan khác như: Luật tư vấn đầu tư, Luật tín thác (trust inventure), luật công ty đầu tư ... như thông lệ của các nước đã có TTCK phát triển. Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý thị trường, ngoài những nỗ lực của UBCKNN, còn cần sự ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Tài chính, sự phối hợp của các Bộ, Ban, ngành liên quan. Bên cạnh đó, Chính phủ và các Bộ, trong đó có Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh xã hội cần xem xét và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn nhằm tháo gỡ các vướng mắc về mặt pháp lý mà các tổ chức tư vấn gặp phải trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Cụ thể là: Về bước xác định giá trị doanh nghiệp: cần tiếp tục hoàn chỉnh hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã có và đưa thêm các phương pháp định giá mới kèm theo hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài Chính, tránh tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước nếu xác định giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường, hoặc định giá quá cao gây khó khăn cho quá trình bán cổ phần ra công chúng. Thêm nữa, Chính phủ cần xem xét lại quyết định về việc giữ 51% cổ phần tại các doanh nghiệp CPH làm phần vốn Nhà nước và bổ sung các chính sách phù hợp để quản lý phần vốn này một cách hiệu quả nhất mà vẫn đảm bảo tính tự chủ cho doanh nghiệp. Về các vấn đề có liên quan đến người lao động: Chính phủ đã có chủ trương hỗ trợ, thực hiện nhiều chính sách ưu tiên cho người lao động trong các DNNN CPH. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều bất cập cần giải quyết kịp thời, nhất là đối với số lao động dôi dư sau CPH. Trước hết là sự hoạt động kém hiệu quả của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH doanh nghiệp. Từ trước đến nay, nguồn kinh phí chi trả cho người lao động chủ yếu trông vào Quỹ này. Tuy nhiên, tính đến nay, các khoản chi trợ cấp lao động dôi dư cho công tác CPH chỉ đạt trên 6,4 tỷ đồng, chiếm một con số rất nhỏ trong nguồn thu từ quỹ là 718,6 tỷ đồng. Hơn nữa, nguyên tắc cấp kinh phí của Quỹ là “nguyên tắc cấp một lần”. Theo đó, mỗi doanh nghiệp thuộc phạm vi hỗ trợ của Quỹ chỉ được lập hồ sơ xin hỗ trợ một lần. Hậu quả là nếu doanh nghiệp lập hồ sơ chưa hoàn chỉnh hoặc chỉ cần thiếu hồ sơ của một người lao động thì toàn bộ hồ sơ của doanh nghiệp sẽ phải chờ đợi xét duyệt, làm kéo dài thời gian thực hiện CPH của doanh nghiệp. Thêm nữa, Chính phủ cần xem xét thêm các chính sách ưu đãi đối với người lao động, đặc biệt là lao động dôi dư để giảm bớt tình trạng người lao động dôi dư vẫn tiếp tục đeo bám doanh nghiệp, không muốn để DNNN thực hiện CPH. Do đó, Bộ Lao động thương binh và xã hội cần nhanh chóng hoàn thiện Nghị định về chính sách đối với lao động dôi dư trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN để sớm trình Chính phủ ban hành. Bên cạnh đó, Chính phủ và Bộ Tài Chính cần đưa ra các giải pháp hữu hiệu hơn để thúc đẩy TTCK phát triển, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu của các CtyCP, cũng như tăng cường sự nhận thức pháp luật về chứng khoán và TTCK cho công chúng đầu tư, các doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Song song với khung pháp lý về CPH, Chính phủ cũng cần ban hành các văn bản pháp luật về lĩnh vực tư vấn CPH cùng các văn bản hướng dẫn cụ thể của UBCKNN và Bộ Tài Chính. Tính đến nay, UBCKNN cũng đã thể hiện được vai trò của mình trên thị trường, thông qua việc thực hiện được một khối lượng lớn công việc có tác động mạnh đến hoạt động tư vấn CPH của CtyCK như: qui chuẩn hóa hoạt động đấu giá cổ phần, ban hành danh sách các doanh nghiệp bán đấu giá - đăng ký giao dịch - niêm yết, hay ban hành quy chế về công bố danh sách tổ chức có khả năng định giá, tư vấn CPH hàng năm... Việc công khai chất lượng của các tổ chức định giá và số lượng doanh nghiệp mà tổ chức định giá đã thực hiện năm trước, trong đó xác định rõ có bao nhiêu doanh nghiệp bán cổ phần thành công có tác dụng thúc đẩy các cổ chức định giá (bao gồm cả các CtyCK) không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn, đưa ra mức phí cạnh tranh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, tăng uy tín cho công ty trong lĩnh vực tư vấn CPH. Cùng với việc mở Sàn giao dịch Hà Nội, thành lập Trung tâm lưu ký chứng khoán, mở “room” cho nhà đầu tư nước ngoài, tiến hành sửa đối, soạn thảo nhiều lần dự thảo Luật Chứng khoán,... những quy định điều chỉnh hoạt động tư vấn CPH của các CtyCK cần phải tiếp tục được ban hành, bổ sung và hoàn thiện theo chiều hướng ngày càng hợp lý hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của CtyCK, các DNNN CPH cũng như sự phát triển bền vững của TTCK. Kết luận Hoạt động tư vấn cổ phần hóa của các công ty chứng khoán đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cải thiện tình hình số lượng và chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, đồng thời góp phần đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của quy trình, thủ tục cổ phần hóa và do sự mới mẻ của hoạt động tư vấn này nên tư vấn cổ phần hóa vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần xem xét và hoàn thiện. Hy vọng trong thời gian tới, Công ty chứng khoán ACB sẽ tiếp tục duy trì những thành tựu đã đạt được, cũng như phát triển tốt hơn nữa hoạt động về cả chiều rộng và chiều sâu để đạt được những mục tiêu và chất lượng mà công ty đã đặt ra. Qua thời gian thực tập tại Công ty chứng khoán ACB - Chi nhánh Hà Nội, được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo, các nhân viên phòng Tư vấn - ACBS đã giúp em nắm bắt, thâm nhập thực tế, củng cố kiến thức và hoàn thiện kiến thức lý luận tiếp thu được trong nhà trường, tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa luận với nội dung:”Hoạt động tư vấn cổ phần hóa tại Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu - Thực trạng và giải pháp”. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn chế, nguồn tài liệu tham khảo không nhiều, luận văn mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản cũng như mới chỉ đưa ra những ý kiến ban đầu, chắc chắn không thể tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các nhân viên phòng Tư vấn - ACBS để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo - TS. Lê Hoàng Nga, các thầy cô giáo trong khoa Tài Chính - Học viện Ngân Hàng cùng tập thể nhân viên phòng Tư vấn - Công ty chứng khoán ACB đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 2. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần 3. Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước 4. Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước 5. Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 09/9/2002 hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 6. Thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 7. Thông tư số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần 8. Báo Đầu tư chứng khoán số 23 ( ngày 22/2/2006) 9. Tạp chí ngân hàng số 12 năm 2005 10. Tạp chí chứng khoán tháng 9/2004 11. Báo Công nghiệp Việt Nam ngày 12/4/2004 12. Chứng khoán Việt Nam số 1+2, 3, 4, 5, 10, 11/2005 13. Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần - NXB Chính trị Quốc gia - 2001 14. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán - NXB Xây dựng Hà Nội-1999 15. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - NXB Chính trị Quốc gia - 2001 16. Tài liệu về tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Công ty chứng khoán Ngân hàng á Châu Mục lục Trang Phụ lục Danh mục tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0202.doc
Tài liệu liên quan