Lời nói đầu
Qua 10 năm đổi mới nền kinh tế, nước ta có những bước đi mạnh mẽ và giành được những thành quả hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực như:kinh tế, chính trị,xã hội.Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế chúng ta có những bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáng khích lệ để đạt đượcnhững thành quả đó ta không thể không nhắc tới sự đóng góp đáng kể của hệ thống ngân hàng như chúng ta có câu với vai trò “bà đỡ. Trong nghiệp vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngân hàng trung ương đã rất chú tr
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động quản lý tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọng đến việc đổi mới phương pháp quản lývà điều hành tỷ giá một trong những công cụ mà chính phủ sử dụng để tác động vào nền kinh tế. Sự xuất hiện thương mại ngoại thương là cơ sở cho sự ra đời của tỷ giá hối đoái, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, quá trình quốc tế hoá đang diễn ngày càng sâu sắc bao trùm lên tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội thì sự gia tăng của các hiệp hội tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới nhằm phát huy và tận dụng những lợi thế so sánh của mình thì việc quản lý tỷ giá hối đoái ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống kinh tế của mỗi quốc gia. Vì tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế nhạy cảm và hết sức phức tạpvà đặc biệt là những diễn biến của tỷ giá hối đoái những tháng gần đây đòi hỏi có sự quan tâm đánh giá một cách chính xác, toàn diện để có hướng điều chỉnh thích hợp, vì vậy việc quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái cần có sự quan tâm một cách thích đáng của chính phủ để có thể đưa ra những cơ chế,chính sách tỷ giá một cách chính xác và hợp lý , phù hợp với thực trạng của nền kinh tế tạo cho quốc gia mình có sức cạnh tranh trong khu vựcvà trên trường quốc tế nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế.
Thấy được vai trò quan trọng trong việc điều hành và quản lý tỷ giá hối đoái,cũng như những ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế em đã quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài này, em xin giới thiệu đề tài Hoạt động quản lý tỷ giá hối đoái của ngân hàng nhà nước việt nam.
Dù em đã hết sức cố gắng trong việc thu thập tài liệu và nghiên cứu để hoàn thiện đề tài nghiên cứu này này song không thể tránh khỏi những thiếu sót và những hạn chế. Vì vậy, em rất mong được sự hướng dẫn ,chỉ bảo của các thầy cô để những đề tài nghiên cứu sau này em có thể hoàn thành được tốt hơn.
Chương I
Khía quát chung về hệ thống
tỷ giá hối đoái
I. những vấn đề cơ bản về tỉ giá hối đoái .
Để có thể đi sâu nghiên cứu tỷ giá hối đoái, trước hết chúng ta cần phải xem xét một số khái niệm có liên quan đến vấn đề này.
1. Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Vì các nước khác nhau thì sử dụng những đồng tiền khác nhau hay những phương thức thanh toán khác nhau nên khi muốn mở rộng quan hệ thương mại quốc tế thì cần phải có một nơi để có thể trao đổi tiền giữa các nước với nhau, đó chính là thị trường ngoại hối. Như vậy thị trường ngoại hối là thị trường quốc tế trong đó đồng tiền quốc gia này có thể đổi lấy tiền của quốc gia khác.
Thông thường tỷ giá hối đoái được hiểu là số lượng đơn vị nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; là hệ số quy đổi của một đồng tiền này sang một đồng tiền khác được xác định bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Trong kinh tế học khi phân tích về tỷ giá hối đoái, người ta thường sử dụng các kí hiệu sau :
* e-Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nước ngoài
* E-Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ
Chính sách tỷ gá hối đoái của mỗi quốc gia thường liên quan đến sức cạnh tranh quốc tế của quốc gia đó. Nếu e giảm tức là giá trị của đồng nội tệ giảm thì giá cả của hàng hoá trong nước sẽ rẻ tương đối so với giá cả của hàng hoá ở nước ngoài, vì thế xuất khẩu sẽ có xu hướng tăng, nhập khẩu có xu hướng giảm, khả năng cạnh tranh của quốc gia này tăng lên.
2. Tỷ giá hối đoái thực tế.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Để hiểu được vấn đề này phải phân biệt được tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực. Tỷ giá hi đoái danh nghĩa là một khái niệm tiền tệ phản ánh mức giá tương đối của hai đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực lại phản ánh mức giá tương đối giữa hai loại hàng hoá. Chính xác hơn, tỷ giá hối đoái thực là mức giá tương đối của những hàng hoá mậu dịch tương ứng với các hàng hóa phi mậu dịch. Như vậy điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngọai. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực (RER) là vị trí cạnh tranh quốc tế của quốc gia có đồng tiền tương ứng. Tỷ giá hối đoái thực giảm xuống phản ánh mức tăng chi phí sản xuất của những hàng hoá mậu dịch trong nước. Nếu không có sự tăng giá tương ứng ở các quốc gia khác thì việc đó đồng nghĩa với việc suy giảm vị trí cạnh tranh đó : họ sản xuất hàng hoá mậu dịch kém hiệu quả hơn các nước khác.
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỉ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phương pháp nghiên cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phương thức cường độ, tốc độ tác động của các yếu tố cụ thể, song nhìn chung có một số yếu tố quan trọng, trực tiếp cấu thành NP và tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái, đó là :
-Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước
-Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ, thông qua đó tác động lên mức tỉ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi sức mua của đồng tiền
-Chênh lệch mức giá giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và quốc tế
-Thực trạng hoạt động của các thị trường tài chính, ngoại hối và các xu hướng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hưởng đến tỷ giá
-Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trường Tài chính trong nước và quốc tế
- Các phương thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà nước
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xã hội và các chính sách lớn của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, tài chính tiền tệ
II. Các hệ thống tỷ giá
Tỷ hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tượng tham gia vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thương mại hay nhà đầu tư. Tỉ giá hối đoái cũng có vaii trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỉ giá có thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số... phụ thuộc vào cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau của nhà nước khác nhau đến tỉ giá hối đoái đã tạo nên những cơ chế tỉ giá hối đoái khác nhaugiữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỉ giá cơ bản là: cơ chế tỉ giá hối đoái cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng tiền) và cơ chế tỉ giá thả nổi (tỉ giá được xác định dựa vào cung cầu trên thị trường). Mỗi quốc gia trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau về mức độ cố định thả nổi tỉ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định hay thả nổi tỉ giá hối đoái. Điều này đã đưa đến các nguyên tắc khác nhau về điều hành tỉ giá hối đoái hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế tỉ giá hối đoái ở trên thế giới
1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ tỷ giả hối đoái ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng vào đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định người ta có thể sử dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính bằng tiền nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền đồng tiền trong nước với số vàng nhà nước có. Chính phủ chỉ có thể phát hành tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền lưu hành sẽ giảm đi. Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng vàng như vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối trong thương mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã được sử dụng hầu như suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở các nước. Bản vị vàng có một ưu điểm lớn và một nhược điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỉ lệ lạm phát một cách thường xuyên cao. Tuy nhiên do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải mất nhiều năm để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kì của bản vị vàng là thời kì trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thương dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
Dưới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được cố định một cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế, trong đó các tỷ giá hối đoái thông thường được cố định nhưng một đôi lúc các nước được phép thay đổi tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này được ra đời gần cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở Brentton Woods New Hampshire để hoạch định" một hệ thống tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Theo hệ thống này tỉ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỉ giá chính thức đã được đăng kí tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỉ giá này còn được biết với đến với tên gọi bản vị đôla. Theo chế độ bản vị đô la, các đồng tiền được chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố định, các ngân hàng trung ương cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá tỉ giá hối đoái của mình chuyển sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thường xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ tạo cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy sẽ thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự hạn chế đối với chính sách tiền tệ trong nước vì do tỷ giá hối đoái cố định nên không khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không cần thiết phải có sự quan tâm thường xuyên của ngân hàng trung ương. Tỷ giá hối đoái cố định sẽ là tối ưu nếu các ngân hàng trung ương có thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỉ giá tương đối cân bằng và thực hiện việc cố định tỉ giá ở mức đó; cơ chế tỉ giá cố định trực tiếp đặt ra sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong tình huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mức cho sự vận hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh hưởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; tỉ giá hối đoái cố định có thể làm người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn tẻ, khó có thể xác định đâu là tỉ giá hối đoái tối ưu, hay hợp lý cho một nền kinh tế, mặc dù cả chính phủ và nhân hàng trung ương đều cần thiết phải hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. Tỉ giá hối đoái danh nghĩa cố định có thể là quan trọng nhưng nó không quyết định tỉ giá hối đoái thực tế mà nó chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỉ giá hối đoái cố định đòi hỏi ngân hàng trung ương phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo mức tỉ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó có thể đưa ra về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác dộng vào nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu can thiệp. Ngân hàng trung ương cần thiết phải duy trì một mức nhất định về dự trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. Tỉ giá hối đoái này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác, và đó là điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ nào đó.
* Tỷ giá hối đoái thả nổi:
Là tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở diễn biến cung cầu. Có hai loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân bằng) Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng trong nước và tỷ giá hối đoái thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng ở nước ngoài và tỉ giá hối đoái thực tế. Do đó khi nền kinh tế trong nước và nước ngoài đều ở trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lượng tiềm năng,thì chỉ có một tỉ giá chính thức duy nhất đồng thời tương ứng với sự cân bằng bên ngoài.ở bầt kì mức tỉ giá hối đoái nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có sức cạnh tranh kém hơn. Nhập khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn, nền kinh tế sẽ bị thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Ngược lại ở bất kì một mức tỷ giá hối đoái thực tế nào thấp hơn với xuất khẩu cao hơn và nhập khâủ thấp hơn, nền kinh tế nội địa sẽ có một khoản thặng dư trong vãng lai. Chỉ có một tỉ giá hối đoái thực tế duy nhất tương ứng với sự cân đối bên trong và bên ngoài.
Khi tỷ giá thả nổi tự do, thì không có sự can thiệp nào trên thị trường ngoại hối và không có khoản chuyển nhượng ròng về tiền giữa các nước với nhau vì cán cân thanh toán luôn bằngkhông. Và về lâu dài, tỉ giá hối đoái danh nghĩa sẽ phải điều chỉnh để đạt tới mức tỉ giá hối thực tế duy nhất cần thiết cho sự cân đối bên trong và bên ngoài trong sự cân bằng dài hạn .
Ưu điểm của tỷ giá hối đoái thả nổi là nó được hình thành trên cơ sở cung cầu trên thị trường. Qua cơ chế thị trường các nguồn lực được phân bổ một cách thành công và có hiệu quả. Cung cầu nội tệ và ngoại tệ sẽ được tự cân bằng trên thị trường. Ngân hành trung ương sẽ không cần cũng như không có phải có trách nhiệm can thiệp vào thị trường hối đoái mà chủ yếu thực hện theo yêu cầu của khách hàng. Nhìn chung, tình hình thị trường trong nước sẽ không bị ảnh hưởng bởi các luồng vốn bên ngoài và vì vậy ngân hàng trung ương có thể theo đuổi chính sách tiền tệ một cách độc lập không phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác.
Tuy nhiên cơ chế này cũng có những nhược điểm vì thị trường luôn có rủi ro, nhiều khi quá tải sẽ dẫn đến tỉ giá hối đoái không ở mức phù hợp với các chỉ số kinh tế cơ bản của nền kinh tế, thậm chí tồn tại trong thời gian khá dài. Hơn nữa khuynh hướng của tỉ giá trong tương lai sẽ không chắc chắn, điều đó sẽ khó khăn trong việc lập kế hoạch và tính toán giá cả. Những biến động không chắc chắn của tỉ giá hối đoái có thể được khắc phục bằng các công cụ phòng tránh rủi ro(như hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa chọn) nhưng sẽ gây ra thay đổi rất lớn trong giá thành sản phẩm. Mặt khác sự tự do hoạt động của chính sách tiền tệ trong nước có thể bị lợi dụng, chẳng hạn như chính phủ, do không có trách nhiệm phải ngăn chặn sự mất giá của đồng tiền, nên có thể dễ thực hiện việc lạm phát qua đường ngân sách và tiền tệ.
Như vậy trong chừng mực nào đó có thể nói rằng tỉ giá hối đoái thả nổi hay cố định cũng đều có những ưu điểm và hạn chế. Việc lựa chọn một cơ chế tỉ giá cố định hay thả nổi ở mức nào đó chắc chắn sẽ phụ thuộc vào từng quốc gia với những diều kiện kinh tế và thị trường khác nhau.. hay nói chung là phụ thuộc vào lý do riêng nhằm mục đích phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế của mỗi cơ chế ở mỗi môi trưòng kinh tế xã hội khác nhau. Những quốc gia chủ trương thả nổi tỉ giá hối đoái cho rằng: Nếu áp dụng cơ chế này, thị trường ngoại hối có tính minh bạch cao, thị trưòng hoạt động hiệu quả, và hơn nữa thị trường phải để tự nó tự điều chỉnh. Chính sách tiền tệ phải được thiết lập một cách độc lập, phù hợp với tình hình kinh tế trong nước (nghiã là đạt được sự ổn định mức giá chung của nền kinh tế), và tỉ giá hối đoái cần phải được thả nổi theo bất kì hướng nào mà do thực tế đem lại mức tỉ giá hối đoái đó.
Trong khi đó , những quốc gia chủ trương cố định tỉ giá (tức là chủ trương gắn vào một hay một số đồng tiền chủ chốt, hoặc các đối tác kinh doanh chính của nước đó) với mục tiêu dung hoà các yếu tố chính trị, kinh tế và thương mại. Các nhà kinh tế công nhận tầm quan trọng và lợi ích của việc gắn đồng tiền này trong việc thực hiện một chính sách tiền tệ chặt chẽ và tỉ giá hối đoái cố định được ưa thích hơn bất kì một dạng thả nổi nào, vì tỉ giá hối đoái cố định không được coi là công cụ độc lập hữu hiệu của chính sách tiền tệ trong dài hạn. Những lợi ích do tỉ giá cố định đem lại được coi là nhiều hơn cái giá phải trả cho những hậu quả mà nó gây ra cho nền kinh tế.
Các nhà nghiên cứu về tỉ giá hối đoái thường tập trung vào vai trò của tỉ giá trong việc bảo đảm cho nền kinh tế một mức sản lượng kinh tế cao, trong điều kiện có rất nhiều bất ổn, hay các cú sốc trong nước và quốc tế tác động đến nền kinh tế. Và vì vậy, các nhà khoa học cho rằng, cơ chế tỉ giá hối đoái thả nổi có khả năng đối phó tốt nhất đối với các cú sốc trong một nền kinh tế. Vì sự thay đổi tỉ giá hối đoái sau mỗi cú sốc sẽ là cách hữu hiệu nhất nhằm khôi phục lại mức sản lượng trở lại trạng thái cân bằng. Trong khi đó các nhà kinh tế học cũng thừa nhận cơ chế tỉ giá hối đoái cố định có khả năng đối phó một cách tốt nhất với sự mất cân đối về tiền tệ của nền kinh tế, vì rằng sự tăng hay giảm ra từ dự trữ ngoại hối sẽ làm giảm sự tác động của sự mất cân đối tiền tệ. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng những nước có nền kinh tế mở cửa cao thì nên sử dụng tỷ giá hối đoái cố định, vì với cơ chế tỉ giá thả nổi thì có rất nhiều sự biến động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa mọt cách mạnh mẽ, tác động đến giá thành sản phẩm, giá cả hàng hoá mạnh đến mức mà không có một sự thay đổi nào của tỉ giá hối đoái nào có thể điêù chỉnh được, thậm chí chỉ `là mức mong muốn; tuy nhiên sự mở cửa của nền kinh tế lại cần thiết phải duy trì chế đô tỉ giá hối đoái thả nổi nhằm đảm bảo để cho chính sách tiền tệ không bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ bên ngoài trong chừng mực mà bản thân nền kinh tế cần phải đối phó.
3 Sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tỉ giá hối đoái.
Hệ thống tỷ giá hối đoái do ngân hàng trung ương trực tiếp can thiệp là can thiệp theo trách nhiệm (trong trường hợp tỉ giá cố định) và can thiệp tự do (áp dụng với cả tỉ giá cố định và thả nổi).
Ngân hàng trung ương có thể sử dụng một số công cụ khác nhau để tác động vào nền kinh tế thông qua cơ chế về tỉ giá hối đoái. Công cụ thứ nhất có thể sử dụng là lãi suất chiết khấu, việc tăng giảm lãi suất chiết khấu có thể làm ảnh hưởng đến cung cầu tiền vì thế sẽ làm ảnh hưởng đến tỉ giá hối đoái. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu các ngân hàng thương mại sẽ phải tăng tỉ lệ dự trữ thực tế và làm cho mức cung tiền giảm, và như vậy sẽ tác động tới tỉ giá hối đoái. Thứ hai là ngân hàng trung ương có thể tác động vào tỉ giá hối đoái bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trường, khi mà giá của đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ ngân hàng trung ương có thể đem ngoại tệ ra bán nhằm cứu giá trị của đồng bản tệ. Ngược lại khi giá trị của đồng tiền nước ngoài giảm mà muốn làm tăng tỉ trọng xuất khẩu ngân hàng trung ương có thể làm tăng giá trị của đồng tiền nước ngoài bằng cách mua thêm nhiều ngoại tệ trên thị trường ngoại hối làm cho cầu ngoại tệ tăng lên thì có thể làm cho tỉ giá hối đoái chuyển dịch.
Một công cụ nữa mà ngân hàng trung ương có thể sử dụng nữa là phá giá đồng tiền. Phá giá hay nâng giá là việc giảm bớt hay tăng lên tỉ giá hối đoái mà được chính phủ cam kết ủng hộ, đây là một phương pháp điều chỉnh tỉ giá hối đoái danh nghĩa (theo hướng làm giảm giá nội tệ so với đồng ngoại tệ). Phương pháp này đã được khẳng định về mặt lý thuyết và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng.
Trong ngắn hạn, khi giá cả và tiền lương điều chỉnh một cách chậm chạp việc phá giá làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và làm giảm giá ngoài nước của hàng xuất nước đó. Cả hai loại tác động này đều cải tiến mức cạnh tranh quốc tế, các nguồn lực sẽ được thu hút vào nền kinh tế nội địa và đặc biệt là được thu hút vào các ngành xuất khẩu mà giờ có thể cạnh tranh có hiệu quả hơn trên thị trường nước ngoài. Tuy nhiên việc phá giá có thể không cải thiện được tài khoản vẵng lai trong thời gian trước mắt thậm chí có thể dẫn đến thâm hụt nhưng khi xét về lâu dài, khi những người mua và người bán điều chỉnh lượng xuất khẩu và nhập khẩu thì sẽ tạo ra thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
Trong dài hạn, nếu nền kinh tế không thực sự phát triển, việc phá giá sẽ làm tăng mức tiền lương và giá danh nghĩa để cho phù hợp với mức giá nhập khẩu cao hơn làm cho tất cả các biến số thực tế khác không thay đổi. Cuối cùng là phá giá sẽ không có tác động gì cả.
Như vậy phá giá thường được các chính phủ sử dụng để điều chỉnh kinh tế trong ngắn hạn, nhưng nếu không xem xét một cách kĩ lưỡng thì việc phá giá sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Thứ nhất phá giá sẽ làm tăng lạm phát vì nó làm tăng giá vật tư, thiết bị nhập,thu hẹp lãi của các doanh nghiệp sản xuất, sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu tài chính và làm cho lạm phát sẽ khó kiểm soát hơn, đồng thời lạm phát tăng sẽ làm tăng tỷ giá, càng phá giá càng không kiểm soát nổi tiền tệ. Thứ hai là phá giá sẽ dẫn đến tăng giá hàng nhập, hạn chế tốc độ phát triển kinh tế, tăng tỉ lệ thất nghiệp. Mặt khác khi nội tệ giảm giá sẽ làm cho nhiều chủ đầu tư dịch chuyển tài sản từ nội tệ sang đồng ngoại tệ, lúc này cầu về ngoại tệ tăng cũng có nghĩa là giá nội tệ ngày càng giảm. Để cân bằng lại và kiềm chế lạm phát thì chính phủ phải tăng lãi suất tiền gửi nội tệ, tức là lãi suất tín dụng cho sản xuất tăng, hạn chế tốc độ tăng trưởng, lạm phát tăng, tất cả các tình hình trên tác động xấu đến xuấtt khẩu.
Một số nước thực hiện phá giá vã đã thất bại như Mê-xi-cô là một điển hình : Năm1976, tỷ giá tăng từ 12,5 Peso /1USD tới 22 Peso /1 USD, song do tỉ lệ lạm phát khá cao nên nhập khẩu gia tăng đáng kể, làm cho tỉ giá thực giảm, do vậy cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt.Đến năm 1982, Me–xi–cô gặp khó khăn trong thanh toán nợ, thâm hụt tài chính là 15 % GDP, lạm phát lên tới 59 %. Khi đó chính phủ lại quyết định phá giá một lần nữa, nhưng kết quả là tỉ giá hối đoái thực giảm xuống,cán cân thương mại xấu đi và sau đó một thoài gian việc phá giá đồng bản tệ từ 3283 Pêso /1 USD lên 7200 Pêsô /1 USD đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính càng trở nên trầm trọng (hàng chục tỉ đôla chạy ra nước ngoài, gánh nặng nợ nước ngoài tăng 57 %, chỉnh phủ phải vay 20 tỉ đôla để hỗ trợ kinh tế trong điều kiện bất lợi...).Nguyên nhân là do việc phá giá diễn ra trong lúc lạm phát đang ở mức rất cao, thâm hụt thương mại rất lớn và nguồn vốn nước ngoài giảm mạnh.
Nếu quốc gia thực hiện việc phá giá vào thời điểm tỉ giá hối đoái thực đang trong tình trạng nội tệ bị đánh giá quá cao, thì việc phá giá sẽ có hiệu quả trong việc lấy lại mức cân bằng tỉ giá hối đoái. Và nếu việc phá giá này đi kèm với những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, thì sẽ gây được hiệu ứng tích cực trung hạn hay dài hạn đối với tỉ giá hối đoái thực. Do vậy việc phá giá danh nghĩa làm cho E tăng trong tỉ giá hối đoái thực nhằm cố gắng loại bỏ tình trạng mất cân bằng thông qua hình thức tạo ra sự giảm giá trong thực tế, nhưng phải không có bất kì mức tăng tương ứng nào của giá. Mức tăng này có thể phát sinh từ các chính sách mở rộng tín dụng, các chính sách tài khoá mở rộng, tiền lương... Nếu việc phá giá danh nghĩa được thực hiện đồng thời với các chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính không đi đôi với chỉ số tiền lương thì chắc chắn sẽ đạt được sự giảm giá trên thực tế và khiến cho tỉ giá hối đoái thực trở về mức cân bằng.
Như vậy không phải phá giá cũng mang lại kết quả như ý muốn có khi không đẩy mạnh được xuất khẩu mà lại gây ra hiệu quả khó lường. Mặt khác, xuất khẩu tăng hay giảm không chỉ phụ thuộc vào tỉ giá mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác, ví dụ như đồng YEN tăng giá liên tục so với đồng USD trong mấy thập kỉ qua nhưng hàng hoá của Nhật vẫn tiệp tục cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cả thị trường Mĩ là bởi vì hàng hoá của Nhật có chất lượng cao và giá thành thấp.
Về nguyên tắc, cũng có một số phương pháp khác có thể sử dụng thay thế cho biện pháp phá giá đồng tiền, mặc dù không phải lúc nào cũng đạt được mọi kết quả mong muốn. Các biện pháp đó là đánh thuế nhập khẩu đồng thời với hỗ trợ xuất khẩu; duy trì chế nhiều tỉ giá hối đoái danh nghĩa và các chính sách về thu nhập.
Chương II
Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
nhìn lại hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ năm 1955 đến nay.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại, và phát huy tác dụng, thay vào đó là tỉ giá cố định, Việt Nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỉ giá chính thức của VND được công bố vào ngày 25 / 11 / 1955, là tỷ giá giữa VND và đồng nhân dân tệ trung quốc là 1NDT =1470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng Liên Xô là 1 Rúp bằng 735 đồng Việt Nam. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai nước nhằm giả quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nước khác được thiết lập dựa trên tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỉ giá kết toán nội bộ (tỷ giá giữa các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương). Như vậy hệ thống tỉ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá, tỷ giá được xác định trên ý đồ phục vụ kế hoạch của nhà nước, các quyết định này không xuất phát từ nhu cầu thực tại của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước, tỷ giá giữ vai trò thụ động, chưa phải là công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý đều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì một số nguyên nhân, thứ nhất là do việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách nhà nước làm cho việc tính toán và thu chi ngân sách bị sai lệch nghiêm trọng, công tác điều hành ngân sách nhà nước khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân sách nhà nước. Từ năm 1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô viện trợ cho nước ta khoảng 15 % thu nhập của cả nước, bình quân từ 1,2 đến 1,5 tỉ rúp trong 1 năm nếu tính theo tỉ giá kết toán nội bộ thì số viện trợ này khoảng 1/3 tổng thu ngân sách, nhưng nếu tính sức mua trên thị trường của đồng rúp thì tỉ trọng này vào khoảng 60–70 %. Vì vậy nhu cầu đổi mới cơ chế tỉ giá nói riêng,đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì nếu để tỉ giá cũ làm cho việc bù lỗ nhập khẩu vượt mức chịu đựng của ngân sách nhà nước, thủ tiêu động lực xuất khẩu.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI, nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây là thời kì có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý và diều hành kinh tế của nhà nước, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kì quan trọng trong cải cách được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính công bố xoá bỏ tỉ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mội chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức đuợc Ngân hàng nhà nước chính thức công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất trên thị trường, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỉ giá này, các ngân hàng thương mại xây dựng cho mình một tỉ giá dùng để giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán thanh toán, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đã có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhưng tỷ giá vẫn có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm 1991, đồng Việt Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mĩ. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. chính vì vậy vào cuối năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đã can thiệp để nâng giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích chống lạm phát bằng cách giữ cho hàng nhập khẩu được ổn định vì từ năm 1990 trở lại đây, Việt Nam đã nhập khẩu một số lượng lớn lượng nguyên, nhiên vật liệu để đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm cho giá thành sảm phẩm sản xuất trong nước tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đã tăng. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều nhân tố gây bất ổn địnhkhác thì việc giá thành hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ do ngoại kiều gửi về Việt Nam khá lớn làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác ngân hàng nhà nước kiên trì._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35296.doc