Tài liệu Hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng nhà nước & tác động của nó tới ổn định tài chính: ĐỀ TÀI
HOẠT ĐỘNG THANH TRA GIÁM SÁT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH
MỞ ĐẦU
H
iện nay thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng với sự gia tăng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán và dịch vụ ngân hàng. Sự phát triển này ngày càng trở nên mạnh mẽ khi Việt Nam thực hiện mở cửa thị trường tài chính theo các cam kết gia nhập WTO với sự hiện diện thương mại của các tập đoàn tài chính quốc tế.
Thị trường tài chính càng phát triển thì sự đan xen ... Ebook Hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng nhà nước & tác động của nó tới ổn định tài chính
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Hoạt động thanh tra giám sát của Ngân hàng nhà nước & tác động của nó tới ổn định tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong hoạt động giữa hệ thống ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm càng sâu, rộng, trong đó các ngân hàng thương mại lớn trở thành nòng cốt thông qua việc đầu tư vào các công ty chứng khoán, bảo hiểm. Để thị trường hoạt động ổn định bền vững thì phải có một hệ thống thanh tra giám sát tài chính hoạt động hiệu quả bảo đảm cho sự ổn định của thị trường tài chính.
A – LÝ THUYẾT
PHẦN I : TỔNG QUAN VỀ THANH TRA NGÂN HÀNG
1.Khái niệm
Hoạt động thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước, là một trông ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là: Ban hành quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, và thanh tra kiểm tra việc thực hiện quyết định
Theo luật ngân hàng nhà nước Việt Nam: thanh tra ngân hàng là thanh tra nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ chức thành hệ thống thuộc bọ máy NHNN. Mục đích của thanh tra ngân hàng là nhắm góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
2.Nội dung của hoạt động thanh tra
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép hoạt động ngân hàng.
- Phát hiện, ngăn ngừa và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Kiến nghị Thống đốc NHNN, Giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và các cơ quan tổ chức có thẩm quyền khác thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và các hoạt động ngân hàng.
- Xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng; tham mưu giúp Thống đốc NHNN chỉ đạo công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành ngân hàng.
3.Tổ chức thanh tra giám sát ngân hàng
Việc tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng để thực hiện chức năng thanh tra, giám sát các TCTD đối với mỗi quốc gia có thể khác nhau. Nhưng phương pháp và nội dung thanh tra cơ bản là giống nhau, và đều nhằm vào mục đích là đảm bảo an toần cho toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ lợi ích chính đáng của người gửi tiền, nâng cao tính độc lập và tính hiệu quả của công tác thanh tra đối với các tổ chức tín dụng.
Tuỳ theo điều kiện và quan điểm của từng quốc gia mà cơ quan thanh tra ngân hàng có thể được tổ chức trực thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội, trực thuộc ngân hàng trung ương, trực thuộc bộ tài chính, hoặc trực thuộc ngân hàng trung ương nhưng còn chịu sự giám sát và chỉ đạo của các cơ quan khác như Chính phủ, cơ quan thanh tra của Chính phủ hoặc bộ tài chính.
Một công trình nghiên cứu về bộ máy tổ chức GSNH được tiến hành bởi IMF (Tuya và Zamalloa, 1994) đã chỉ ra rằng: ở hầu hết các nước châu Á, Trung Đông, các nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ, và châu Phi, thẩm quyền GSNH được trao cho NHTW; duy chỉ ở khu vực Tây bán cầu, thẩm quyền này được chia xấp xỉ ngang nhau giữa NHTW và cơ quan bên ngoài - hoặc là Bộ Tài chính, hoặc là một cơ quan tách biệt. Hầu hết các NHTW trong các nước thành viên ASEAN (trừ Brunei) đều chịu trách nhiệm GSNH. ở một số nước châu Âu như ý, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Hylạp, Cộng hoà Séc, Tây Ban Nha, trách nhiệm điều hành hàng ngày hoạt động GSNH trực tiếp thuộc về NHTW. ở một số nước châu Âu khác như Áo, Na Uy, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về GSNH. Tình hình dường như phức tạp hơn ở các nước như Bỉ, Pháp, Đức và Anh, nơi mà cơ quan chịu trách nhiệm GSNH là độc lập về vị thế, đôi chỗ còn có cả bộ máy nhân sự riêng. Tuy nhiên, dù có vị trí pháp lý độc lập, các cơ quan này thường được liên kết chặt chẽ với: hoặc là NHTW, hoặc là Bộ Tài chính.
4.Các chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát tài chính – ngân hàng
Xuất phát từ những yếu kém trong hệ thống ngân hàng, các quốc gia nhóm G10 thuộc OECD đã đề ra yêu cầu về an toàn vốn điều chỉnh theo rủi ro và được Uỷ ban quản lý ngân hàng thuộc Ngân hàng thanh toán Quốc tế ban hành lần đầu vào năm 1988, gọi là quy định BASEL. Năm 1998, nhóm các nước G10 và Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng thanh toán quốc tế đã đưa ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả, đây là những nguyên tắc tối thiểu và là tài liệu cơ sở để tham khảo cho các nhà quản lý và thanh tra ngân hàng. Việc áp dụng đồng nhất nguyên tắc BASLE tại mỗi nước sẽ là một bước đi quan trọng trong việc nâng cao tính ổn định tài chính của mỗi quốc gia và toàn cầu.
4.1. Các nguyên tắc BASLE
a) Nguyên tắc 1: Các tiền đề để giám sát ngân hàng hiệu quả
Nguyên tắc này quy định, một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng có hiệu quả phải phân định trách nhiệm và mục tiêu rõ ràng đối với từng cơ quan tham gia giám sát ngân hàng, có một khung pháp lý phù hợp cho việc giám sát nghiệp vụ ngân hàng.
b) Các nguyên tắc 2-5: Cấp phép và cơ cấu
Xác định rõ các hoạt động mà tổ chức tài chính được phép thực hiện và chịu sự giám sát, cơ quan cấp phép có quyền đưa ra các tiêu chí và bác bỏ đơn xin thành lập nếu không đạt yêu cầu. Chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng có quyền rà soát và từ chối bất kỳ đề xuất nào đối với việc chuyển quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát ngân hàng hiện tại cho những bên khác, có quyền thiết lập các tiêu chí để rà soát việc bổ sung và đầu tư của ngân hàng.
c) Các nguyên tắc 6-15: Qui chế và yêu cầu về giám sát thận trọng
Các nguyên tắc này đề ra yêu cầu đối với ngân hàng về vốn an toàn, đánh giá chính sách tín dụng và kiểm soát nợ vay, đánh giá chất lượng tài sản, hệ thống thông tin về khách hàng vay vốn, giới hạn cho vay đối với một khách hàng, hệ thống đo lường và giám sát rủi ro, thiết lập được qui trình quản trị rủi ro tổng thể, hệ thống kiểm soát nội bộ.
d) Các nguyên tắc 16-20: các phương pháp giám sát ngân hàng liên tục
Đưa ra các nguyên tắc đối với một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả, bao gồm giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, hiểu rõ hoạt động ngân hàng và thường xuyên liên hệ với Ban Giám đốc ngân hàng, xây dựng các biện pháp thích hợp về thu thập và xử lý thông tin, có biện pháp thẩm định độc lập các thông tin giám sát, tăng cường năng lực của chuyên gia giám sát tổng thể hoạt động của nhóm ngân hàng.
e) Nguyên tắc 21: các yêu cầu về thông tin
Chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng phải biết chắc mỗi ngân hàng có hệ thống lưu trữ tài liệu phù hợp theo yêu cầu về kế toán, có thể nắm được tình hình tài chính thực tế của ngân hàng.
f) Nguyên tắc 22: quyền lực của thanh tra ngân hàng
Chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng phải có các biện pháp giám sát bắt buộc để có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời (kể cả thu hồi giấy phép) khi ngân hàng không đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về an toàn và hiệu quả kinh doanh.
g) Các nguyên tắc 23-25: hoạt động thanh tra ngân hàng xuyên quốc gia
Chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng phải thực hiện giám sát tổng hợp các tổ chức tài chính có giao dịch quốc tế, thiết lập quan hệ và trao đổi thông tin với những chuyên gia giám sát khác, yêu cầu các ngân hàng nước ngoài phải hoạt động theo các tiêu chuẩn như đối với các ngân hàng trong nước.
4.2. Hệ thống xếp hạng CAMELS
CAMELS là hệ thống đánh giá hoạt động ngân hàng toàn diện, được các thanh tra viên sử dụng để xếp hạng từng ngân hàng, bao gồm: tính đủ vốn, chất lượng tài sản có, chất lượng quản lý và hoạt động, thu nhập, tính thanh khoản, độ nhạy với rủi ro. Theo tiêu chuẩn Camels, các ngân hàng được phân thành 5 loại.
PHẦN II: HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
Đối tượng của thanh tra NHNN
- Hoạt động của các tổ chức tín dụng
- Hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải tổ chức tín dụng được NHNN cấp phép
- Các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế-xã hội và các nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ, tín dụng và hoạt đọng ngân hàng.
2. Tổ chức của hệ thống thanh tra ngân hàng nhà nước hiện nay.
- Hiện nay theo quy định của Chính phủ, Thanh tra Ngân hàng được tổ chức hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Tại Trung ương có Thanh tra NHNN; tại 64 tỉnh, thành phố có Thanh tra chi nhánh NHNN, trực thuộc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Thanh tra chi nhánh NHNN chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo hoạt động thanh tra của giám đốc chi nhánh NHNN trên địa bàn, đồng thời chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của thanh tra NHNN (Thanh tra Trung ương).
- Tính đến nay, toàn hệ thống Thanh tra Ngân hàng có khoảng 700 cán bộ.
Thống đốc NHNN
Tổng thanh tra nhà nước
Các vụ, cục chức năng
Chánh thanh tra NHNN
Văn phòng vụ thanh
tra
Phòng thanh tra các TCTD nhà nước
Phòng thanh tra các TCTD nước ngoài
Phòng
thanh tra các TCTD hợp tác
Phòng thanh tra các TCTD phi ngân hàng
Phòng thanh tra các TCTD cổ phần
Phòng thanh tra xét khiếu tồ
Phòng giám sát và phan tích
Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố
Các phòng chuyên môn
Thanh tra chi nhánh NHNN
Ghi chú: Quan hệ điều hành
Quan hệ nghiệp vụ
Sơ đồ tổ chức hệ thống thanh tra NHNN
3.Phương thức thanh tra
3.1.Giám sát từ xa:
Được thực hiện thông qua việc thu thập và xử lý các số liệu báo cáo của TCTD để đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn cơ bản trong hoạt động ngân hàng; đồng thời tổng hợp đánh giá chung hoạt động của cả hệ thống các TCTD phục vụ cho sự chỉ đạo, điều hành toàn ngành của Thống đốc NHNN. Hiện nay hoạt động giám sát từ xa được tiến hành hàng tháng và được thực hiện qua mạng máy tính, kết quả hoạt động giám sát từ xa còn có tác dụng hỗ trợ tốt để Thanh tra Ngân hàng thực hiện công tác thanh tra tại chỗ.
- Nội dung cơ bản của giám sát từ xa ( nghiệp vụ CAMEL)
Vốn của ngân hàng Capital
Chất lượng tài sản có Asset quality
Khả năng quản lý Managament ability
Khả năng sing lời Earning
Khả năng thanh toán Liquidity
Xếp loại ngân hàng:
Loại 1: Mạnh: là những ngân hàng đảm bảo tính hợp lý ở tất cả các khía cạnh, chỉ tìm thấy một vài điểm yếu khong đáng kể, không cần đến sự phản ứng của thanh tra.
Loại 2: Thoả mãn: Là những ngân hàng về cơ bản là hợp lý với một số điểm yếu không đáng kể có thể khắc phục được. Phản ứng của thanh tra là không đáng kể.
Loại 3: Trung bình (đối với hạng này cần theo dõi). Là những ngân hàng đã thể hiện một số điểm yếu nếu không chấn chỉnh lại thì sẽ trở nên trầm trọng. Trường hợp này cần phải thanh tra cao hơn mức bình thường. Thanh tra ngân hàng có thể tiến hành các cuộc viếng thăm để kiểm tra việc chấp hành biên bản thanh tra.
Loại 4: Tới hạn( có thể có rủi ro về khả năng thanh toán) là những ngân hàng có dặc điểm yếy hơn mức bình thường, nếu không được đề cập đúng đắn thì có thể làm phưuơng hại đến sự sống còn của ngan hàng trong tương lai. Đối với những ngân hàng này cần phải tiến hành tranh tra chặt chẽ.
Loại 5: không thoả mãn ( thể hiện rõ ràng về khả năng không thanh toán được nợ). là những ngân hàng đã thể hiện mức độ ruit ro cao, có thể áp dụng lệnh đống cửa và ngừng hoạt động. Đối với loại này phải thanh tra liên tục ( có thể cử 1 thanh tra viên có mặt liên tục tại ngân hàng)
3.2.Thanh tra tại chỗ
a) Khái niệm
Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống, là việc thanh tra được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế, cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra, xem xét các văn bản, thông tư chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện cơ chế của ngành; các báo cáo kế toán, thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp đồng…có liên quan đến hoạt động huy động vốn - sử dụng vốn và công tác kế toán – tài chính của đối tượng được thanh tra.
b) Nội dung
ñ Đối với các tổ chức tín dụng
Xem xét các công tác kiểm toán nội bộ
Kiểm kê tồn quỹ tiền mặt, kim khí quý, đá quý…và các loại tài sản có giá khác
Xác định tính chính xác của các báo cáo cân đối và các báo biểu thống kê khác gửi thanh tra.
Kiểm kê các khoản thư lãi và trả lãi.
Kiểm tra tài sản bất động sản.
Kiểm tra các tỷ lệ an toàn theo quy định trong các pháp lệnh và quy chế của NHNN
Kiểm tra hồ sơ cho vay và phân tích kết quả đối với những khoản cho vay lớn về các mặt.
Việc trả nợ và trả lãi.
Tài sản thế chấp.
Vốn thực có.
Tư cách người vay.
Phân tích tài chính.
Kiểm tra việc thực hiện các chính sách khác có liên quan đến các hoạt động của ngân hàng.
ñ Đối với các cơ quan, đơn vị thuộc NHNN
Đối với các cơ quan, đơn vị thuộc NHNN, nọi dung thanh tra tại chỗ của tranh tra NHNN được thực hiện theo nội dung ghi trong quyết định thanh tra của chánh thanh tra và Thống đốc NHNN, tập trung vào các vấn đề:
Thanh tra công tác tự kiểm tra
Thanh tra việc thựu hiện các quy định về công tác thanh tra và giải quyết khiếu tố.
Thanh tra các nội dung khác do thống đốc NHNN giao.
ñ Đối với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội và công dân thì tuỳ theo nội dung phạm vi hoặc mức độ vi phạm về chính sách, pháp luật về tín dụng, tiền tệ và ngân hàng mà thựuc hiện việc thanh tra.
c) Xếp hạng các tổ chức tín dụng
Đây là phương pháp khoa học nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính và khả năng quản lý của một tổ chức tín dụng. Việc xếp hạng các TCTD dựa trên việc lượng hoá các chỉ tiêu và thang điểm xếp loại. Tuỳ từng quốc gia khác nhau để có các chỉ số chuẩn tắc để tính điểm và xếp loại. Theo lý thuyết CAMELS, người ta sử dụng tới 500 chỉ số chuẩn tắc để tính điểm khi đánh giá hoạt động của một ngân hàng thương mại. Ở Việt Nam các chỉ số chuẩn tắc đang được áp dụng là:
+ Vốn của ngân hàng – thang điểm chuẩn là 20 điểm
+ Chất lượng tài sản có – thang điểm chuẩn là 30 điểm
+ Khả năng quản lý – thang điểm chuẩn là 20 điểm.
+ Khả năng chi trả - thang điểm chuẩn là 10 điểm
Cộng điểm của tất cả các phương diện trên rồi so với thang điểm xếp hạng là 100 điểm để tiến hành xếp loại tổ chức tín dụng đó theo các loại sau:
+ Hạng A ( tốt): là TCTD có tổng số điểm từ 75 đến 100
+ Hạng B (khá) : là TCTD đạt số điểm từ 60 đến 74.
+ Hạng C ( trung bình): là TCTD đạt số điểm từ 45-59 điểm.
+ Hạng D (yếu kém): là TCTD đạt số điểm dưới 45 điểm.
d) Các giải pháp đối với các tổ chức tín dụng
- Có kế hoạch chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Phân công thanh tra viên theo dõi tổ chức tín dụng gặp khó khăn có chế độ giám sát thường xuyên.
- Quy định kỳ báo cáo.
- Thực hiện chuyển tổ chức tín dụng sang chế độ bảo tồn theo cơ chế kiểm soát đặc biệt nếu kế hoạch chấn chỉnh không có hiệu quả, tình hình tài chính tiếp tục xấu.
- Thu hồi giấy phép hoạt động theo luật định và các giải pháp sau khi thu hồi giấy phép.
- Đối với phương pháp thanh tra tại chỗ, thanh tra ngân hàng có được những căn cứ cụ thể, những chứng cứ pháp lý để đánh giá và xử lý các vi phạm của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên thực hiện thanh tra tại chỗ là tốn kém cả về chi phí và nhân lực, không thực hiện được thường xuyên và toàn diện. Do đó để hoạt động thanh tra ngân hàng đạt hiệu quả cao cần kết hợp cả hai phương pháp giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
B - THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA THANH TRA NHNN TỚI ỔN ĐỊNH
TÀI CHÍNH
I.Bối cảnh của việc thực hiện dự án đánh giá 25 nguyên tắc cơ bản của UB BASEL về thanh tra giám sát ngân hàng
1.Bối cảnh của việc thực hiện dự án đánh giá 25 nguyên tắc cơ bản của UB BASEL về thanh tra giám sát ngân hàng.
a) Giới thiệu về ủy ban BASEL - Được thành lập bởi NHTW các nước G7 vào cuối năm 1974 - Ủy ban không có quyền giám sát các quốc gia một cách chính thức, các kết luận của UB không có bắt buộc về mặt pháp lý, UB chỉ tổng hợp các chuẩn mực, hướng dẫn, các kiến nghị và các thông lệ tốt nhất với mong muốn các cơ quan giám sát trên thế giới có thể thực thi thẩm quyền một cách tốt nhất và phù hợp với quốc gia của mình
- UB khuyến khích các thành viên hướng theo các phương pháp và chuẩn mức chung kết hợp các kĩ thuật giám sát của các quốc gia thành viên.
- Một mục tiêu quan trọng của UB là thu hẹp khoảng cách giữa các cơ quan giám sát quốc tế nhằm theo đuổi một mục tiêu chính: không một ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà nằm ngoài tầm giám sát và việc giám sát luôn đầy đủ
b) Bối cảnh của việc thực hiện dự án : Tầm quan trọng của các nguyên tắc cơ bản BASEL với NHNNVN và hệ thống ngân hàng ở VN - Nhu cầu phát triển kinh tế của VIỆT NAM đòi hỏi phải có một hệ thống ngân hàng tài chính vững mạnh
- Đáp ứng yêu cầu của các Nguyên tắc Cơ bản là một điều kiện tiên quyết để ra nhập Tổ chức Thương Mại Thế Giới
- Hỗ trợ NHNNVN xây dựng phương pháp thanh tra ngân hàng một cách hiệu quả.
- Giúp cán bộ thanh tra tìm hiểu các chuẩn mực và kĩ năng tham giám sát theo thông lệ quốc tế
- Giúp TCTD nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh.
- Hoạt động thanh tra hiệu quả sẽ gia tăng giá trị cho các TCTD trong nước.
- Hoạt động thanh tra hiệu quả sẽ cho phép các TCTD của Việt Nam mở rộng thị trường sang các quốc gia khác.
2.Kết quả đánh giá thanh tra ngân hàng theo 25 nguyên tắc cơ bản của UB BASEL
Phương pháp đánh giá
- Tuân thủ : Không có những khác biệt chủ yếu.
- Tuân thủ phần lớn được đưa ra khi và chỉ khi có những khác biệt nhỏ và những khác biệt này không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thực hiện mục tiêu chính của nguyên tắc cơ bản. Mức độ tuân thủ phần lớn cũng được sử dụng trong trường hợp khung pháp lý và phần lớn thông lệ và thủ tục thanh tra được đánh giá là tuân thủ.
- Phần lớn không tuân thủ: Được đưa ra khi gần như hoàn toàn khác biệt và không có dấu hiệu tuân thủ.
Không phù hợp: Khi việc áp dụng nguyên tắc không phù hợp với điều kiện hiện tại.
2.1. Kết quả đánh giá chung của dự án: - Tuân thủ :Nguyên tắc số 22 - Tuân thủ phần lớn : Nguyên tắc 2, 18, 25 - Phần lớn không tuân thủ : Nguyên tắc 1,3, 4,5à21 - Không áp dụng : Nguyên tăc 11, 23, 24
2.2. Kết quả đánh giá cụ thể:
NHÓM
NGUYÊN TẮC
ĐÁNH GIÁ
MỨC ẢNH HƯỞNG
Nhóm1: Điều kiện cần thiết cho hoạt động GSNN có hiệu quả
Nguyên tắc 1
Phần lớn chưa tuân thủ
CAO
Nhóm 2:Cấp phép và cơ cấu giám sát
Nguyên tắc 2, Nguyên tắc 3, Nguyên tăc 5
Phần lớn chưa tuân thủ
CAO
Nguyên tắc 4
Tuân thủ phần lớn
CAO
Nhóm 3: Quy định an toàn hoạt động và yêu cầu của hoạt động GS NH ( nguyên tăc 6à15)
Nguyên tắc 8 , nguyên tắc 10, Nguyên tắc 12, Nguyên tắc 13, nguyên tắc 14, nguyên tắc 15
Phần lớn chưa tuân thủ
CAO
Nguyên tắc 9
Phần lớn chưa tuân thủ
TRUNG BÌNH
Nguyên tắc 11
Không phù hợp
Nhóm 4 :Phương pháp GS thường xuyên( nguyên tắc 16à20)
Nguyên tắc 16, nguyên tắc 17, nguyên tắc 19, nguyên tắc 20
Phần lớn chưa tuân thủ
CAO
Nguyên tắc 18
Tuân thủ phần lớn
CAO
Nhóm 5: Yêu cầu về thông tin GS NH
Nguyên tắc 21
Phần lớn chưa tuân thủ
CAO
Nhóm 6: Quyền hạn của người thực thi nhiệm vụ GS
Nguyên tắc 22
Tuân thủ
Nhóm 7: Hoạt động NH quốc tế( nguyên tắc 23à25)
Nguyên tắc 23, Nguyên tắc 24
Không phù hợp
Nguyên tắc 25
Tuân thủ phần lớn
3. Thực trạng thanh tra giám sát ngân hàng ở Việt Nam
a) Thực trạng công tác giám sát tại Việt Nam và vấn đề áp dụng các nguyên tắc Basel vào hoạt động giám sát ngân hàng
Với trách nhiệm đảm bảo an toàn hệ thống, bộ máy giám sát tài chính ngân hàng tại Việt Nam chưa được xây dựng đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa được chuyển đổi hoạt động theo mô hình Ngân hàng Trung ương. Thanh tra ngân hàng được giao thực hiện một số hoạt động giám sát an toàn hệ thống ngân hàng trong khi vẫn có chức năng thanh tra chuyên ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các Bộ, cơ quan ngang bộ khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc thực thi có hiệu quả chính sách giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó, việc phân định chức năng, phối hợp nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực hiện giám sát chủ yếu bao gồm: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Bộ Tài chính chưa được quy định cụ thể gây khó khăn trong quá trình tác nghiệp, hoạt động chồng chéo. Phương pháp thanh tra giám sát đang từng bước được đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Kiểm tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là nội dung hoạt động chủ yếu, khả năng giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn yếu.
b) Đánh giá thực trạng hệ thống giám sát ngân hàng ở Việt Nam
Sau gần 20 năm đổi mới, Thanh tra NHNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam và an toàn hệ thống tài chính – ngân hàng. Từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hệ thống các quy chế, cơ chế thanh tra, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra, xét khiếu tố. Thanh tra NHNN đã chủ động xây dựng các cơ chế, chính sách và soạn thảo để ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước và thanh tra hoạt động ngân hàng.
Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng từng bước được đổi mới trên cơ sở xây dựng và ban hành các quy định an toàn phù hợp dần với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Phương pháp giám sát từ xa dựa trên hệ thống chỉ tiêu CAMELS đã được xây dựng nhằm thiết lập hệ thống thông tin báo cáo phục vụ giám sát từ xa. Chương trình và nội dung thanh tra tại chỗ cũng được cải tiến một bước, các kết quả kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập đã được Thanh tra NHNN sử dụng như công cụ hỗ trợ cho hoạt động thanh tra ngân hàng.
Thanh tra NHNN đã thực hiện thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên cơ sở đó phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền đảm bảo sự tuân thủ luật pháp, hoạt động lành mạnh của các TCTD. Trong những năm vừa qua, hoạt động thanh tra cũng góp phần vào việc chấn chỉnh và sắp xếp lại các TCTD cổ phần.
Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ thanh tra cũng được chú trọng. Bên cạnh việc tăng cường số lượng cán bộ từ trung ương tới các địa phương, Thanh tra NHNN đã coi trọng việc nâng cao chất lượng cán bộ. Do công tác này là một trong những yêu cầu cấp bách của quá trình đổi mới Thanh tra NHNN.
Bên cạnh kết quả đạt được, Thanh tra NHNN còn một số hạn chế. Mô hình tổ chức và cơ chế điều hành hoạt động thanh tra ngân hàng còn chồng chéo và kém hiệu lực, ngoài Thanh tra NHNN tại trụ sở chính, bộ phận thanh tra ngân hàng cũng được thiết lập tại các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, nghĩa là Thanh tra NHNN tại các chi nhánh NHNN chịu sự quản lý của Giám đốc chi nhánh, đồng thời chịu sự quản lý của Chánh Thanh tra NHNN. Thanh tra NHNN còn chịu sự điều chỉnh đồng thời của Luật NHNN và Luật Thanh tra, nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể giữa bản chất thanh tra chuyên ngành ngân hàng với cơ quan thanh tra của các bộ, ngành khác.
c) Vai trò của kiểm toán và kiểm soát nội bộ đối với hoạt động giám sát
Thanh tra giám sát hoạt động tài chính – ngân hàng có mối quan hệ nhất định với hoạt động kiểm toán và kiểm soát nội bộ. Cơ quan thanh tra thường sử dụng kết quả kiểm toán và kiểm soát nội bộ để đánh giá tình hình hoạt động của các tổ chức, kể cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, qua đó có biện pháp xử lý trong trường hợp cần thiết. Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin định lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin định lượng đó với những chuẩn mực đã được thiết lập. Kiểm toán có hai chức năng, bao gồm:
Chức năng kiểm tra và thẩm định: Xác- định độ tin cậy của các số liệu và thông tin đã được công bố, xác định tính đúng đắn và trung thực của các biểu mẫu, sổ sách phản ánh tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh;
Chức năng tư vấn rủi ro: Đánh giá tính- hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, qua đó đưa ra nhận xét về tính an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh cũng như những rủi ro tiềm ẩn. Dựa vào kết quả đánh giá và kết luận, kiểm toán đề xuất những giải pháp thích hợp.
Kiểm soát nội bộ là xem xét, đối chiếu và đánh giá tính tuân thủ của các hoạt động, nghiệp vụ, quyết định, chính sách, v.v so với luật và các qui định của cơ quan quản lý nhà nước. Tại các TCTD, kiểm soát nội bộ là tổng thể hệ thống các văn bản và các qui định về ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo. Cơ chế kiểm soát nội bộ được thiết lập do nhu cầu kiểm soát các hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát những rủi ro có thể phát sinh trong qui trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng.
Tại Việt Nam, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các NHTM Việt Nam còn nhiều bất cập so với hệ thống kiểm toán nội bộ của các ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa học và so với các chuẩn mực kiểm toán nội bộ. Phần lớn các ngân hàng chất lượng cán bộ kiểm tra, kiểm toán còn nhiều bất cập, chưa có quy trình hướng dẫn thực hiện công việc kiểm toán. Hệ thống các văn bản về hoạt động kiểm tra, kiểm toán còn nhiều bất cập như: Chưa phân định rõ các khái niệm liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ; trong các văn bản liên quan đến hoạt động kiểm tra, kiểm toán chưa cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm tra nội bộ và kiểm toán nội bộ trong hệ thống giám sát nội bộ; các luật và văn bản dưới luật đều quy định bộ máy kiểm toán nội bộ trực thuộc tổng giám đốc, trong khi tổng giám đốc và ban điều hành đều là đối tượng của kiểm toán nội bộ.
Hệ thống quản lý, giám sát ngân hàng Việt Nam đang đứng trước các nguy cơ, thách thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa tài chính:
Thứ nhất, tụt hậu trong hội nhập quốc tế do hầu hết các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về thể chế và vận hành hệ thống giám sát tài chính - ngân hàng chưa được tuân thủ. Nguy cơ tụt hậu đặt ra ngay cả về năng lực của cơ quan quản lý, giám sát so với yêu cầu thực tiễn quản lý, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng và trình độ phát triển của các định chế tài chính. Không ít hoạt động và dịch vụ ngân hàng mà cơ quan thẩm quyền chưa thể quản lý và giám sát một cách hữu hiệu. Nội dung, phương pháp thanh tra đã có đổi mới nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý hệ thống ngân hàng hiện đại. Một số thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng đã được áp dụng ở Việt Nam, song chưa đồng bộ và không triệt để dẫn đến cách nhìn nhận, đánh giá hệ thống ngân hàng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng tình hình. Mô hình tổ chức Thanh tra Ngân hàng và hệ thống pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng còn bất cập so với các thông lệ tốt và chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng (Basel), nhất là so với yêu cầu thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro.
Theo kết quả khảo sát do Công ty Tư vấn Ernst & Young tiến hành năm 2006 để đánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu của Ủy ban Giám sát ngân hàng quốc tế Basel, có tới 19 trong số 25 nguyên tắc phần lớn không tuân thủ, chủ yếu là các nguyên tắc liên quan đến điều kiện tiên quyết bảo đảm giám sát ngân hàng hữu hiệu.
Thứ hai, sự an toàn và toàn vẹn của hệ thống ngân hàng bị đe dọa do sự gia tăng rủi ro và tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Tự do hóa thị trường dịch vụ ngân hàng và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ đã thúc đẩy dịch vụ ngân hàng phát triển về số lượng và chất lượng, cải thiện các tiện ích và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn cho người tiêu dùng, nhưng đằng sau đó tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, tội phạm mới, tinh vi hơn, phức tạp hơn, nhất là tội phạm sử dụng công nghệ cao và tội phạm có yếu tố nước ngoài như truy cập bất hợp pháp vào mạng của TCTD để gây nhiễu loạn giao dịch, lấy cắp tiền; làm giả thẻ tín dụng, thẻ thanh toán; rửa tiền. Trong khi đó, hệ thống quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro của các TCTD còn nhiều điểm yếu kém, chưa có khả năng hạn chế và kiểm soát một cách có hiệu quả các rủi ro, gian lận, lạm dụng. Hơn thế nữa, các TCTD ngày càng phải chịu rủi ro thị trường lớn hơn khi thị trường tài chính Việt Nam được tự do hóa và mở cửa theo cam kết trong khuôn khổ WTO do biến động lãi suất, tỷ giá và giá cả tài sản tài chính trên thị trường trong nước và quốc tế, kể cả rủi ro lây nhiễm khủng hoảng từ bên ngoài. Chừng nào năng lực kiểm soát rủi ro của TCTD còn yếu kém thì các TCTD còn hạn chế về khả năng nhận biết, đo lường và xử lý rủi ro của các TCTD. Ðiều nguy hiểm là các TCTD không nhận thức được rằng mình đang phải chịu và có thể chịu đựng rủi ro ở mức độ nào và nguy hiểm hơn là tham gia các giao dịch phức tạp, trong đó bị mất tiền, thua lỗ mà không biết, không lường trước được tình hình trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thì rủi ro là vô hình, mà tổn thất là hiện hữu, nhưng không dễ cảnh báo trước và xác định chính xác.
Thứ ba, cấu trúc thể chế giám sát thị trường tài chính không phù hợp mức độ hội tụ và phát triển hợp nhất của thị trường tài chính trong nước. Thị trường chứng khoán phát triển rất nhanh nhờ những nỗ lực đổi mới và triển vọng kinh tế sáng sủa của Việt Nam. Ðến cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu và trái phiếu tương đương với 24,4% GDP, riêng thị trường cổ phiếu là 22,7% GDP (năm 2005 chỉ tương đương 1,1% GDP). Nhiều TCTD tham gia hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và ngược lại nhiều định chế tài chính phi ngân hàng có khả năng gia nhập thị trường dịch vụ ngân hàng. Theo quyền hạn, nhiệm vụ quản lý nhà nước, NHNN thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng và Bộ Tài chính thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán, bảo hiểm. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa NHNN và Bộ Tài chính còn nhiều hạn chế trong việc thanh tra, giám sát toàn bộ thị trường tài chính. Ðiều này có nghĩa rằng sự an toàn, ổn định của từng khu vực thị trường tài chính cũng như toàn bộ thị trường tài chính dễ bị tổn thương do các cơ quan thanh tra, giám sát không thể kiểm soát được toàn bộ các rủi ro của thị trường tài chính. Sự tổn thương của khu vực nào đó trên thị trường tài chính, đặc biệt là hệ thống các TCTD đều có khả năng lan tỏa đến khu vực còn lại của thị trường tài chính.
Nhận thức được vị trí và vai trò ngày càng quan trọng của hệ thống các TCTD, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đã chỉ rõ yêu cầu và định hướng tăng cường an toàn hoạt động ngân hàng "áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Tăng cường năng lực tự kiểm tra của các tổ chức tín dụng và công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng, không để xảy ra đổ vỡ tín dụng". Văn kiện Ðại hội X của Ðảng, một lần nữa công tác thanh tra, giám sát ngân hàng lại được nhấn mạnh "Cải cách hệ thống thanh tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11929.doc