Hoạt động thu chi tài chính & xác định kết quả kinh doanh của Ngân hàng thương Mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội

Đề tài: Một số vấn đề về thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Hà Nội Nội dung chuyên đề gồm: Chương I: Những lý luận cơ bản về thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam I. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại 2. Những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại 2.1. Nghiệp vụ ngu

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động thu chi tài chính & xác định kết quả kinh doanh của Ngân hàng thương Mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồn vốn 2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn 2.3. Nghiệp vụ trung gian II. Đặc điểm cơ chế tài chính của ngân hàng thương mại cổ phần ở nước ta và đặc điểm cơ chế tài chính của ngân hàng XNKVN - chi nhánh Hà Nội. III. Nội dung các khoản thu nhập và chi phí chủ yếu của ngân hàng thương mại 1. Các khoản thu nhập của ngân hàng thương mại 2. Các khoản chi phí của ngân hàng thương mại 3. Kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận Chương II Thực trạng tình hình hoạt động thu chi tài chính và xác định kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần - xuất nhập khẩu Việt Nam chi nhánh Hà Nội I. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (NHTMCP XNKVN) 1. Đặc điểm kinh tế xã hội trên địa bàn Hà Nội 2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội a. Về nguồn vốn b. Về sử dụng vốn II. Thực trạng tình hình hoạt động thu chi tài chính và xác định kết quả kinh doanh của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội 1. Các khoản thu nhập của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội 2. Các khoản chi phí tại NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội 3. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội 4. Đánh giá tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội Chương III Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, giảm chi phí của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội I. Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập giảm chi phí của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội 1. Mở rộng hoạt động đầu tư tín dụng, nâng cao hiệu quả của các khoản cho vay. 2. Đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ của ngân hàng và mở thêm các nghiệp vụ mới nhằm tăng thu nhập cho ngân hàng 3. Tăng cương uy tín của ngân hàng đối với khách hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau từ đó không ngừng tăng về quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động. 4. Kiến nghị về việc thu lãi cho vay của ngân hàng II. Một số biện pháp quản lý và tiết kiệm các khoản chi phí của ngân hàng Lời nói đầu Đất nước chúng ta đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm hội nhập nền kinh tế đất nước với nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Những vấn đề về tài chính và tiền tệ thì ngân hàng được xác định là công cụ mạnh mẽ, là đòn bẩy để thực hiện quản lý vĩ mô của Nhà nước, trong đó các hoạt động của ngân hàng được coi là một mũi nhọn trong nền kinh tế của đất nước. Ngân hàng với chức năng hoạt động là trung tâm tiền tệ, tín dụng thanh toán bao trùm lên mọi hoạt động kinh tế xã hội. Do vậy bất cứ một sự thay đổi nào của ngân hàng đều có tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế sản xuất hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường ngân hàng thương mại Việt Nam cũng chuyển sang hạch toán kinh tế độc lập tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Mục đích quan trọng nhất chi phối mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là lợi nhuận và các ngân hàng thương mại luôn tìm mọi biện pháp nhằm tối đa hoá lợi nhuận vì chỉ tiêu này thể hiện một cách chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Do đó việc đánh giá chỉ tiêu lợi nhuận tức là đánh giá các khoản thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Mặt khác việc đánh giá các khoản thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng còn là cơ sở chính để phân tích nhằm đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nó giúp cho ngân hàng thương mại tìm được nguồn thu mới ổn định, làm chủ cần phát huy của ngân hàng mình để có biện pháp tăng cường các khoản thu đó, xác định và giảm tối đa các khoản chi phí còn lãng phí để đạt được hiệu quả cao nhất không những đảm bảo trong ngành ngân hàng phát triển ngày càng lớn mạnh mà còn góp phần vào công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhận thức được vai trò của thu nhập, chi phí kết quả kinh doanh của ngân hàng với những kiến thức đã được tiếp thu trong quá trình học tập và qua khảo sát thực tế tại NHTMCP XNKVN - chi nhánh Hà Nội. Em xin lựa chọn nghiên cứu để tài "Một số vấn đề về thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh của ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Hà Nội". Tuy nhiên do kiến thức tiếp thu còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế còn ít, thời gian thực tập và phạm vi nghiên cứu có hạn cho nên chuyên đề không sao tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy em rất mong nhận được sự quan tâm cảu các thầy, cô giáo cùng toàn thể các cô chú cán bộ nhân viên tại NHTMCP XNKVN - chi nhánh Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Chương I những lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị trường và cơ chế tài chính của Ngân hàng Thương Mại I. Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường Trong xu thế phát triển chung của toàn thế giới ngành ngân hàng cũng luôn cố gắng không ngừng hoàn thiện và đổi mới công nghệ để phục vụ tốt nhất cho nền kinh tế. Nhất là trong thế kỷ XXI này, thế kỷ của khoa học phát triển, các ngân hàng thương mại đã mở ra nhiều lĩnh vực hoạt động để trở thành ngân hàng thương mại kinh doanh đa chức năng. Đặc biệt là việc áp dụng công nghệ tin học vào lĩnh vực ngân hàng đã giúp cho các ngân hàng thương mại thế giới phát triển vượt bậc. Các lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng thương mại ngày càng phong phú và đa dạng, ngoài việc kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương mại như nhận tiền gửi, cho vay và làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại còn kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác như kinh doanh vàng bạc đá quý, kinh doanh trên thị trường chứng khoán (mở ra các hoạt động dịch vụ ngân hàng). Chính vì luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội mà các ngân hàng thương mại đã ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó nó giải quyết mối quan hệ về cung cầu thông qua việc mua bán và bị chi phối bởi một số công cụ điều tiết. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà sự phân phối và trao đổi sản phẩm đều được thực hiện trên thị trường bằng phương thức mua và bán thoả thuận giữa các bên. Đồng thời thông qua thị trường mà các nhà kinh doanh có thể biết được nhu cầu của nền kinh tế để quyết định kinh doanh mặt hàng nào, số lượng, chất lượng và giá cả như thế nào? Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là hệ thống thần kinh của toàn bộ nền kinh tế Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh, phát triển được với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng mạnh. 1. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng là một pháp nhân, một thực thể kinh doanh nên nó tổ chức kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. * Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng Ngân hàng thương mại với tư cách là một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, có khả năng giải quyết các nhu cầu từ người thiếu vốn tới người cần vốn bằng cách huy động mọi nguồn vốn tiền tệ chưa sử dụng của các chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội (doanh nghiệp, tư nhân, cơ quan đoàn thể, ngân sách Nhà nước…) để hình thành quỹ cho vay tập trung trên cơ sở nguồn vốn huy động các ngân hàng sử dụng để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế với các mục đích khác nhau. Như vậy, ngân hàng làm môi giới trung gian giữa người đi vay và người cho vay mà thực chất ngân hàng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh bằng việc đi vay để cho vay. Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại đã đáp ứng được những nhu cầu vốn lưu động cần thiết đảm bảo quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá liên tục để mở rộng phạm vi quy mô hoạt động làm tăng năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đó. Với chức năng trung gian tín dụng các ngân hàng thương mại còn góp phần đẩy mạnh tốc độ luân chuyển hàng hoá và vòng quay của đồng tiền nhằm thúc đẩy quá trình phát triển sản xuất lưu thông hàng hoá. Hơn nữa hoạt động chức năng trung gian tín dụng quyết định sự phát triển và lớn mạnh của các ngân hàng thương mại. * Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian thanh toán Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, ngân hàng thương mại thực hiện các khoản thanh toán chi phí trả cho ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò làm "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp khi hệ thống thanh toán của ngân hàng thương mại ngày càng cao thì các nhà doanh nghiệp không cần đến tiền mặt để thực hiện các khoản thanh toán. Mọi quan hệ thanh toán chi trả đều thực hiện qua tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng thương mại. Ngân hàng thực hiện mọi khoản thu, chi theo lệnh của các chủ tài khoản. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại đã góp phần thực hiện các khoản thanh toán nhanh chóng làm tăng tốc độ luân chuyển vốn. Đồng thời điều tiết giảm tiền mặt trong lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như các chi phí về việc in ấn, đếm nhận, vận chuyển và bảo quản. * Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại Xuất phát từ chức năng trung gian tài chính và thanh toán mà các ngân hàng thương mại có khả năng "tạo tiền". Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào một ngân hàng, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ thống ngân hàng thương mại số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội. Sự tạo tiền bắt đầu từ khi "đồng tiền ghi sổ" ra đời song chỉ có một hệ thống ngân hàng thương mại mới có thể mở rộng tiền gửi lên nhiều lần còn nếu chỉ có một ngân hàng thương mại thì không thể có chức năng tạo tiền. Khả năng tăng lên bao nhiêu lần so với khoản tiền gửi ban đầu là do hệ số mở rộng tiền gửi quyết định. Hệ số mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại chịu sự tác động của các yếu tố: tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ rút tiền mặt của khách hàng, tỉ lệ dự trữ dư thừa. Giả sử trong điều kiện không xuất hiện khoản thanh toán nào bằng tiền mặt, không có khách hàng nào rút tiền mặt và các ngân hàng đều cho vay hết quỹ cho vay thì hệ số mở rộng tiền gửi được tính theo công thức 1 H = --------------------- (H: hệ số mở rộng tiền gửi) Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Khi đó, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì hệ số mở rộng tiền gửi là 10: nghĩa là hệ thống ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi gấp 10 lần tiền gửi ban đầu. Trên thực tế nếu có một khách hàng vay bằng tiền mặt thì quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt. Nếu một khách hàng nào đó rút một phần tiền mặt để thanh toán hay ngân hàng không cho vay hết quỹ cho vay thì khả năng mở rộng tiền gửi cũng giảm đi. Vì thế hệ số mở rộng tiền gửi trong thực tế được tính theo công thức 1 H = ------------------------------------------------------------------------------- Tỉ lệ DTBB + tỉ lệ t/toán bằng tiền mặt của khách hàng + Tỉ lệ DTDT Như vậy, khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại phải được thực hiện trên cơ sở sự kết hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ cho vay và thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó đòi hỏi ngân hàng ngày càng hiện đại hoá hệ thống thanh toán để tạo thành thói quen thanh toán qua ngân hàng. Đồng thời phải tận dụng quỹ cho vay để giảm đến mức thấp nhất các khoản dự trữ dư thừa. Mặt khác khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có thể mang lại rủi ro cho ngân hàng thương mại khi khách hàng có nhu cầu rút vốn ồ ạt mà ngân hàng lại thiếu phương tiện thanh toán bằng tiền mặt. Để giảm rủi ro các ngân hàng thương mại phải gửi tiền vào tài khoản tại ngân hàng trung ương và tham gia thanh toán ra ngoài hệ thống ngân hàng mình. Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có ý nghĩa to lớn. Qua hoạt động này làm cho nguồn vốn của ngân hàng thương mại phát triển lên, tạo điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt. Với chức năng tạo tiền ngân hàng thương mại coi ngân hàng thương mại như một kênh quan trọng qua đó ngân hàng thương mại có thể cung ứng tiền vào lưu thông hay thu hẹp khối lượng tiền tệ ngoài lưu thông nhằm đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu tiền tệ, thực hiện chính sách giá cả, tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo công ăn việc làm. Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Đồng thời thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và "tạo tiền" góp phần mở rộng hoạt động của chức năng trung gian tín dụng. 2. Những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại Quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc: "đi vay để cho vay" tức là phải tự cân đối về vốn và nguồn vốn có như vậy mới đảm bảo phục vụ tốt cho công tác huy động vốn, sử dụng vốn cũng như các nghiệp vụ khác của ngân hàng. Để khái quát được toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại người ta quy các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại thành 3 nghiệp vụ cụ thể chủ yếu sau: 2.1. Nghiệp vụ nguồn vốn (nghiệp vụ tài sản nợ). Nghiệp vụ tài sản nợ là nghiệp vụ hình thành nguồn vốn của ngân hàng thương mại Các hoạt động của ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở nguồn vốn huy động được, đó là những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của một bộ phận dân cư, của các đơn vị tổ chức kinh tế chưa sử dụng đến. hoạt động nghiệp vụ này quyết định đến các nghiệp vụ còn lại của ngân hàng thương mại. Về cơ bản nghiệp vụ này bao gồm: * Vốn tự có và coi như tự có Vốn tự có của ngân hàng thương mại bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ của ngân hàng thương mại và thuộc sở hữu của ngân hàng. Còn điều lệ của ngân hàng thương mại là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập ngân hàng do pháp lệnh Nhà nước quy định và được hình thành tuỳ theo tính chất sở hữu của các ngân hàng thương mại. Đối với ngân hàng thương mại cổ phần thì vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp. Quỹ dự trữ của ngân hàng có 2 loại: Qũy dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Việc hình thành các quỹ này làm tăng vốn tự có của ngân hàng đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh Vốn tự có của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong 2 nguồn vốn nhưng mang tính chất ổn định và là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Nợ không phải là vốn dùng trực tiếp vào kinh doanh nhưng lại có vai trò quan trọng trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Vốn tự có của ngân hàng thương mại không những là căn cứ pháp lý để thành lập ngân hàng mà còn là cơ sở để xác định quy mô hoạt động của ngân hàng, khẳng định thế mạnh cũng như khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại đối với người gửi tiền trong trường họp có thể xảy ra rủi ro. + Vốn coi như tự có: Như lợi nhuận chưa chia, hoặc các quỹ chưa sử dụng như quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định. - Nghiệp vụ huy động vốn: Vốn của ngân hàng được huy động từ nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại đây chính là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng. Vì vậy ngân hàng thông qua các công cụ tài chính với mức lãi suất khác nhau thời hạn hoàn trả khác nhau để có thể huy động tới mức tối đa nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng. Các ngân hàng thương mại phải làm sao thu hút được nhiều tiền của người tiêu dùng và các doanh nghiệp dù ngân hàng phải trả lãi cho các loại tiền gửi này song việc thu hút nhanh và biết sử dụng, vẫn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tiền gửi của ngân hàng thương mại thu hút được bao gồm: - Tiền gửi thanh toán Khách hàng gửi tiền dưới hình thức này vào ngân hàng nhằm phục vụ cho quá trình thanh toán hay cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và ngân hàng sẽ mở tài khoản tiền gửi cho các đơn vị có nhu cầu gửi tiền dưới hình thức naỳ. Vì với mục đích chủ yếu là tính than khoản chứ không phải với mục đích hưởng lãi nên số dư tiền gửi trên tài khoản này thường xuyên biến động, họ có thể rút vốn vào bất cứ thời điểm nào. Việc kế hoạch hoá nguồn vốn này là tương đối khó và phức tạp. - Tiền gửi tiết kiệm Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích là hưởng lãi. Thời hạn cho hình thức này được các ngân hàng quy định cụ thể lãi suất trả cho tiền gửi tiết kiệm thường lớn hơn lãi suất tiền gửi thanh toán, nhưng tiền gửi tiết kiệm mang tính chất tương đối ổn định nên các ngân hàng thương mại có được kế hoạch cho vay hợp lý. - Vốn đi vay Đây là nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại phải sử dụng khi đã huy động hết khả năng của mình mà vẫn còn thiếu vốn hoạt động việc hình thành nên tài sản nợ tạo nên khoản chi phí chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng thương mại đó là chi phí trả lãi. Do vậy việc cần thiết đầu tiên của các ngân hàng thương mại là phải quản lý một cách linh hoạt tài sản nợ, thực hiện kiểm soát chặt chẽ các khoản chi trả lãi và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. 2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ tài sản có). Nghiệp vụ tài sản có là nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Trên cơ sở hình thành nguồn vốn, ngân hàng thương mại sử dụng vốn vào các nghiệp vụ. - Nghiệp vụ về ngân quỹ: Việc sử dụng vốn của ngân hàng thương mại phải đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu rút tiền của người gửi tiền, đồng thời cũng phải có đủ vốn để sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu tín dụng của khách hàng. Vì vậy ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng thương mại thường xuyên phải duy trì một phần tài sản của họ dưới hình thức dự trữ. Khoản mục dự trữ của ngân hàng thương mại bao gồm: Tiền gửi dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương: khối lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc được xác định theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỉ lệ phần trăm (%) của số tiền gửi mà ngân hàng thương mại huy động được. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là do ngân hàng thương mại quy định dựa trên cơ sở mục tiêu yêu cầu của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ về ngân quỹ tuy không đem lại một khoản thu nhập nào cho ngân hàng thương mại nhưng nó lại vô cùng cần thiết vì nó đảm bảo khả năng thanh toán chi trả nhanh và đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Vì vậy nó tạo ra uy tín của ngân hàng và là cơ sở để thực hiện các nghiệp vụ khác. - Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại: Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng thương mại là một trong các nguồn tín dụng quan trọng nhất. Các ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức chủ yếu sau: Cho vay chiết khấu, cho vay ứng trước, cho vay thấu chi trên tài khoản vãng lai, tín dụng bằng ngân quỹ, tín dụng thuê mua, tín dụng bằng chữ ký, tín dụng tiêu dùng… thông qua đó ngân hàng tiến hành cho vay đối với các đơn vị tổ chức kinh tế, tư nhân có nhu cầu vay vốn. Nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu là huy động ngắn hạn nên các loại hình cho vay ngắn hạn vẫn là quan trọng nhất đối với các ngân hàng thương mại, cho vay ngắn hạn có ưu điểm nổi bật là có tính ổn định, mức độ an toàn cũng cao hơn so với hình thức cho vay trung và dài hạn. Việc phân chia vốn vào các khoản cho vay là rất quan trọng nó quyết định đến mức độ thu nhập của ngân hàng thương mại nói chung. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại đã giúp cho những người có tiền nhàn rỗi có cơ hội đầu tư cho nền kinh tế để thu lợi tức còn người đi vay có vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng không những thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn mà còn cung cấp nguồn vốn đáng kể cho nền kinh tế. 2.3. Nghiệp vụ trung gian: Đối với ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ trung gian ngày càng chiếm vị trí quan trọng và mang lại nguồn thu đáng kể. Các nghiệp vụ trung gian có thể hình thành nguồn vốn hoặc phản ánh việc sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. - Nghiệp vụ chuyển tiền: Nghiệp vụ chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng giúp cho ngân hàng có thể cạnh tranh mạnh mẽ với việc chuyển tiền qua bưu điện. Chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng có thể nói có ưu điểm hơn hẳn so với chuyển tiền qua bưu điện cả về mặt kinh tế, thời gian thực hiện và mức độ an toàn cho khách hàng. Như ậy phát triển loại hình dịch vụ này là một lợi thế của ngân hàng, góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng thương mại. - Nghiệp vụ thu hộ, chi hộ: Do việc quản lý số dư tài khoản tiền gửi của ngân hàng nên các ngân hàng thương mại có điều kiện thuận lợi làm trung gian thanh toán giữa các khách hàng với nhau. Trong trường hợp này ngân hàng chỉ cần thực hiện ghi nợ đối với tài khoản tiền gửi của nguời này đồng thời ghi có cho tài khoản của khách hàng kia. Thông qua việc ghi nợ và có này ngân hàng được hưởng phí thanh toán hộ. - Nghiệp vụ uỷ thác: Nghiệp vụ uỷ thác này sẽ đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể Ngoài thu nhập, nghiệp vụ uỷ thác còn mang lại cho ngân hàng hai lợi thế khác. Đó là ngân hàng không phải mất vốn mà vẫn có thể thực hiện việc kiểm soát ở những mức khác nhau đối vơí công ty và vốn của công ty, thông qua hợp đồng uỷ thác mà ngân hàng có thể có mối quan hệ tốt với khách hàng đặc biệt là khách hàng có doanh số hoạt động lớn. Thực hiện tốt nghiệp vụ trung gian sẽ thu hút được khách hàng tạo điều kiện tăng nguồn vốn và mở rộng việc sử dụng vốn vì nghiệp vụ này vừa là nghiệp vụ tài sản nợ vừa là nghiệp vụ tài sản có. II. Đặc điểm cơ chế tài chính của ngân hàng thương mại cổ phàn ở nước ta và NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội 1. Cơ chế tài chính của NHTM cổ phần ở nước ta hiện nay Kể từ khi có pháp lệnh ngân hàng (tháng 5 năm 1990) nước ta đã ra đời hàng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần. Mặc dù hình thức ngân hàng này vẫn còn mới song nó cũng có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính ngân hàng ở nước ta hiện nay. Đó là * Ngân hàng thương mại cổ phần có khả năng tác động tích cực làm lành mạnh hoá nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội - nó là một mô hình tổ chức tín dụng được phép huy động và phân phối lại mọi tiềm năng về tiền tệ trong xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh. Thông qua việc huy động vốn theo chế độ cổ phần, đã xuất hiện các công cụ tài chính mới như: cổ phiếu, trái phiếu… Đó là những cơ sở ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn, góp phần giải quyết chiến lược về phát triển kinh tế xã hội của đất nước. * Ngân hàng thương mại cổ phần góp phần đa dạng hoá các tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Điều này tạo nên môi trường cạnh tranh trong hệ thống kinh doanh tiền tệ nhằm không ngừng nâng cao hoàn thiện công nghệ ngân hàng nước ta. * Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần được hình thành (đặc biệt là ở những vùng nông thôn nơi mà các ngân hàng thương mại quốc doanh chưa mở rộng tới sẽ góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi, thu hẹp dần hệ thống tín dụng không chính thức. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Đặc điểm cơ chế tài chính của ngân hàng thương mại cổ phần * Ngân hàng thương mại cổ phần cũng là đơn vị hạch toán kinh tế kinh doanh độc lập, tuy nhiên vốn điều lệ không phải do Nhà nước cấp mà do các cổ đông đóng góp, có quyền tự chủ về tài chính, tự trang trải các khoản chi phí bằng nguồn thu của mình, lấy thu nhập bù đắp chi phí đảm bảo có lãi. Công tác hạch toán phải tiến hành ghi chép đầy đủ, chính xác các khoản thu, chi theo chế độ kế toán quy định. Lợi nhuận gộp (chênh lệch: thu nhập- ch phí) sau khi nộp thuế lợi tức cho ngân sách Nhà nước, được trích lập các quỹ của ngân hàng theo quy định của Nhà nước - Lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5%, mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ thực có của ngân hàng - Bù khoản lỗ của các năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập của doanh nghiệp - Trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của ngân hàng Lợi nhuận còn lại được phân phối tiếp như sau: Trích quỹ dự phòng trợ cấp 10% số dư của quỹ này không vượt quá 25% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần Quỹ dự trữ trợ cấp mất việc làm 5%, số dư của quỹ này không vượt quá 6 tháng lương thực hiện Phần lợi nhuận còn lại sau khi lập các quỹ theo quy định trên được phân chia theo quy định của tổ chức tín dụng. Năm tài chính của ngân hàng thương mại cổ phần bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thức vào cuối ngày 31 tháng 12 hàng năm Các hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần được đưa ra bởi hội đồng quản trị đều phải được thông qua đại hội cổ đông Như vậy trong ngân hàng thương mại cổ phần thì đại hội cổ đông có quyền lực cao nhất sau đó là ban kiểm soát, hội đồng quản trị… 2. Đặc điểm cơ chế tài chính của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực tiếp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng dịch vụ ngân hàng mà chủ yếu là ở các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp, giao thông vận tải… NHTMCP XNKVN tổ chức hạch toán toàn hệ thống do vậy mà cơ chế tài chính của ngân hàng xuất nhập khẩu cũng xây dựng thống nhất trên toàn bộ hệ thống về tổ chức cũng như về hoạt động tài chính. Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam có trụ sở chính tại 07 Lê Thị Hồng Gấm Quận I- Thành phố Hồ Chí Minh và các chi nhánh đặt tại Hà Nội, Đà nẵng và chi nhánh quận 5 thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các đại lý ở nước ngoài. Toàn bộ hệ thống NHTMCP XNKVN là một pháp nhân hạch toán kinh tế độc lập nhưng các chi nhánh là các đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ và trong hoạt động kinh doanh phải đảm bảo có lợi nhuận hạch toán nội bộ Nguồn vốn hoạt động của NHTMCP XNKVN bao gồm: Vốn tự có và coi như tự có, vốn huy động, vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước và vốn tự có. Quyền tự chủ về tài chính, chủ động trong kinh doanh đã khuyến khích các chi nhánh, tự tổ chức, huy động vốn và cho vay. Trong quá trình huy động vốn có chi nhánh không sử dụng hết vốn huy động, có chi nhánh không đủ vốn để hoạt động, hiện tượng này thường xuyên xảy ra ở các chi nhánh. Vì vậy không thể thiếu vai trò điều tiết vốn trong toàn hệ thống của NHTMCP XNKVN. Những chi nhánh thừa vốn thì gửi lên hội sở NHTMCP XNKVN và được hưởng mức lãi suất bằng lãi suất đầu vào bình quân của chi nhánh có vốn gửi cộng với 0,2%. Đồng thời hội sở sẽ chuyển vốn đến các chi nhánh thiếu vốn hoạt động và các chi nhánh nhận vốn sẽ trả lãi theo quy định của tổng giám đốc NHTMCP XNKVN. Đối với công tác kế toán của từng chi nhánh phải tiến hành ghi chép đầy đủ chính xác về các khoản thu chi theo chế độ kế toán đã quy định. Hàng ngày, 15 ngày, 25 ngày, tháng, quý, năm phải tập hợp số liệu, báo cáo xác định các chỉ tiêu về kết quả tài chính và gửi về hội sở ngân hàng xuất nhập khẩu để tính toán kết quả cho toàn hệ thống. Giám đốc chi nhánh phải chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về kết quả kinh doanh của chi nhánh mình. Để chủ động điều hành hoạt động tài chính và giải quyết đúng quyền lợi cho các chi nhánh phù hợp với kết quả kinh doanh hàng quý trong năm tài chính. Hội đồng quản trị ngân hàng xuất nhập khẩu quy định. Hàng năm sau khi xác định lợi nhuận hạch toán nội bộ, chi nhánh xác định lại lợi nhuận dành cho quỹ phúc lợi và khen thưởng và được tạm thời phân phối 50% cho hai quỹ nhưng tối đa cũng không được vượt quá 1,5% tháng lương của một quý, tính chung cho cả năm tài chính tối đa cũng không được quá 6 tháng lương. Lợi nhuận dành cho hai quỹ phúc lợi và khen thưởng là lợi nhuận hạch toán nội bộ sau khi trừ các khoản: + Phúc lợi tức theo quy định là 32% lợi nhuận hạch toán nội bộ + Qũy dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ rủi ro là 15% trên lợi nhuận hạch toán nội bộ sau khi trừ thuế lợi tức. + Quỹ phát triển nghiệp vụ tối thiểu là 50% lợi nhuận hạch toán nội bộ còn lại sau khi trừ thuế lợi tức, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ rủi ro. + Tiền ăn trưa được trích từ chi phí nhưng tối đa bằng lương cơ bản do Nhà nước quy định. III. Nội dung các khoản thu nhập và chi phí chủ yếu của ngân hàng thương mại 1. Các khoản thu nhập của NHTM Các khoản thu nhập của ngân hàng thương mại được xác định trên cơ sở nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của mình như nghiệp vụ tín dụng kinh doanh ngoại tệ kim khí đá quý, nghiệp vụ liên doanh đại lý uỷ thác, nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt và dịch vụ ngân hàng. Nội dung các khoản thu nhập của các ngân hàng thương mại rất phong phú xuất phát từ vị trí vai trò của ngân hàng thương mại quốc doanh là kinh doanh đa chức năng. Do vậy mỗi loại nghiệp vụ lại đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập khác nhau. Thu nhập của ngân hàng thương mại bao gồm: Thu từ lãi cho vay, lãi hùn vốn, lãi kinh doanh liên kết: Đây là khoản thu cơ bản nhất của các ngân hàng thương mại. Khoản thu lãi cho vay các đơn vị, các tổ chức kinh tế được tính toán và phản ánh vào các tài khoản trên cơ sở khung lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định. Các khoản thu lãi về hùn vốn, góp vốn liên doanh liên kết được xác định trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế và ngân hàng tham gia hùn vốn, góp vốn hoặc liên doanh liên kết. Khoản thu này là một trong các khoản thu mới của hệ thống ngân hàng, trên cơ sở pháp lệnh Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại bỏ vốn vào các ngành sản xuất khác theo một tỷ lệ nhất định (không quá 10% vốn của công ty, xí nghiệp mà mình hùn vốn hoặc mua cổ phần) thu lãi liên doanh liên kết hùn vốn, góp vốn, có thể phát sinh ở ngân hàng này, không phát sinh ở ngân hàng kia tuỳ thuộc vào hoạt động của ngân hàng có hùn vốn vào các xí nghiệp khác hay không. Thu lãi tiền gửi là số lãi hàng tháng ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại khác phải chi trả cho Nhà nước trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại khác. Trên cơ sở nguồn vốn huy động các ngân hàng thương mại đem cho vay và đầu tư vào các dự án đem đi tham gia liên doanh liên kết, nếu còn thừa sẽ gửi vào ngân hàng Nhà nước để hưởng lãi. Đồng thời giúp cho các ngân hàng thương mại tham gia các hoạt động thanh toán bù trừ qua ngân hàng Nhà nước. Lãi suất tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước nên khoản tiền gửi này không đem lại hiệu quả cho ngân hàng thương mại. Bởi vậy mà các ngân hàng thương mại phải tập trung nguồn vốn huy động chủ yếu là dùng để cho vay, đầu tư, tham gia._. liên doanh liên kết. Còn gửi tiền vào ngân hàng Nhà nước thì mục đích chính không phải để hưởng lãi mà là tham gia các hoạt động thanh toán bù trừ nên các ngân hàng thương mại chỉ cần giữ với mức độ nhỏ so với nguồn vốn huy động. Thu từ lãi tiền gửi thường là không lớn. Thu từ nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, đối ngoại: Hiện nay theo pháp lệnh Nhà nước thì kinh doanh ngoại tệ, đối ngoại không còn bó hẹp trong phạm vi ngân hàng ngoại thương. Các ngân hàng thương mại khác nếu được phép của ngân hàng Nhà nước có thể mở rộng hoạt động trong phạm vi này. Trong hoạt động, các ngân hàng có thể kinh doanh mua bán, chuyển đổi ngoại tệ, mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ, làm các dịch vụ thanh toán quốc tế… Các nghiệp vụ này đem lại các khoản thu nhập cho ngân hàng như lãi cho vay ngoại tệ, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, thu thủ tục phí nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Về nguyên tắc các khoản thu về kinh doanh ngoại tệ thu bằng ngoại tệ (trừ một số trường hợp đặc biệt thu bằng tiền Việt Nam trên cơ sở tỷ giá hiện hành). Việc các ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hết sức cần thiết mặc dù khoản thu này là tương đối nhỏ, vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán mua bán quốc tế. Nước ta hiện nay trong thời kỳ mở cửa thì nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, đối ngoại ngày càng phát triển để đáp ứng đầy đủ nhu cầu về mua bán chuyển đổi ngoại tệ và dịch vụ thanh toán quốc tế. Việc phát triển nghiệp vụ này không những sẽ làm tăng thu nhập của các ngân hàng thương mại mà còn tạo điều kiện cho dịch vụ thanh toán quốc tế thuận lợi nhanh chóng góp phần mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Thu từ hoạt động dịch vụ: như thu lệ phí, hoa hồng vào các dịch vụ ngân hàng là các khoản thu do ngân hàng thương mại làm các nghiệp vụ như đại lý, thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển tiền và nhận chuyển tiền, dịch vụ, tư vấn… các khoản thu từ hoạt động dịch vụ là khoản thu tốn ít vốn nhất của ngân hàng. Hiện nay khoản thu này của các ngân hàng thương mại nước ta còn nhỏ song đối với các ngân hàng hiện đại trên thế giới thì khoản thu này là tương đối lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng (chiếm 40- 50%). Đây là khoản thu rất hấp dẫn mà các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải có biện pháp để tăng cường khoản thu này. Các khoản thu khác: Ngoài các khoản thu trên ngân hàng thương mại còn có các khoản thu khác phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại như thu phạt quá số dư, thu lãi phạt nợ quá hạn. 2. Các khoản chi phí của ngân hàng thương mại Hiện nay ở các ngân hàng thương mại có các khoản chi phí chủ yếu sau * Chi cho nghiệp vụ kinh doanh Chi cho nghiệp vụ kinh doanh là các khoản chi phát sinh trong nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. Nội dung các khoản chi này gồm: Chi trả lãi tiền gửi: là các khoản chi mà ngân hàng thương mại phải trả lãi tiền gửi cho các cá nhân và các đơn vị tổ chức kinh doanh mở tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng. Mức chi cho khoản này phụ thuộc chủ yếu vào số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng và lãi suất của các ngân hàng thương mại đưa ra để huy động vốn. Khoản chi này chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong tổng chi phí của ngân hàng. Nhưng đây là khoản chi không thể hạn chế hay tiết kiệm được vì khoản chi này là chi cho nghiệp vụ hình thành nguồn vốn của ngân hàng thương mại, nghiệp vụ huy động tiền gửi; khoản chi trả lãi tiền gửi có thể phản ánh được tình hình thực hiện nghiệp vụ huy động tiền gửi của ngân hàng. Với mức lãi suất tiền gửi mà ngân hàng Nhà nước đã quy định, khoản chi này càng lớn thì chứng tỏ khả năng huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại tốt. Chi trả lãi phát hành trái phiếu: Là khoản chi trả lãi cho các trái phiếu mà ngân hàng thương mại đã phát hành để huy động vốn. Mức chi cho các khoản này phụ thuộc vào số vốn mà ngân hàng thương mại huy động bằng cách phát hành trái phiếu, thời hạn và lãi suất ghi trên trái phiếu. Lãi suất này thường cao hơn lãi suất tiền gửi. Vì vậy khi đã hết khả năng huy động tiền gửi mà vẫn không đủ vốn kinh doanh thì ngân hàng thương mại mới huy động vốn dưới hình thức này. Chi trả lãi tiền vay: Khi các ngân hàng thương mại huy động vốn không đủ cho hoạt động kinh doanh thì có thể đi vay của ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Mức chi cho khoản này phụ thuộc vào số dư tài khoản tiền vay của ngân hàng, thời hạn vay và lãi suất vay được thoả thuận giữa hai bên. Lãi suất tiền vay thường là tương đối cao nên chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đi vay mà ngân hàng thương mại được hưởng là rất ít. Do vậy ngân hàng thương mại sẽ hạn chế việc đi vay vốn cuẩ ngân hàng khác mà tăng cường huy động vốn tiền gửi để hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Khoản chi này càng lớn thì đối với các ngân hàng thương mại là không tốt. Chi nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và đối ngoại: Khoản chi này thường chỉ phát sinh trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ như chi trả lãi tiền gửi, tiền vay bằng ngoại tệ chi phí thủ tục phí… Đây là khoản chi từ nghiệp vụ kinh doanh còn rất mới mẻ đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam (trừ ngân hàng ngoại thương). Chi trả lệ phí hoa hồng và nghiệp vụ uỷ nhiệm: Bao gồm các khoản chi trả cho các tổ chức kinh tế hoặc tổ chức tín dụng khác làm nhiệm vụ uỷ nhiệm cho ngân hàng như chi hoa hồng cho các hợp tác xã tín dụng, uỷ nhiệm tiết kiệm,… các khoản chi này được xác định trên cơ sở tỉ lệ hoa hồng quy định về doanh số hoạt động uỷ nhiệm. Chi về kinh doanh vàng bạc đá quý: Là các khoản chi phát sinh trong quá trình kinh doanh vàng, bạc, đá quý như gia công vàng bạc… Đây là hoạt động kinh doanh mới của các ngân hàng thương mại nên khoản chi này vẫn còn rất nhỏ. Ngoài các khoản chi trên ngân hàng thương mại còn có các khoản chi khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng * Chi nộp thuế Sau hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại còn phải thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, cụ thể là phải nộp thuế lợi tức, thuế môn bài và các loại thuế khác. Đối với các chi nhánh thuộc hệ thống ngân hàng công thương thì phải nộp thuế lợi tức, các khoản thuế khác do ngân hàng trung ương thực hiện. * Chi phí quản lý Chi phí quản lý là các khoản chi cho các hoạt động của bộ máy ngân hàng. Nội dung các khoản chi này rất đa dạng và phong phú, chi cho nhân viên: bao gồm các khoản chi lương và phụ cấp cho cán bộ công nhân viên của ngân hàng, chi bảo hiểm xã hội và công tác xã hội và các khoản chi khác cho nhân viên ngân hàng. Khoản chi này tuy chiếm tỉ trọng không lớn song nó rất quan trọng, nó ảnh hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Chi về lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội phụ thuộc rất nhiều vào quy mô hoạt động của mỗi ngân hàng. Đây là khoản chi cần thiết đối với từng ngân hàng. Nếu như quản lý các khoản chi này đúng mức sẽ đem lại hiệu quả vô cùng to lớn. Quản lý các khoản chi này chỉ được coi là hợp lý khi tốc độ tăng lương chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động và tài sản có. Như vậy mới khuyến khích được người lao động làm việc tốt hơn. Hiện nay, do áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật vào ngân hàng nên đã làm tăng hiệu quả hoạt động giảm thời gian thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng. Giúp một phần không nhỏ trong công tác hạch toán kế toán, xử lý thông tin trong ngành ngân hàng, tạo điều kiện phát triển năng suất lao động của ngân hàng. * Các khoản chi khác Ngoài các khoản chi chủ yếu trên còn rất nhiều khoản chi khác phát sinh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng Các khoản chi liên quan đến tài sản thuộc sở hữu của ngân hàng như: khấu hao tài sản cố định và các thiết bị làm việc chi cho việc thuê tài sản, chi bảo dưỡng sửa chữa thường xuyên tài sản cố định, chi về công cụ lao động nhỏ. Các khoản chi cho hoạt động tuyên truyền quảng cáo cũng là khoản chi đáng kể trong tổng chi phí. Chi phí này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết khi có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra để phục vụ tốt cho quá trình giao dịch với khách hàng ngân hàng còn phải chi phí về giấy tờ in ấn, vật liệu văn phòng… Các khoản chi phí của ngân hàng thương mại là rất phong phú đa dạng. Việc xác định các khoản chi, hạch toán chính xác, kịp thời đầy đủ là một nhiệm vụ rất quan trọng của hạch toán kế toán ngân hàng. Đó là cơ sở để giúp các nhà quản lý đưa ra những quyết định đúng đắn đồng thời giúp cho việc quản lý chặt chẽ các khoản chi phí trong kinh doanh, tiết kiệm các khoản chi phí không cần thiết. 3. Kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận Kết quả kinh doanh của ngân hàng được xác định khi kết thúc năm tài chính. Chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp để đánh giá kết quả kinh doanh của ngân hàng, nguồn tích luỹ và các quỹ của ngân hàng cũng như thu nhập của cán bộ công nhân viên ngân hàng phụ thuộc vào chỉ tiêu lợi nhuận. Vì vậy, ngân hàng phải luôn luôn quan tâm để khai thác tiềm năng nhằm hoàn thành kế hoạch tài chính đề ra nâng cao lợi nhuận phản ánh và kết chuyển một cách chính xác kịp thời các khoản thu nhập, chi phí vào tài khoản kết quả kinh doanh, xác định chính xác tình hình lãi, lỗ, làm tham mưu cho lãnh đạo và các hoạt động nghiệp vụ khác. Phản ánh chính xác tình hình phân phối lợi nhuận và trích lập các quỹ, quản lý giám sát sử dụng các quỹ, lập kế hoạch và báo cáo lãi, lỗ kịp thời, đúng chế độ, giám sát việc thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận theo chế độ tài chính. a. Kế toán kết quả kinh doanh Hàng quý, việc xác định lãi, lỗ ở các ngân hàng cơ sở được tiến hành ngoài sổ sách có tính chất tạm tính, làm cơ sở để hạch toán các quỹ. Kết quả kinh doanh của ngân hàng chỉ được xác định chính thức vào cuối năm ở ngân hàng cấp trung ương. - Tại ngân hàng cơ sở: khi nhận được thông báo quyết toán năm của hội sở, sau khi xác định chính xác số dư của các tài khoản thu nhập, chi phí, kế toán lập phiếu chuyển khoản hạch toán: Đối với tài khoản thu nhập: Nợ TK thu nhập của ngân hàng (năm nay) Có TK kết quả kinh doanh năm nay của ngân hàng và đối với tài khoản chi phí. Nợ TK kết quả kinh doanh Có TK chi phí của ngân hàng Sau khi tập trung toàn bộ kết quả kinh doanh trong toàn hệ thống Hội sở chính sẽ chính thức tính toán kết quả kinh doanh của hệ thống và báo cáo với bộ tài chính, nếu lãi phải làm nghĩa vụ nộp thuế lợi tức cho ngân sách Nhà nước số còn lại sẽ được trích lập các quỹ theo quy định và chính thức phân phối các quỹ cho ngân hàng cơ sở. b. Kế toán phân phối lợi nhuận Đối với ngân hàng thương mại là những đơn vị hạch toán kinh tế sẽ được trích lập các quỹ theo quy định của bộ tài chính và theo luật ngân hàng Sau khi đã nộp khoản thuế lợi tức cho ngân sách Nhà nước số còn lại coi như 100% được phân bổ như sau: + 5% trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ với mức tối đa bằng 100% vốn điều lệ + 10% trích lập quỹ dự trữ dự phòng tài chính đến khi bằng 25% vốn điều lệ thì thôi. + Số còn lại 85% trước hết dùng để nộp các khoản tiền phạt như vi phạm luật thuế, vi phạm hợp đồng khách hàng (nếu có) và chi lãi cổ phần cho cổ đông theo quyết định của đại hội cổ đông (nếu là ngân hàng thương mại cổ phần). Sau đó để trích lập ba quỹ của ngân hàng: Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ kinh doanh : 50% Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm 5%, số dư của quỹ này không vượt quá 6 tháng lương thực hiện Qũy khen thưởng và quỹ phúc lợi - Ba tháng lương thực hiện nếu tỉ suất lợi nhuận năm nay không thấp hơn năm trước. - Hai tháng lương thực hiện nếu tỉ suất lợi nhuận năm nay thấp hơn tỉ suất lợi nhuận năm trước. - Số lợi nhuận còn lại sau khi trích hai quỹ khen thưởng, phúc lợi được bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ. Hàng quý, sau khi tổng hợp được báo cáo kế toán tháng, cuối quý và xác định được kết quả lợi nhuận toàn hệ thống ngân hàng được tạm trích ba quỹ để sử dụng. Được tạm trích tối đa bằng 50% số tiền được trích các quỹ. Việc quản lý và sử dụng ba quỹ nói trên, ngân hàng thương mại phải thực hiện đúng các quy định hiện hành của Nhà nước. Chương II Thực trạng tình hình hoạt động thu chi tài chính và xác định kết quả kinh doanh của NHTM CP - XNKVN chi nhánh Hà Nội I- Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHTM CP - XNKVN chi nhánh Hà Nội 1- Đặc điểm kinh tế xã hội trên địa bàn Hà Nội Cũng như hoạt động kinh doanh của nhiều ngành khác, hoạt động kinh doanh của NHTM CP - XNKVN chi nhánh Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế xã hội xung quanh. Việc xem xét hoạt động kinh doanh của chi nhánh trước hết cần phải tìm hiểu về những đặc điểm kinh tế xã hội có liên quan đến hoạt động kinh doanh này. Quận Hoàn Kiếm là một trong bẩy quận nội thành, với dân số khá cao. Đây là một địa bàn dân cư đông đúc có nhiều trung tâm lớn hơn hẳn so với các quận khác trong nội thành. Quận cũng là nơi tập trung nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau như công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ giao thông vận tải… Ngoài các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh với những quy mô lớn nhỏ khác nhau còn có các tiểu thương và hộ gia đình tham gia buôn bán trên địa bàn quận. Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường làm cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp biến đổi hoàn toàn. Việc áp dụng cơ chế tài chính mới giúp cho các doanh nghiệp quốc doanh được quyền chủ động trong kinh doanh và cạnh tranh với nhau gay gắt. Vì vậy có những khó khăn mà các doanh nghiệp này gặp phải là không nhỏ. Có những doanh nghiệp có khả năng thích ứng với cơ chế mới, năng động trong kinh doanh đã dần đi vào ổn định và bắt đầu vươn lên chiến lĩnh thị trường. Bên cạnh đó cũng không ít những doanh nghiệp không thể thoát ra khỏi các khó khăn phải thu hẹp sản xuất thậm chí bị phá sản. Chính những đặc điểm kinh tế xã hội này đã ảnh hưởng rất nhiều dến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 2- Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHTM CP - XNKVN chi nhánh Hà Nội Chi nhánh NHTM CP - XNKVN tại Hà Nội được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ táng 11/1993 có trự sở chính đóng tại 19 Trần Hưng Đạo - Quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội. Trong những năm qua chi nhánh đã không ngừng phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động của mình để trở thành một trong các ngân hàng kinh doanh có hiệu quả trong địa bàn Hà Nội Năm 1993 đội ngũ cán bộ công nhân viên của ngân hàng là 30 người được tổ chức thành 5 phòng ban phòng hành chính, phòng kế toán, phòng tín dụng, phòng ngân quỹ, và phòng thanh toán quốc tế. Do quận hoàn kiếm là một quận có tình hình hoạt động kinh tế rất sôi động mà các đối tượng phục vụ của ngân hàng rất phong phú. Hơn nữa cán bộ nhana viên đã rất nỗ lực trong công việc, luôn làm vừa lòng khách hàng, nhờ vậy mà đến cuối năm 1999 tổng số tài khoản tại ngân hàng thương mại cổ phần, xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Hà Nội là 12264 tài khoản trong đó có 12094 tài khoản tiền gửi và 570 tài khoản tiền vay có thể nói đây là một thành công đáng kể của ngân hàng, song để thấy rõ được tình hình kinh doanh của ngân hàng chúng ta cần xem xét từng vấn đề cụ thể sau: - Về huy động vốn - Về sử dụng vốn a- Về nguồn vốn: Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng xuất nhập khẩu cũng như các ngân hàng thương mại khác, đang ở trong môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt, nên để có thể đứng vững trên thị trường và tiếp tục phát triển thì các ngân hàng thương mại phải tiến hành kinh doanh có lãi. Muốn vậy ngân hàng thương mại phải đẩy mạnh công tác huy động vốn nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác tín dụng. Năm 1999 NHTM CP XNK Việt Nam chi nhánh Hà Nội thu được kết quả cao trong công tác huy động vốn. Nhờ việc đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn vốn huy động nên NHTM CP XNK Việt Nam chi nhánh Hà Nội đã thu được kết quả cao trong công tác huy động vốn. Nhờ việc đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn vốn huy động nên NHTM CP XNKVN chi nhánh Hà Nội đã phát huy được khả năng huy động vốn của mình. Để thấy rõ được tình hình huy động vốn năm 1999 của NHTMCP XNKVN chi nhánh Hà Nội, chúng ta hãy xem xét các số liệu cụ thể ở bảng số liệu dưới đây: Bảng 1: Số liệu tình hình huy động vốn của NHTM CP XNKVN chi nhánh Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Sáu tháng đầu năm 1999 Sáu tháng đầu năm 2000 So sánh 6 tháng 99/2000 1- Số dư tiền gửi các tổ chức kinh tế 112162 23,93 80982 16,63 -31.180 -27,80 2- Số dư tiền gửi TK 332938 71,04 385065 79,06 52127 15,66 3- Số dư tiền gửi tài khoản cá nhân 16556 3,53 21010 4,31 4454 26,90 4- Vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước 7000 1.50 0 0 0 -100 Tổng vốn huy động 468656 100 487057 100 18401 3,93 Tính đến cuối tháng 06 năm 2000 tổng nguồn vốn huy động của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội là 487057 triệu đồng tăng 3,93% so với cùng kỳ năm 1999. Điều này chứng tỏ công tác huy động vốn của chi nhánh trong thời gian vừa qua là rất tốt. Nhờ vậy mà quỹ cho vay của chi nhánh đã tăng nhiều so với năm 1999. Nhưng để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn thì ngân hàng phải quan tâm đến việc kiểm soát chi phí cho các nguồn vốn huy động và phải có chính sách cho vay và đầu tư như thế nào để mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Muốn vậy thì cần phải xem xét đến cơ cấu, nguồn vốn huy động của ngân hàng. Về cơ cấu nguồn vốn huy động thì huy động vốn dưới hình thức tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân là 101992 triệu chiếm 20,93% trong tổng nguồn vốn huy động giảm 26726 triệu đồng bằng - 20,77% so với cùng kỳ năm 1999. Trong đó tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức kinh tế là 80982 triệu đồng chiếm tỷ trọng 16,63% tổng nguồn vốn huy động giảm 31180 triệu đồng giảm 27,80% 80 với năm1999. Đạt được thành tích này là do NHTM CP XNKVN chi nhánh Hà Nội đã áp dụng kịp thời phù hợp với điều kiện kinh tế nhiều thành phần, chi nhánh ngân hàng đã chủ động mở rộng mạng lưới hoạt động của mình, đổi mới phong cách giao dịch. Với khách hàng ở tất cả các bộ phận. Kế toán cũng như bộ phận tín dụng. Chất lượng công tác phục vụ của ngân hàng ngày càng tốt hơn. b- Về sử dụng vốn; NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội cũng như các ngân hàng thương mại khác đều hoạt động trên nguyên tắc đi vay để cho vay. Vì vậy để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao, thì ngân hàng không những phải chú trọng trên công tác huy động vốn mà phải đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng vốn và nhất là công tác tín dụng của ngân hàng. Bảng 2: Số tiệu tình hình dư nợ của ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam - chi nhánh Hà Nội Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Sáu tháng đầu năm 1999 Sáu tháng đầu năm 2000 So sánh 6 tháng 99/2000 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối tăng (%) tăng 1- Dư nợ ngắn hạn 156995,11 76,38 284.307,46 89,56 127.312,35 81,09 - DNNN 65707,70 31,90 138877,77 43,75 73170,07 111,36 Doanh nghiệp tư nhân 0 0 0 0 0 Công ty cổ phần 86996,65 42,30 139075,99 43,81 52067,34 59,86 - Đối tượng khác 4287,76 2,18 6353,70 2,00 2065,94 48,18 2- Dư nợ trung và dài hạn 48540,83 23,62 33147,12 10,44 -15393,71 -31,71 - DNNN 21386,38 10,43 1811,57 0,56 - 19574,81 -91,53 - DN tư nhân 0 0 0 0 0 Công ty cổ phần 26589,95 12,94 30777,55 9,70 4187,60 15,75 Đối tượng khác 564,50 0,25 558 0,18 -6,50 -1,15 Tổng dư nợ 205535,94 100 317454,58 100 111918,64 54,45 Tính đến cối tháng 6/2000 tổng dư nợ của chi nhánh đạt 317454,58 triệu đồng tăng 111918,64 triệu đồng so với cùng kỳ năm 1999, về số tương đối tăng 54,45% so với năm 1999. Trong đó dư nợ ngắn hạn là 284307,46 triệu đồng chiếm tỷ trọng lớn là 85,56% so với tổng dư nợ của chi nhánh và tăng 127312,35 triệu đồng, tăng 8,09% so với năm 1999. Tuy đây chỉ là những thành tích khiêm tốn nhưng đội ngũ cán bộ ngân hàng đã phải có những nỗ lực rất lớn. Năm 2000 về tình hình dự nợ của ngân hàng đã có sự chuyển dịch rõ rệt về cơ cấu. Đó là ngân hàng đã tập trung chủ yếu vào cho vay ngắn hạn và cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước Công ty cổ phần. Hoạt động tín của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội 6 tháng đầu năm 2000 vừa qua về doanh số dư nợ là tăng lên so với cùng kỳ năm 1999. Đạt được kết quả này là nhờ sự nhạy bén năng động của ban lãnh đạo chi nhánh trong việc điều hành vốn, bám sát địa bàn và đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, tổng dư nợ của chi nhánh năm 2000 có thể nói là tăng lên không đáng kể so với năm 1999 song trên đây chúng ta mới chỉ xem xét về mặt số lượng của công tác tín dụng của ngân hàng. Để đánh giá chính xác được công tác này chúng ta phải xem xét cả mặt chất lượng tín dụng của ngân hàng. Điều này được phản ánh qua tình hình dư nợ quá hạn của ngân hàng và lãi treo của ngân hàng năm 2000 Bảng 3: số liệu nợ quá hạn của ngân hàng NHTM CP XNKVN- chi nhánh Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Sáu tháng đầu năm 1999 Sáu tháng đầu năm 2000 So sánh 6 tháng 99/2000 Số tuyệt đối % tăng 1- Quá hạn ngắn hạn 20550,50 14852,25 -5698,20 -27,70 - DNNN 8457,70 4825,28 -3632,40 -42,90 - Doanh nghiệp tư nhân 0 0 0 - Công ty cổ phần 10597,10 8646,27 -1950,80 -18,40 - Đối tượng khác 1495,70 1380,70 - 115,00 - 7,60 2- Quá hạn trung và dài hạn 0 0 0 0 - DNNN 0 0 0 0 - Doanh nghiệp tư nhân 0 0 0 0 - Công ty cổ phần 0 0 0 0 - Đối tượng khác 0 0 0 0 - Tổng cộng 41101,00 29704,50 -11166,40 -27,70 Nhìn chung tình hình nợ quá hạn của NHTM CP XNKVN Việt Nam chi nhánh Hà Nội năm 2000 có giảm so với năm 1999 là 5698,20 triệu đồng về tỷ lệ giảm 27,70%. Còn lãi treo của ngân hàng năm 2000 lại tăng 4169 triệu đồng so với năm 1999. Cụ thể đối với cho vay ngắn hạn thì thình hình dư nợ và lãi treo đều tăng hơn nhiều so với năm 1999. Tất các các đối tượng vay ngắn hạn thì tình hình nợ quá hạn đều tăng. Điều này chứng tỏ công tác cho vay ngắn hạn của ngân hàng chưa được thực hiện tốt cả về số lượng và chất lượng tín dụng. Bên cạnh những thành quả chưa đạt được trong cho vay ngắn hạn thì công tác cho vay trung và dài hạn của ngân hàng có phần tốt. Ngân hàng đã dứt điểm phần doanh số dư nợ, chặt chẽ hơn trong cho vay trung và dài hạn nên chất lượng tín dụng đã tăng. Điều này thể hiện rõ trong bảng 4: lãi treo của tín dụng chung và dài hạn ở con số . Bảng 4: lãi treo của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội Chỉ tiêu Sáu tháng đầu năm 1999 Sáu tháng đầu năm 2000 So sánh 99/2000 về số tuyệt đối 1- Lãi treo ngắn hạn 16165,50 20335,26 + 4169,70 2- Lãi treo trung và dài hạn 0 0 0 Cộng 16165,50 20335,26 + 4169,70 Qua xem xét tình hình sử dụng vốn ngân hàng NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội cần phải đẩy mạnh hơn nữa khối lượng tín dụng, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Đặc biệt trong cho vay trung và dài hạn ngân hàng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa việc tăng về khối lượng tín dụng mà vẫn đảm bảo về chất lượng. II- Thực trạng tình hình hoạt động thu chi tài chính và xác định kết quả kinh doanh của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội . 1- Các khoản thu nhập của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội năm 2000 Ngoài việc kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ các NHTM còn kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác như kinh doanh vàng bạc đã quý, kinh doanh chứng khoán … mà mỗi nghiệp vụ khác nhau của ngân hàng sẽ đem lại những khoản thu nhập khác nhau. Bởi vậy các khoản thu nhập của ngân hàng là rất phong phú đa dạng, song chúng ta có thể khái quát các khoản thu nhập của ngân hàng theo hai khoản thu chủ yếu là thu về hoạt động kinh doanh và các khoản thu khác. Trong đó thu từ hoạt động kinh doanh là khoản thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng. Bảng 5: Tình hình thu nhập của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Sáu tháng đầu năm 1999 Sáu tháng đầu năm 2000 So sánh 6 tháng 99/2000 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối tăng (%) tăng 1- Thu về hoạt động kinh doanh 15465 98,10 18663 97,60 3198 20,60 - Thu lãi cho vay 6085 38,70 7597 40,71 1512 24,85 - Thu lãi tiền gửi 6192 39,30 7086 37,97 894 14,44 - Thu kinh doanh ngoại tệ 585 3,70 541 2,80 - 44 - 7,50 - Thu về dịch vụ ngân hàng 1822 11,50 1919 10,00 97 5,30 - Thu khác về hoạt động kinh doanh 781 4,90 1520 7,90 739 94,60 2- Thu khác 290 1,90 450 2,40 160 0,70 Tổng thu nhập 15755 100 19113 100 3358 21,30 Qua số liệu tổng hợp bảng trên ta thấy. Tổng thu nhập 6 tháng đầu năm 2000 của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội là 19113 triệu đồng so với cùng kỳ năm 1999 tăng 3358 triệu bằng 21,30%. Đây quả là con số đáng kể đối với một chi nhánh ngân hàng song cũng cần xem xét chi tiết từng khoản thu nhập để nắm rõ hơn tình hình kinh doanh của ngân hàng. Thu nhập của ngân hàng NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội chủ yếu là thu từ hoạt động kinh doanh, nó chiếm tỷ trọng là 97,60% trong tổng thu nhập và đạt 18663 triệu tăng 3198 triệu về số tương đối tăng 20,60% So với 6 tháng đầu năm 1999. Trong đó thu lãi cho vay là 7597 triệu chiếm tỷ trọng lớn nhất là 40,71% trong tổng thu nhập (thu lãi cho vay có thể nói là một trong những nguồn thu quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó phản ánh khả năng cho vay của ngân hàng). Thu lãi cho vay phụ thuộc vào 3 yếu tố: Lãi suất cho vay, doanh số cho vay và thời hạn cho vay. Trong giai đoạn hiện nay lãi suất cho vay không nằm trong quyền hạn của ngân hàng xuất nhập khẩu cũng như các ngân hàng thương mại khác nền về chủ quan không thể nâng mức lãi suất này nên được. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng có rất nhiều rủi ro nhưng nghiêm trọng hơn cả vẫn là rủi ro về lãi suất đây là một thiệt thòi lớn đối với các ngân hàng thương mại. Thu lãi cho vay năm 2000 của NHTM CP XNKVN chi nhánh Hà Nội tăng so với cùng kỳ năm 1999 là 24,85%. Chính vì vậy để tăng thu nhập từ cho vay thì điều ngân hàng chú ý hơn cả là doanh số cho vay chứ không phải là lãi suất cho vay. Như phần trên đã trình bày, tổng dư nợ của ngân hàng năm 2000 là 317454,58 triệu trong khi tổng nguồn vốn ngân hàng huy động được là 487057 triệu, vậy tổng dư nợ chiếm 65,18% trong tổng nguồn vốn huy động. Điều này có nghĩa là ngân hàng đã tận dụng được nguồn vốn huy động của mình vào cho vay trong khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về vốn đáp ứng cho nền kinh tế ngày càng tăng. Vì vậy thu lãi cho vay của ngân hàng năm 2000 chiếm 40,71% trong tổng thu nhập. Qua đây cho ta thấy ngân hàng đã có bước cố gắng trong công tác tín dụng để nhằm tăng thêm doanh só dư nợ, góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng song đồng thời việc tăng doanh số dư nợ ngân hàng cần phải chú trọng tới chất lượng tín dụng. Vì tăng doanh số dư nợ có thể đem lại thu nhập cao cho ngân hàng nhưng cũng dẫn khả năng đến gặp rủi ro cao hơn . Do vậy, ngân hàng cần phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, giầu kinh nghiệm, nhạy bén nắm bắt được nhu cầu về vốn của khách hàng, cho vay kịp thời nhằm mang lại hiệu quả. Thời hạn cho vay của ngân hàng cũng là một vấn đề cần suy nghĩ. Hiện nay các ngân hàng thương mại áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn ngan bằng (thậm chí cao hơn) lãi suất cho vay dài hạn, như vậy nó không phù hợp với quy luật thời hạn cho vay càng dài lãi suất cho vay càng cao vì phải chịu rủi ro nhiều hơn. Chính vì vậy cho vay dài hạn đối với các ngân hàng thương mại còn rất hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ tới thu nhập từ lãi cho vay của ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, hoạt động dịch vụ của ngân hàng phải được xem như là một hoạt động kinh doanh thu lãi của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa có thể coi đây là một lĩnh vực kinh doanh giành giật thu nhập qua sự phục vụ tận tình chu đáo và không ngừng đề cao chữ tín. Vì vậy, ngân hàng thương mại không thể không tính đến hiệu quả của hoạt động này. Đối với các ngân hàng thương mại hiện đại trên thế giới thì hoạt động dịch vụ rất phát triển và đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Trong khi đó các ngân hàng thương mại nước ta trước đây chưa chú trọng đúng mức đến các nghiệp vụ này nên hoạt động dịch vụ của ngân hàng còn rất đơn điệu. Vì vậy nguồn thu từ hoạt động dịch vụ của ngân thành thương mại chủ yếu là từ các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và dịch vụ chuyển tiền. Các dịch vụ khác của ngân hàng như dịch vụ uỷ thác, dịch vụ tư vấn và dịch vụ két sắt… chưa được thực hiện. Đây là một tổn thất lớn đối với ngân hàng thương mại Việt Nam vì mở rộng hoạt động dịch vụ ngân hàng không những đem lại cho ngân hàng nguồn thu ổn định chắc chắn an toàn mà lại rất cần ít vốn và là công cụ cạnh tranh trên thị trường. Ngày nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thấy rõ được tầm quan trọng của các hoạt động dịch vụ nên ngày càng chú trọng đến các nghiệp vụ này và không ngừng đổi mới công nghệ nhằm phát triển hơn nữa hoạt động dịch vụ ngân hàng. NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội cùng với hệ thống ngân thàng thương mại Việt Nam là một trong các ngân hàng thương mại đi đầu trong lĩnh vực hoạt động này. Năm vừa qua NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội đã tiến hành đầu tư rất lớn để trang bị và nối mạng máy vi tính, thanh toán điện tử trên toàn quốc giúp cho dịch vụ chuyển tiền qua ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt được thuận tiện và nhanh chóng hơn. Chính điều này đã hấp dẫn khách hàng sử dụng dịch vụ và chi nhánh ngân hàng làm cho thu nhập của dịch vụ của chi nhánh năm 2000 đạt 1919 triệu chiếm tỷ trọng 10% trong tổng thu nhập, tăng 97 triệu, về tỷ lệ tăng 5,30% so với năm 1999. Với phương châm tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ bằng cách tăng doanh số thanh toán qua ngân hàng chứ không phải tăng lệ phí dịch vụ, nên hiện nay NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội áp dụng mức lệ phí dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ chuyển tiền nói chung là thấp hơn so với các ngân hàng thương mại khác hay so với bưu điện. Đây cũng là một ưu thế rất lớn của NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội và ngày càng thu hút nhiều khác hàng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, góp phần tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng so với năm trước. Ngoài hoạt động trên lĩnh vực chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại còn mở rộng hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực khác như kinh doanh vàng bạc đá quý. Đây là lĩnh vực hoàn toàn mới đối với NHTM CP XNKVN - chi nhánh Hà Nội, kinh nghiệm trong hoạt động này của ngân hàng còn rất ít nên các cửa hàng vàng của chi nhánh hầu như không có khách hàng. Vì vậy thu nhập từ hoạt động nà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0124.doc
Tài liệu liên quan