Tài liệu Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc ninh giai đoạn 1997 đến nay - Thực trạng và giải pháp: ... Ebook Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc ninh giai đoạn 1997 đến nay - Thực trạng và giải pháp
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2912 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc ninh giai đoạn 1997 đến nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đổi mới, mở cửa, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là một trong những biện pháp khai thác ngoại lực nhằm thúc đẩy nội lực để phát triển kinh tế-xã hội. FDI là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút vốn FDI là nhiệm vụ có tính lâu dài, gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có những yếu tố thuận lợi mới tác động tích cực đến việc thu hút và triển khai dự án nguồn vốn FDI, đồng thời cũng đã xuất hiện một số khó khăn, thách thức cần được tháo gỡ nhằm tạo đà tăng trưởng trong các năm tới.
Kể từ khi tái lập tỉnh Bắc Ninh (01/01/1997), hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua còn bộc lộ những mặt hạn chế. Đó là: Nhận thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được quán triệt đầy đủ ở các cấp, các ngành; cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có mặt còn bất hợp lý; hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội của hoạt động FDI còn chưa cao; môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn; công tác cán bộ, công tác quản lý nhà nước về FDI còn những bất cập; thủ tục hành chính chưa thực sự thông thoáng.
Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển, đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; xuất phát từ thực tiễn của địa phương, học viên lựa chọn đề tài “HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997 ĐẾN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP” làm nội dung nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc Ninh những năm qua, đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh và môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta tiếp tục được cải thiện; ngoài việc triển khai Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp cùng các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư. Việc thực hiện Chương trình hành động sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, Chương trình kết nối hai nền kinh tế Việt Nam – Singapore, Hợp tác phát triển “hai hành lang một vành đai kinh tê” Việt Nam – Trung Quốc đã góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ta trở lên thông thoáng và hấp dẫn hơn. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục có xu hướng chuyển mạnh sang các nước đang phát triển, nhất là các nền kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao, có lợi thế về lao động và chính sách đầu tư thông thoáng, trong đó có Việt Nam. Phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các giai đoạn, Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu: đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh.
+ Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu toàn bộ tình hình, thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc Ninh từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic; tổng hợp nghiên cứu, sử dụng tài liệu, số liệu báo cáo và sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu phân tích thực tế rồi cuối cùng đưa ra các giải pháp.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
- Luận văn hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn FDI và tác động của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Ninh trong thời kỳ từ năm 1997 đến nay.
- Nghiên cứu định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút hơn nữa nguồn vốn FDI vào Bắc Ninh trong những năm tới.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-nay
Chương III: Định hướng và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2008-2015
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư nước ngoài nói chung là hoạt động di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện dưới dạng tiền mặt, vật thể hữu hình, các giá trị vô hình hoặc các phương tiện đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu, các chứng khoán cổ phần khác. Người bỏ vốn đầu tư gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một doanh nghiệp, hay một tổ chức trong đó kể cả Nhà nước.
Có hai hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong đó, đầu tư trực tiếp của nước ngoài là hình thức phổ biến và quan trọng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều ý kiến cho rằng, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) là việc các công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư ở nước sở tại thông qua việc thiết lập liên doanh với các công ty của nước sở tại, mua các công ty của nước sở tại, và có thể thông qua việc thiết lập chi nhánh của mình tại nước sở tại.
Tại Việt Nam, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài hiểu theo quy định của Luật Đầu tư như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư tại Việt Nam”.
Như vậy, có thể hiểu khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Với cách hiểu khái niệm FDI như trên ta có thể thấy các hoạt động FDI có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về vốn góp: Các chủ đầu tư góp một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh. Ở Việt Nam, Luật Đầu tư cũng đã đưa ra điều kiện “phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên, nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định”.
Thứ hai, về quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý.
Thứ ba, về phần chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ, phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp với nước chủ nhà và các khoản nợ khác.
Có thể nói, hoạt động FDI là một tất yếu khách quan đối với cả phía nhà đầu tư cũng như đối với phía tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư, mà chủ yếu là các công ty đa quốc gia thuộc các nước phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi, do yêu cầu mở rộng kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh, do sự chi phối của quy luật lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận giảm dần, nhằm tận dụng các lợi thế vốn có của mình, đang phải vươn tầm hoạt động ra khắp thế giới. Họ trở thành nguồn cung cấp vốn chính cho nền kinh tế thế giới. Về phía các nước đang phát triển, do thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như tích luỹ còn ở mức thấp. Phần lớn thu nhập được dùng để đảm bảo tiêu dùng ở mức tối thiểu cần thiết, do đó phần dành cho tiết kiệm rất nhỏ. Nói cách khác, tỷ lệ tiết kiệm trên GDP khá thấp, trong khi đó lại cần một khoảng đầu tư tương đối lớn để phát triển kinh tế. Mặt khác, ở các nước này do công nghiệp chưa phát triển nên hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu sơ chế hoặc những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp. Trong khi hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị có giá trị gia tăng cao. Vì thế, cán cân thương mại có tình trạng nhập siêu lớn, gây thiếu hụt ngoại tệ trầm trọng. Vì vậy, việc du nhập tư bản từ nước ngoài là một tất yếu khách quan.
1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hình thức doanh nghiệp liên doanh: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp Việt Nam.
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Một bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây dựng còn có hình thức:
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT): là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nước chủ nhà. Hình thức BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp của chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (BTO): Là hình thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao: là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Ngoài các hình thức kể trên, một số nước, nhằm đa dạng hoá và tạo thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư còn áp dụng một số hình thức FDI khác như thành lập công ty quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án (Holding Company), thành lập văn phòng đại diện hoặc chi nhánh công ty nước ngoài tại nước chủ nhà. Có thể nói, mỗi hình thức đầu tư đều có những hấp dẫn riêng đối với các nhà đầu tư. Vì thế, việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng cường khả năng thu hút FDI cả về số lượng cũng như chất lượng.
Bảng 1: Cơ cấu FDI vào các nước đang phát triển (%)
Khu vực
1975
1985
1990
1994
1996
1997
1. Trung đông&Bắc Phi
23
17
11
5
4
2
2. Châu Á & Trung Á
2
5
8
10
9
11
3. Đông, Nam & Đ.Nam Á
16
30
47
56
57
53
4. Châu Phi (cận Sahara)
15
8
3
4
3
2
5. Mỹ - Latinh& Caribê
44
40
31
26
27
32
Tổng cộng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: (1975-1994): World Bank, (1996-1997) World Investment Report, 1998 FDI phục vụ CNH ở Malaixia, NXB Thế giới, 2000.
Bảng 2: Chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển.
Đơn vị: hạng mục
Hạng mục công nghệ
Đông
Nam Á
Mỹ - Latinh
Các nước khác
Tổng cộng
1. Tiến bộ công nghệ
135
154
141
430
2. Sản phẩm công nghệ
150
158
152
460
3. Công nghệ thiết kế và xây dựng
87
111
96
294
4. Công nghệ kiểm tra chất lượng
135
105
131
371
5. Công nghệ quản lý
110
75
101
286
6. Công nghệ Marketing
63
57
65
185
Tổng cộng
680
660
686
2.026
Nguồn: Small and medium-Size Transational Corporations, UN 1993
Các nền kinh tế Châu Á, nhất là khu vực Đông Nam Á được coi là phát triển năng động, đồng thời cũng là khu vực thu hút nhiều vốn FDI nhất trong thời gian gần đây do có nhiều điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như giá nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, môi trường đầu tư hấp dẫn.
Năm 1997, dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển Châu Á đã đạt 86 tỷ USD, tăng 1% so với năm 1996, chiếm khoảng trên 50% tổng FDI của các nước đang phát triển và xếp vị trí thứ hai trong số các nước nhận FDI nhiều nhất trên thế giới. Từ năm 1992, Trung Quốc nổi lên là một trong số các nước thu hút FDI lớn nhất và đã làm đảo chiểu về tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong khu vực. Đầu năm 1990, hơn 70% đầu tư nước ngoài ở khu vực châu Á là đầu tư vào các nước Đông Nam Á, Trung Quốc chỉ nhận dưới 30% thì hiện nay Trung Quốc chiếm tới 35% tổng vốn đầu tư vào khu vực.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, vốn FDI thực hiện ở các nước khu vực này đã bị giảm từ năm 1997, đến nay đang có những cải thiện nhưng nhìn chung còn thấp, nguyên nhân là cải cách tài chính của khu vực diễn ra chậm. Bên cạnh đó, tình hình chính trị một số nước chưa được ổn định như Indonexia, Philipin.
1.3. Vai trò của FDI đối với các nền kinh tế đang phát triển
Để có một đánh giá đầy đủ về vai trò của FDI, cần nhìn nhận vấn đề từ cả giác độ của nhà đầu tư lẫn giác độ của người tiếp nhận đầu tư. Các nhà đầu tư không phải là những nhà từ thiện, họ chỉ tiến hành đầu tư ở những đâu mà họ đạt được những lợi ích nhất định của mình, mà mục đích cuối cùng của các công ty đa quốc gia là không ngừng nâng cao giá trị tài sản và sự giàu có của các cổ đông. Nhưng biểu hiện của những lợi ích này trong mỗi dự án, ở mỗi quốc gia, trong mỗi thời kỳ nhất định là khá phức tạp và nó phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và thái độ của nước chủ nhà.
Mặc dù đánh giá về ảnh hưởng của FDI đối với các nền kinh tế đang phát triển còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cũng không thể phủ nhận được tác dụng tích cực của FDI. Ở Việt Nam, FDI thực tế đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một trong sáu thành phần kinh tế của cơ cấu kinh tế nước ta”. Đó là một minh chứng khẳng định vai trò quan trọng của FDI đối với sự phát triển nền kinh tế- xã hội Việt Nam.
1.3.1.Tác động tích cực của FDI
Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia.
Với bất kỳ quốc gia nào muốn phát triển đều cần vốn đầu tư, không có đầu tư không thể phát triển và tăng trưởng kinh tế. Để có nguồn vốn đầu tư, các quốc gia đều dựa vào hai nguồn: vốn tích luỹ trong nước và vốn nước ngoài. Thu hút FDI là dùng vốn nước ngoài đầu tư vào sản xuất kinh doanh của nước chủ nhà, bởi vậy nó có ý nghĩa tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ dừng ở đồng vốn trực tiếp được đưa vào, mà nguồn vốn FDI này còn khơi dậy, sử dụng các nguồn lực trong nước cùng vận hành như đất đai, tài nguyên, vốn của các doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia đầu tư. FDI kéo theo hoạt động các doanh nghiệp trong nước như xây dựng, vận tải, cung ứng, dịch vụ.
Cán cân thanh toán có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của nước đang phát triển, là một chỉ tiêu mà các nhà hoạch định chính sách luôn theo dõi chặt chẽ. Đối với những nước đang phát triển, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc thâm hụt cán cân thanh toán là không đáng báo động, bởi vì những nước này đang có thay đổi lớn về cấu trúc của ngành công nghiệp thông qua nhập khẩu những thiết bị, dây chuyền công nghệ, nên dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài với tính chất là nguồn vốn đầu tư ổn định đã góp phần quan trọng duy trì, cải thiện cán cân thanh toán thông qua hoạt động xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Xuất khẩu được đẩy mạnh sẽ mang lại nguồn thu ngoại tệ cho nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản xuất những mặt hàng mà nước tiếp nhận đầu tư trước đây chưa có khả năng sản xuất đã giúp cho nước này không phải nhập khẩu những hàng hóa đó, giảm lượng ngoại tệ phải thanh toán và dẫn đến cải thiện cán cân thanh toán.
Thứ hai, FDI góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và đào tạo nguồn nhân lực.
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản lý, trình độ công nghệ, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Nhờ FDI, có thể tiếp cận, học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Thu hút vốn FDI, đồng nghĩa với nó là giải quyết việc làm cho người lao động. Thậm chí, đối với một số nước có dân số lớn, thu hút FDI được coi là giải pháp cơ bản trong chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động. Thông qua làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, nhờ việc tiếp cận với máy móc, thiết bị mới, công nghệ hiện đại mà người lao động có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật lao động, phương thức sản xuất tiên tiến.
Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì số lượng lao động làm việc trong các công ty xuyên quốc gia xấp xỉ 17 triệu người vào năm 1998 và 26 triệu người vào đầu năm 2000. Trong các ngành sản xuất công nghiệp, số lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI tại các nước đang phát triển chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất trong tổng số lao động của các quốc gia này và con số này liên tục tăng lên. Ngoài ra, FDI còn gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI khác.
Thư ba, FDI góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ
FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ khoa học – công nghệ. Để tăng sức cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư, các nhà đầu tư về nguyên tắc đều phải trang bị các loại máy móc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới (NICs) cho thấy, đầu tư FDI là một trong những giải pháp nhanh nhất để nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, sớm tiếp cận với những thành tựu khoa học mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thư tư, FDI góp phần thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Với các nước đang phát triển, việc thâm nhập và chiến lĩnh thị trường quốc tế là một trong những việc cần thiết nhưng vô cùng khó khăn, do chưa có kinh nghiệm trên thương trường quốc tế, sản phẩm chất lượng chưa tốt, bạn hàng ít. Bởi vậy, để mở rộng thị trường, có thể thông qua nhà đầu tư nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm. Các nhà đầu tư tiến hành đầu tư ở các nước khác để tận dụng những lợi thế so sánh về nguyên liệu, lao động để hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Việc hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài có thể tận dụng những kinh nghiệm, uy tín của chính công ty đó để bán sản phẩm, thâm nhập thị trường là một yêu cầu quan trọng và tất yếu đối với nước mới mở cửa và hội nhập.
Quan hệ đầu tư quốc tế xuất hiện từ thế kỷ XVIII, thời kỳ này được coi là quá trình hội nhập nông (sallow-integration) trong lĩnh vực đầu tư. Các nước quan hệ đầu tư với nhau trên cơ sở tự nguyện, có lợi ích và chưa đặt ra cho nhau các nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế trong phạm vi giữa các quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới biểu hiện tự do hoá trong bốn lĩnh vực: Thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, đầu tư và thương mại dịch vụ.
Như vậy, đầu tư cũng là một trong bốn lĩnh vực được các quốc gia xem xét tự do hoá. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa các quốc gia thực hiện đầu tư và tiếp nhận đầu tư, làm cho quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Những cam kết về tự do hoá đầu tư nước ngoài được coi như là những quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của từng quốc gia. Ngày nay, cùng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới diễn ra theo chiều sâu và rộng, các nước đã có nhiều hình thức thực hiện các cam kết nhằm tự do hoá lĩnh vực đầu tư gắn với tự do hoá thương mại.
Từ các phân tích trên cho thấy, hoạt động FDI, với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, đóng một vai trò đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Đối với nước ta, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, FDI sẽ là một bộ phận quan trọng của cơ cấu kinh tế quốc dân và đóng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng”. Nói cách khác, hoạt động FDI ngày nay cần gắn chặt với chính sách chung của đất nước và có vai trò thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ thể là, bên cạnh những mục tiêu thu hút vốn đầu tư phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng giá trị xuất khẩu, hoạt động FDI còn hướng vào những mục tiêu đổi mới kỹ thuật, công nghệ, lĩnh vực sản xuất các loại hàng hoá có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Rõ ràng, tăng cường thu hút đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một trong các giải pháp đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đạt tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội cao, tạo đà cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo.
Thứ năm, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc của nền kinh tế. Đứng trên
góc độ khác nhau người ta có thể chia thành cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. FDI có thể ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trên cả ba góc độ cơ cấu trên trong đó, cơ cấu ngành đóng vai trò quan trọng quyết định hình thức của các loại cơ cấu kinh tế khác. Do vậy, việc thay đổi cơ cấu ngành kinh tế sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế các nước tiếp nhận đầu tư, cụ thể như sau:
- Chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất công nghiệp và sau là sang ngành dịch vụ.
- Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất ngành công nghiệp chuyển từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu nhiều lao động sang sản xuất có năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động.
- Thay đổi cơ cấu bên trong của mỗi lĩnh vực sản xuất thông qua quá trình chuyển từ việc áp dụng công nghệ lạc hậu, giá trị hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, giá trị hàng hoá có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
1.3.2. Tác động tiêu cực của FDI
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp nhận, cần phải lưu ý.
Một là, việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài); có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm). Do đó, nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc, nhất là khi dòng vốn FDI có sự biến động, giảm sút lớn.
Hai là, các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với doanh nghiệp nước tiếp nhận trong trường hợp liên doanh để thực hiện biện pháp “chuyển giá” thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này làm cho giá sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho người tiêu dùng và giảm thu ngân sách của nước sở tại. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh, độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát triển được.
Ba là, Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà, một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những máy móc, thiết bị lạc hậu, đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI.
Bốn là, Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng sự phân hoá trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một số vùng hoặc giữa các vùng. Nước chủ nhà khó chủ động trong việc điều phối, phân bổ sử dụng nguồn vốn FDI vì về cơ bản quyết định đầu tư thuộc về nhà đầu tư.
Tuy nhiên, những mặt bất lợi của FDI gây ảnh hưởng như thế nào còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà như quan điểm, nhận thức, chiến lược, thể chế, chính sách, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, nước tiếp nhận FDI có thể hạn chế, giảm thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài và lợi ích quốc gia, tạo ra lợi ích tổng thể tích cực của việc tiếp nhận FDI cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo mục tiêu, định hướng của mình.
1.4. Những yếu tố tác động đối với việc thu hút FDI
Trước hết, đó là sự ổn định của thể chế chính trị - xã hội ở quốc gia thu hút vốn FDI. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất đối với nhà đầu tư. Bất cứ sự bất ổn nào của thể chế chính trị - xã hội đều có thể dẫn đến rủi ro và tổn thất, thậm chí cả nguy cơ phá sản. Hiện nay, trên 70% dòng vốn FDI trên thế giới được chuyển dịch giữa các nước tư bản phát triển, ngoài các yếu tố quan trọng khác như những yếu tố về thị trường, sự ổn định về thể chế chính trị - xã hội cũng là một nhân tố có sức hấp dẫn cao.
Thứ hai, sự ổn định và tính minh bạch của hệ thống chính sách kinh tế, chính sách quản lý và các chính sách có liên quan. Một hệ thống chính sách ổn định, rõ ràng sẽ giúp cho nhà đầu tư hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh dài hạn trên cơ sở luận cứ khoa học. Nếu hệ thống chính sách thường xuyên bị điều chỉnh, không ổn định chắc chắn sẽ gây sự lo ngại cho nhà đầu tư, do họ không thể dự báo được tương lai, do đó không hoạch định được kế hoạch, bước đi cụ thể cả ngắn hạn cũng như dài hạn. Trong các hệ thống chính sách cần được ổn định lâu dài và minh bạch thì những chính sách tài chính, thuế khoá, chính sách thương mại quốc tế và những chính sách trực tiếp tác động đến khả năng thu lợi nhuận của nhà đầu tư giữ vai trò quan trọng và quyết định đối với việc thu hút vốn FDI.
Thứ ba, Về vị trí địa lý, tính phong phú, đa dạng của các nguồn lực tự nhiên và các lợi thế của quốc gia muốn thu hút FDI, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Chính những quốc gia đang phát triển có nhiều tài nguyên, hoặc có lợi thế về địa lý, dân số là những quốc gia thu hút được mạnh nhất dòng vốn FDI. Bản chất tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài là khai thác được các yếu tố đầu vào với giá rẻ.
Thứ tư, nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ đơn thuần hiểu về số lượng, mà các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt tới nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao, có ý thức kỷ luật lao động tốt, đặc biệt đối với những ngành kinh tế có hàm lượng tri thức cao. Không phải ngẫu nhiên dòng vốn FDI dịch chuyển chủ yếu giữa 3 trung tâm kinh tế phát triển nhất là Tây Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ (chiếm 70%). Chỉ một số ngành công nghiệp hoặc chỉ một số công đoạn cần nhiều nhân công lao động phổ thông là đặc biệt quan tâm đến các nước đang phát triển có nguồn lao động phổ thông rẻ và dồi dào.
Thứ năm, Trình độ phát triển của nền kinh tế (điều kiện hạ tầng, chất lượng cung cấp các dịch vụ) và đặc điểm phát triển của nền văn hoá xã hội được coi là yếu tố quản lý vĩ mô. Sự thuận lợi hay không thuận._. lợi về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán đều có thể trở thành sự khuyến khích hay kìm hãm việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ sáu, môi trường pháp lý và nền hành chính quốc gia. Nếu có ổn định chính trị - xã hội, tài nguyên phong phú, nhưng môi trường pháp lý không ổn định, rõ ràng thì cũng làm cho các nhà đầu tư e ngại. Thủ tục hành chính rườm rà làm cho các nhà đầu tư mất đi cơ hội kinh doanh. Do đó vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý và cải cách hành chính luôn là yếu tố khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn đầu tư.
Ngoài những nhân tố trên, xuất phát từ mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận, do đó bất cứ nhân tố nào có tác dụng tăng khả năng thu lợi nhuận từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng sẽ được nhà đầu tư quan tâm đó là:
Yếu tố lãi suất: Lãi suất càng cao thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư càng giảm, đương nhiên là sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất: bao gồm chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí nhân công và chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất càng cao thì lợi nhuận càng thấp điều này không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái: là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI. Nếu đồng tiền của nước sở tại tăng giá thì đồng nghĩa với chi phí đầu tư tăng lên và ngược lại. Đây là yếu tố khá nhậy cảm trong việc thu hút FDI của mỗi quốc gia.
1.5. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương ở Việt Nam
1.5.1. Thu hút FDI của Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh do có những lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh cùng với sự quan tâm của lãnh đạo thành phố trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài nên đã sớm thu hút được nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI so với các địa phương khác trong phạm vi cả nước. Từ 1988 – 1994, ngay sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành và có hiệu lực, thành phố đã bắt đầu thu hút nguồn vốn FDI nhưng số dự án còn ít và hiệu quả hoạt động chưa cao. Năm 1995, thành phố thu hút được 155 dự án với tổng vốn đầu tư là 2.498 triệu USD (mức thu hút cao nhất trong cả giai đoạn 1988-2006). Sau khi đạt mức đỉnh điểm vào năm 1995, trong 2 năm tiếp theo, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á bộc phát ở Thái Lan vào năm 1997, số dự án và số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào TP HCM có sự giảm đáng kể và tổng vốn FDI thu hút vào thành phố tiếp tục giảm dần, đạt thấp nhất vào năm 2000 với mức thu hút rất khiêm tốn, chỉ đạt 224 triệu USD.
Trong giai đoạn 2000 – 2005, thành phố thực hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên thu hút các dự án làm tăng tỷ trọng ngành dịch vụ cao cấp, vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa khắc phục tình trạng đất đai ngày càng khan hiếm ở khu vực nội thành. Đây là nguyên nhân khiến thành phố khó thu hút được các dự án FDI có qui mô lớn, đòi hỏi mặt bằng rộng. Các dự án FDI quy mô lớn, đòi hỏi diện tích đất rộng đã chuyển hướng sang các địa phương khác. Mặc dù vậy, nguồn vốn FDI thu hút vào thành phố cũng tăng dần qua các năm tuy vẫn còn ở mức thấp, chỉ ở hàng trăm triệu USD mỗi năm. Tổng vốn FDI đã tăng đột biến trở lại ngay sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO. Vào cuối năm 2006; số dự án FDI thu hút mới đạt 283 dự án với tổng vốn đầu tư đạt 1,627 tỉ USD. Nếu tính cả vốn tăng thêm của các dự án đang hoạt động thì tổng vốn FDI vào thành phố tiếp tục tăng, đặc biệt năm 2007.
Bảng 3: Dự án FDI phân theo năm cấp phép của TP HCM
Năm
Số dự án
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Tốc độ phát triển vốn (%)
Vốn bình quân dự án (triệu USD)
1988-1994
465
5.748
1995
155
2.498
158,6
16,12
1996
114
2.376
95,1
20,84
1997
89
1.179
49,6
13,25
1998
90
707
59,9
7,86
1999
109
471
66,6
4,32
2000
122
224
47,6
1,84
2001
182
619
276,3
3,40
2002
223
314
50,7
1,41
2003
203
315
100,3
1,55
2004
247
459
145,7
1,86
2005
314
641
139,7
2,04
2006
283
1.627
253,8
5,75
(Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM năm 2004, 2005, 2006)
Năm đầu tiên Việt Nam bắt đầu thực hiện cam kết gia nhập WTO, tổng vốn FDI đạt mức kỷ lục 2,5 tỷ USD, tăng 11,9% so với năm 2006. Tính đến cuối tháng 11/2007, số dự án còn hiệu lực hoạt động là 2.510 dự án với tổng vốn đầu tư là 16,04 tỷ USD, chiếm 22% vốn FDI của cả nước. FDI là nguồn vốn bổ sung rất quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế thành phố, đặc biệt là cho khu công nghiệp và dịch vụ.
(1) FDI phân theo ngành kinh tế:
Số dự án FDI tập trung khá nhiều vào lĩnh vực công nghiệp giai đoạn 1988 – 2005 khu vực công nghiệp – xây dựng trên địa bàn đã thu hút 1.201 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư trên 6 tỷ USD. Khu vực dịch vụ tuy chỉ thu hút 702 dự án FDI nhưng số lượng vốn đầu tư cũng đạt trên 6 tỉ USD. Khu vực dịch vụ tuy chỉ thu hút 702 dự án FDI nhưng số lượng vốn đầu tư cũng đạt trên 6 tỉ USD. Do đó số vốn trung bình trên mỗi dự án khu vực dịch vụ cao hơn nhiều sơ với khu vực khác. Những năm gần đây mục tiêu phát triển kinh tế thành phố là tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, trong đó tập trung vào các ngành tài chính – ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải kho bãi, y tế, giáo dục, tư vấn, bảo hiểm, những ngành có giá trị gia tăng cao, phù hợp với cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của TP HCM.
Biểu 4: Vốn FDI mới và tăng thêm trên địa bàn TP HCM (2000-2007)
(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)
Phân theo hình thức đầu tư:
Hình thức liên doanh chiếm 41%; Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 51%; Hình thức hợp tác kinh doanh chiếm 8%.
Biểu 5: Cơ cấu vốn phân theo hình thức đầu tư trên địa bàn TP HCM
(Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)
Số lượng dự án và tổng vốn đầu tư còn hiệu lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là rất lớn, năm 2000 số dự án còn hiệu lực là 900 với tổng vốn đầu là 10,232 tỷ USD đến năm 2007 số dự án là 2.110 dự án với tổng vốn đầu tư là 16,04 tỷ USD.
Bảng 6: Dự án FDI còn hiệu lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Năm
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
(triệu USD)
Tổng vốn pháp định
(triệu USD)
1996
505
8.181
3.718
1997
677
10.093
4.896
1998
742
9.868
4.878
1999
816
10.232
5.065
2000
900
10.519
5.203
2001
1.604
11.098
5.498
2002
1.249
11.305
5.547
2003
1.415
11.636
5.747
2004
1.644
12.315
6.028
2005
1.914
12.348
6.126
2006
2.168
14.469
6.687
2007
2.510
16.040
Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM năm 2006
(3) Các ngành nghề đầu tư chủ yếu: Nguồn vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, gia công hàng may mặc, giày da, chế biến gỗ, sản xuất hóa chất, dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị mới, khu vui chơi giải trí, các dịch vụ như vận tải, giao nhận hàng hóa, các hoạt động liên quan đến bất động sản, các dịch vụ tư vấn pháp luật, kiểm toán, nghiên cứu thị trường, kiến trúc, tư vấn thiết kế … đặc biệt từ năm 2006 luồng vốn FDI chuyển hướng đầu tư vào công nghệ cao như ngành viễn thông và chế tạo chip
Thành phố Hà Nội
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở thành một bộ phận quan trọng, hữu cơ, năng động và có tốc độ tăng trưởng cao trong các thành phần kinh tế của Thủ đô. Tổng số dự án đăng ký từ năm 1987 đến năm 2007 là 1253 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 14.589 triệu USD. Trong đó vốn đầu tư thực hiện là 5.038 triệu USD, bằng 34,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Khu vực ĐTNN chiếm khoảng 41% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, tạo ra trên 15% nguồn thu ngân sách, 46% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho hơn 90.000 lao động của Hà Nội.
- Giai đoạn 1997-2004: đây là thời kỳ khủng hoảng và sau khủng hoảng tài chính khu vực, vốn FDI vào Hà Nội đăng ký ở giai đoạn này là 426 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 3.048 triệu USD.
Giai đoạn từ 2005 đến nay tình hình đầu tư nước ngoài vào Hà Nội đã khởi sắc: năm 2005 số vốn đăng ký là 1.585 triệu USD với 166 dự án kể cả cấp mới và tăng vốn. Năm 2006 số vốn đăng ký là 1.106 triệu USD và năm 2007 đạt mức tăng trưởng cao về thu hút FDI, gấp 2,3 lần năm 2006 với tổng vốn đăng ký đạt 2.535 triệu USD. Tổng cộng từ năm 2005 đến hết năm 2007 số dự án đăng ký là 567 dự án và 5.226 triệu USD vốn đầu tư đăng ký.
Vốn FDI đăng ký và thực hiện tại Thành phố Hà Nội giai đoạn 1997-2007 và số dự án còn hiệu lực chia theo hình thức đầu tư được thể hiện tại Bảng 7 và Bảng 8.
Biểu 7: Vốn FDI đăng ký và thực hiện tại Hà Nội giai đoạn 1997-2007
Bảng 8: Các dự án còn hiệu lực tại Hà Nội chia theo hình thức đầu tư
(Tính đến tháng 6/2007)
STT
Chỉ tiêu
Số dự án
Tỷ lệ % theo số dự án
Tổng vốn đầu tư (triệu USD)
Tỷ lệ % theo tổng vốn đầu tư
1
- Dự án 100% vốn NN
495
64,20%
3054,573
31,63%
2
- Dự án liên doanh
258
33,46%
5683,045
58,84%
3
- HĐHTKD
18
2,33%
920,806
9,53%
4
Tổng cộng
771
100,00%
9658,424
100,00%
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội.
- Tính đến cuối năm 2006 các dự án FDI đã tạo việc làm cho khoảng 78 nghìn lao động, cuối năm 2007 con số này là gần 90 nghìn lao động. So sánh sau 5 năm cho thấy số việc làm tạo mới trong các doanh nghiệp FDI đã tăng gần 7 lần. Đa số trong số đó được đào tạo và tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến.
Biểu 9: Số lao động trong khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm
- Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quyết định nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm của Thành phố Hà Nội:
Biểu 10: Kim ngạch xuất khẩu của Khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm
Tính từ năm 1989 đến hết năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp có FDI ước đạt 5.937 triệu USD, đặc biệt trong các năm cuối đã tăng rất nhanh, cao hơn tốc độ tăng trung bình kim ngạch xuất khẩu chung của toàn thành phố. Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu khu vực FDI giai đoạn 2001-2005 ước đạt bình quân 49%, cao hơn con số của toàn thành phố là 17%/năm và cao hơn giai đoạn 5 năm trước (1996-2000) là 9%/năm.
- Một trong những kết quả quan trọng của hoạt động FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội là tăng nguồn thu cho ngân sách thành phố thông qua các loại thuế. Trong 20 năm qua, các dự án ĐTNN đã đóng góp cho ngân sách Thành phố hơn 1.839 triệu USD và con số này được tăng dần qua các năm:
Biểu 11: Thu ngân sách từ khu vực FDI tại Hà Nội qua các năm
Để đạt được những kết đó thành phố đã triển khai hệ thống các giải pháp trong đó tập trung vào:
* Nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư: Quy hoạch đầu tư nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung của thành phố Hà Nội. Định hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải gắn chặt với quy hoạch phát triển các ngành, vùng lãnh thổ và đặt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; khai thác những tiềm năng và lợi thế so sánh của Hà Nội, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể nói chung và quy hoạch đầu tư nước ngoài nói riêng, tăng lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
* Phát triển đồng bộ, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Tiếp tục nâng cao vai trò của ngân sách nhà nước trong xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Cho phép vay ưu đãi hoặc được phát hành trái phiếu công trình để đầu tư vào các công trình trọng điểm. Khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, áp dụng quy chế ưu đãi cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các dự án, địa bàn trọng điểm.
* Mở rộng tự do hoá đầu tư và tăng cường xúc tiến vận động đầu tư: Khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước hợp tác đầu tư với nước ngoài thành lập công ty cổ phần trong nước có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu để mở rộng quy mô đầu tư. Một số tập đoàn có nhiều dự án đầu tư được phép thành lập công ty quản lý vốn để điều hành và hỗ trợ các dự án đã đầu tư.
Cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép thuê đất để xây dựng nhà ở cho thuê hoặc bán cho người nước ngoài, người Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được kinh doanh rộng rãi hơn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, nhất là bảo hiểm, ngân hàng và một số dịch vụ khác. Nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, ngành nghề và địa điểm đầu tư.
Xử lý linh hoạt việc chuyển đổi các hình thức đầu tư như chuyển đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với các dự án sử dụng công nghệ cao, xuất khẩu phần lớn sản phẩm, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, xem xét việc cho phép dự án quảng cáo theo hình thức liên doanh.
Gắn công tác vận động xúc tiến đầu tư với chương trình dự án, đối tác, địa bàn cụ thể. Hướng dẫn các nhà đầu tư trong từng khâu: tìm hiểu cơ hội, chuẩn bị dự án, xem xét cấp giấy phép và triển khai dự án.
Xây dựng danh mục mời gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài với các dự án được mô tả khái quát về nội dung, sản phẩm, địa điểm, khả năng thị trường, dự kiến vốn đầu tư, thời gian triển khai dự án, đối tác trong nước... để nhà đầu tư nước ngoài nghiên cứu các thông tin này có thể ra quyết định đầu tư.
Cung cấp thông tin đầu tư như in ấn tài liệu giới thiệu các chính sách, các ưu đãi, các điều kiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giá thuê đất, giá điện, nước ở Hà Nội để các doanh nghiệp, nhà đầu tư nghiên cứu, so sánh và dễ dàng trong việc ra quyết định đầu tư.
Xây dựng trang Web Hà Nội, cung cấp thông tin về các dự án, các công trình, chính sách kêu gọi FDI vào Hà Nội để các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng nghiên cứu, tìm hiểu. Gửi tới các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức Việt kiều danh mục các dự án FDI mời gọi đầu tư. Tổ chức các hội nghị với các doanh nghiệp nước ngoài, các nhà tài trợ, các cuộc họp mặt, tiếp xúc với nhà đầu tư để giới thiệu cơ hội đầu tư và lắng nghe ý kiến của họ để sửa đổi chính sách cho phù hợp với thực tế. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội mở đường dây nóng trả lời miễn phí các câu hỏi của các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài, đơn giản thủ tục mở văn phòng đại diện, mở chi nhánh của các công ty nước ngoài hoạt động ở Hà Nội. Thường xuyên tổ chức các hội nghị văn phòng đại diện nước ngoài để nắm bắt những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp FDI, từ đó tìm ra hướng giải quyết. Chú trọng thu hút vốn đầu tư các công ty, tập đoàn của Liên minh châu Âu (EU), Bắc Mỹ, Nhật Bản nhằm tranh thủ công nghệ, kỹ thuật hiện đại.
* Rà soát, đánh giá, phân loại, hỗ trợ các dự án đẩy mạnh triển khai: Thành phố đã quan tâm đến công tác rà soát, phân loại các dự án đã được cấp phép đầu tư, bám sát quá trình thực hiện, kịp thời giải quyết các khó khăn, hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài triển khai dự án hoặc đề xuất hướng xử lý đối với những dự án đang gặp khó khăn, chậm triển khai. Công tác quản lý đầu tư nước ngoài cũng đã được tăng cường lên cấp độ mới, chặt chẽ và định kỳ thường xuyên hơn.
Ngoài ra, thành phố Hà Nội còn sử dụng đồng bộ các giải pháp như đổi mới công tác chỉ đạo điều hành, phổ biến pháp luật, định kỳ lập danh mục các dự án kêu gọi đầu tư.
1.5.2. Một số kinh nghiệm thực tiễn về thu hút FDI
Từ thực tiễn thu hút FDI của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rút ra một số kinh nghiệm thực tiễn về thu hút FDI như sau:
- Chú trọng nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư
Quy hoạch đầu tư của mỗi địa phương phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung của cả nước và quy hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Định hướng và giải pháp về thu hút FDI của mỗi địa phương trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc dân cần khai thác những tiềm năng và lợi thế nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của địa phương.
- Phát triển đồng bộ, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Đầu tư ngân sách nhà nước cho xây dựng kết cấu hạ tầng. Cho phép vay ưu đãi hoặc được phép phát hành trái phiếu để đầu tư vào các công trình hạ tầng trọng điểm. Khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Áp dụng quy chế ưu đãi đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT và các dự án, địa bàn trọng điểm.
- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực
Chú trọng đào tạo công nhân lành nghề theo yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài đặt ra. Khuyến khích người lao động tự rèn luyện, nâng cao tay nghề. Công tác giáo dục pháp luật cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn FDI phải được tiến hành thường xuyên theo định kỳ nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật cho người lao động. Với địa phương, cần tham gia hỗ trợ việc tuyển chọn lao động làm việc tại các doanh nghiệp FDI, đặt biệt với người tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp FDI.
-Chú trọng cải cách hành chính
Hoàn thiện thể chế, hoàn chỉnh hệ thống chính sách và văn bản quy phạm pháp luật liên quan về đầu tư nước ngoài phù hợp với luật pháp quốc tế.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, thu hút đầu tư, huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển. Đề xuất những sáng kiến mới và tìm nguồn lực cho việc thực hiện những sáng kiến đó.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997- NAY
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh
Vị trí địa lý: Bắc Ninh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng – Trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cửa ngõ Đông Bắc của thủ đô Hà Nội; là tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội, phía Đông giáp Hải Dương, phía Tây giáp Hà Nội. Bắc Ninh mang những nét đặc trưng của cấu tạo địa chất vùng trũng Sông Hồng và vòng cung Đông Triều vùng Đông Bắc. Địa hình tương đối bằng phẳng có hướng dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ dốc không lớn, đồi núi chỉ chiếm 0,53% diện tích và độ cao phổ biến 40 – 50m so với mực nước biển.
Đặc điểm kinh tế - xã hội: Diện tích tự nhiên: 822 km2; Dân số: 1.015.000 người. Những năm qua kinh tế Bắc Ninh có bước phát triển đáng kể. Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tiến bộ, sản xuất lương thực tăng trưởng cao. Công nghiệp, dịch vụ, nhất là công nghiệp nông thôn được phát triển thích ứng dần với cơ chế thị trường. Bắc Ninh có tới 120 làng nghề, trong đó có 62 làng nghề truyền thống, hiện đang phát triển thành thế mạnh và tiềm năng lớn của tỉnh; Bắc Ninh có những Khu công nghiệp tập trung lớn quan trọng đang được đầu tư xây dựng.
Bắc Ninh được biết đến không chỉ là quê hương của lễ hội, của những làn điệu quan họ mượt mà, những địa danh nổi tiếng gắn liền với truyền thống văn hoá lịch sử và đấu tranh cách mạng.... mà đây còn là mảnh đất hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã tạo đà cho các khu cụm công nghiệp phát triển, góp phần phân công điều chỉnh lại lực lượng lao động, đẩy nhanh quá trình hình thành đô thị hoá nông thôn. Phấn đấu vì mục tiêu “Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”; thực hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh nhằm từng bước đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015; các cấp, các ngành, đoàn thể quần chúng đã có nhận thức đầy đủ và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thu hút đầu tư vào các khu cụm công nghiệp, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Những thuận lợi khó khăn trong thu hút FDI:
Thuận lợi: Bắc Ninh có đầy đủ tiềm năng và các điều kiện thuận lợi để tạo lập môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư. Đó là:
- Bắc Ninh liền kề với Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế - văn hoá - chính trị của cả nước. Bắc Ninh có chính sách kinh tế đối ngoại rộng mở, an ninh chính trị và trật tự xã hội bảo đảm.
- Hệ thống giao thông kết nối với các tỉnh trong vùng như quốc lộ 1A nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn; đường cao tốc 18 nối sân bay Quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long; quốc lộ 38 nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng; trục đường sắt đi xuyên Việt chạy qua Bắc Ninh đi Lạng Sơn và Trung Quốc; mạng đường thuỷ sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình nối Bắc Ninh với hệ thống cảng sông và cảng biển của vùng. Đây là những yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu của Bắc Ninh với bên ngoài.
- Những năm qua, kinh tế Bắc Ninh có bước phát triển nhanh và tương đối toàn diện cả về kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân 14%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực. Tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp – xây dựng tăng từ 35,7% năm 2000 lên 47,8 năm 2006, dịch vụ tăng từ 26,3% lên 28,6%, nông nghiệp giảm từ 38% xuống còn 23,6%.
- Bắc Ninh là tỉnh tập trung nguồn nhân lực có trình độ dân trí khá cao, năng động và sáng tạo trong làm ăn kinh tế, trong giao lưu buôn bán, dịch vụ, có khả năng tiếp nhận nhanh chóng các công nghệ hiện đại cũng như trình độ quản lý tiên tiến.
- Khu công nghiệp tập trung: năm 2001 là năm đầu tiên Bắc Ninh thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005), đặc biệt có những bước đột phá mới chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế của tỉnh, đó là sự hình thành các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đến nay, trên phạm vi cả tỉnh đã có 10 Khu công nghiệp được Chính phủ phê duyệt về quy hoạch hoặc chấp thuận về chủ trương đầu tư xây dựng, với tổng diện tích khoảng 3.216ha
- Thủ tục hành chính về thẩm tra, phê duyệt cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án luôn được cải thiện, tạo thuận lợi và nhanh chóng cho các nhà đầu tư. Chế độ ưu đãi đối với các dự án khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
- Bưu chính viễn thông với mạng lưới và thiết bị hiện đại, có khả năng cung cấp những dịch vụ viễn thông, dịch vụ chuyển phát nhanh sang quốc tế và trong nước với nhiều hình thức khác nhau đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư.
- Nguồn điện được cung cấp đầy đủ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trực tiếp qua mạng lưới điện quốc gia (tuyến Đông Anh, Phả Lại). Có nguồn nước dồi dào từ các sông và dưới lòng đất, nhiều nhà máy nước đã và đang đầu tư xây dựng đảm bảo nước cho phát triển công nghiệp, đặc biệt tại các khu và cụm công nghiệp, các đô thị trong tỉnh.
- Hệ thống Ngân hàng nhà nước và một số ngân hàng liên doanh có chi nhánh ở Bắc Ninh đều có các dịch vụ ngân hàng thuận tiện như Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…nhiều hãng bảo hiểm nổi tiếng như AIA, Prudentials, Bảo Việt, Bảo Minh… và nhiều công ty tư vấn cũng có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Bắc Ninh.
- Hệ thống trường dạy nghề: ngoài 7 trường cao đẳng, đại học, Bắc Ninh còn có 23 trường trung học chuyên nghiệp, trường đào tạo công nhân kỹ thuật. Trong năm 2007, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 2 trường đại học và 2 trường dạy nghề kỹ thuật cao.
Khó khăn:
- Tài nguyên đất đai hạn hẹp, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 822,7 km2. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 64%, đất lâm nghiệp chiếm 0,74%, đất chuyên dùng và đất ở chiếm 28,4%, đất chưa sử dụng chỉ còn 0,81%.
- Công tác quy hoạch phục vụ kêu gọi đầu tư còn chậm. Các ban, ngành chưa chủ động xây dựng quy hoạch các ngành nghề và các dự án phục vụ cho công tác vận động xúc tiến FDI mà thụ động coi đó là công tác của Sở Kế hoạch và Đầu tư.
-Quá trình hỗ trợ các nhà đầu tư sau khi được cấp phép còn yếu, sự phối hợp của các ban, ngành trong việc giải quyết các vướng mắc, khó khăn của nhà đầu tư còn chậm; việc sử dụng hình ảnh các nhà đầu tư đã đầu tư thành công trên địa bàn tỉnh để thu hút các nhà đầu tư khác chưa được quan tâm đúng mức.
2.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước và tỉnh Bắc Ninh về thu hút FDI
2.2.1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về thu hút FDI
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), chính sách mở cửa nền kinh tế đã tạo ra những biến đổi tích cực trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực chất, quá trình mở cửa là tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Trong quá trình đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành vấn đề quan trọng trong nội dung, chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đảng ta đã chỉ rõ: “Mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát huy mạnh mẽ các lợi thế và nguôn lực bên trong. Cần thấy rằng quan hệ kinh tế với bên ngoài phải trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, do đó, chỉ có thể mở rộng và đem lại hiệu quả tốt khi dựa trên cơ sở và hướng vào khai thác tối đa mọi nguồn lực và lợi thế bên trong. Ý chí tự lực tự cường không mâu thuẫn mà ngược lại là điều kiện cơ bản để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài”. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài liên tục được điều chỉnh nhằm thu hút tối đa nguồn FDI từ bên ngoài. Cụ thể, Luật đầu tư nước ngoài 1987 và hai lần sửa đổi năm 1990 và năm 1992 thể hiện ở một số nội dung sau:
- Một là, đối xử bình đẳng đối với các nhà đầu tư nước ngoài so với các nhà đầu tư trong nước.
- Hai là, cho phép các doanh nghiệp FDI được sử dụng hệ thống kế toán của nước ngoài và các công cụ kế toán khác. Hệ thống kế toán quốc tế cũng được xem xét để áp dụng, trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài và phía Việt Nam có mâu thuẫn, hai bên có thể đưa ra trọng tài kinh tế của Việt Nam và Quốc tế xem xét nếu cả hai bên đồng ý.
- Ba là, trong trường hợp hệ thống pháp luật của Việt Nam có thay đổi, gây thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ có biện pháp bồi thường thiệt hại cho họ.
- Bốn là, vốn và tài sản của nhà đầu tư nước ngoài không bị tịch thu, sung công quỹ hoặc bị quốc hữu hóa.
- Năm là, quyền sở hữu trí tuệ và các bằng phát minh sáng chế của các nhà đầu tư nước ngoài được chính phủ Việt Nam bảo vệ.
- Sáu là, Chính phủ Việt Nam không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài, họ có quyền nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, nguyên liệu cần thiết cho quá trình sản xuất, họ có thể xuất khẩu sản phẩm của họ ra nước ngoài và bán tại Việt Nam.
- Bẩy là, Chính phủ Việt Nam bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài được chuyển về nước không hạn chế vốn đầu tư, lợi nhuận và các tài sản khác, lao động nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp FDI được chuyển tiền của họ ra nước ngoài.
Mặc dù đã được sửa đổi hai lần kể từ khi ra đời nhưng Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn bộc lộ những hạn chế, có không ít điều khoản không còn phù hợp, thủ tục thực hiện dự án còn quá rườm rà, chồng chéo. Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1997 đã được sửa đổi như sau:
- Thứ nhất, khuyến khích đầu tư và ưu đãi thuế cho các nhà đầu tư. Quy định chi tiết các lĩnh vực được khuyến khích đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quy định khuyến khích đầu tư vào những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm chuyển dịch cơ cấu đầu tư, khai thác tiềm năng kinh tế tại những địa bàn này nhằm góp phần rút ngắn sự chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các vùng. Luật đầu tư nước ngoài còn quy định cụ thể ba mức thuế ưu đãi: đối với trường hợp khuyến khích đầu tư, chủ dự án sẽ phải nộp 20% lợi nhuận dưới dạng thuế (thuế đánh vào lợi nhuận thu được - thuế lợi tức), so với mức thuế suất bình thường là 25%, đối với trường hợp dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế giảm xuống còn 15% lợi nhuận, và trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu ta với mức thuế suất là 10%. Quy định cụ thể thời gian miễn thuế: dự án đầu tư nước ngoài có thể được miễn thuế lợi tức trong thời gian tối đa là 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm thuế lợi tức là 50% trong một thời gian tối đa tiếp theo là 2 năm. Đối với dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì miễn thuế lợi tức trong thời gian tối đa là 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi, và được giảm 50% thuế lợi tức trong thời gian tối đa tiếp theo là 4 năm.
- Thứ hai, nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị của các liên doanh: Luật đầu tư mới đã quy định cụ thể và thu hẹp những vấn đề cần thực hiện theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên trong hội đồng quản trị theo 4 vấn đề lớn liên quan tới tổ chức hoạt động của liên doanh: (1) Bổ nhiệm, miễm nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất, kế toán trưởng, (2) sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, (3) duyệt quyết toán thu chi hàng năm và quyết toán xây dựng công trình, (4) vay vốn đầu tư. Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc quá bán số thành viên có mặt tại cuộc họp. Quy định này là một điều quan trọng, góp phần làm cho Luật thông thoáng hơn, gắn với thông lệ quốc tế và đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Thứ ba, tái đầu tư và thành lập liên doanh mới: Theo quy định của Luật cũ, nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận thu được để tái đầu tư thì được hoàn thuế cho phần lợi nhuận dùng cho tái đầu tư. Mở ra cho các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được liên kết với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Thứ tư, quản lý nhà nước vể đầu tư nước ngoài: Luật mới quy định rút ngắn thời gian thẩm định dự án và cấp phép chậm nhất là 60 ngày kể từ ngày cơ quan hữu trách nhận được hồ sơ hợp lệ so với thời gian trước đây là 3 đến 6 tháng. Các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu tư như đất đai, xây dựng, môi trường xuất nhập khẩu chỉ trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Năm 1997, Luật Luật Đầu tư nước ngoài tuy đã thông thoáng hơn nhiều nhưng luồng vốn FDI thu hút vào Việt Nam vẫn có xu hướng giảm sút, do một số
nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, có nhiều khó khăn vướng mắc không được giải quyết kịp thời, khiến môi trường đầu tư thiếu tính hấp dẫn, trong khi Việt Nam đang cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực.
- Thứ hai, ở tầm vĩ mô, quy hoạch tổng thể về FDI chậm và không rõ ràng, dẫn đến các doanh nghiệp FDI khó khăn trong việc hoạch định kế hoạch của mình, nhiều doanh nghiệp đã ở trong tình trạng sản xuất cung vượt quá cầu.
- Thứ ba, các ngành nông, lâm, ngư nghiệp được xác định là khu vực ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài nhưng do cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, các chính sách thiếu tính đồng bộ và nh._.án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. Các ngành khuyến khích đầu tư gồm: công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…, chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Khuyến khích thu hút vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên - phụ liệu góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Khuyến khích đầu tư vào ngành du lịch, y tế, giáo dục – đào tạo; dịch vụ giải trí, bán buôn, bán lẻ và hoạt động văn hoá, các dự án đầu tư công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, dự án đầu tư công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt là xuất khẩu.
Một số định hướng cụ thể:
(i) Ngành công nghiệp – xây dựng:
Mục tiêu phát triển công nghiệp giai đoạn 2006-2010: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh Công nghiệp phát triển. Mục tiêu cụ thể là:
- Tốc độ tăng GDP bình quân từ 15-16 %/năm. Trong đó Công nghiệp-xây dựng tăng 19-20% (riêng Công nghiệp tăng trên 20%).
- Tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp là 25%/năm. Đến năm 2010 đạt giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt 20.112 tỷ đồng (theo giá cố định 1994), trong đó Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6924,0 tỷ đồng.
- Cơ cấu Công nghiệp - Xây dựng trong GDP của tỉnh đến năm 2010 chiếm 55%.
Để đạt mục tiêu trên, Bắc Ninh ưu tiên khuyến khích đầu tư:
- Các ngành đặc biệt khuyết khích đầu tư gồm: công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
-Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên - phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
(ii) Ngành dịch vụ:
Ngành dịch vụ có tiềm năng lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mời gọi các dự án lĩnh vực dịch vụ theo hướng các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác. Tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư nước ngoài bằng việc xem xét với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng:
- Khuyến khích dự án FDI đầu tư vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục đào tạo, ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn, bán lẻ và văn hoá.
- Khuyến khích dự án FDI đầu tư tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng đường giao thông, viễn thông, cấp nước, thoát nước.
(iii) Ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp:
- Khuyến khích các dự án FDI đầu tư về công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Khuyến khích dự án FDI đầu tư công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặt biệt xuất khẩu.
- Khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thuỷ lợi, sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hệ thống giao thông nội đồng…
3.2.3. Định hướng địa bàn đầu tư
Trong những năm tới, dự báo vốn FDI vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những huyện có điều kiện thuận lợi về vị trí - địa lý, nhất là huyện Tiên Du, Từ Sơn, Quế Võ, Yên Phong và thành phố Bắc Ninh. Để tăng cường thu hút FDI tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, như Gia Bình, Lương Tài và Thuận Thành, bên cạnh những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với dự án FDI tại các huyện đó cần ưu tiên đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện nước, hạ tầng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ của huyện.
3.2.4. Định hướng đối tác
Chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs). FDI trên thế giới chủ yếu là vốn của TNCs. Hoạt động của các tập đoàn này có tác động quan trọng đối với những nước tiếp nhận vốn FDI, do đó việc thu hút các TNCs được khuyến khích cả hai hướng:
-Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu;
-Tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phát triển công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
Nhật Bản
Dự báo từ nay đến 2015 Nhật Bản sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong đầu tư tại Việt Nam nói chung và Bắc Ninh nói riêng; tiếp theo là Hàn Quốc và Đài Loan. Nhật Bản là quốc gia có vốn FDI đăng ký và thực hiện lớn nhất trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Bắc Ninh. Chính phủ Nhật Bản đang có những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, coi Việt Nam trong đó có Bắc Ninh là địa bàn hấp dẫn thu hút đầu tư.
Bắc Ninh cần tích cực xây dựng Chương trình xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản nhằm tranh thủ sự hỗ trợ tích cực nhất trong công tác thu hút đầu tư từ quốc gia này. Thúc đẩy và hỗ trợ các dự án của Nhật Bản hiện đang trong quá trình đàm phán hoặc hình thành dự án; cũng như giải quyết tốt các vướng mắc cho các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại Bắc Ninh.
Hàn Quốc
Các doanh nghiệp Hàn Quốc rất quan tâm tới Bắc Ninh thể hiện qua số lượng dự án FDI của Hàn Quốc và các nhà đầu tư Hàn Quốc vào Bắc Ninh tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh ngày càng tăng. Cũng như các nhà đầu tư Nhật Bản, các nhà đầu tư Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của những nhà đầu tư đi trước, vì vậy cần có biện pháp tích cực hỗ trợ các nhà đầu tư hiện đang kinh doanh ở Bắc Ninh, tạo tác động tích cực với các nhà đầu tư mới. Cần coi trọng thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ, công nghệ thông tin….
Singapore
Singapore là đất nước hiện có hơn 1.600 tập đoàn đa quốc gia (TNCs) đặt trụ sở, vì vậy cần tập trung thu hút các tập đoàn này đầu tư vào Bắc Ninh. Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore (VSIP) tại huyện Từ Sơn- Bắc Ninh. Các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư từ Singapore là công nghiệp điện tử, tin học, công nghệ thông tin; khách sạn, du lịch.
Đài Loan
Đài Loan tăng cường thực hiện chính sách hướng Nam, trong đó Việt Nam được coi là thị trường quan trọng về đầu tư và thương mại. Đây là thời cơ mới trong thu hút đầu tư của Đài Loan để có thể đẩy quy mô và phát huy hiệu quả của các dự án đầu tư sắp tới. Tập trung phối hợp với Tập đoàn Công nghệ Hồng Hải (FOXCONN) thu hút các nhà đầu tư Đài Loan vào Khu Công nghiệp Đại Kim trong các lĩnh vực như đầu tư kinh doanh hạ tầng, đô thị và các lĩnh vực như sản xuất thép, cơ khí chế tạo, xe máy; các thiết bị điện, điện tử, linh kiện máy tính; sợi tổng hợp, dệt, may, giày; trồng và chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và chế biến thực phẩm phục vụ xuất khẩu. Ngoài việc chú trọng thu hút các tập đoàn lớn cần coi trọng thu hút các xí nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan vì quy mô vốn và trình độ kỹ thuật của các xí nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan phù hợp với chính sách phát triển ngành Công nghiệp phụ trợ của ta. Tăng cường phối hợp với Văn phòng Kinh tế Văn hoá Đài Bắc tại Hà Nội, với Hiệp hội thương nhân Đài Loan tại Việt Nam để hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn, trở ngại của các nhà đầu tư Đài Loan trong quá trình đầu tư và kinh doanh tại Bắc Ninh. Thông qua những biện pháp này để khuyến khích họ mở rộng đầu tư, đầu tư mới và thu hút các doanh nghiệp mới của Đài Loan đầu tư vào Bắc Ninh.
Châu Âu, Hoa Kỳ
Tăng cường quảng bá hình ảnh Bắc Ninh và môi trường đầu tư Bắc Ninh đến với các nhà đầu tư tiềm năng các nước Châu Âu, Hoa Kỳ, Canađa…làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước này trong thời gian tới. Đối với các nước EU, cần tập trung vào việc thu hút đầu tư FDI từ các nước công nghiệp hàng đầu thế giới như Pháp, Anh, Đức. Đối với Hoa Kỳ, ngoài các tập đoàn lớn cần đẩy mạnh thu hút đầu tư của cộng động người Việt tại Hoa Kỳ.
3.2.5. Phát triển các Khu, Cụm công nghiệp
Định hướng đến 2015, Bắc Ninh có 18 Khu công nghiệp tập trung, với tổng diện tích khoảng 10.892ha. Trong đó, diện tích đề nghị bổ sung mở rộng 4.186ha; diện tích khu đô thị quy hoạch gắn liền với các khu công nghiệp quy hoạch bổ sung và mở rộng 4.570ha.
Tiếp tục quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN nhỏ và vừa, Cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn toàn tỉnh. Dự kiến đến năm 2015 thành lập 54 khu, với tổng diện tích: 1.711,4 ha. Trong đó phát triển thêm 28 khu, cụm công nghiệp với diện tích quy hoạch: 1.133,8 ha.
3.3. Mục tiêu thu hút FDI
Những kết quả tích cực đạt được trong năm 2007, nhất là kinh tế tăng trưởng nhanh, môi trường đầu tư được cải thiện; việc chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và việc Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn đối với Việt Nam, uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, sẽ tạo đà cho sự gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói riêng trong những năm tới.
Trên cơ sở đánh giá tiềm năng của tỉnh cũng như những nhân tố mới có tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài, có thể dự báo rằng, nếu giải quyết tốt những vấn đề kết cấu hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, thủ tục hành chính, thì dòng vốn đầu tư nước ngoài vào tỉnh sẽ tiếp tục xu hướng gia tăng. Mục tiêu chủ yếu của thu hút FDI giai đoạn 2008-2010:
- Vốn FDI thực hiện: đạt khoảng 2 tỷ USD
- Vốn đăng ký: Tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn trong 5 năm giai đoạn 2006-2010 đạt khoảng 3 tỷ USD.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, cần chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) và khuyến khích cả hai hướng:
-Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu;
-Tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các trung tâm nghiên cứu, phát triển công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
3.4. Giải pháp thu hút FDI
3.4.1. Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, cải thiện môi trường đầu tư, đa dạng hoá các hình thức thu hút đầu tư
Tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành nhằm bảo đảm thực sự hấp dẫn thông thoáng, rõ ràng, nhất quán, minh bạch, ổn định để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Qua rà soát cần đánh giá kỹ mặt được, chưa được, làm rõ những nội dung cần bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện mới, tạo sự bình đẳng thực sự cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đồng thời phải tính tới các yếu tố phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Bên cạnh đó, phải tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cụ thể là:
- Đẩy mạnh tuyên truyền các văn bản pháp luật về thuế, tài chính, ngân hàng. Trên cơ sở khuyến khích các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới. Thúc đẩy phát triển chuyển giao công nghệ mới, công nghệ cao.
- Chú trọng phát triển hệ thống thị trường tài chính, bất động sản, lao động và dịch vụ khoa học công nghệ nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.
-Cần tổ chức đánh giá tổng kết một cách toàn diện các hình thức đầu tư đã được áp dụng trong thời gian qua. Trên cơ sở đó xác định rõ những loại hình thức đầu tư nào, loại đối tác nào cần ưu tiên khuyến khích thu hút và những tiêu chuẩn tối thiểu cần thiết đối với doanh nghiệp Việt Nam tham gia dự án đầu tư. Xây dựng các chính sách, biện pháp ưu đãi để khuyến khích huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, các thành phần kinh tế khác để tham gia dự án liên doanh nhằm nâng cao tỷ lệ đóng góp vốn của phía Bắc Ninh trong các dự án FDI.
Tham khảo, khảo sát các nước khu vực ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc về kinh nghiệm thu hút FDI, đồng thời thực hiện đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư. Khuyến khích áp dụng các lĩnh vực đầu tư mới, đặc biệt ngành có công nghệ nguồn, hiện đại. Trước mắt, thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng các khu công nghiệp để tạo ra những điều kiện, môi trường hấp dẫn thu hút các dự án FDI có quy mô lớn, công nghệ tiên tiến. Khuyến khích áp dụng các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT với các dự án xây dựng sơ sở hạ tầng. Hoàn chỉnh danh mục các dự án BOT, BTO, BT cùng những điều kiện, chính sách, cơ chế ưu đãi xin phép chính phủ và công bố công khai rộng rãi cho các nhà đầu tư tham khảo.
3.4.2. Xây dựng quy hoạch tổng thể thu hút FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài dù đạt được đến quy mô nào cũng chỉ là bộ phận cấu thành của toàn bộ cơ cấu đầu tư. Tự bản thân FDI không thể tạo nên cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh mà chỉ là bộ phận bổ sung, chịu tác động qua lại của các bộ phận khác trong cơ cấu kinh tế, do đó nó không thể vượt ra quy hoạch chung của nền kinh tế. Do vậy, cần phải xây dựng quy hoạch tổng thể thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tránh hiện tượng tự phát trong bố trí dự án đầu tư.
Theo cơ chế thị trường, hợp tác đầu tư nước ngoài là một hành động tự nguyện dựa trên sự thoả thuận giữa các bên. Để đạt được thoả thuận, các bên cần tuân thủ các quy định của pháp luật, chính sách đầu tư. Vì vậy, pháp luật và chính sách đầu tư phải đầy đủ đồng bộ, rõ ràng, cụ thể, tránh những thay đổi đột ngột, yêu cầu các bên hợp tác thực hiện đúng và nghiêm túc mọi quy định của nhà nước. Do đó, xuất phát từ yêu cầu và khả năng thực tế trong từng giai đoạn, cần xây dựng quy hoạch tổng thể thu hút FDI phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, nhất là tập quán và thông lệ quốc tế. Việc xây dựng quy hoạch cần phải đánh giá đúng điều kiện thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và đặt lên hàng đầu, quan trọng nhất là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI.
Để nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút FDI, cần chú trọng công tác dự báo cập nhật thông tin thị trường trong nước, quốc tế và khu vực, đảm bảo thống nhất giữa quy hoạch của tỉnh với quy hoạch chung của Nhà nước. Quy hoạch thu hút FDI cần quán triệt các quan điểm sau:
- Quy hoạch thu hút FDI phải gắn liền và là bộ phận không tách rời của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước, cũng như gắn liền với quy hoạch phát triển vùng, ngành trên cơ sở cân đối các nguồn lực, lợi thế của địa phương.
- Quy hoạch thu hút FDI phải đảm bảo sự rõ ràng, cụ thể nhưng đồng thời phải có tính mở, tính thay thế và định hướng. Quy hoạch thu hút FDI phải bám sát vào các khả năng, điều kiện hiện có của Bắc Ninh, nhận định những cơ hội, thách thức… để thực hiện bằng được các mục tiêu quy hoạch.
- Quy hoạch thu hút FDI phải hội tụ đủ cả ba yếu tố: tính lâu dài, tính khoa học và tính khả thi.
Việc xây dựng quy hoạch cần được tổ chức thực hiện theo quy trình sau:
- Điều tra tổng thể về tình hình hoạt động và đánh giá hiệu quả của hoạt
động thu hút FDI, tìm ra những mặt được, chưa được của hoạt động này, chỉ ra mục tiêu cho từng giai đoạn cụ thể nhằm thực hiện được định hướng đề ra của Bắc Ninh.
- Nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm xây dựng quy hoạch của một số địa phương trong và ngoài nước.
- Xây dựng quy hoạch thu hút và sử dụng FDI phải tính đến những ngành có lợi thế, những ngành không có khả năng, những ngành cần thu hút FDI…
3.4.3. Tích cực đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư
Thông tin, giới thiệu, quảng cáo là một biện pháp cạnh tranh thu hút FDI. Chính vì vậy, Bắc Ninh cần tiếp tục quảng bá cho các nhà đầu tư nước ngoài thấy rõ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Bắc Ninh. Để đạt được hiệu quả cao, công tác xúc tiến đầu tư cần triển khai theo hướng sau:
- Tăng cường quy mô, chất lượng tiếp thị, xúc tiến đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh mẽ mạng lưới cộng tác viên ở trong, ngoài nước, các cá nhân và tổ chức Việt Kiều ở nước ngoài, các văn phòng đại diện, các sứ quán tại nước ta và nước ngoài. Tích cực khai thác tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan trung ương để tiếp cận, hợp tác với các tổ chức xúc tiến đầu tư của các nước và quốc tế để thu hút FDI.
- Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin kinh nghiệm. Tăng cường tiếp xúc với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và sự hỗ trợ trong công tác xây dựng chính sách vận động và thu hút đầu tư.
- Xây dựng hoàn thiện cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác về tình hình tài nguyên, kinh tế kỹ thuật, xã hội và môi trường đầu tư để công bố, phát hành rộng rãi cho các đối tác nước ngoài tìm hiểu.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư: Hội thảo, triển lãm, quảng cáo, phát hành tập san…
- Xây dựng chính sách và biện pháp ưu đãi để kêu gọi đầu tư nước ngoài theo danh mục các dự án, các nhóm ngành, lĩnh vực đầu tư.
- Thực hiện chế độ khen thưởng vật chất để động viên kịp thời những tổ chức cá nhân có đóng góp công lao trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
- Việc xúc tiến đầu tư và xuất khẩu cần thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá. Tích cực xúc tiến, tìm kiếm đối tác đầu tư theo khu vực châu Âu, Bắc Âu, Nhật bản và Nga, những thị trường lớn.
Tổ chức diễn đàn đầu tư nước ngoài vào Bắc Ninh. Đây là những công cụ hữu hiệu nhất giúp các nhà đầu tư nước ngoài có được những thông tin đầy đủ, chính xác về Bắc Ninh.
- Hàng năm, dành một phần kinh phí cho tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư thông qua các hoạt động hội chợ, hội thảo, tiếp thị hàng hoá xuất khẩu nhằm khai thác thị trường mới và tìm đối tác nước ngoài. Tổ chức hội chợ hàng năm, mời các nhà đầu tư nước ngoài đến thăm Bắc Ninh, qua đó giới thiệu cho họ những cơ hội đầu tư.
- Phát triển du lịch, thu hút khách du lịch Quốc tế đến với Bắc Ninh. Trong số những du khách đến Bắc Ninh sẽ có những nhà đầu tư, họ vừa kết hợp đi du lịch với việc tìm cơ hội đầu tư.
- UBND tỉnh Bắc Ninh cần phải đổi mới thủ tục, quy trình đăng ký, thẩm định và quản lý đầu tư sau khi cấp giấy phép với phương châm trân trọng, hỗ trợ không gây phiền hà cho nhà đầu tư. Hàng tháng, thường trực UBND tỉnh chủ trì giao ban với các chủ dự án đầu tư, Ban quản lý các khu công nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn cho các dự án; quyết định các chủ trương, các biện pháp hỗ trợ để kịp thời thu hút các dự án mới và thực hiện quản lý sau khi cấp giấy chứng nhận đầu tư. Khi lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần quan tâm đến năng lực về tài chính của chủ đầu tư để có thể thực hiện tốt dự án đầu tư.
- Trong vận động thu hút đầu tư cần sự kết hợp các dự án lớn, vừa và nhỏ, công nghệ hiện đại, sử dụng nhiều lao động một cách phù hợp với đặc thù của Bắc Ninh và khả năng của đối tác..
3.4.4. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính
- Giải quyết nhanh, đơn giản hoá các thủ tục về đầu tư, quy hoạch mặt
bằng giao đất, cấp giấy phép xây dựng, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, thủ tục thành lập doanh nghiệp và giấy phép kinh doanh. Cần xây dựng quy chế một cửa về thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư và công bố công khai để các nhà đầu tư biết và thực hiện.
- Công khai mức thuế đất của từng khu vực trên địa bàn thành phố. Kiên quyết và cải tiến mạnh mẽ công tác giải phóng mặt bằng. Xây dựng quy chế, quy trình phối hợp thực hiện giữa các ban ngành và đối tượng liên quan. Có biện pháp xử lý mạnh mẽ, kiên quyết với những cơ quan, cá nhân gây phiển nhiễu, dây dưa trong vấn đề giải phóng mặt bằng. Đồng thời có chính sách ưu tiên với những hộ gia đình bị thu hồi đất do giải phóng mặt bằng như ưu tien sắp xếp việc làm để đảm bảo thu nhập ổn định.
- Tăng cường tiếp xúc với các nhà đầu tư để giải quyết các kiến nghị, đề xuất chính đáng của họ. Thành lập đường dây “nóng” để tiếp nhận và xử lý các thông tin liên quan về FDI. Cải tiến, đơn giản hoá tối đa các thủ tục về hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh.
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các cơ quan thẩm định, xét duyệt đầu tư, đảm bảo các dự án được duyệt có chất lượng cao thực hiện đúng yêu cầu
và chủ trương về thu hút FDI. Tăng cường công tác kiểm toán trong quản lý nhà nước. Tiến hành đánh giá hiệu quả thu hút đầu tư. Thực hiện quy định về chế độ kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các hoạt động của các doanh nghiệp FDI theo hướng đơn giản hoá, không chồng chéo nhưng vẫn đúng pháp luật và có hiệu quả.
- Khuyến khích, tạo điều điện cho Trung tâm tư vấn xúc tiến đầu tư của tỉnh làm dịch vụ tư vấn đầu tư, thiết kế dự án phục vụ cho việc thu hút các dự án FDI, tư vấn tìm kiếm đối tác, triển khai các thủ tục khi dự án được duyệt và cả trong quá trình thực hiện dự án. Củng cố tổ chức, cụ thể hóa chức năng nhiệm vụ, đối mới phương thức kiểm soát, quản lý, trang bị phương tiện cần thiết để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với các cơ quan như: Cục thuế, sở Kế hoạch và Đầu tư. Nâng cao trách nhiệm của người thực thi công vụ, đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư. Trả lời thắc mắc, kiến nghị của nhà đầu tư qua mạng internet của Sở kế hoạch và Đầu tư
- Đề nghị nhà nước và các bộ, ngành liên quan ban hành những chính sách ưu đãi như:
+ Áp dụng chính sách một giá đối với các vấn đề: điện, nước, dịch vụ công cộng nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng.
+ Cho phép những dự án sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn được điều chỉnh tỷ lệ tiêu thụ nội địa.
+ Đề nghị Chính phủ điều chỉnh mức thuế nhập khẩu để khuyến khích nội địa hóa.
3.4.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương
Mặc dù được xác định nhân tố quan trọng nhất nhưng nhân lực lại là khẩu yếu nhất. Nhân lực cung cấp cho các dự án FDI cần được đáp ứng đồng bộ trên cả ba mặt: đào tạo, cung ứng và quản lý.
* Về đào tạo công nhân kỹ thuật:
Các trung tâm dậy nghề đào tạo quá nhiều ngành nghề nhưng các dự án FDI chỉ cần lực lượng công nhân được đào tạo lành nghề có chuyên môn sâu và tác phong làm việc công nghiệp. Bắc Ninh cần phải quy hoạch lại hệ thống các trường, trung tâm dậy nghề, đồng thời đầu tư nâng cấp, trang thiết bị chuyên dùng phục vụ việc giảng dậy, học tập cho giáo viên, học sinh.
Việc tuyển dụng lao động vào các doanh nghiệp FDI vẫn còn trong tình trạng tuỳ tiện, phiền hà. Cần thống nhất việc tuyển dụng lao động chỉ qua một số đầu mối nhất định. Đồng thời phải đấu tranh và thuyết phục đối với phía đối tác nước ngoài đảm bảo tôn trọng các quy định của Luật lao động và thoả ước lao động tập thể. Đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động.
* Về việc đào tạo cán bộ làm công tác quản lý đầu tư
Việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý FDI là rất cần thiết. Bên cạnh việc nâng cao, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, cần trang bị một cách hệ thống các chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về FDI. Ngoài ra cần nâng cao kiến thức về pháp luật, thông lệ quốc tế, tình hình kinh tế - thị trường thế giới, phong cách làm việc công nghiệp. Việc chọn cử, bố trí cán bộ làm công tác quản lý đầu tư phải có chuyên môn vững vàng, ngoại ngữ giỏi, bản lĩnh chính trị cao.
3.4.6. Cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng
Các nhà đầu tư nước ngoài khi bỏ vốn vào đầu tư một nơi nào đó, thì một trong những điều họ quan tâm chính là cơ sở hạ tầng nơi đó như thế nào. Trong những năm qua, việc xây dựng và phát triển cơ sợ hạ tầng ở Bắc Ninh đạt được một số thành công bước đầu, đã từng bước mang lại cho Bắc Ninh bộ mặt mới. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế. Các lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật cần nguồn vốn đầu tư lớn, nhưng thời gian thu hồi vốn chậm, do đó tư nhân thường không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Do nguồn ngân sách hạn hẹp, không đủ đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ và toàn diện nên Bắc Ninh phải tính toán cân nhắc để đưa ra giải pháp linh hoạt tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút FDI đầu tư vào lĩnh vực này. Đề đáp ứng nhu cầu vốn lớn cho xây dựng kết cấu hạ tầng, cần sử dụng hình thức BOT, khuyến khích các doanh nghiệp FDI đầu tư vốn, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng và kinh doanh trong một thời gian, sau đó chuyển giao cho địa phương. Trong thời gian xây dựng và kinh doanh, các doanh nghiệp này được miễn và giảm các loại thuế.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài “HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 1997 ĐẾN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”, Luận văn đã hoàn thành những mục tiêu đặt ra trong nghiên cứu và có những đóng góp chủ yếu sau:
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận chủ yếu về đầu tư trực tiếp nước ngoài, Đồng thời, luận văn đã nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số tỉnh để rút ra bài học kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo với tỉnh Bắc Ninh.
Luận văn đã khái quát những đặc điểm chủ yếu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh để thấy được những thuận lợi và khó khăn trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luận văn đã làm rõ chủ trương, chính sách của nhà nước và địa phương có ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên cơ sở đó, luận văn đã đi sâu nghiên cứu thực trạng tình hình thu hút FDI vào Bắc Ninh (số dự án, quy mô dự án, lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư…). Từ đó Luận văn đã làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Đồng thời, cũng chỉ ra những hạn chế của Bắc Ninh trong thu hút FDI.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và phân tích đánh giá thực tiễn thu hút FDI của Bắc Ninh trong giai đoạn từ 1997 đến nay và phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Ninh hiện nay, luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và Bắc Ninh, đó là: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI, cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, thực hiện đa dạng hoá các hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, tích cực đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực địa phương, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng.
Để tăng tính khả thi của các giải pháp trên, Luận văn cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình thu hút FDI, đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Ninh:
+ Tiếp tục cải cách hành chính sâu rộng hơn nhằm tạo lập bộ máy cán bộ có năng lực chuyên môn, am hiểu pháp luật để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài;
+ Tăng cường xúc tiến đầu tư để các nhà đầu tư nước ngoài hiểu được tiềm năng và môi trường thu hút đầu tư nước ngoài hấp dẫn của Bắc Ninh.
+ Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, thông qua kêu gọi và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư;
+ Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề;
+ Gắn hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Kỷ yếu 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” – Nhà xuất bản Thống nhất, Hà Nội;
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Các Báo cáo tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam qua các năm 1997 - 2007”;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “20 năm Đầu tư nước ngoài” - Đặc san Báo Đầu tư;
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), “Kỹ năng xúc tiến đầu tư” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
5. PGS.TS Trần Thị Minh Châu (2007), “Về Chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
6. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010”- Cục xuất bản, Bộ Văn hoá Thông tin.
7. Cục Đầu tư nước ngoài, Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (2008), 20 năm Đầu tư nước ngoài Nhìn lại và Hướng tới 1987-2007 - Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội;
8. Cục Thống kê Bắc Ninh, “ Niên giám thống kê Bắc Ninh các năm 1997- 2008” - Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
9. Mai Ngọc Cường (2000), “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia;
10. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001): “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
11. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ XI Ban chấp hành Trung ương khoá IX - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội;
12. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, “Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII năm 2006”;
13. Nguyễn Thị Hiền (2004), “Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN”- Nhà xuất bản chính trị quốc gia”, Hà Nội;
14. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
15. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
16. Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội ;
17. Luật Đầu tư năm 2005 - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội;
18. Nguyễn Thị Nhã (2000), “Các động lực và nhân tố chủ yếu tác động tới thu hút FDI trên thế giới”- Tạp trí thị trường TC-TT (số 8/2000).
19. Phùng Xuân Nhạ (2000), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hoá ở Malayxia”, NXB Thế giới;
20. Trần Văn Nam (2005), “Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” - Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội;
21. Trần Văn Thọ (2000), “Kinh tế Việt Nam 1995-2000 tính toán mới, phân tích mới” - Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội;
22. Nguyễn Văn Tuấn (2005), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam” - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội;
23. Trần Xuân Tùng (2005), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
24. Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Ninh, “Báo cáo tổng hợp của qua các năm 1997-2007 và quý I năm 2008”;
25. Vũ Trường Sơn (1997), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” - Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội;
26. Bình Sơn (2001), “Tình hình kinh tế Trung Quốc”- Tạp chí Tài chính doanh nghiệp (số 11/2001);
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-24.doc