mục lục
Lời mở đầu
Phần I- những vấn đề cơ bản về hoạt động của các ngân hàng thương mại
I- Khái niệm, đặc trưng, vai trò chức năng của các ngân hàng thương mại
1. Khái niệm.
2. Đặc trưng của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Luật các tổ chức tín dụng
3. Vai trò chức năng của ngân hàng thương mại.
II- Hoạt động tín dụng
III- Thực trạng về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
1. Những vấn đề chung.
2.Thực trạng.
3. Những nguyên nhân dẫn đến chất lượng t
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động tín dụng của Ngân hàng & thực trạng cũng như đề ra Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ín dụng giảm
4. Những chỉ tiêu đánh giá rủi ro.
5. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Phần II - Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
Lời mở đầu
Mấy năm gần đây, hoạt động trong ngân hàng thương mại (NHTM) không ngừng thực hiện khẩu hiệu "chấn chỉnh hoạt động tín dụng ngân hàng". Tại sao phải chấn chỉnh, chấn chỉnh như thế nào, bằng biện pháp nào? đó là những câu hỏi lớn mà các nhà lãnh đạo, phân tích kinh tế đang xem xét. Hiểu theo nghĩa đơn giản: là để nâng cao chất lượng tín dụng thì phải chấn chỉnh lại, xem xét lại công tác tín dụng từ khâu chấp hành nguyên tắc cho vay, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, công tác thu nợ cả gốc và lãi; cái gì làm đúng thì phát huy, cái gì làm chưa đúng thì phải uốn nắn lại. Khi đã gọi là chấn chỉnh hoạt động tín dụng thì chúng ta liên tưởng ngay hoạt động tín dụng đang có những vấn đề không bình thường. Đúng là tín dụng đang có những biểu hiện không bình thường vì không cho vay được, nợ quá hạn, nợ tín dụng khó đòi đang có chiều hướng gia tăng, chưa kể đến những vụ đổ bể tín dụng, xí nghiệp, Công ty phá sản, các con nợ chạy trốn và những vụ cố ý chiếm đoạt tài sản Nhà nước, nhân dân. Để góp phần tìm hiểu được những vấn đề vướng mắc trong hoạt động tín dụng, trong bài này sẽ làm rõ những hoạt động tín dụng của ngân hàng và thực trạng cũng như đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Phần I
Những vấn đề cơ bản về hoạt động
của các ngân hàng thương mại.
I- Khái niệm, đặc trưng, vai trò chức năng của các ngân hàng thương mại.
1. Khái niệm.
Thuật ngữ "ngân hàng" đã xuất hiện từ lâu, tuy nhiên trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, quan niệm về ngân hàng và hoạt động nghiệp vụ ngân hàng có những thay đổi về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với tư bản cho vay lấy lãi. Chức năng ban đầu của ngân hàng là người tổ chức trung gian thanh toán làm cho ngân hàng trở thành tư bản tiền tệ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, nhất là trong nền kinh tế thị trường, trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động kinh tế tài chính mới mà khả năng ngân hàng không thể biểu thị hết được mà hiện nay thuật ngữ đang có xu hướng được sử dụng thay cho thuật ngữ ngân hàng ở phạm vi rộng là "các định chế tài chính" và các tổ chức tài chính trung gian. Tổ chức này thực hiện việc thu nhận toàn bộ các nguồn vốn trong toàn xã hội mà nó huy động được để đầu tư thông qua việc cấp tín, các chứng khoán hay các hoạt động tài chính khác.
Như vậy, với quan điểm ngân hàng là bao gồm các "định chế tài chính", ngân hàng nước ta đang là ngành quản lý và điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong lưu thông, là kênh huy động, điều phối chính để đảm bảo nhiệm vụ đầu tư cho quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hoá. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thị trường vốn còn sơ khai, thị trường chứng khoán chưa hoạt động có hiệu quả, các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay thì hoạt động của ngân hàng đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta. Có thể nói: hoạt động ngân hàng nói chung, và ở nước ta nói riêng, phản ánh một cách tập trung và chính xác, nhanh nhạy nhất toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế xã hội của nước ta hay nói cách khác đó là "biểu kế" của nền kinh tế quốc dân.
Năm 1991, thực hiện pháp lệnh về ngân hàng, ngân hàng Việt Nam tách ra thành hai hệ thống: ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại. Mỗi hệ thống thực hiện những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nhưng đồng thời phụ thuộc lẫn nhau đóng góp tích cực hơn vào quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò định hướng và hoạt động quản lý tiền tệ. Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh: được coi như một doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt, kinh doanh tiền tệ. NHTM hoạt động ngày càng đa dạng và có hiệu quả đáp ứng hơn nữa nhu cầu đầu tư cho nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh những mặt được còn tồn tại một số mặt chưa được trong hoạt động của NHTM nhất là hoạt động tín dụng.
2. Đặc trưng của ngân hàng thương mại Việt Nam theo Luật các tổ chức tín dụng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì NHTM Việt Nam phát triển với những đặc trưng cơ bản sau:
- Thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng (huy động vốn, cho vay và thanh toán) và các hoạt động kinh doanh dịch vụ có liên quan.
- Thực hiện huy động vốn và cấp tín dụng ngắn hạn là chủ yếu, tức là duy trì qui mô sản xuất kinh doanh đã có của khách hàng. Với đòi hỏi ngày càng cao của thị trường tiền tệ và với sự trưởng thành của bản thân, các ngân hàng thương mại được phép và cần thiết chuyển từ hoạt động tín dụng ngắn hạn chủ yếu qua các nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng trung và dài hạn, vì sự mở rộng qui mô sản xuất của khách hàng.
- Hoạt động của NHTM lấy lợi ích kinh tế xã hội làm mục tiêu và lấy lợi nhuận làm đòn bẩy kinh tế. Nó là loại ngân hàng hoạt động vì sự tìm kiếm lợi nhuận.
-Xét về mặt sở hữu, NHTM có thể là NHTM Nhà nước, NHTM hợp tác, NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Luật các tổ chức tín dụng không thừa nhận loại hình NHTM cổ phần tư nhân mà chỉ cho phép thành lập NHTM cổ phần giữa Nhà nước và nhân dân.
- NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tổng hợp (nghiệp vụ truyền thống và các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới phát sinh) và kinh doanh đa năng (nghiệp vụ về chứng khoán và bảo hiểm).
- NHTM là loại hình ngân hàng tham gia "tạo tiền" với hệ số tạo tiền lớn nhất, đẻ ra các công cụ lưu thông tín dụng rộng rãi nhất. Vì vậy NHTM là loại ngân hàng hoạt động gặp nhiều rủi ro nhất cần được quản lý chặt chẽ nhất để đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ và hệ thống các tổ chức tín dụng.
- NHTM chịu sự quản lý Nhà nước của NHNN về tổ chức và hoạt động của ngân hàng.
3. Vai trò chức năng của ngân hàng thương mại.
a. NHTM là những trung gian tài chính, là môi giới giữa người gửi tiền và người vay vốn, giữa tiết kiệm và đầu tư. Hay nói cách khác, nó thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và hoạt động tín dụng. Trên cơ sở huy động các khoản tiền gửi, sau đó thực hiện cho vay với lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động. Hoặc sử dụng và đầu tư. Ngoài ra còn thực hiện cung cấp các dịch vụ khác như: thanh toán, chuyển tiền, bảo quản các chứng từ có giá, kinh doanh vàng bạc, chứng từ uỷ thác....
b. Bằng con đường tăng trưởng vốn, các NHTM góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông qua tập trung vốn, NHTM cho doanh nghiệp vay để có vốn tăng qui mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị , áp dụng tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy sản xuất phát triển.
c. Với tư cách là một hệ thống, các NHTM tham gia quá trình "tạo tiền" làm thu hẹp hay mở rộng hệ số của các phương tiện thanh toán, tạo cân đối hay làm mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, làm giảm nhẹ hay gây áp lực với hàng hoá, giá cả ....
d. Đằng sau hoạt động NHTM diễn ra quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
II- Hoạt động tín dụng.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tín dụng. Nhưng tóm lại, dù có nhiều định nghĩa khác nhau thì bản chất của nó là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả lại nhau.
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và những căn cứ khác nhau mà phân loại tín dụng thành: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng tiêu dùng, tín dụng cho thuê tài sản.... Trong bài này chúng đề cập đến tín dụng ngân hàng.
Chức năng của tín dụng là:
- Tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng. Thông qua tín dụng, các doanh nghiệp nhận vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế.
- Là công cụ bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Thực hiện điều hoà vốn giữa các ngành, các vùng.
- Làm cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động, mềm dẻo và linh hoạt.
- Là công cụ tăng vòng quay của vốn và giảm tiền mặt trong lưu thông.
Hoạt động chính của ngân hàng là cấp tín dụng cho khách hàng. Hay hiểu theo nghĩa đơn giản là việc sử dụng tiền vào mục đích đầu tư và cho vay thu lợi nhuận của ngân hàng. Hoạt động tín dụng trong NHTM bao gồm rất nhiều hình thức khác nhau như: tín dụng ngắn, trung và dài hạn, phí tín dụng, cho vay tiền, bảo lãnh, uỷ thác... ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến tín dụng cho vay của ngân hàng
III- Thực trạng về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
1- Những vấn đề chung.
Cho đến nay, trên đất nước ta đã có nhiều loại hình tổ chức tín dụng với số lượng khá đông hoạt động:
+ 6 ngân hàng Nhà nước
+ 51 ngân hàng thương mại cổ phần (31 NHTM cổ phần đô thị và 20 NHTMCP nông thôn).
+ 5 chi nhánh NHTM nước ngoài.
+ 4 ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài.
+ 1000 quỹ tín dụng nhân dân
+ 5 Công ty tài chính (2 Công ty tài chính cổ phần và 3 Công ty tài chính của tổng Công ty Nhà nước).
+ 8 Công ty cho thuê tài chính (2 Công ty liên doanh, 1 Công ty nước ngoài và 5 Công ty ngân hàng quốc doanh).
Ngoài ra còn một hệ thống tiết kiệm bưu điện mới thành lập và gần 60 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài hoạt động. Tổng số người làm việc trong lĩnh vực ngân hàng khoảng 60.000 người (trong tổ chức tín dụng 51.000 người).
Các tổ chức tín dụng phát triển nhanh nhất vào khoảng các năm 1992-1995 thời kỳ thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng, tổ chức lại hợp tác xã tín dụng và mở cửa quan hệ quốc tế. Đây vừa là ưu thế để thúc đẩy cạnh tranh của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng với nhau, giúp không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng của các hoạt động tín dụng. Nhưng đồng thời cũng là một khó khăn trong việc hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Từ khi tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh. Do có sự phân công và phối hợp giữa hai hệ thống này, giúp cho vai trò của ngân hàng được thực hiện, đóng góp tích cực hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nhất là giai đoạn đang quá độ và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện qua tốc độ tăng trưởng nhanh (trung bình 8,2-8,5%/năm, tốc độ phát triển của các ngành nghề, tạo công ăn việc làm, góp phần tích cực vào chính sách xã hội như xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ vốn cho nông dân phát triển kinh tế .Và một điều đáng nói nữa là: trong khi các nước khác chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, thì nước ta không những chỉ có ảnh hưởng chút ít,lại còn giữ vững được sự ổn định của tiền tệ, giữ vững mức độ tăng trưởng cao nhất Đông Nam á, và cao hơn nhiều nước trên thế giới. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận rằng hoạt động của ngân hàng vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện, do vậy vẫn còn tồn tại một số vấn đề mà cần có sự điều chỉnh và đổi mới để phát huy hơn nữa những kết quả đã đạt được,nhất là trong lĩnh vực hoạt động tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng cũng là một hình thức kinh doanh nhưng rất đặc biệt, nó khác với ngành nghề kinh doanh khác. Nó hoạt động theo phương châm "đivay để cho vay", từ đó thu lợi nhuận từ hoạt động cho vay là chủ yếu. Đi vay thì phải trả, ngoài gốc còn có lãi. Thế nên nếu ngân hàng, tổ chức tín dụng thực hiện quản lý cho vay không tốt hoặc là không cho vay được hoặc là cho vay nhưng gặp những rủi ro như không đòi được nợ thì sẽ bị thiệt hại, làm giảm kinh doanh thậm chí có thể phá sản, điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của nền kinh tế quốc dân.Đó là những rủi ro đòi hỏi các NHTM phải khắc phục, ngăn chặn đồng thời tìm được hướng đi và biện pháp hữu hiệu.
Trong quá trình đổi mới, chúng ta còn vấp phải nhiều, điều này thể hiện sự yếu kém trong quản lý hoạt động ngân hàng.Mấy năm vừa qua, liên tục trên đài, báo chí....đưa tin về các vụ đổ vỡ tín dụng, ngân hàng bị thất thoát tài sản, những vụ lừa đảo chiếm đoạt tài của khách hàng, cán bộ tín dụng ngân hàng... mà sự việc xảy ra liên tục từ Nam chí Bắc, hết ở tỉnh này đến tỉnh khác. Điều đó chứng tỏ việc quản lý, sử dụng vốn của hoạt động ngân hàng nhất là trong hoạt động cho vay chưa có hiệu quả.
2. Thực trạng.
Trên thực tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam vốn chưa đủ mạnh lại phải đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nên những yếu kém càng lõ rõ.
Nhìn chung, các NHTM Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn tự có và vốn điều lệ ở mức thấp, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản của phần lớn các ngân hàng đều dưới 5% so với mức tối thiểu của quốc tế là 8%. Thế mà tỷ lệ nợ quá hạn và các khoản nợ đọng chờ xử lý không sinh lời của hệ thống ngân hàng vào khoảng 15%, tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trong tổng nợ quá hạn của phần lớn các NHTM đều trên 50%. Vấn đề này liên quan đến trình độ quản lý của các NHTM, hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng, chính sách tín dụng Nhà nước, các thiết chế về bảo đảm tiền gửi và cho vay nói chung. Bên cạnh đó, mặc dù các NHTM đã cố gắng phát triển các dịch vụ ngân hàng, nhưng nhìn chung vẫn còn nghèo nàn và chất lượng thấp, hiệu quả hoạt động của khu vực này không đủ bù đắp cho sự giảm nhanh chóng lợi nhuận từ khu vực tín dụng. Tóm lại hiệu quả hoạt động chung của hệ thống ngân hàng còn thấp.
Nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh là vấn đề quan tâm số một của hoạt động kinh doanh tiền tệ. Sự suy giảm chất lượng tín dụng ở phạm vi rộng lớn là mầm móng cho khủng hoảng kinh tế có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, cách đây hai năm, NHNN đã yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng bằng công văn 756/CV-NH3 và đến nay có thể nói toàn ngành ngân hàng có những chuyển biến đáng kể. Các tổ chức tín dụng đã quan tâm đúng mức đến việc áp dụng các biện pháp để xử lý nợ quá hạn. Tuy vậy, hiện nay theo kết luận của Thống đốc NHNN tại hội nghị giám đốc NHNN tháng 7 năm 1998: "Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp tăng cường thu hồi nợ quá hạn và nâng cao chất lượng tín dụng, nhưng tình hình nợ quá hạn vẫn cao, chưa được khắc phục và còn tiếp tục gia tăng".
Tín dụng với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hiện tại mỗi NHTM quốc doanh được cấp 1.100 tỷ đồng vốn điều lệ (70 triệu USD) và giới hạn an toàn nguồn vốn huy động khoảng 30.000 tỷ đồng (2 tỷ USD). Như vậy quy mô hoạt động của ngân hàng quá nhỏ để mở rộng đầu tư và hội nhập quốc tế. Với vai trò là trung gian tài chính cung cấp nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được những hiệu quả đáng kể thì những tồn tại trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Có thể nói nợ quá hạn là tồn tại cơ bản nhất, nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như tình hình kinh tế - xã hội. Qua số liệu thống kê, nhiều doanh nghiệp Nhà nước có trị giá taì sản còn lại chỉ bằng 61% nguyên giá tài sản cố định, còn vốn lưu động do Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước chỉ mới đạt khoảng 20% so với yêu cầu sản xuất kinh doanh nhưng thực tế chỉ đạt được 10% so với định mức. Chính vì vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Nhà nước phải đi vay ngân hàng với số lượng lớn, tỷ trọng vốn đi vay chiếm 80 - 90% vốn tự có, thậm chí còn gấp 3-4 lần vốn tự có. Vay nhiều thì phải trả nhiều, vì thế có người nói phải giả lãi vay cho ngân hàng nhiều là nguyên nhân trực tiếp gây thua lỗ. Điều này dễ hiểu, tiền ngân hàng cho vay là tiền ngân hàng đi vay của dân, có ngân hàng 70-80% nguồn vốn cho vay là tiền gửi tiết kiệm của dân. Còn lại là tiền có nguồn gốc vay từ nước ngoài hay tiền tạm vay từ tiền nhàn rỗi của các tổ chức khác. Họ có biết đâu, các khoản vay này ngân hàng phải trả cả gốc lẫn lãi không được khất hoãn. Vậy thì đó có phải là nguyên nhân trực tiếp không. Trên thực tế, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý thấp kém với trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Theo đánh giá của Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước về hoạt động của 5.800 doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thì kết quả cho thấy chỉ còn 37% hoạt động có hiệu quả, còn 46,4% chưa có hiệu quả thuộc diện khó khăn tạm thời, có số nợ phải thu khó đòi và lỗ luỹ kế là 1.135 tỷ đồng và 16,6% còn lại thuộc diện không có hiệu quả với số luỹ kế và nợ phải thu khó đòi lên đến 1.763 tỷ đồng, các doanh nghiệp này 75% vốn Nhà nước tan thành mây khói.
Một trong vấn đề nữa là trong các DNNN có nhu cầu gần như vô hạn đối với vốn vay ngân hàng, buộc các NHTM phải cho vay quá mức so với vốn tự có của doanh nghiệp. Các NHTM bị đẩy vào tình thế "tiến thoái lưỡng nan" nếu không cho vay thì dư nợ quá hạn thậm chí mất khả năng chi trả càng tăng trong khi ngân hàng không đảm bảo về mặt pháp lý. Việc xử lý đối với các khoản nợ quá hạn của các DNNN, doanh nghiệp kinh tế, Đảng đoàn thể, tổ chức kinh tế tập thể đang tồn đọng tại các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ tại các tổ chức tín dụng hầu như không được các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cơ quan chủ quản quan tâm trả nợ. Đối với các trường hợp này, đơn vị có nợ và cơ quan chủ quản xem việc "xù nợ" tại các tổ chức tín dụng là điều hiển nhiên. Hiện tượng khá phổ biến mà bất cứ ai có một chút quan tâm đến hoạt động ngân hàng đều có thể nhận thấy rằng: thời gian qua, có không ít DNNN làm ăn thua lỗ, phá sản được các cơ quan chủ quản (Bộ, ngành, tỉnh) ra quyết định giải thể, sau thành lập đơn vị mới (với bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị vừa giải thể)để "xù" các khoản nợ của tổ chức tín dụng này và tiếp tục quan hệ với các tổ chức tín dụng khác.
Không riêng gì DNNN mà ngay cả đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng vậy. Trong thời gian qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được thành lập một cách ồ ạt, mở rộng với qui mô lớn song lại tách rời với khả năng tài chính. Một thực trạng đáng lo ngại là ngoài sự yếu kém về trình độ công nghệ, trình độ quản lý, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang quá ít vốn và thực tế cho biết không ít trường hợp doanh nghiệp ngoaì quốc doanh hoàn toàn không có vốn để hoạt động kinh doanh, nhiều doanh nghiệp ra đời bằng" vốn ảo" vì vậy hoạt động sản xuất của các DNNQD chủ yếu bằng vốn vay hoặc vốn chiếm dụng .
Thực trạng tài chính của các doanh nghiệp như trên đã nảy sinh tình trạng tỷ lệ vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều lần so với vốn tự có. Mà hoạt động tín dụng bắt đầu từ sản xuất kinh doanh gắn bó với việc chu chuyển đồng vốn và quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá phục vụ cho đời sống của nhân dân. Hay nói cách khác, hoạt động tín dụng bắt đầu từ nội dung hoạt động của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất lưu thông. Có "cầu" thì mới có "cung". Cầu đúng đắn, chính đáng thì cung mới bảo đảm và phát huy tác dụng. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã làm cho rủi ro trong tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Để nâng cao chất lượng tín dụng thì việc chấn chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Hay cụ thể hơn là bắt đầu từ chấn chỉnh chế độ tài chính của các doanh nghiệp, cho dù ngân hàng có đề ra kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay nhưng thực tế ngân hàng làm sao kiểm soát nổi? Bởi lẽ hoạt động kinh tế tài chính muôn hình vạn trạng, hơn nữa doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với ngân hàng lại là bình đẳng, thậm chí khách hàng còn là thượng đế của ngân hàng. Khi có sự kiểm soát thì sự việc đã diễn ra rồi. Trên thực tế, khoảng cách giữa người cho vay và khách hàng còn xa, không có nghiệp vụ tín dụng gắn liền với mối quan hệ tiếp xúc thường xuyên giữa ngân hàng và khách hàng. Vấn đề thông tin và nắm bắt tình hình biến đổi kinh tế-xã hội tác động đến khách hàng còn chậm, không đầy đủ và xử lý chưa triệt để.
Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ngân hàng có sẵn sàng tiếp thêm vốn cho doanh nghiệp để "vượt cạn" không? đây là câu hỏi mà ngân hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu tiếp thêm vốn thì lỡ mất hết thì sao. Nếu không tiếp thêm vốn để cho khách hàng "vượt cạn" có thể trả được cả nợ lẫn nợ mới thậm chí cả lãi thì sao. Đây là một chi phí cơ hội mà ngân hàng cần xem xét, đánh giá cẩn thận trước khi quyết định cho vay tiếp hay thôi. Sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân NHTM. Ngân hàng có thể tìm biện pháp như thương lượng, gia hạn nợ, giảm nợ.... để giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, tránh cho mình được rủi ro.
Những khó khăn mắc phải trong hoạt động tín dụng.
Về nguyên tắc cho vay, phải có tài sản đảm bảo có thể là tín chấp hoặc thế chấp tài sản. Về tín chấp, ngân hàng phải xét uy tín, khả năng chi trả của khách hàng, hoặc uy tín bảo lãnh cho khách hàng đó. Nếu như xem xét khách hàng có đầy đủ uy tín thì có thể cho vay tín chấp. Trong bài viết "thu thập thông tin khi thẩm định cho vay cá nhân và hộ gia đình: Khâu quan trọng không thể bỏ qua" của tác giả Mai Anh (chi nhánh NHNo và phát triển nông thôn Thăng bình Quảng Nam) có đoạn viết rằng: một khi không biết chắc chắn rằng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào mục đích gì thì tuyệt đối không nên cho vay mặc dù khách hàng có tài sản thế chấp... "cán bộ tín dụng cần cảnh giác với nhóm đối tượng tìm mọi cách để vay bằng được vốn ngân hàng, nhóm khách hàng này thường đang sắp phá sản, cần vốn để cứu nguy khẩn cấp. Vì vậy họ dùng mọi thủ đoạn từ việc năn nỉ đến quà cáp, biếu xén, hối lộ cán bộ tín dụng, những việc mà khách hàng có lòng tự trọng không bao giờ làm, miễn sao vay được nhiều vốn càng tốt". Đây là một rủi ro đạo đức do khách hàng gây nên. Chúng ta không nên coi trọng quá vấn đề tín chấp hay tài sản thế chấp. ở Việt Nam đã thiên vị, coi trọng vấn đề thế chấp hơn là tín chấp. Trong luật cầm cố, người đi vay phải chuyển tài sản cho ngân hàng, điều này chưa triệt để vì trong lĩnh vực thương mại không thích hợp. Ví dụ: Trong thế chấp kho ngân hàng không thể quản lý được. Bản chất của sự cầm cố là người vay tín dụng phải đưa tài sản của mình cho ngân hàng cầm cố trong khi về mặt pháp lý họ vẫn là chủ sở hữu của tài sản đó (ở đây có sự khác biệt giữa sở hữu về mặt pháp lý và sở hữu thực tế quyền sử dụng).
Trong trường hợp thế chấp kho hàng, ngân hàng không thể thể lấy hàng hoá trong kho đưa về ngân hàng được. Trường hợp này cần uỷ thác cho người thứ ba trông coi kho và quản lý tài sản đó. Đây là một khâu sơ hở dẫn đến rủi ro cho ngân hàng do khách hàng và cán bọ tín dụng ngân hàng gây nên. Điển hình là vụ án gần đây nhất: Epco - Minh Phụng.
Đây là vụ án lớn nhất từ trước đến nay bao gồm 77 bị cáo trong đó còn 18 cán bộ ngân hàng, gây tổng thiệt hại hơn 4.300 tỷ đồng. ở đây chúng đã sử dụng thủ đoạn. Cách luật để vay vốn ngân hàng. Ngoài việc thành lập nhiều Công ty "ma" nhỏ để vay vốn ngân hàng cho chúng sử dụng thì chúng còn sử dụng thủ đoạn nhập khẩu hàng hoá thông qua pháp nhân của cá DNNN có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá như: Ngũ cốc, Công ty xuất nhập khẩu Đất Việt... các DNNN nhập khẩu hàng hoá ở nước ngoài về đều có bảo lãnh của ngân hàng. Song các doanh nghiệp lại đem lô hàng đó thế chấp cho ngân hàng bảo lãnh (ngân hàng nhận thế chấp tài sản của mình). Khi hàng được nhập về Việt Nam, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Nhà nước đem bán trên thị trường hoặc phân phối các đại lý ở phía Nam. Theo qui định của Chính phủ và Bộ thương mại, mà bán lòng vòng cho Công ty Minh Phụng, thậm chí bán cả hàng thế chấp mà không cần xin ý kiến của ngân hàng.
Việc Công ty xuất nhập Ngũ cốc và các Công ty khác trong vụ án Epco- Minh Phụng tự ý bán hàng thế chấp đã vi phạm cam kết trong hợp đồng.Hàng chỉ được xuất khỏi kho khi có sự đồng ý hoặc lệnh giải chấp của ngân hàng. Bất chấp những cam kết trong hợp đồng, lợi dụng ngân hàng không kiểm tra, giám sát hàng thế chấp, Nguyễn Xuân Phong và Liên Khui Thìn đã ngang nhiên bán hàng thế chấp lấy tiền sử dụng.
Mặt khác cùng một lô hàng đã được ngân hàng bảo lãnh khi nhập khẩu, nhưng khi bán cho doanh nghiệp trong nước thì lô hàng đó lại được Công ty Epco- Minh Phụng đề nghị ngân hàng bảo lãnh một lần nữa. Với thủ đoạn mua bán lòng vòng, thì cuối cùng Tăng Minh Phụng nhận được tiền bán hàng nhập khẩu và các Công ty nhập khẩu ban đầu lại mua số hàng nhập khẩu ban đầu với giá thấp hơn giá nhập khẩu lần đầu. Thực tế không có sự dịch chuyển cơ học của hàng hoá mà chỉ thông qua giấy tờ. Điều này cũng dễ "che mắt" vì có sự tiếp tay của cán bộ nhân viên ngân hàng.
Tính đến ngày khởi tố 24/03/1997 với các hình thức ký 217 hợp đồng tín dụng, 99 hợp đồng bảo lãnh, 9 thư tín dụng (L/C), Liên Khui Thìn và Tăng Minh Phụng cùng 47 Công ty con khác đã rút được 5.223 tỷ đồng của chi nhánh ngân hàng công thương và chi nhánh ngân hàng ngoại thương TP. Hồ Chí Minh.
Quay trở về với vấn đề thế chấp và tín chấp. Văn bản Nhà nước về cấp tín dụng đều qui định rất ngặt nghèo việc cho vay và không có bảo đảm trong luật các tổ chức tín dụng. Thậm chí còn "hình sự hoá" vấn đề này. Điều này có làm cho chất lượng tín dụng tốt hơn không? thực tế vấn đề cho vay có đảm bảo đã ăn sâu vào tâm trí mọi người đến mức hầu hết các đoàn thanh tra, kiểm tra ngân hàng Nhà nước đều đòi hỏi tất cả các món vay đều phải có tài sản thế chấp, mặc dù nhiều văn bản của Chính phủ hoặc NHNN vẫn cho phép vay tín chấp, không có tài sản thế chấp như đối với xí nghiệp quốc doanh, nông dân nghèo, sinh viên.... vấn đề làm cho NHTM coi tài sản thế chấp là nguồn thu nợ thứ hai và là nguồn thu nợ duy nhất nên đã không quan tâm đến xem xét thẩm định thu từ doanh thu, lợi nhuận hoặc thu nhập của khách hàng. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả. Phương án vay vốn có tính khả thi rõ ràng cũng bị từ chối cho vay thì không có tài sản thế chấp. Nhưng vay tín chấp thì sao. Có lẽ hiệu ứng "Fameco" làm cho các ngân hàng thương mại cảnh giác quá mức cần thiết khi không cần. Trong kinh tế thị trường vì bao nhiêu bất ngờ rủi ro chờ đợi các doanh nghiệp, có thể xảy ra bất cứ lúc nào, gây rủi ro cho doanh nghiệp và ngân hàng. Thế nhưng chỉ dựa vào tài sản thế chấp không phải là giải pháp hữu hiệu. Thực trạng các NHTM có hàng trăm ngôi nhà thế chấp không bán được để thu nợ, gây tổn thất cho ngân hàng.
Bài học rút ra từ vụ án Epco - Minh Phụng vẫn còn. Được sự giúp đỡ, bảo lãnh của Huỳnh Văn Thành -Nguyên chủ tịch và ông Phạm Tấn Khoa- nguyên phó chủ tịch UBND quận 3 TP. Hồ Chí Minh đã che dấu hoạt động kinh doanh thua lỗ của Công ty Epco- Minh Phụng, nâng vốn và hạch toán lãi tạo điều kiện cho bọn chúng tiếp tục vay vốn ngân hàng hoạt động và lấy vốn vay chia lãi. Hay được sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng đã cố ý nâng giá tài sản thế chấp hoặc đem thế chấp cho nhiều ngân hàng khác nhau. Đây là bài học cho cán bộ ngân hàng về sự lơ là trách nhiệm, làm việc trên giấy tờ, văn bản đề nghị của khách hàng để định món vay.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng là các tài sản nợ, có tính thanh khoản cao và chủ yếu phải chi trả, phải thanh toán ngay khi có yêu cầu của chủ tài khoản, trong khi đó ngân hàng lại sử dụng nguồn vốn để đầu tư và cho vay, dưới dạng tài sản có tính thanh khoản thấp, khó định giá và thường có thời gian trung bình dài hơn so với thời gian huy động vốn. Dưới góc độ chế độ kế toán nhìn từ bản cân đối tài sản của một ngân hàng ta thấy: bên nguồn vốn thì phần lớn là huy động từ nguồn ngắn hạn (dưới một năm) nhưng về tài sản thì ngân hàng lại cho vay đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh trên 1 năm và các hoạt động kinh tế khác của các thành phần kinh tế, cho vay trung và dài hạn.
Trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng thì tín dụng hiện nay là một vấn đề đáng bàn. Nền kinh tế thị trường của chúng ta đã có những tác động làm nảy sinh những vấn đề rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng, rủi ro của ngân hàng đã được thực tế chứng minh trong thời gian dài vừa qua và được nhiều nhà khoa học bàn đến: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản...
Những rủi ro trên đối với hoạt động ngân hàng cũng là những tổn thất lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng,gây ra những trục trặc trong quá trình kinh doanh. Qua theo dõi tình hình tội phạm kinh tế liên quan đến hoạt động ngân hàng trong những năm qua cho thấy nổi lên là tình trạng lừa đảo chiếm dụng vốn vay của ngân hàng hay thông qua các thủ đoạn nâng giá trị tài sản thế chấp, hoặc sử dụng hồ sơ giấy tờ giả vay nhiều ngân hàng, hoặc sử dụng một hồ sơ vay nhiều ngân hàng khác. Khi ngân hàng bị lừa đảo dẫn đến hậu quả nặng nề: tài sản Nhà nước bị mất, ngân hàng mất khả năng thanh toán, ngân hàng bị phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội của một cộng đồng.
Tội phạm lừa đảo trong thời kỳ bao cấp chủ yếu lừa đảo tài sản riêng của công dân và một số nhỏ lưà đảo tài sản Nhà nước, nhưng khi nền kinh tế thị trường ra đời thì tội lừa đảo bắt đầu xâm nhập vào ngân hàng ngày một nghiêm trọng, tài sản Nhà nước bị thất thoát nhiều hơn với một mức độ đáng lo ngại. Chỉ tính từ năm 1993-1997 đã xảy ra hơn 724 vụ lừa đảo trong ngân hàng, có vụ lên tới hàng trăm tỷ đồng: các đối tượng lừa đảo này ngày càng thủ đoạn những thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt thậm chí trắng trợn. Đối tượng lừa đảo trước kia còn mang tính đơn lẻ, tự phát đến nay trở thành có tổ chức, lừa đảo trên một phạm vi rộng, số lượng tài sản lớn. Đối tượng lừa đảo ngân hàng chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanhvà tư nhân, tổng số 335 vụ lừa đào có 254 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 460 tư nhân, 10 DNNN. Phòng cảnh sát kinh tế công an tỉnh Nam Định phát hiện Dương Thuý Hiền Giám đốc Công ty TNHH Tuyết Thu đã sử dụng tới 66 bộ hồ sơ nhà đất giả, có công chứng giả để thế chấp 3 ngân hàng vay trên 13 tỷ đồng sau đó bỏ trốn. Tham gia vào vụ lừa đảo này có 3 giám đốc Công ty TNHH và 3 tư thương. Đáng lưu ý, số cán bộ tín dụng ngân hàng của 3 ngân hàng đã không làm đúng chức năng nhiệm vụ được giao như kiểm tra hồ sơ vay, thẩm định tài sản thế chấp, kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay để khi đối tượng vay bỏ trốn vẫn không biết- hoặc Vũ Văm Nam, giám đốc Công ty TNHH Thiên Thanh Hà Nội cùng vợ Trần Bích Thuỷ trong 3 năm (từ 1994-1996) bằng một thủ đoạn dùng một tài sản thế chấp vay vốn nhiều ngân hàng và các doanh nghiệp 23 tỷ đồng sau đó bỏ trốn.
Một dạng khác là sử dụng giấy tờ nhà thuê của Nhà nước đem thế chấp vay vốn ngân hàng sau đó thực hiện hành vi lừa đảo, hoặc trước khi bán nhà, đem bộ hồ sơ nhà đất làm công chứng, sau đó bán nhà bằng hồ sơ gốc rồi đưa hồ sơ công chứng để ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0827.doc