Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại và giao lưu quốc tế ngày càng đặt ra những đòi hỏi và thách thức mới đối với các NHTM trong hoạt động thanh toán quốc tế. Được xem như chất xúc tác cho sự phát triển thương mại quốc tế, công tác thanh toán quốc tế đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, với việc đa dạng hoá các hình thức thanh toán trong đó có phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn và tăng nhanh tốc độ vòng quay vốn, đảm bảo đ
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều kiện thuận lợi nhất cho quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Hơn nữa, thông qua hoạt động thanh toán quốc tế các ngân hàng thương mại có cơ hội khẳng định mình trên trường quốc tế, tăng thu nhập và phát triển ổn định trong môi trường cạnh tranh.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế trong hoạt động của ngân hàng thương mại, trong thời gian thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội em nhận thấy: Sau 8 năm đi vào hoạt động, hoạt động TTQT đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên qui mô hoạt động vẫn còn nhỏ lại chụi sự cạnh tranh gay gắt không những từ các ngân hàng thương mại trong nước mà còn có các chi nhánh của ngân hàng nước ngoài nên hoạt động thanh toán nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng đã gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy, việctìm ra những giải pháp phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT của ngân hàng TMCP Quân đội là hết sức cần thiết, nó không những góp phần phát triển hoạt động TTQT của hệ thống NHTM nói chung mà còn của ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Xuất phát từ lý do trên, trong thời gian thực tập tại ngân hàng TMCP Quân đội, cùng với những kiến thức về TTQT đã được học tại trường đại học, em đã lựa chọn đề tài: “Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại (nghiên cứu tại ngân hàng TMCP Quân đội)”. Trong phạm vi của bài viết chủ yếu tìm hiểu tình hình, kinh nghiệm thực tế, những vấn đề còn tồn tại trong công tác TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Quân đội. Và trên những hiểu biết ban đầu về lĩnh vực đó, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Quân đội.
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Quân đội.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Quân đội.
Hoàn thành luận văn này em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành thầy giáo Vương Trọng Nghĩa, các thầy cô giáo trong khoa ngân hàng tài chính cùng các cô chú, anh chị trong phòng thanh toán quốc tế của ngân hàng TMCP Quân đội đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
chương 1
hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế (TTQT) là sự chi trả bằng tiền (ngoại tệ) liên quan tới hàng hoá, dịch vụ, tư bản của cá nhân, tổ chức, Chính phủ nước này đối với đối tác của mình trên thế giới. TTQT chính là khâu cuối cùng để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại thông qua các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại ngân hàng.
Dưới giác độ kinh tế, các quan hệ quốc tế được chia thành hai loại : quan hệ mậu dịch và quan hệ phi mậu dịch. Do đó, thanh toán quốc tế cũng bao gồm thanh toán mậu dịch và thanh toán phi mậu dịch.
. Thanh toán mậu dịch.
Thanh toán mậu dịch phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá và dịch vụ thương mại theo giá cả quốc tế. Thông thường, trong thanh toán mậu dịch phải có chứng từ hàng hoá kèm theo. Các bên mua bán bị ràng buộc với nhau bởi hợp đồng thương mại hoặc một hình thức cam kết khác (thư, điện giao dịch…). Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối quan hệ nhất định, nội dung hợp đồng phải qui định rõ cách thức thanh toán dịch vụ thương mại, hàng hoá nhất định.
. Thanh toán phi mậu dịch.
Là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hoá cũng như lao vụ, nó mang tính chất thương mại. Đó là chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại thương ở nước sở tại, chi phí về đi lại của các đoàn khách, các tổ chức hay cá nhân…
Thanh toán phi mậu dịch ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong hoạt động TTQT đặc biệt là trong hoạt động thanh toán chuyển kiều hối khi lượng kiều bào của mỗi quốc gia ngày càng gia tăng.
Ngoài hai loại thanh toán nêu trên, trong TTQT còn có thanh toán vay nợ, viện trợ. Thực chất loại thanh toán này cũng là thanh toán mậu dịch nhưng chỉ khác là ở nguồn vốn. Thanh toán mậu dịch được thực hiện bằng vốn tự có, còn thanh toán vay nợ hay viện trợ do nước ngoài cấp vốn. Ngày nay, hình thức thanh toán này chiếm một tỷ trọng khá lớn nhất là ở các nước bắt đầu phát triển hay các nước đang phát triển để thanh toán các khoản nợ, khoản viện trợ tới kỳ hạn hoàn trả của quốc gia.
Về cơ bản TTQT phát sinh trên cơ sở hoạt động thương mại quốc tế. Khi đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế là đề cập đến quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá giữa các nước. TTQT là khâu cuối cùng của một quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, do vậy nếu công tác thanh toán quốc tế được tổ chức tốt thì giá trị hàng xuất khẩu mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. TTQT trở thành một yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại.
Thanh toán quốc tế thực sự phức tạp, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế thế giới có nhiều bất ổn, tỷ giá hối đoái biến động liên tục, vì vậy yêu cầu đặt ra cho công tác thanh toán quốc tế là đảm bảo an toàn cho các hợp đồng nhập khẩu, các khoản doanh thu hàng xuất khẩu thu về một cách kịp thời, chính xác, an toàn.
1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước.Thông qua hoạt động TTQT , chúng ta có thể tận dụng được vốn, công nghệ nước ngoài để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Hoạt động TTQT là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoà dịch vụ giữa các tổ chức cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Hoạt động TTQT của các ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới.
Hoạt động TTQT giúp cho doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Do vị trí địa lý của các bạn hàng thường cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng của người mua, của bên nợ, đồng thời trong điều kiện thị trường thường xuyên biến động, khả năng thanh toán của bên nợ bấp bênh, hơn nữa trong nền kinh tế thị trường tình trạng lừa đảo ngày càng tăng nên rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất hập khẩu ngày càng nhiều. Tổ chức tốt hoạt động thanh toán quốc tế sẽ giúp các nhà xuất khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình kinh doanh, nhờ đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Đối với ngân hàng thương mại, việc mở rộng thanh toán quốc tế có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, đây không phải là một dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một dịch vụ không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác phát triển. Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh doanh quốc tế. Trên cơ sở đó ngân hàng phát trển được các dịch vụ như huy động vốn ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác, nhờ đó qui mô hoạt dộng của ngân hàng ngày càng lớn. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh đối ngoại giúp cho ngân hàng nâng cao uy tín và ngày tạo một niềm tin vững chắc cho khách hàng.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, trong xu thế toàn cầu hoá, hoạt động TTQT có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần tăng thu nhập, uy tín và khẳ năng cạnh tranh cho ngân hàng.
1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng và phát triển, các phương thức thanh toán quốc tế cũng ngày càng đa dạng và phong phú, nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về thanh toán cho khách hàng. Mỗi phương thức thanh toán có những ưu nhược điểm khác nhau, hiện nay một số phương thức được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế gồm:
1.3.1. Phương thức chuyển tiền
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán quốc tế mà khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm, trong một thời gian nhất định bằng phương thức chuyển tiền theo yêu cầu khách hàng.
a/.Trường hợp áp dụng thanh toán chuyển tiền
Hai bên có quan hệ lâu năm và tín nhiệm lẫn nhau
Thanh toán trong phi mậu dịch, chuyển vốn ra nước ngoài đầu tư, chuyển lợi nhuận về nước, chuyển kiều hối.
b/. Ưu nhược điểm
Ưu điểm: Là phương tiện đơn giản, thuận tiện, thanh toán trực tiếp giữa bên mua và bên bán, ngân hàng chỉ giữ vai trò trung gian.
Nhược điểm: Việc thanh toán phụ thuộc vào thiện chí của người mua, bên bán dễ bị chiếm dụng vốn trong thanh toán. Phương thức này thường chỉ sử dụng trong lĩnh vực phi mậu dịch và thanh toán trong lĩnh vực thương mại, các chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá (phí vận chuyển, bảo hiểm…)
Quy trình thanh toán nghiệp vụ theo phương thức trả tiền
Ngân hàng chuyển tiền
Ngân hàng đại lý
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
Ngân hàng chuyển tiền
Ngân hàng đại lý
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(5)
(3)
(2)
(4)
(1)
(1)
(1): Sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương, người xuất khẩu thực hiện cung ứng hàng hoá, dịch vụ và giao toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên nhập khẩu.
(2): Người nhập khẩu sau khi kiểm tra chứng từ hoá đơn, lập lệnh chuyển tiền, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển tiền cho người hưởng lợi.
(3): Ngân hàng chuyển tiền tiến hành kiểm tra nếu thấy hợp lệ và đủ khả năng thanh toán sẽ trích tài khoản của người nhập khẩu để chuyển tiền và gửi giấy báo nợ cho người nhập khẩu.
(4): Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài chuyển tiền cho người xuất khẩu.
(5): Ngân hàng đại lý ghi có và báo có cho người xuất khẩu.
1.3.2. Phương thức nhờ thu
Phương thức nhờ thu được thực hiện trên cơ sở những qui định của nguyên tắc thống nhất nhờ thu số 522 của phòng thương mại quốc tế sửa đổi năm 1995 có hiệu lực từ 1/1/1996 (Uniform Rulers of the Collection, 1995 Revision No 522, ICC).
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ tiến hành uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người nhập khẩu dựa trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu lập ra.
Phương thức nhờ thu bao gồm:
a/. Nhờ thu phiếu trơn:
Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không thông qua ngân hàng.
* Phương thức nhờ thu phiếu trơn thường chỉ áp dụng trong trường hợp người mua và người bán tin cậy lẫn nhau hoặc là phải có quan hệ liên doanh với nhau giữa công ty mẹ, công ty con hoặc là chi nhánh của nhau. Thanh toán về các dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá vì việc thanh toán này không nhất thiết phải kèm theo chứng từ như cước phí vận tải, bảo hiểm bồi thường,…
* Nhược điểm: Phương thức này không được áp dụng nhiều trong thanh toán về mậu dịch vì:
Đối với người bán: Không đảm bảo quyền lợi cho họ, vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng và không trả tiền hoặc trả tiền chậm trễ.
Đối với người mua: Khi áp dụng phương thức này cũng có điều bất lợi, Vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng hợp đồng hay không.
Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu phiếu trơn
(6)
Ngân hàng thu hộ
Ngân hàng đại lý
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(3)
(4)
(5)
(2)
(7)
(1)
(1): Người xuất khẩu giao hàng và bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu.
(2): Người xuất khẩu lập hối phiếu và uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu bằng nhờ thu.
(3): Ngân hàng thu hộ gửi thư uỷ thác nhờ thu kèm hối phiếu cho ngân hàng đại lý của mình ở nước nhập khẩu để yêu cầu thu tiền.
(4): Ngân hàng đại lý gửi hối phiếu cho người nhập khẩu để yêu cầu thanh toán hay chấp nhận hối phiếu.
(5): Người nhập khẩu thông báo đồng ý chấp nhận thanh toán hoặc từ chối.
(6): Ngân hàng đại lý chuyển tiền và gửi giấy báo có hoặc hối phiếu đã chấp nhận thanh toán về ngân hàng thu nợ hoặc thông báo về sự từ chối thanh toán của bên nhập khẩu.
(7): Ngân hàng thu hộ ghi có và báo có cho người xuất khẩu hoặc thông báo về sự từ chối thanh toán cuả người nhập khẩu.
b/. Nhờ thu kèm chứng từ
Là phương thức thanh toán trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua nhưng không căn cứ vào hối phiếu mà căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng.
Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có việc nhờ ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn.
* Nhược điểm:
Người bán thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể không trả tiền cũng được khi thị trường bất lợi với họ.
Việc trả tiền còn quá chậm chạp, từ lúc giao hàng đến lúc nhận được tiền có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm.
Trong phương thức này ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu tiền hộ, còn không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua.
* Tuỳ theo thời hạn trả tiền phương thức này được chia ra làm:
+ Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (Documentary against payment- D/P): phương thức này thường chỉ sử dụng trong trường hợp người bán trả tiền ngay.
+ Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documentary against acceptance-D/A)
Phương thức này được sử dụng trong trường hợp mua chụi. Trình tự tiến hành D/A cũng giống như D/P song một điểm khác là người mua chỉ phải ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu thì sẽ được ngân hàng trao cho bộ chứng từ gửi hàng để đi nhậnh hàng.
Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu kèm chứng từ
(7)
(3)
Ngân hàng thu hộ
Ngân hàng đại lý
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(5)
(2)
(8)
(4)
(6)
(1)
(1): Người xuất khẩu giao hàng sang nước nhập khẩu.
(2): Người nhập khẩu ký phát hối phiếu đòi tiền người nhập khẩu gửi kèm theo bộ chứng từ hàng hoá đến ngân hàng phục vụ mình để nhờ thu hộ tiền người nhập khẩu.
(3): Ngân hàng thu hộ gửi hối phiếu, chứng từ hàng hoá kèm theo thư uỷ nhiệm sang ngân hàng đại lý nước nhập khẩu nhờ thu hộ tiền.
(4): Ngân hàng đại lý sau khi kiểm tra, giữ lại bộ chứng từ, gửi hối phiếu đến người nhập khẩu yêu cầu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
(5): Người nhập khẩu thông báo chấp nhận hoặc từ chối thanh toán.
(6): Ngân hàng đại lý chuyển giao chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu để họ nhận hàng nếu người nhập khẩu đồng ý thanh toán.
(7): Ngân hàng đại lý thực hiện bút toán chuyển tiền và gửi giấy báo có hoặc hối phiếu đã chấp nhận về ngân hàng thu hộ, hoặc thông báo về từ chối thanh toán của bên nhập khẩu.
(8): Ngân hàng thu hộ tiền thanh toán hoặc chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho người xuất khẩu hoặc từ chối thanh toán.
So với phương thức nhờ thu phiếu trơn thì phương thức nhờ thu kèm chứng từ đảm bảo hơn vì ngân hàng thay mặt cho người bán không chế chứng từ. Ngân hàng đóng vai trò người trung gian thu tiền hộ, ngân hàng không có trách nhiệm về việc trả tiền của người mua và hưởng hoa hồng. Dựa trên cơ sở giấy uỷ thác và bộ chứng từ hàng hoá của người bán, ngân hàng tiến hành thu hộ tiền, ngân hàng không chụi trách nhiệm kiểm tra chứng từ và không liên quan gì đến việc uỷ thác thu đó có được người mua chấp nhận hoặc trả tiền hay không.
Phương thức nhờ thu được áp dụng trong trường hợp hàng hoá mới bán lần đầu (mang tính chất chào hàng), hàng ứ đọng, khó tiêu thụ, thu cước phí vận tải, phí bảo hiểm, tiền bồi thường hoa hồng hoặc trong trường hợp hàng được thanh toán theo phương thức tín dụng chuyển sang nhờ thu.
1.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ
Trong mua bán quốc tế nhiều khi người bán và người mua ở rất xa nhau, ít thông tin và ít tiếp xúc được với nhau nên không hoàn toàn hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau. Khi bán hàng, người xuất khẩu không hoàn toàn tin chắc người mua luôn sẵn sàng trả tiền vì vậy họ mong muốn có một cam kết rằng mỗi khi đã ký hợp đồng và giao hàng thì họ sẽ nhận được tiền. Người bán muốn đảm bảo chắc chắn, người mua thì lại không muốn trả tiền trước khi nhận được hàng. Như đã phân tích các phương thức thanh toán ở trên đều không đảm bảo quyền lợi công bằng cho cả người bán và người mua. Một phương thức thanh toán quốc tế có sự tham gia trực tiếp của ngân hàng trong quá trình thanh toán đã giải quyết được vấn đề trên. Đó chính là phương thức tín dụng chứng từ (TDCT).
Phương thức TDCT là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người mử thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền và thời gian qui định trong thư tín dụng.
Phương thức TDCT ra đời vào năm 1993, đáp ứng nhu cầu nâng cao hiệu quả thanh toán quốc tế và từ đó đến nay nó trở thành phương thức thanh toán quốc tế thông dụng nhất trong ngoại thương.
1.3.3.1. Các bên tham gia trong phương thức TDCT:
Người xin mở thư tín dụng (Aplicant) là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác.
Người hưởng lợi thư tín dụng (benificiary) là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing Bank) là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, cấp tín dụng cho người nhập khẩu và đớng ra cam kết trả tiền cho người hưởng lợi thư tín dụng khi người này xuất trình chứng từ phù hợp với các điều kiện điều khoản của thư tín dụng.
Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising Bank) là ngân hàng thông báo trực tiếp về thư tín dụng và các giao dịch có liên quan đến thư tín dụng cho người hưởng lợi thư tín dụng. Đây là ngân hàng chi nhánh hoặc ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành và thường ở nước người xuất khẩu.
Ngoài ra, tuỳ theo yêu cầu người xuất khẩu, tăng mức độ an toàn cho các bên tham gia, trong quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ ngoài 4 thành viên chủ yếu còn có sự tham gia của các thành viên sau:
Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): ngân hàng xác nhận trách nhiệm của mình sẽ cùng ngân hàng mở thư tín dụng đảm bảo trả tiền cho người xuất khẩu trong trường hợp ngân hàng mở thư tín dụng không đủ khả năng thanh toán. Ngân hàng xác nhận có thể là ngân hàng thông báo thư tín dụng hoặc ngân hàng khác do hưởng lợi chỉ định khi họ không tin vào khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành.
Ngân hàng hoàn trả tiền (Rembursing Bank) là ngân hàng được ngân hàng phát hành uỷ nhiệm để chuyển tiền trả cho người thụ hưởng. Thông thường, ngân hàng này là ngân hàng mà ngân hàng phát hành có duy trì tài khoản tại đó.
Trong thực tế khi thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ không nhất thiết phải có đầy đủ cả 4 ngân hàng đó tham gia mà thường chỉ có hai ngân hàng đứng ra đảm nhận các chức năng trên.
Mối quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia:
Ngân hàng mở và người yêu cầu: người nhập khẩu gửi thư yêu cầu mở thư TDCT đến ngân hàng phục vụ mình. Thông qua việc chấp nhận mở thư tín dụng ngân hàng mở và người yêu cầu đã có mối quan hệ pháp lý. Giấy yêu cầu mở thư tín dụng chính là văn bản pháp lý thể hiện quan hệ này. Ngân hàng có trách nhiệm đứng ra thanh toán hộ người nhập khẩu vì vậy ngân hàng phải kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp và đề ra mức ký quỹ nhất định nhằm giảm rủi ro của ngân hàng xuống mức thấp nhất trong quan hệ với khách hàng.
Ngân hàng mở và người hưởng lợi: đối với người hưởng lợi ngân hàng mở thư tín dụng có nghĩa vụ trả tiền cho người hưởng lợi khi họ đưa ra bộ chứng từ hợp lý ngay cả khi người hưởng lợi không có khả năng trả tiền.
Ngân hàng thông báo và người được hưởng: Ngân hàng thông báo chỉ thực hiện thông báo thư tín dụng mà không có một cam kết nào về thanh toán đối với tín dụng chứng từ, vì ngân hàng thông báo và người hưởng lợi không có ràng buộc về pháp lý, nhưng ngân hàng thông báo phải kiểm tra tính xác thực của thư tín dụng và được hưởng phí dịch vụ từ người hưởng lợi.
Ngân hàng xác nhận và người được hưởng lợi: Với việc xác nhận thư TDCT ngân hàng xác nhận đã cùng chụi trách nhiệm với ngân hàng phát hành trong việc hoàn trả tiền cho người hưởng lợi. Ngân hàng xác nhận phải thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu do người hưởng lợi ký phát nếu chứng từ hợp lệ được xuất trình tại ngân hàng hoặc ngân hàng chỉ định phù hợp với điều khoản của thư tín dụng.
Ngân hàng mở và ngân hàng xác nhận: việc một ngân hàng xác nhận cho một ngân hàng mở thư tín dụng có nghĩa là ngân hàng xác nhận đã cấp tín dụng cho ngân hàng mở, theo đó ngân hàng mở sẽ nhận nợ khi khoản tín dụng đó được ngân hàng xác nhận thanh toán.
1.3.3.2. Nội dung của phương thức tín dụng chứng từ.
a/. Thư tín dụng trong phương thức TDCT
Thư tín dụng (Letter of Credit- L/C) là một văn bản do ngân hàng phát hành theo yêu cầu của người xin mở thư tín dụng (người nhập khẩu), trong đó ngân hàng phát hành cam kết trả tiền cho người được hưởng lợi (nhà xuất khẩu) một số tiền nhất định trong một thời gian nhất định, với điều kiện người này phải xuất trình một bộ chứng từ phù hợp với điều khoản qui định trong văn bản đó.
Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.
Chức năng của thư tín dụng:
Chức năng thanh toán: Trong thanh toán quốc tế đảm bảo khả năng thanh toán là yếu tố quan trọng và không thể thiếu được. Tín dụng chứng từ cũng có chức năng cơ bản đó, đó là chức năng thanh toán. Được thể hiện là dùng các chứng từ, thư, điện chuyển tiền, hối phiếu, séc để thanh toán giữa người mua và người bán.
Chức năng đảm bảo tín dụng chứng từ: Được thể hiện qua cam kết độc lập của ngân hàng mở thư tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán cho người xuất khẩu ngay cả trong trường hợp người nhập khẩu không có khả năng thanh toán. Đồng thời quyền lợi của bên nhập khẩu cũng được đảm bảo với việc ngân hàng chỉ trả tiền cho người xuất khẩu khi đã trình bộ chứng từ phù hợp với L/C.
Chức năng tín dụng: Khi ngân hàng mở L/C nhận được đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, ngân hàng có thể yêu cầu người nhập khẩu ký quỹ với mức ký quỹ từ 0%-100% tuỳ theo quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Như vậy ngân hàng có thể cho người nhập khẩu vay để ký quỹ hoặc trả tiền lãi cho số tiền ký quỹ thuộc sở hữu của người nhập khẩu. Khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ và hối phiếu, ngân hàng trả tiền cho người xuất khẩu nghĩa là ngân hàng cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
Nội dung của thư tín dụng:
Thông thường một thư tín dụng bao gồm đầy đủ các nội dung sau:
Số hiệu: tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng của nó nhằm để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng, ngoài ra còn được ghi vào các chứng từ có liên quan.
Địa điểm mở L/C: là nơi ngân hàng mở L/Cviết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp nếu có xung đột pháp lý về L/C đó.
Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cuối cùng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện mở L/C có đúng hạn như đã qui định trong hợp đồng không.
Loại L/C áp dụng: tuỳ theo tính chất của hợp đồng mua bán, trong đơn đề nghị mở thư tín dụng phải nêu rõ loại thư tín dụng cần mở. Dựa trên cơ sở này ngân hàng sẽ phát hành đúng loại thư tín dụng đó, có thể lựa chọn L/C huỷ ngang, L/C không huỷ ngang, L/C xác nhận.
Số tiền của thư tín dụng: số tiền của thư tín dụng phải được ghi rõ bằng số và bằng chữ và phải thống nhất với nhau trên đơn vị tiền tệ rõ ràng.
Tên, địa chỉ của những người và ngân hàng có liên quan như: người yêu cầu mở thư tín dụng; người thụ hưởng; ngân hàng phát hành; ngân hàng thông báo; ngân hàng thanh toán; ngân hàng xác nhận (nếu có).
Ngày hết hạn hiệu lực của L/C: từ ngày mở L/C đến ngày hết hạn L/C là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình bộ chứng từ phù hợp với L/C trong thời hạn đó.
Thời hạn trả tiền của L/C: thời hạn trả tiền liên quan đến việc trả ngay hay trả chậm. Thời hạn trả tiền có thể nằm ngay trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng (trả tiền ngay), hoặc nằm ngoài thời hạn hiệu lực của thư tín dụng (trả tiền chậm). Trong trường hợp thanh toán chậm thì qui định bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được bộ chứng từ hoàn chỉnh.
Thời hạn giao hàng: là thời hạn người xuất khẩu phải chuyển giao hàng cho người nhập khẩu, thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời gian hiệu lực của L/C.
Ngân hàng mở L/C: do hai bên thoả thuận qui định trong hợp đồng hoặc do người nhập khẩu chọn.
Ngân hàng thông báo: thường là đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước nhập khẩu chọn.
Các qui định về L/C: có thể chiết khấu, thanh toán hay chấp nhận tại một ngân hàng cụ thể hay bất cứ một ngân hàng nào.
Những nội dung về hàng hoá: tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá, quy cách phẩm chất, bao bì mã hiệu.
Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá: điều kiện cơ sở giao hàng (FOB, CIF), nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận chuyển và giao hàng.
Những chứng từ mà người xuất khẩu phải trình: đây là một nội dung then chốt của thư tín dụng vì căn cứ vào đó ngân hàng quyết định trả tiền hay không trả tiền cho người xuất khẩu.
L/C qui định rõ các loại chứng từ cần xuất trình, thường bộ chứng từ gồm:
+ Hối phiếu
+ Hoá đơn thương mại đã ký
+ Vận đơn
+ Danh sách đóng hàng
+ Chứng nhận xuất xứ
+ Chứng nhận bảo hiểm
+ Chứng nhận chất lượng, số lượng
+ Chứng nhận của người hưởng lợi
Tuỳ theo yêu cầu của nhà nhập khẩu mà có thêm bớt một số chứng từ, số lượng chứng từ của mỗi loại, yêu cầu về việc ký phát từng loại chứng từ như thế nào, lời cam kết rằng buộc của ngân hàng mở L/C.
b/.Các loại thư tín dụng
Thư tín dụng huỷ ngang (Revocable L/C): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C và người nhập khẩu có thể bổ sung, sửa đổi, hoặc bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người được hưởng lợi. Loại thư tín dụng này ít được sử dụng vì đây chỉ là lời hứa trả tiền chứ không phải là cam kết trả tiền cho người hưởng lợi.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang (irrevocable L/C): là loại thư tín dụng sau khi đã mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả thuận khác của các bên tham gia. Loại này thường được áp dụng rộng rãi nhất trong TTQT vì nó đảm bảo quyền lợi của nhà xuất khẩu.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed irrevocable L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, được một ngân hàng khác xác nhận đảm bảo việc trả tiền của thư tín dụng cùng với ngân hàng mở L/C. Loại này được áp dụng rộng rãi trong TTQT vì nó đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất khẩu. Loại thư này được sử dụng khi người xuất khẩu không tin tưởng vào ngân hàng mở L/C hoặc do tình hình kinh tế chính trị ở nước người nhập khẩu không ổn định.
Thư tín dụng huỷ ngang, miễn truy đòi (irrevocable Without Recourse L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang mà trong đó qui định sau khi trả tiền cho người xuất khẩu ngân hàng mở L/C không có quyền đòi lại tiền trong bất kỳ trường hợp nào. Khi sử dụng loại này, người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu: “Miễn truy đòi người ký phát”(Without recourse to drawers). Đồng thời trong thư tín dụng cũng phải ghi như vậy. Loại này cũng được sử dụng rộng rãi trong TTQT .
Thư tín dụng chuyển nhượng (Transfering L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, trong đó qui định người hưởng lợi thứ nhất yêu cầu ngân hàng chuyển nhượng một phần hay toàn bộ quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được phép chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển nhượng do người hưởng lợi đầu tiên chụi.
Loại L/C này được áp dụng trong trường hợp người hưởng lợi thứ nhất không đủ số lượng hàng hóa để xuất khẩu, hoặc không có hàng, họ chỉ là người môi giới thương mại.
Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào thực hiện hết tổng giá trị hợp đồng. L/C tuần hoàn cần ghi rõ ngày hết hiệu lực cuối cùng và số lần tuần hoàn. Có ba cách tuần hoàn:
+ Tuần hoàn tự động: tức là thư tín dụng có giá trị như cũ, không cần ngân hàng mở L/C thông báo cho người xuất khẩu biết.
+ Tuần hoàn hạn chế: chỉ khi nào ngân hàng mở L/C thông báo cho người xuất khẩu biết thì L/C mới có hiệu lực.
+ Tuần hoàn bán tự động: là loại L/C mà sau khi L/C trước được sử dụng xong hoặc hết hiệu lực , nếu sau một vài ngày mà ngân hàng mở L/C không có ý kiến gì về L/C kế tiếp thì nó lại tự động có giá trị như cũ.
Thư tín dụng tuần hoàn cho phép sự linh hoạt trong quan hệ thương mại giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thường áp dụng trong trường hợp các bên tin cậy nhau, mua hàng thường xuyên, định kỳ, khối lượng lớn trong thời gian dài. Khi áp dụng L/C tuần hoàn người nhập khẩu tiết kiệm được chi phí mở L/C.
Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại thư tín dụng không huỷ ngang dựa trên cơ sở mở L/C khác làm đảm bảo. Theo L/C này, người xuất khẩu dùng L/c do người nhập khẩu mở cho mình làm căn cứ để mở L/C khác (L/C giáp lưng) cho người hưởng lợi k._.hác hưởng với nội dung gần giống L/C ban đầu (L/C gốc). Trong L/C giáp lưng người hưởng lợi ban đầu đóng vai trò trung gian giữa người mua cuối cùng và người cung cấp hàng thực sự. Khi áp dụng loại này cần chú ý:
+ Giá trị L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, người trung gian được hưởng phần chênh lệch.
+ Thời hạn giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc.
+ Thư tín dụng giáp lưng được áp dụng trong các trường hợp: L/C gốc không được chuyển nhượng, hoặc buôn bán giữa các nước qua trung gian và người trung gian không muốn tiết lộ người cung cấp hàng hoá cho người mua cuối cùng.
Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín dụng đối ứng với nó được mở ra. Nghĩa là, L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở một L/C đối ứngvới nó để cho người mở L/C này được hưởng. Thư tín dụng đối ứng thường được sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng và có thể áp dụng trong phương thức gia công. Khi đó L/C nhập thành phẩm là L/C trả ngay còn L/C nhập nguyên liệu thành L/C trả chậm.
Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang do ngân hàng người xuất khẩu phát hành trong đó ngân hàng sẽ cam kết với người nhập khẩu thanh toán cho họ khi xuất trình giấy tờ chứng minh người nhập khẩu hoàn thành nghĩa vụ theo L/C đề ra. Khi tiến hành giao dịch thương mại quốc tế, người nhập khẩu có thể cấp các khoản tín dụng cho người xuất khẩu như tiền đặt cọc, tiền ứng trước, và phải bỏ ra chi phí mở L/C. Loại này thông thường áp dụng trong trường hợp hợp đồng thương mại có giá trị lớn và khách hàng mới giao dịch lần đầu.
c/. Qui trình nghiệp vụ thanh toán L/C
(5)
Người xuất khẩu
Ngân hàng thông báo
Ngân hàng mở
L/C
(6)
(7)
(8)
(1)
(5)
(6)
(3)
(2)
(4)
Người nhập khẩu
: Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng
: Ngân hàng mở L/C căn cứ vào đơn xin mở L/C sẽ lập một L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở L/C.
: Ngân hàng thông báo L/C cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung L/C
: Nếu người xuất khẩu chấp nhận L/C sẽ giao hàng cho người nhập khẩu, nếu không thì yêu cầu sửa đổi bổ sung cho phù hợp
: Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình tới ngân hàng thông báo để qua đó xin ngân hàng mở L/C thanh toán
: Ngân hàng mở L/C kiểm tra toàn bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì sẽ trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp sẽ từ chối thanh toán và gửi lại chứng từ cho người nhập khẩu
: Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ cho người nhập khẩu nếu người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền
: Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì chấp nhận trả tiền hoặc từ chối không trả tiền
d/.Vai trò của phương thức tín dụng trong TTQT
TTQT ngày càng mở rộng và phát triển không ngừng trong hoạt động thương mại quốc tế. TTQT theo phương thức TDCT đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong hoạt động TTQT. Nhận thức về vấn đề đó, trong hoạt động TTQT, các ngân hàng không ngừng phát triển nhằm nâng cao chất lượng phục cho khách hàng ngày một tốt hơn. Phương thức TDCT được sử dụng phổ biến do có ưu điểm sau:
* Đối với người xuất khẩu:
Được đảm bảo thanh toán: L/C là bản cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C khi người xuất khẩu nộp bộ chứng từ hàng hoá phù hợp với L/C. Do vậy trong phương thức tín dụng chứng từ người xuất khẩu được đảm bảo thu hồi tiền hàng hoá dịch vụ đúng hạn với bộ chứng từ hoàn hảo, ngay cả khi người nhập khẩu không muốn thanh toán. Đặc biệt với L/C được xác nhận của ngân hàng tại nước xuất khẩu tránh được rủi ro không được thanh toán khi tình hình tài chính, kinh tế, chính trị tại nước người nhập khẩu không được ổn định.
Nhận được sự tài trợ của ngân hàng thông qua triết khấu bộ chứng từ hàng hoá hoặc có thể xin vay trên cơ sở thế chấp bộ chứng từ.
* Đối với người nhập khẩu:
+ Ngân hàng đã giúp khách hàng kiểm tra một phần chất lượng, số lượng, phẩm chất hàng hoá thông qua bộ chứng từ, tiết kiệm thời gian và tránh được một phần rủi ro do người bán không thực hiện đúng cam kết theo hợp đồng.
+ Do có sự cam kết trả tiền của ngân hàng nên người xuất khẩu mở rộng thanh toán cho người nhập khẩu (L/C trả chậm) tạo điều cho người nhập khẩu chủ động hơn trong việc thanh toán nhất là đối với những hợp đồng có giá trị lớn.
+ Khi sử dụng phương thức này, tuỳ theo mối quan hệ giữa ngân hàng với nhà nhập khẩu mà được ngân hàng cấp tín dụng khi mở L/C.
* Đối với ngân hàng:
Ngân hàng được hưởng phí khi cung ứng dịch vụ này, ngoài ra còn mở rộng hoạt động tín dụng thông qua cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, huy động nguồn ngoại tệ lớn qua các khoản ký quỹ của khách hàng, qua nguồn ngoại tệ khách hàng thu được trong tài khoản tại ngân hàng.
Thực hiện TTQT đòi hỏi ngân hàng phải có cơ sở vật chất nhất định, đội ngũ nhân viên có trình độ, mạng lưới ngân hàng rộng khắp. Qua đó nâng cao uy tín, chất lượng ngân hàng.
Tuy nhiên phương thức tín dụng chứng từ không phải là một phương thức hoàn hảo, có nhược điểm sau:
+ Đối với người xuất khẩu: do tính chặt chẽ của bộ chứng từ và người nhập khẩu không có thiện chí với người xuất khẩu, họ có thể vì một lỗi nhỏ trên chứng từ có thể bị từ chối thanh toán mặc dù hàng hoá được giao theo đúng hợp đồng.
+ Đối với người nhập khẩu: Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ, khâu thanh toán tách rời hàng hoá nên người nhập khẩu vẫn có thể gặp rủi ro do giả mạo chứng từ hoặc chứng từ không đúng với hợp đồng hàng hoá.
+ Đối với ngân hàng: gặp rủi ro về tỷ giá; rủi ro do người nhập khẩu mất khẳ năng thanh toán; tính phức tạp và chính xác khi cung ứng dịch vụ.
Tuy nhiên phải khẳng định TTQT theo phương thức TDCT hiện nay được sử dụng nhiều nhất chiếm 80-90% trong các phương thức TTQT, nó thúc đẩy quá trình TTQT và hoạt động thương mại quốc tế.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TTQT theo phương thức TDCT .
1.4.1. Các nhân tố chủ quan
a/. Uy tín của ngân hàng thương mại trong nước và trên trường quốc tế
Hoạt động của một ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng có thể được mở rộng hay không là tuỳ thuộc rất nhiều vào uy tín của ngân hàng đó trong nước và trên thế giới. Điều này quyết định lượng khách hàng mà ngân hàng thu hút được.
Uy tín của ngân hàng được thể hiện ở các mặt: khả năng thanh toán, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ, thời gian thanh toán, khă năng đáp ứng các phương tiện thanh toán, sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ…
Một ngân hàng có uy tín tốt trên thị trường sẽ là điều kiện đầu tiên để khách hàng lựa chọn mua các sản phẩm dịch vụ.
b/. Mạng lưới ngân hàng đại lý của ngân hàng thương mại
Thâm nhập vào thị trường nước ngoài nhằm mở rộng qui mô hoạt động, phục vụ khách hàng tốt hơn, các ngân hàng có thể bằng một trong những cách: mở chi nhánh, mở văn phòng đại diện…Tuy vậy, cho đến khi khối lượng hoạt động ở một nước chưa đạt đến mức cần thiết, và nhiều nguyên nhân khác các ngân hàng không thể mở chi nhánh ở khắp mọi nơi trên thế giới, họ đã chọn phương thức thiết lập các quan hệ ngân hàng đại lý nhằm giải quyết các yêu cầu công việc ngay tại nước đó.
Quan hệ đại lý giữa hai ngân hàng là quan hệ dịch vụ. Trong mối quan hệ này, có thể hai bên cùng cung cấp cho nhau các dịch vụ cần thiết mang tính chất địa phương hoặc chỉ đơn thuần là ngân hàng này làm địa lý cho ngân hàng kia trong việc xử lý một giao dịch nào đó.
Với một ngân hàng đại lý rộng, các ngân NHTM có điều kiện để thực hiện các chức năng làm đại lý cho ngân hàng đối tác. Trên cơ sở đó, có thể tăng doanh thu nhờ việc thực hiện các dịch vụ uỷ thác của ngân hàng đại lý của mình, mở rộng nghiệp vụ TTQT như trở thành: ngân hàng thu hộ, ngân hàng thông báo, ngân hàng bảo lãnh, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng chuyển nhượng…Ngược lại, các NHTM có thể sử dụng mạng lưới ngân hàng đại lý đó để hoàn tất việc thực hiện các nghiệp vụ TTQT , giới thiệu thêm các sản phẩm dịch vụ của mình. Hơn thế nữa, với mối quan hệ đại lý tốt với một ngân hàng, ngân hàng đối tác có thể được ngân hàng bạn cung cấp một hạn mức tín dụng (Credit line) hay các dịch vụ đầu tư…Hạn mức tín dụng giúp cho ngân hàng không bị ứ đọng vốn ký quỹ trong trường hợp yêu cầu ngân hàng bạn xác nhận thư tín dụng.
Với một mạng lưới ngân hàng hạn chế, các NHTM rất khó có thể thực hiện được các nghiệp vụ TTQT của mình một cách thông suốt bởi vì các ngân hàng nước ngoài có thể từ chối thực hiện các giao dịch đối với ngân hàng không có quan hệ đại lý, hoặc có quan hệ đại lý không tốt. Chất lượng thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng nước ngoài uỷ thác cũng là một tiêu chuẩn đánh giá xếp hạng ngân hàng đại lý. Số lượng và mức độ uỷ thác thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng nước ngoài tuỳ thuộc rất lớn vào mức xếp hạng ngân hàng đại lý.
c/. Hoạt động tài trợ ngoại thương của ngân hàng
Để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào điều kiện đầu tiên bao giờ cũng là vốn. Đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động với khối lượng lớn, các mặt hàng đa dạng, thị trường quốc tế phức tạp tiềm ẩn nhiều rủi ro đòi hỏi phải có một quy mô vốn tương xứng. Trong khi đó thực lực về vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam còn thấp, bởi vậy nhu cầu được tài trợ về vốn từ ngân hàng là lớn. Ngân hàng phải có khả năng tư vấn, cung cấp các thông tin nhằm đưa đến việc ký kết các hợp đồng và thực hiện tài trợ cần thiết.
Tài trợ nhập khẩu:
Ngân hàng có thể cho người nhập khẩu vay với mục đích là thanh toán
tiền hàng cho người xuất khẩu. Khách hàng có thể lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cao cho lô hàng nhập khẩu về, lên kế hoạch tài chính xác định khả năng thanh toán, xác định khoản cần tài trợ. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức ngân hàng chấp nhận tài trợ. Trong trường hợp người nhập khẩu không thanh toán hoặc không tập trung đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ giao hàng, ngân hàng sẽ cho vay trên giá trị tiền hàng còn thiếu để thanh toán đúng hạn cho ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng cũng có thể cho vay kí quỹ khi khách hàng đề nghị ngân hàng phát hành thư tín dụng, xác nhận thư tín dụng. Khách hàng kí quỹ sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại ngân hàng và khoản tiền đó sẽ bị phong toả. Ký quỹ nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng trong quá trình thực hiện bảo lãnhcho khách hàng. Ký quỹ nhằm khẳng định khách hàng có năng lực nhất định về vốnvà rằng buộc khách hàng làm tròn nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Vì trong trường hợp rủi ro của thương vụ quá cao, ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ với giá trị lớn mà khả năng doanh nghiệpkhông đáp ứng nổi hoặc chỉ đáp ứng được một phần. điều này gây trở ngại cho doanh nghiệp vì kí quỹ là món tiền bị phong toả, khách hàng không được sử dụng, vốn lưu động của doanh nghiệp bị thu hẹp. Khi đó căn cứ trên uy tín của khách hàng, hiệu quả của thương vụ hoặc trên tài sản đảm bảo, ngân hàng có thể cho vay kí quỹ. Điều đó sẽ giả quyết được khó khăn về vốn lưu động cho khách hàng, tăng tính an toàn và mang lại hiệu qủ cao cho ngân hàng. Như vậy bằng các hình thức tài trợ nhập khẩu khác nhau, ngân hàng sẽ đáp ứng được nhu cầu tối đa cho khách hàng, dẫn đến mở rộng thanh toán quốc tế.
Tài trợ xuất khẩu:
Đây chính là các khoản ngân hàng cho người xuất khẩu vay với mục đích bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp để họ có khả năng thực hiện hợp đồng ngoại thương đã kí, liên tục sản xuất kinh doanh, không bị hụt vốn trong thời gian chờ tiền thanh toán. Ngân hàng có thể tài trợ cho người xuất khẩu trong giai đoạn chuẩn bị hàng xuất khẩu vì với những giá trị hợp đồng lớn, thời gian tạo thành phẩm dài người xuất khẩu thường không đủ vốn lưu động. Ngân hàng sẽ quyết định hạn mức tài trợ trên cơ sở các giấy tờ chứng minh mục đích vốn vốn tài trợ do người xuất khẩu xuất trình. Bên cạnh đó ngân hàng có thể chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo được ngươì xuất khẩu xuất trình. Ngân hàng có thể áp dụng hìnhd thức chiết khấu miễn truy đòi hoặc chiết khấu có truy đòi. Việc áp dụng các hạn mức tài trợ và hình thức chiết khấu khác nhau tạo điều kiện cho người xuất khẩu đảm bảo quyền lợi trong hoạt động ngoại
d/. ứng dụng Marketing
Bất cứ một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh đều muốn gắn kinh doanh của mình với thị trường. Bởi trong cơ chế thị trường chỉ có như vậy mới hy vọng tồn tại và phát triển được. Marketing trong hoạt động ngân hàng với chức năng nghiên cứu thị trường và phát triển đưa ra các loại sản phẩm mới cũng như hình thành cầu và phân phối sản phẩm của khách hàng sẽ là chiếc cầu nối các ngân hàng với thị trường. Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động Marketing là thu hút khách hàng và tạo mọi điều kiện kích thích khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
e/. Các nghiệp vụ ngân hàng khác có liên quan
Trong NHTM, các nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ cho nhau, như trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, ngoài cung cấp dịch vụ đó, ngân hàng còn có thể có thu nhập từ hoạt động tài trợ hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ,…
1.4.2. Các nhân tố khách quan
a/. Chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách ngoại thương nói riêng của một nước
Kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác trên thế giới, với các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế. Nội dung của lĩnh vực này rất rộng bao gồm hoạt động ngoại thương, dịch vụ quốc tế, đầu tư tài chính, chuyển giao công nghệ kỹ thuật…Do đó có thể coi kinh tế đối ngoại là chiếc cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới trong đó kinh tế ngoại thương là trung tâm.
Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động ngoại thương của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia đó. Nhiệm vụ của chính sách ngoại thương là điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực khác: như đầu tư quốc tế, TTQT , bảo hiểm…Đối với TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, việc phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại có một ý nghĩa to lớn. Việc phát triển của kinh tế đối ngoại đặc biệt là ngoại thương làm phát sinh nhiều nhu cầu thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ với các quốc gia khác. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các nghiệp vụ TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Hơn thế nữa, kinh tế ngoại thương phát triển sẽ yêu cầu nhiều loại hình dịch vụ TTQT trong đó có TTQT theo phương thức tín dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán đa dạng của nó.
b/. Môi trường kinh doanh
Hoạt động thanh toán quốc tế là hoạt động chụi nhiều ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội. Các doanh nghiệp có xu hướng tìm kiếm những thị trường có độ an toàn, đó là do hoạt động thương mại quốc tế là hoạt động phức tạp, chụi tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố cũng như tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, khi các yếu tố đó ổn định các doanh nghiệp thấy được quyền lợi của họ được đảm bảo, sẽ tạo niềm tin cho các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh tại nước đó, làm tăng nhu cầu thanh toán L/C, và ngược lại.
Bên cạnh đó hành lang pháp lý, văn bản hướng dẫn thanh toán quốc tế có phân định rõ ràng lợi ích nghĩa vụ hợp pháp của các bên tham gia xuất nhập khẩu sẽ tạo niềm tin cho cả người nhập khẩu và người xuất khẩu, khuyến khích thanh toán quốc tế phát triển.
c/. Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền nước này được biểu hiện bằng đơn vị đồng tiền nước khác.
Trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, có qui định đồng tiền nào dùng thanh toán và thời gian thanh toán. Vì thế, trong thời gian thanh toán, nếu tỷ giá thay đổi tăng hay đồng nội tệ giảm giá trị, khi đó người nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do phải mua ngoại tệ với giá cao và xu hướng là người nhập khẩu sẽ hạn chế mở L/C nhập nhằm giảm bớt chi phí do mua với giá cao, kết quả là L/C nhập khẩu giảm. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, đồng nội tệ tăng giá, nhu cầu mở L/C nhập khẩu tăng.
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố nhạy cảm. Sự biến động lên xuống của nó sẽ ảnh hưởng đến nhiều hoạt động trong nền kinh tế thế giới trong đó có hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng của ngân hàng.
Chương 2
Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ
tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
2.1. Cơ cấu điều hành và hoạt động kinh doanh của NHTM cổ phần Quân đội
2.1.1. Lịch sử hình thành
Theo quyết định số 194/QĐNH5 của thống đốc ngân hàng Nhà nước, ngày 4/11/1994 NHTM cổ phần Quân đội được thành lập với số vốn điều lệ ban đầu ít ỏi là 20 tỷ đồng (chủ yếu là vốn góp của các doanh nghiệp quân đội), trụ sở chính đặt tại 28A Điện Biên Phủ, Ba Đình, TP Hà Nội. Cho đến nay hơn 8 năm đi vào hoạt động NHTM cổ phần Quân đội đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thương trường.
Khởi đầu với vốn điều lệ 20 tỷ, sau tám năm vố điều lệ của ngân hàng đã tăng hơn 11 lần lên 230 tỷ, bình quân mỗi năm tăng 20-30 tỷ đồng. Số lượng nhân viên ngân hàng cũng tăng từ 14 người từ thời điểm thành lập ngân hàng đến nay đã hơn 200 người.
Do nguồn vốn phát triển mạnh, NHTM cổ phần Quân đội đã đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp, bảo đảm vốn trong thanh toán và đầu tư tín dụng. Tổng mức cho vay cuối năm 2000 là 1,319 tỷ đồng thì đến cuối năm 2002 đã là hơn 2 tỷ đồng. Vốn vay của ngân hàng là một phần quan trọng được dành để hỗ trợ cho các doanh nghiệp quân đội đang tham gia các chương trình lớn, trọng điểm của Nhà nước.
Trong hơn 8 năm qua, mạng lưới hoạt động của ngân hàng đã được mở rộng nhằm phục vụ lượng khách hàng ngày một gia tăng trong phạm vi cả nước. Tại thời điểm thành lập ngân hàng chỉ có một hội sở chính đặt tại 28A Điện Biên Phủ – Hà Nội. Hiện nay ngân hàng đã có một mạng lưới rộng gồm 4 chi nhánh : Hai chi nhánh đặt tại Hà Nội đó là chi nhánh Lý Nam Đế ( được chuyển thành từ phong giao dịch số 2 – Lý Nam Đế), chi nhánh Hoàng Quốc Việt; chi nhánh đặt tại Hải Phòng (thành lập năm 1998) và một chi nhánh trong TP Hồ Chí Minh (thành lập năm 1996). Không ngừng lại ở đó, ngân hàng đã đa dạng hoá các hoạt động của mình một cách tích cực hơn nhằm hoà nhập và phát triển trong giai đoạn mới. Bên cạnh thực hiện các chức năng truyền thống của ngân hàng, NHTM cổ phần Quân đội thành lập công ty chứng khoán Thăng Long hoạt động với tư cách là một công ty con của ngân hàng, đồng thời mở rộng sang lĩnh vực kinh doanh khách sạn (Khách sạn ASEAN liên kết với công ty cổ phầnASEAN). Quan hệ quốc tế của ngân hàng được mở rộng. Hiện nay, ngân hàng có quan hệ đại lý với 152 ngân hàng đại lý của 55 nước trên thế giới. Sự mở rộng mối quan hệ này giúp cho ngân hàng ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại cũng được ngân hàng quan tâm và từng bước thực hiện nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Là một NHTM cổ phần, cơ cấu tổ chức của ngân hàng quân đội được tổ chức theo mô hình của một công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp.
Đại hội cổ đông là cơ quan quản lý cao nhất của ngân hàng Quân đội. Đại hội cổ đông được triệu tập mỗi năm một lần trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Đại hội cổ đông quyết định các vấn đề như điều lệ ngân hàng, chủ trương, phương án hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như quyết định bộ máy tổ chức của ngân hàng.
Dưới đại hội cổ đông là hội đồng quản trị – cơ quan cao nhất của ngân hàng do Đại hội cổ đông bầu ra. Hội đồng quản trị họp thường kỳ 2 tháng một lần, có quyền nhân danh ngân hàng để quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích và quyền lợi của ngân hàng. HĐQT có quyền bổ nhiệm, đình chỉ và bãi nhiệm Tổng Giám Đốc ngân hàng quân đội. Tổng Giám Đốc là người điều hành và chụi trách nhiệm trước hội đồng cổ đông về mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày của ngân hàng.
Ngoài ra, ban kiểm soát giám sát hoạt động của HĐQT, đồng thời tư vấn giúp đỡ Tổng giám đốc trong quá trình điều hành công việc kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức
Ban kiểm soát
Đại hội cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban Giám đốc
C.N Hải Phòng
C.N Lý Nam Đế
C.N Hoàng Q.Việt
P. Giao dịch số 1
P. Giao dịch số 3
C.Ty chứng khoán Thăng Long
P. Ngân Quỹ
P. QHệ và TTQT
P. Kế toán
P. Tín dụng
Văn phòng
P. KS nội bộ
Phòng ĐT & PT
Phòng CNTT
P. Nguồn vốn và KD ngoại tệ
P. Kế hoạch tổng hợp
CN. TP HCM
P. Giao dịch Ba son
Mục tiêu của ngân hàng được xác định từ khi thành lập là đi theo mô hình ngân hàng đa năng, vì thế ngay từ ngày đầu ngân hàng đã có đủ các phòng nghiệp vụ và hành chính- tổ chức để đảm bảo hoạt động hiệu quả và an toàn.
2.1.3. Hoạt động kinh doanh của NHTM cổ phần Quân đội
a/. Hoạt động huy dộng vốn
Năm 2002, Ngân hàng Quân đội đã có mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn chung trên cơ sở tăng cường tăng cường huy động vốn trung và dài hạn. Để thực hiện mục tiêu, ngân hàng đã dạng các hình thức huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng. Một hướng nữa mà ngân hàng đang đẩy mạnh nhằm huy động hơn nữa nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế là nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ ngày một tốt hơn cho khách hàng.
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Vốn huy động
2.211,8
83%
2.548
83,98%
2.834
84,61%
Vốn vay TCTD khác
0
0
0
0
Vốn và quỹ
195
7,4%
219
7,23%
235,2
7,02%
Vốn điều lệ
171
209
221
Các quĩ
24
10
14,2
Vốn khác
226,6
9,6%
267
8.79%
280
8,37%
Tổng nguồn vốn
2663,4
100%
3.034
100%
3349,2
100%
Trong năm 2002, tổng nguồn vốn của NHTM cổ phần Quân đội tăng trưởng liên tục và đạt mức 3349,2 tỷ tại thời điểm 31/12/2002 tăng thêm 10,3% so với năm 2001. Tính riêng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng từ 2.211,8 tỷ năm 2000 lên 2548 tỷ năm 2001 đạt mức tăng trưởng 15,2%, năm 2002 lên 2.834 tỷ đạt mức tăng trưởng 11,22%. Cùng với nó là vốn điều lệ cũng tăng trưởng đáng kể, tính đến ngày 31/12/2001, vốn điều lệ của ngân hàng đã đạt 209 tỷ đồng, và năm 2002 là 221tỷ đồng, cơ cấu nguồn vốn cũng thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ trọng của nguồn vốn huy động mà nguyên nhân của nó là do ngân hàng tăng cường huy động vốn nhằm đáp ứng một số dự án lớn ngân hàng tham gia tài trợ.
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Vốn huy động
2211.8
100%
2548
100%
2.834
100%
Tiền gửi của
của khách hàng
1850,3
83,7%
1979
77,71%
2274,9
80,27%
Tiền gửi của các tổ
chức tín dụng khác
361,5
16,3%
568
22,29%
559,1
19,73%
Xét riêng cơ cấu nguồn vốn huy động, ta thấy tỷ trọng vốn vay từ các tổ chức tín dụng có xu hướng tăng đều từ năm 2000 do ngân hàng tích cực mở rộng quan hệ trên thị trường liên ngân hàng. Tổng nguồn vốn huy động từ các khách hàng cũng như từ các tổ chức tín dụng khác đều có sự tăng trưởng qua các năm.
b/. Hoạt động sử dụng vốn
Đây là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng. Phản ánh đặc thù của NHTM, hoạt động cho vay chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng quân đội.
Bảng 3 : Cơ cấu sử dụng vốn
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
31/12/2002
Tiền dự trữ
1.208
1.197
1.252
Tiền mặt
21,5
23
26
Tiền gửi tại NHNN
264
169
193
Tiền gửi các TCTD khác
923
1.005
1033
Cho vay các tổ chức kinh tế
1.320
1.743
1.988,5
Đầu tư
22,5
23
23,5
Đầu tư chứng khoán ngắn hạn
16
14,9
15,2
hùn vốn, mua cổ phần
6,5
8
8,3
Tài sản cố định
36,3
36.9
37,1
Tài sản khác
46
34
43
Tổng
2.633
3.034
3.344
Số dư tiền mặt và tiền gửi tại các ngân hàng khác năm 2000 là 1208 tỷ đồng chiếm 45,88% tổng sử dụng vốn, năm 2001 giảm xuống còn 39,45% với mức dự trữ là 1197 tỷ đồng, năm 2002 giảm xuống còn 37,44% với mức dự trữ là 1252 tỷ đồng. Tuy nhiên, đây vẫn là tỷ lệ dự trữ lớn hơn mức bình thường. Tiền dự trữ là một bộ phận sinh lời thấp (0,1% tháng), thậm chí còn không sinh lời trong các tài sản ngân hàng. Việc duy trì một tỷ lệ dự trữ cao giúp cho ngân hàng hoạt động an toàn, đáp ứng nhanh chóng và kịp thời được các nhu cầu cung ứng vốn, vì thế ngân hàng cần cân nhắc giữa lợi ích và những cơ hôi bị bỏ qua do ngân hàng duy trì tỷ lệ dự trữ ngân hàng áp dụng.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy một trong những nguyên nhân tỷ lệ dự trữ cao của ngân hàng chính là từ tỷ lệ cho vay thấp mà bắt nguồn từ tình trạng ứ đọng vốn của ngân hàng quân đội cũng như trong cả hệ thống ngân hàng trong thời gian qua. Năm 1998, 1999 là hai năm mà người ta nói nhiều nhất về tình trạng các NHTM không cho vay được trong khi vốn huy động vẫn tiếp tục tăng. Điều này xuất phát từ tình trạng nền kinh tế cũng như một số nguyên nhân chủ quan của hệ thống ngân hàng.
c/. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là một nghiệp vụ chính, ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của ngân hàng. Xuất phát từ chức năng của một NHTM, tín dụng đóng một vai trò hết sức to lớn và luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của ngân hàng Quân đội.
Là một NHTM, hoạt động tín dụng của ngân hàng Quân đội bị chi phối bởi luật các tổ chức tín dụng và các văn bản liên quan đến tổ chức tín dụng nói chung. Ngoài ra, còn các văn bản trực tiếp liên quan tới hoạt động tín dụng như văn bản 283, 284 về nghiệp vụ tín dụng và bảo lãnh, văn bản 154 về đồng tài trợ.
Các loại tín dụng ngân hàng Quân đội cung cấp gồm: cho vay ngắn, trung và dài hạn. Các loại hình cấp tín dụng ngắn hạn bao gồm: cho vay ngắn hạn (chủ yếu là cho vay vốn lưu động), chiết khấu, cầm cố, thế chấp. Đối với tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thực hiện cho vay các dự án thông thường đồng thời phối hợp với các ngân hàng khác thực hiện cho vay đối với các dự án đồng tài trợ.
Đối tượng cấp tín dụng là mọi tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, với đặc thù là một ngân hàng quân đội và được thành lập xuất phát từ nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp quân đội nên phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp quân đội hoạt động kinh tế. Một số khách hàng truyền thống được ngân hàng cấp tín dụng là Công ty 28, Xí nghiệp liên hiệp BaSon, công ty Lũng Lô, công ty hoá chất 26, …
Bảng 4: Cơ cấu cho vay
( Theo thành phần kinh tế)
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Tổng dư nợ cho vay
1319
100%
1743
100%
1988,5
Cho vay doanh
nghiệp quốc doanh
1212,5
92%
1597
91,65%
1791,8
90,11%
Cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh
106,5
8%
145,6
8,25%
196,7
9,89%
Nhìn vào biến động cơ cấu cho vay theo các thành phần kinh tế, ta thấy xu hướng giảm cho vay các doanh nghiệp quốc doanh, tuy nhiên đây vẫn là đối tượng phục vụ chính và quan trọng nhất của ngân hàng, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp quân đội (chiếm khoảng 75%). Mục tiêu lâu dài của ngân hàng là đa dạng hoá các đối tượng khách hàng.
Hiện nay, xét trên góc độ toàn ngân hàng, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ vẫn là chủ yếu, tuy nhiên tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn ngày càng có xu hướng tăng lên. Năm 2000 là 34% thì đến năm 2001 là 41,5% và đến năm 2002 là 43,5%
Bảng 5: Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chi tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Tổng dư nợ tín dụng
1.319
100%
1.743
100%
1988,5
100%
Tín dụng ngắn hạn
871
66%
1.019
68,46%
1123,6
56,5%
Tín dụng trung và dài hạn
448
34%
724
41,54%
864,9
43,5%
Năm 2000 là năm đánh dấu bước đột phá về tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Nguyên nhân của bước đột phá này là do năm 2000 ngân hàng đã thực hiện 9 dự án đồng tài trợ trung và dài hạn, góp phần đáng kể trong trưởng tín dụng của ngân hàng. Nó là một trong những đảm bảo hàng đầu cho sự an toàn về khả năng thanh toán của ngân hàng, tính hiệu quả trong sử dụng vốn cũng như là yếu tố phản ánh quan hệ của ngân hàng với khách hàng ngày càng phát triển.
Bên cạnh yếu tố số lượng, chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng khả quan. Tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng luôn đạt dưới mức 2%. Năm 2000 là 1,35%, năm 2001 là 0,8% và năm 2002 là 0,72%. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng NHTM cổ phần Quân đội đã tích cực áp dụng nhiều biện pháp thu dần nợ quá hạn theo qui định của ngân hàng nhà nước, thực hiện thu được hàng tỷ đồng nợ khó đòi.
Hiện nay, tuy thiếu vốn trung và dài hạn nhưng ngân hàng vẫn nỗ lực tập trung cho mục tiêu mở rộng tín dụng đầu tư. Bên cạnh củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống, ngân hàng còn tìm kiếm khách hàng trong lĩnh vực mới không chỉ bằng chính sách mà còn bằng các hình thức đầu tư hấp dẫn như cho vay theo hạn mức, cho vay đồng tài trợ…
Một nghiệp vụ không kém phần quan trọng của ngân hàng là hoạt động bảo lãnh. Đây chính là một trong những thế mạnh trong các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng và cũng là thế mạnh của ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần.
Các hình thức bảo lãnh mà ngân hàng đang thực hiện: gồm bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng, bảo lãnh bảo hành và bảo lãnh thanh toán.
Ngoài việc thực hiện bảo lãnh trong nước (bảo lãnh cho các doanh nghiệp trong nước trong các giao dịch với nước ngoài), hiện nay phòng còn thực hiện bảo lãnh ở phạm vi nước ngoài (bảo lãnh cho bên nước ngoài). Hình thức này được áp dụng nhiều đối với bảo lãnh dự thầu, khi chủ đầu tư trong nước đòi hỏi nhà thầu nước ngoài phải được bảo lãnh.
d/. Thanh toán quốc tế
Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế ngân hàng hiện nay đang thực hiện là: Thư tín dụng ( L/C), Nhờ thu, chuyển tiền bằng điện, chuyển tiền kiều hối. Thông qua việc cung cáp các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã đem lại đáng kể nguồn thu nhập cho ngân hàng.
Bảng 6: Kết quả thu phí dịch vụ TTQT tại NHTM cổ phần Quân đội
Đơn vị : triệu đồng
._.an toàn và đúng thẩm quyền.
- Nhiệm vụ kế hoạch hàng đầu của phòng trong năm 2003 là thanh toán khoảng 400.00,00 USD L/c trả chậm và giải quyết dứt điểm L/C số: 0049/HN và L/C 226 cho nước ngoài giữ uy tín trong quan hệ thanh toán quốc tế.
- Xây đựng kế hoạch tiếp thị cụ thể giữ vững số khách hàng hiện có và mở rộng thêm một số doanh nghiệp mới. Một mặt chú trọng vào các đơn vị lớn quân đội, mặt khác tranh thủ tiếp cận với các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Triển khai việc xây dựng qui trình thanh toán XNK, qui chế mở L/C. Hướng dẫn đào tạo cho các nhân viên chi nhánh nâng cao trình độ nghiệp vụ trong thanh toán quốc tế.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTM cổ phần Quân đội
Phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT có tầm quan trọng với NHTMCP Quân Đội, nó góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động TTQT. Điều đó không những nâng cao hơn nữa uy tín của NHTMCP Quân đội trong khu vực và trên thế giới mà còn tạo ưu thế cho ngân hàng TMCP Quân đội giành thắng lợi đối với hệ thống NHTM trong nước.
Trong điều kiện thị trường bị chia sẻ và chịu cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp quốc doanh, NHTM cổ phần khác, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, sản phẩm hiện đại, có trình độ quản lý tốt, có sức mạnh về vốn, để giữ vững được thị phần thanh toán quốc tế. NHTM cổ phần Quân Đội phải không ngừng phát triển hoạt độngTTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức TDCT nói riêng.
Trong chiến lược phát triển của mình, NHTMCP Quân Đội luôn đặt ra yêu cầu xây dựng một ngân hàng hiện đại hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó phát triển hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức TDCT nói riêng là nhiệm vụ không thể tách rời của ngân hàng bên cạnh việc phát triển các nghiệp vụ khác như cho vay, huy động vốn, công nghệ…
Qua thời gian tìm hiểu và đánh giá thực trạng hoạt động TTQT đặc biệt là TTQT theo phương thức TDCT tại NHTMCP Quân Đội, bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động thanh toán của ngân hàng không tránh khỏi một số hạn chế. Để phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT cần có những biện pháp khắc phục.
3.2.1. Đa dạng hoá các loại hình L/C sử dụng
Hiện nay việc sử dụng L/C trong thanh toán quốc tế tại NHTM cổ phần Quân đội vẫn còn phải thanh toán loại Confirmed irrevocable L/C, tức là L/C có xác nhận của ngân hàng thứ ba. Do vậy việc đa dạng hoá các loại hình L/C là một trong những giải pháp cho việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT. Bởi vì khi cung ứng phong phú các loại sản phẩm dịch vụ khách hàng có thể lựa chọn và sử dụng các loại sản phẩm dịch vụ phù hợp với mình, thu hút được sự chú ý của khách hàng tiềm ẩn trên thị trường. Loại hình L/C được mở rộng sử dụng phải nhằm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, ngân hàng phải tiến hành tổ chức nghiên cứu thị trường, quan tâm sâu sắc đến nhu cầu đó để đưa ra những sản phẩm có ý nghĩa thực tiễn cao trong kinh doanh.
Các loại hình L/C được mở rộng áp dụng tất nhiên cần phải qua nghiên cứu tìm hiểu để phù hợp với thực tiễn hoạt động của cả ngân hàng và khách hàng. Không nên áp dụng những loại hình quá phức tạp mà với những hạn chế về chuyên môn, tài chính và công nghệ ngân hàng nên không có tính khả thi. Một số loại NHTM cổ phần Quân đội có thể nghiên cứu áp dụng trong thời gian tới là:
* L/C đối ứng
Loại này áp dụng cho các khách hàng nhập nguyên liệu từ nước ngoài về gia công sau đó lại xuất khẩu sản phẩm đó sang chính người cung cấp nguyên vật liệu. Vì đây là hình thức bảo đảm nhất cho các đơn vị gia công. Với loại hình này họ có trách nhiệm bảo đảm thanh toán cho người xuất khẩu những thành phẩm được sản xuất từ nguyên liệu đó. Rõ ràng quyền lợi của người gia công được bảo đảm hơn khi sử dụng 2 L/C không huỷ ngang riêng biệt cho mỗi giao dịch. Vì có thể sau khi nhập, thanh toán giá trị nguyên vất liệu nhập và sản xuất xong thì đối tác từ chối chấp nhận nhập lại những sản phẩm đó, người gia công sẽ bị tổn thất lớn vì do khó bán được sản phẩm có tính đặc thù.
* L/C tuần hoàn
Loại này áp dụng cho những đơn vị giao dịch thường xuyên định kỳ với khối lượng lớn cho cùng một đối tác. Sử dụng L/C tuần hoàn sẽ tiết kiệm được chi phí và thời gian đi lại cho khách hàng, giảm bớt những thủ tục phải tiến hành khi mở L/C đồng thời giữ được khách hàng giao dịch thường xuyên mà không cần gỉm phí dịch vụ để lôi kéo.
* L/C có thể chuyển nhượng hoặc L/C giáp lưng
Hai loại này áp dụng cho những đơn vị có nhu cầu xuất nhập khẩu qua trung gian.
Với hai loại này trách nhiệm thanh toán của người nhập khẩu không có gì thay đổi, song người nhập khẩu có điều kiện thuận lợi thông qua ngườì trung gian để thu gom hàng của mình cần. Đây là tính ưu việt hơn so với các loại L/C khác. Tuy nhiên với L/C có thể chuyển nhượng người trung gian có lợi hơn so với loại L/C giáp lưng, nên tuỳ thuộc vào mức độ tin cậy của người trung gian đến đâu mà người nhập khẩu có thể sử dụng loại hình L/C nào cho thích hợp.
Rõ ràng việc đa dạng hoá các loại hình L/C là rất cần thiết trong quá trình phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế tại NHTM cổ phần Quân đội. Tuy nhiên bên cạnh đó ngân hàng cũng cần hạn chế sử dụng một số loại L/C bất lợi cho mình như. Ví dụ như hiện nay một số L/C mở tại ngân hàng yêu cầu phải có xác nhận. Việc này phải trả phí xác nhận rất cao và quan trọng hơn là nó chứng tỏ phía đối tác của khách hàng không tin tưởng vào khả năng thanh toán của NHTM cổ phần Quân đội nghĩa là uy tín của ngân hàng trong mắt họ chưa cao. Do đó ngân hàng nên gợi ý với khách hàng từ chối mở L/C xác nhận và thuyết phục bạn hàng về khả năng thanh toán cũng như uy tín của ngân hàng. Làm được như vậy sẽ tạo được sự tin tưởng của các doanh nghiệp nước ngoài và khi mở L/C tại ngân hàng phục vụ mình họ sẽ chọn NHTM cổ phần Quân đội là ngân hàng thông báo. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc củng cố uy tín của NHTM cổ phần Quân đội trên thị trường quốc tế và tạo ra tiền đề cho quá trình phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT .
3.2.2 Thực hiện các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán L/C
Trong các phương thức TTQT, phương thức TDCT là phương thức được sử dụng phổ biến, rộng rãi nhất hiện nay, do có tính ưu điểm nhiêù hơn so với các phương thức thanh toán khác. Tuy nhiên nó không phải phương thức thanh toán hoàn hảo, có thể tránh được rủi ro cho các bên. Để phát hoạt động TTQT theo phương thức TDCT, ngân hàng cần nghiên cứu và áp dụng những biện pháp để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Những rủi ro ngân hàng thường gặp như:
+ Với vai trò là ngân hàng phát hành, ngân hành gặp phải những rủi ro về tỷ giá, rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, rủi ro do nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo giả mạo chứng từ.
+ Với vai trò là ngân hành thông báo, ngân hàng gặp phải những rủi ro có thể xảy ra do thiển cẩn trong quá trình kiểm tra, thông báo hay sửa đổi L/C.
Để hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro trên mà ngân hàng có thể gặp phải, ngân hàng có thể áp dụng một số biện pháp sau:
- Định mức kỹ quỹ hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng tránh rủi ro về tỷ giá khi tỷ giá tăng mạnh. Tuy nhiên ngân hàng phải cân nhắc trong việc qui định ký quỹ, vì giữa rủi ro và an toàn có sự đánh đổi nhau. Khi ngân hàng qui định mức ký quĩ cao, có thể lượng khách hàng sẽ giảm (do khách hàng chuyển sang ngân hàng khác giao dịch). Do vậy, việc ký quỹ phải được căn cứ hay phụ thuộc vào uy tín, khả năng tài chính của khách hàng, mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng.
- Sử dụng các nghiệp vụ ngân hàng nhằm phòng ngừa rủi ro tỷ giá giữa mua bán kỳ hạn, giao dịch tương lai. Nó không những hạn chế rủi ro mà còn đem lại thu nhập cho ngân hàng thông qua mua bán ngoại tệ.
- Hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng lập bộ chứng từ phù hợp với quy định, lựa chọn loại hình L/C sử dụng phù hợp tránh những rủi ro có thể xảy ra về qui trình nghiệp vụ kỹ thuật.
- Thông qua mạng lưới ngân hàng đại lý của NHTMCP Quân Đội để thảm định khả năng tài chính của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, khả năng giao hàng của của nhà xuất khẩu, lịch sử và tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài của khách hàng cho họ trong quá trình kí kết hợp đồng ngoại thương. Tuy nhiên nó không tỏ ra hữu hiệu vì bản chất của L/C là độc lập với hợp đồng ngoại thương và hàng hoá, mà khả năng nắm bắt chính xác các thông tin thị trường luôn luôn thay đổi đối với cán bộ ngân hàng còn có hạn.
3.2.3. Mở rộng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu theo phương thức TDCT
Để mở rộng hoạt động tài trợ xuất khẩu, trước tiên NHTMCP Quân Đội phải huy động được nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu về vốn cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Muốn vậy, ngân hàng phải xây dựng được chiến lược huy động vốn như:
- Xây dựng chiến lược khách hàng thực hiện đa dạng hoá dịch vụ huy động vốn. Xây dựng chiến lược khách hàng ở đây là ngân hàng cần phân loại đối tượng khách hàng để có chính sách huy động phù hợp.
+ Đối với khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh XNK. Dựa vào tính chất giao dịch của khách hàng, ngân hàng có thể huy động nguồn ngoại tệ với chi phí rẻ bởi vì nhiều doanh nghiệp gửi vào tài khoản tại ngân hàng để giao dịch, ngân hàng không phải trả lãi hoặc nếu có thì với lãi suất thấp, do tính nhàn rỗi trong khâu thanh toán mà ngân hàng có nguồn ngoại tệ từ khách hàng này.
+ Đối với khách hàng là tầng lớp cư : họ gửi ngoại tệ vào ngân hàng với mục đích là sinh lời an toàn và tin tưởng vaò sự đảm bảo giữ kín thông tin về thu nhập của mình. Tuy nhiên để thu hút được lượng khách hàng này ngày một gia tăng, các công cụ huy động ngân hàng đưa ra cần phải có thêm những điều kiện nghiêm ngặt khác: Như với các công cụ trung và dài hạn ngoài bảo toàn được giá trị vốn gốc tiền gửi (không bị ảnh hưởnghay mất giá trị do trượt giá làm giảm sức mua của đồng tiền ) mà còn mang lại khả năng thu nhập xuống với số vốn, thời gian gửi và mức độ rủi ro của môi trường tài chính tiền tệ.
Với các công cụ ngắn hạn, bên cạnh mục đích sinh lời, khách hàng còn thêm tính linh hoạt, khả dung cao, nó cho phép khách hàng có thể rút vốn thuận lợi dễ dàng mà không mất thêm chi phí nào.
Ngoài ra NHTMCP Quân Đội cần đưa thêm đặc tính chuyển nhượng được giữa các cá nhân vào một số công cụ huy động vốn và dài hạn của chính phủ, của các tổ chức tài chính, tín dụng khác tạo cho thói quen mua bán, cất giữ và chuyển đổi góp phần thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán. Đồng thời ngân hàng nên giảm bớt một số thủ tục gửi tiết kiệm, thay vì gửi tiết kiệm bằng sổ, NHTMCP Quân Đội đưa vào hình thức tài khoản tiền gửi tiết kiệm, Với hình thức này sẽ tạo thuận lợi việc chi trả được nhanh chóng, thuận lợi và an toàn.
+ Đối với khách hàng là người nước ngoài và Việt kiều: NHTMCP Quân Đội cần có chính sách thu hút nguồn vốn ngoại tệ từ đối tượng khách hàng này, vì đây là đối tượng khách hàng ngày một gia tăng, không những thế mà còn đối với tất cả các NHTM. Hiện nay, đối tượng khách hàng này chưa thực sự tin tưởng vào thói quen giao dịch với các NHTM Việt Nam do thủ tục rườm rà, chưa nhanh chóng và thuận tiện, phí thu cao. Chính vì thế để có hiệu quả tốt, NHTMCP Quân Đội tích cực tăng cường quảng cáo, hướng dẫn khách hàng dịch sử dụng dịch vụ một cách phù hợp, qui định thu phí phải hợp lý và áp dụng tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ phù hợp.
- Xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi. Thông qua nghiệp vụ này, NHTMCP Quân Đội đã tạo thêm sự tin tưởng cho khách hàng khi khách hàng gửi tiền. Mặt NHTMCP Quân Đội huy động được vốn ổn và không phá sản do người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt.
Việc bảo hiểm tiền gửi tiền cho người gửi tiền ở ngân trước mắt chỉ áp dụng cho những khoản tiền gửi có số dư tối thiểu từ 10.000.000VND hoặc tương đương trở lên và bảo hiểm bằng hai loại:
Loại thứ nhất: Bảo hiểm rủi ro khi NHTM mất khả năng thanh toán.
Loại thứ hai: Bảo hiểm giá trị của tiền gửi do mất giá của đổng tiền.
- Tích cực tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, chuẩn bị điều kiện tham gia thanh toán hối đoái quốc tế thực hiện kinh doanh và bảo toàn vốn ngoại tệ.
ã Trong hoạt động TTQT, không phải lúc nào người nhập khẩu cũng đủ khả năng tài chính để sẵn sàng thanh toán và không phải lúc nào người xuất khẩu cũng đợi đến hạn thanh toán mới lấy tiền. Do những đặc điểm trên ngân hàng luôn là người bạn đáng tin cậy đối với các doanh nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ để thoả mãn các nhu cầu hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong TTQT, họ có thể nhận được các khoản tín dụng tài trợ dưới nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức tài trợ càng đa dạng càng thuận tiện, càng đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng thì càng thu được nhiều khách hàng, từ đó góp phần phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.
- Tài trợ nhập khẩu:
Bên cạnh việc cấp tín dụng dưới hình thức L/C, cho vay ký quỹ, cho vay bắt buộc khi đến hạn trả tiền khách hàng không có khả năng thanh toán, chi nhánh có thể áp dụng một số biện pháp tài trợ nhập khẩu như:
+ Cho khách hàng xin vay mở L/c thế chấp ngay bằng chính lô hàng sắp nhập về.
+ Cho vay để thanh toán tiền đặt cọc cho phía nước ngoài
+ Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu trong thời gian nhận hàng về cho đến khi tiêu thụ. Tuy nhiên, trong hình thức tài trợ này rủi ro xảy ra có thể nhiều, ngân hàng cần xem xét đành giá kỹ bởi vì khả năng tiêu thụ của mỗi doanh nghiệp không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi. Với hình thức tài trợ này, ngân hàng có hể đòi hỏi các khoản thế chấp như: chứng từ về quyền sở hữu hàng hoá, vận đơn đường biển, hoá đơn kiêm phiếu nhận hàng, biên lai chứng nhận gửi hàng …hay còn gọi là các giấy tờ theo lệnh đều có thể dùng làm thế chấp. Tuy nhiên, các chứng từ này phải được lập dưới dạng có thể chuyển nhượng được.
+ Ngoài ra, một trong những khó khăn mà các doanh nghiệp nhập khẩu thường gặp phải đó là thanh toán thuế VAT, vì ngay sau khi nhận được hàng hoá ở cảng thì phải nộp thuế. Trước khó khăn đó, ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh cho khách hàng.
- Tài trợ xuất khẩu:
Ngân hàng có thể tài trợ xuất khẩu dưới hình thức chiết khấu chứng từ khi nhà xuất khẩu có nhu cầu dưới các hình thức:
+ Chiết khấu miễn truy đòi: ở đây ngân hàng mua đứt bộ chứng từ và chụi rủi ro trong việc đòi tiền nước ngoài
+ Chiết khấu có truy đòi: ở đây ngân hàng thực hiện chiết khấu chứng từ, nếu nước ngoài từ chối thanh toán chứng từ, thì ngân hàng có quyền đòi lại khách hàng.
3.2.4. Thực hiện chính sách khách hàng phù hợp
Thực hiện chính sách khách hàng phù hợp được coi là giải pháp tạo ra sự hấp dẫn đối với khách hàng, lôi kéo họ đến với ngân hàng, tạo ra mối quan hệ lâu dài và bền vững. Việc ứng dụng Marketing vào thực tiễn này sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lớn, nhu cầu ngoại tệ nhiều, chi nhánh luôn gặp phải khó khăn khi cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Công thương. Tuy nhiên, không vì thế mà ngân hàng không có những chính sách nhằm thu hút đối tượng khách hàng này trong điều kiện có thể. Hiện nay đối tượng khách hàng của ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội chủ yếu là các doanh nghiệp quân đội. Trong điều kiện khả năng có hạn về vốn ngoại tệ, ngân hàng nên có các chính sách hướng về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mới được thành lập đi vào hoạt động, các doanh nghiệp thành viên của các tổng công ty lớn đặc biệt các tổng công ty ngân hàng đã có quan hệ từ trước. Số lượng những công ty này chiếm phần lớn trong các doanh nghiệp Việt nam nên tuy giá trị các giao dịch không lớn, phí dịch vụ sẽ thu được nhiều khi số lượng các giao dịch tăng lên. Bên cạnh đó khi việc cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế được tốt, ngân hàng có điều kiện giới thiệu cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ có liên quan như tín dụng, chuyển tiền…nhằm tăng lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng có thể đưa ra các hình thức ưu đãi như:
- Ưu đãi về số lượng, phí dịch vụ thấp và giá mua ngoại tệ khi người nhập khẩu cần mua và khi ngoại khan tệ
- Ưu đãi về lãi suất tiền gửi đối với những khoản ký quỹ có thời hạn dài.
- Ưu đãi về tỷ lệ ký quỹ đối với những khách hàng có khả ngăng tài chính và khách hàng truyền thống.
- Ưu đãi về thế chấp tài sản khi vay vốn.
Đi kèm với các sản phẩm ngân hàng là yếu tố giá. Thực ra giá của sản phẩm ngân hàng (lãi tiền gửi, lãi cho vay, phí dịch vụ…) là bộ phận được qui định chặt chẽ và ít có chênh lện lớn giữa các ngân hàng. Vì thế ngân hàng cần tham khảo biểu phí của các ngân hàng thương mại khác để áp dụng mức phí thích hợp cho khách hàng. Bên cạnh đó là thái đọ phục vụ nhiệt tình, hướng dẫn tỷ mỷ, những thông tin tư vấn cần thiết về hoạt động xuất nhập khẩu của các thanh toán viên. Những thông tin tư vấn về tình hình thị trường tài chính, xu hướng phát triển của thị trường, xu hướng biến động của tỷ giá giúp khách hàng hoạt động có hiệu quả, tránh rủi ro xảy ra từ phía khách hàng, tạo hình ảnh tốt đẹp trong lòng khách hàng.
- Tổ chức hội nghị khách hàng để giới thiệu những dịch vụ mới, thu nhận ý kiến đóng góp từ khách hàng, cung cấp hình thức khuyến mại cho các đơn vị có giao dịch thường xuyên, sòng phẳng tại ngân hàng, tìm kiếm những khách hàng có tiềm năng. Đối với những khách hàng mới, ngân hàng không nên đặt nặng phí giao dịch mà cần có những ưu đãi để họ tin tưởng, có ấn tượng ban đầu tốt về hình ảnh ngân hàng.
Thực hiện chính sách khách hàng, ngân hàng nên thường xuyên phải đánh giá để đưa ra chính sách phù hợp với từng giai đoạn nhằm thu hút được nhiều khách hàng đến tham gia giao dịch tại ngân hàng, sẽ góp phần phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
3.2.5. Đẩy mạnh công nghệ tin học, hiện đại hoá hoạt động ngân hàng
Công nghệ tin học có thể được coi là chìa khoá dẫn đến thành công của hoạt động ngân hàng, nhất là trong hoạt động TTQT. Việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không thể tách khỏi công nghệ tin học. Trong một kỉ nguyên tin học như hiện nay, để ngân hàng TMCP Quân đội phát triển hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ song song với các nghiệp vụ khác của ngân hàng thì cần thiết phải đầu tư cho việc phát triển tin học. Trước hết, NHTMCP Quân đội phải củng cố và tăng cường cơ sở hạ tầng của tin học ngân hàng bao gồm các trâng thiết bị hiện đại, đồng bộ trong cùng một hệ thống, hiện đại hoá các phần mền ứng dụng và đào tạo cán bộ thích ứng với công nghệ mới. Trong tương lai song song với công nghệ tin học sẽ là việc tự động hoá các quầy giao dịch, phòng giao dịch, tạo thuận lợi và giảm thời gian cho cả khách hàng và ngân hàng. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không chỉ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, mở ra nhiều dịch vụ mới mà còn giảm chi phí lao động, tăng sức cạnh tranh và giảm rủi ro cho ngân hàng. Việc hiện đại hoá hoạt động ngân hàng cũng là cơ sở, điều kiện cho NHTMCP quân đội hoà nhập với ngân hàng quốc tế.
3.2.6. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Con người luôn là nhân tố có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển và thành công của xã hội. Đặc biệt trong hoạt động ngân hàng, cán bộ ngân hàng đóng góp lên sự thành công chính của ngân hàng. Vì thế để phát huy hết nguồn tài sản vô cùng quý giá này, NHTMCP quân đội cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện. Cán bộ ngân hàng cần có một lượng kiến thức đầy đủ, không những về nghiệp vụ ngân hàng mà còn cả ngoại ngữ, các nghiệp vụ ngoại thương, về luật pháp và tập quán quốc tế, nhất là hoạt động thanh toán quốc tế, từ đó có khả năng xử lý các tình huống phát sinh bất ngờ trong các quy trình nghiệp vụ cũng như tư vấn giúp khách hàng trong việc lựa chọn, sử dụng các hình thức trong thanh toán quốc tế để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất trong quá trình ký kết và thực hiện các hợp đồng ngoại thương. Để có được đội ngũ cán bộ đủ mạnh, ngân hàng TMCP Quân đội cần xây dựng chiến lược phát triển con người tương ứng với tầm vóc và quy mô hoạt động của mình:
+ Tiến hành thống kê trình độ cán bộ để phân loại đối tượng đào tạo
+ Thăm dò các nhu cầu về các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết phải đào tạo trước mắt cũng như lâu dài
+ Thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo về chủ đề hoạt động ngân hàng, tạo điều kiện cho cán bộ trao đổi kinh nghiệm, trau dồi nâng cao kiến thức và chuyên môn.
+ Khi tuyển chọn cán bộ cần lưu ý cả về mặt trình độ lẫn tư cách đạo đức. Bố trí cán bộ có thâm niên kinh nghiệm kèm cặp, chuyển giao kinh nghiệm cho thế hệ tiếp theo.
+ Kết hợp với các dự án tài trợ của nước ngoài về việc đào tạo nghiệp vụ
+ Có chính sách đãi ngộ thích hợp với những cán bộ có năng lực và có tâm huyết.
+ Sắp xếp phân công đúng người, đúng việc để phát huy sức mạnh của từng người và tập thể
3.2.7. Thiết lập rộng rãi các chi nhánh và ngân hàng đại lý
Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng rất phức tạp và đa dạng, đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngân hàng, đại lý, chi nhánh ngân hàng. Như trong thanh toán L/C có sự tham gia của các ngân hàng như: ngân hàng mở, ngân hàng thông báo, ngoài ra còn có thể có ngân hàng xác nhận nếu người bán yêu cầu. Vì thế việc liên lạc khá tốn kém và không được thuận tiện lắm nếu như không cùng hệ thống ngân hàng nhiều khi ảnh hưởng tới chất lượng thanh toán L/C nhất là đối với những ngân hàng ít hợp tác hoặc hợp tác lần đầu. Nhưng nếu ngân hàng có các chi nhánh hay đại lý của mình sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn. Ngoài ra khi ngân hàng đặt chi nhánh hay yêu cầu một ngân hàng khác làm đại lý cho mình ở một nước điều đó có nghĩa là quy mô hoạt động của ngân hàng được mở rộng đồng thời uy tín của ngân hàng cũng được nâng cao. Tuy nhiên chi phí thiết lập ngân hàng ở nước ngoài là rất lớn và thực sự khó khăn đối với ngân hàng cổ phần. Vì thế ngân hàng TMCP Quân đội nên tập trung vào việc thiết lập ngân hàng đại lý
Đây là một giải pháp hết sức khó khăn, để thực hiện được cần có sự tiến hành nhiều giải pháp khác nhằm mục tiêu chủ đạo là nâng cao uy tín, vị thế và hình ảnh “Military bank” trong lòng khách hàng và các ngân hàng bạn trong nước, trong khu vực, và trên thế giới.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước
Trong hoạt động thanh toán quốc tế, tỷ giá ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thanh toán quốc tế. Để mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế ngân hàng Nhà nước cần có chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt hướng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay việc thả nổi tỷ giá ngay lập tức sẽ gây ra những hiệu ứng “sốc” khốc liệt cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi cho việc ổn định hệ thống kinh tế-xã hội.
Với vai trò là NHTW, hiện nay ngân hàng Nhà nước quản lý thị trường ngoại tệ chủ yếu thông qua can thiệp mua bán, công bố tỷ gía bình quân giao dịch liên ngân hàng, qui định trần tỷ giá giao ngay, tỷ lệ % gia tăng của tỷ giá kỳ hạn và các biện pháp quản lý ngoại hối. Trong giai đoạn trước mắt thì các biện pháp này còn cần thiết, nhưng cần phải nới lỏng từng bước, vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi lại trở thành lực cản cho sự phát triển thị trường ngoại hối. Do có tính nhạy cảm cao, cho nên việc điều hành chính sách cần diễn ra theo từng giai đoạn, có thể là:
- Trước mắt, có thể tiếp tục nới rộng biên độ giao động từ mức ±0,25% lên mức từ ±0,3% đến ±0,5%. Điều này có hai tác dụng là: thứ nhất tạo điều kiện để các NHTM yết tỷ giá cạnh tranh; thứ hai, như là biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá.
- Sau khi nới rộng biên độ tỷ giá, nếu thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối khách quan quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; đây được xem như thời điểm tốt để ngân hàng Nhà nước có thể tiếp tục nới rộng biên độ giao động lên mức cao hơn (Ví dụ: ±1,0%)
- Nếu thị trường ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đang là quá thấp so với tỷ giá cân bằng; để rút ngắn khoảng cách, ngân hàng Nhà nước tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá giao dịch một cách hợp lý mà không gây sáo trộn lớn.
- Trong môi trường vĩ mô ổn định, chừng nào tỷ giá giao dịch được ấn định ở mức lớn hơn tỷ giá cân bằng, thì lúc đó ta mới có được chính sách tỷ giá thực sự khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và ngược lại.
- Về lâu dài, ngân hàng Nhà nước nên dỡ bỏ biên độ giao động và không trực tiếp ấn định tỷ giá, mà chỉ tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế; đồng thời chuyển hướng từ từ sang sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại tệ
3.3.2. Kiến nghị với Nhà nước
Để có một môi trường thuận lợi cho các ngân hàng thương mại phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Nhà nước cần quan tâm đúng mức tới việc tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho các hoạt động TTQT như:
- Hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động thanh toán quốc tế cũng như đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến hoạt động mua bán ngoại thương góp phần thúc đẩy hoạt động XNK phát triển
- Tăng cường quan hệ đối ngoại, thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế, từ đó góp phần mở rộng thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại.
- Kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh gay gắt để đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước cần đưa ra những chính sách, biện pháp khuyến khích xuất khẩu những hàng hoá có hàm lượng khoa học và chất xám cao để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam.
kết luận
Công cuộc đổi mới hơn mười năm qua ở nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định. Đáng kể là từ sau chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng và phát triển. Ngoại thương Việt nam đã có những tiến bộ vượt bậc, đó là nhờ vào chính sách ngoại thương đúng đắn của Nhà nước. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, các hoạt động thương mại quốc tế đa dạng và phức tạp đòi hỏi các ngân hàng không ngừng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nhằm đáp ứng các nhu cầu của khách hàng.
Trong những năm qua, sự phát triển và mở rộng các lĩnh vực về nghiệp vụ thanh toán của NHTM cổ phần Quân đội đã tạo tiền đề cho phương thức thanh toán tín dụng chứng từ phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng từ đó nâng cao uy tín ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, chiếm và giữ vững thị phần trong nước.Trên cơ sở thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, vận dụng những kiến thức đã được tiếp thu và các phương pháp nghiên cứu đã học, luận văn tốt nghiệp đã dược hoàn thành với các nội dung cơ bản sau:
Xuất phát từ lý luận cơ bản của ngân hàng thương mại, chuyên đề thực tập tốt nghiệp đã phân tích vai trò cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
Phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đồng thời tìm ra những hạn chế.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT tại NHTM cổ phần Quân đội, đồng thời nêu một số kiến nghị với ngân hàng Nhà nước và Nhà nước.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ- Trường đại học Kinh tế quốc dân 2002
Giáo trình thanh toán quốc tế- trường đại học ngoại thương 2002
Thị tường hối đoái và thị trường tiền tệ- Heinzrich M.Rodeiguez, NXB chính trị quốc gia 1996
Marketing trong hoạt động ngân hàng- Viện khoa học ngân hàng, NXB Thống kê Hà nội 1996
Tạp chí ngân hàng 2000, 2001, 2002
Thời báo ngân hàng 2000, 2001, 2002.
Báo cáo thường niên ngân hàng TMCP quân đội 1999, 2000, 2001, 2002
Giáo trình thanh toán quốc tế- Trường học viện ngân hàng 2002.
Thị trường ngoại hối Việt nam- Nguyễn Văn Tiến, NXB Thống kê Hà Nội 2002.
10. Quản trị ngân hàng thương mại - Peter S.Rose
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại 3
1.1.Khái niệm thanh toán quốc tế 3
1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế 4
1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu 5
1.3.1. Phương thức chuyển tiền 5
1.3.2. Phương thức nhờ thu 7
1.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ 10
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 21
1.4.1. Các nhân tố chủ quan 21
1.4.2. Các nhân tố khách quan 24
Chương 2: Thực trạng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Quân đội 27
2.1. Cơ cấu điều hành và hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội 27
2.1.1. Lịch sử hình thành 27
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 28
2.1.3. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội 30
2.2. Thực trạng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại ngân hàng TMCP Quân đội 36
2.2.1. Thanh toán L/C hàng nhập khẩu 37
2.2.2. Thanh toán L/C hàng xuất khẩu 44
2.2.3. Hiệu quả hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại ngân hàng TMCP Quân đội 48
2.2.4. Những khó khăn tồn tại trong hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại ngân hàng TMCP Quân đội 49
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại ngân hàng TMCP Quân đội 54
3.1. Định hướng phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại ngân hàng TMCP Quân đội 54
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại ngân hàng TMCP Quân đội 55
3.2.1. Đa dạng hoá các loại hình L/C sử dụng 55
3.2.2. Thực hiện các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán L/C 57
3.2.3. Mở rộng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu theo phương thức TDCT 58
3.2.4. Sử dụng công cụ Marketing vào hoạt động ngân hàng 61
3.2.5. Đẩy mạnh công nghệ tin học, hiện đại hoá hoạt động ngân hàng 63
3.2.6. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 63
3.2.7. Thiết lập rộng rãi các chi nhánh và ngân hàng đại lý 64
3.3. Một số kiến nghị 65
3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước 65
3.3.2. Kiến nghị với Nhà nước 66
Kết luận 67
Danh mục tài liệu tham khảo 69
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29736.doc