Hoạt động quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

Lời nói đầu Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Chính sách BHXH cũng có tác dụng động viên công nhân viên chức, lực lượng vũ trang yên tâm công tác sản xuất, chiến đấu góp phần thắng lợi vào công cuộc xây dựng

doc110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết. Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, việc đảm bảo hệ thống tài chính cho quỹ BHXH là hết sức cần thiết và mang ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của BHXH. Thông qua việc xem xét đánh giá cơ chế quản lý BHXH ở Việt nam từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH cho phù hợp với giai đoạn mới. Từ những lý do trên và quá trình thực tập tôi đã chọn đề tài "Hoạt động quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam". Kết cấu đề tài gồm ba chương: Chương I : Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội. Chương II : Thực trạng quản lý quỹ Bảo hiểm XH ở Việt nam. Chương III: Hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo và các cán bộ Vụ BHXH - Bộ LĐTBXH đã giúp tôi hoàn thành luận văn này. Do thời gian có hạn, kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của tôi không tránh khỏi những khiếm khuyết kính mong thầy cô và bạn bè góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương I lý luận chung về BHXH I. một số vấn đề tổng quan về BHXH 1. Khái niệm BHXH Cho đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa chính thống về BHXH. Mặc dù, gần đây trong một số xuất bản phẩm các tác giả đã đề cập đến khái niệm này. Đã hơn 100 năm nay, các nước trên thế giới có xu hướng chung là thực hiện hệ thống an toàn xã hội mà trong đó BHXH chỉ là một trong các cơ chế chủ yếu. Do vậy, thường tập trung vào định nghĩa về an toàn,còn BHXH chỉ được phân biệt với các cơ chế khác trong hệ thống bằng những đặc trưng cơ bản của BHXH. Trong tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948 có đoạn viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thoã mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người ...” Theo Tổ chức lao động thế giới gọi tắt là ILO, BHXH ở đây được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật, chết; thêm vào đó BHXH bảo vệ việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình. BHXH được định nghĩa như vậy phản ánh tổng quát về mục tiêu, bản chất và chức năng của sự nghiệp này. BHXH có mục đích cuối cùng là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội với mỗi người. BHXH là một trong những quyền cơ bản của con người trong một xã hội hiện đại và mục tiêu cao cả nhất của nó là vì sự an toàn, phòng tránh được hậu quả về những tổn thất, thất bại gây ra bởi những rủi ro trong cuộc sống hay trong quá trình lao động. BHXH hướng tới sự phát triển, sự đảm bảo tốt nhất cho con người, góp phần quan trọng vào tạo lập sự ổn định và thịnh vượng của xã hội . Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước. ở nước ta, hiện nay cũng có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH, tuỳ cách tiếp cận. Từ giác độ thu ta có thể hiểu: “BHXH là sự bảo đảm thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất việc làm, thông qua việc hình thành sử dụng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời đảm bảo an toàn xã hội”. Theo các nhà hoạt động trong lĩnh vực lao động và xã hội thì BHXH là sự đảm bảo của xã hội đối với người lao động, thông qua việc huy động nguồn đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước để trợ cấp cho người lao động khi họ bị mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già và chết nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Theo các nhà làm luật, thì BHXH là một chế định bảo vệ người lao động. Như vậy, khái niệm BHXH đang được sử dụng ở Việt nam hẹp hơn, không bao gồm các hoạt động về bảo trợ xã hội. Các khái niệm này chỉ đề cập cụ thể tới các đối tượng tham gia vào hoạt động BHXH, các bên liên quan đến quá trình hình thành và phát triển quỹ BHXH, các trường hợp cần được bảo hiểm, các đối tượng hưởng BHXH và các chế độ BHXH được thực hiện. BHXH ở đây cũng chỉ rõ nghĩa vụ và lợi ích của người lao động khi tham gia vào quan hệ BHXH, trong đó bao gồm cả bảo đảm an toàn xã hội. Dù chưa có một khái niệm thống nhất về BHXH nhưng các khái niệm này đều phản ánh bản chất của BHXH. Đó là sự bảo đảm lợi ích của người lao động khi tham gia BHXH trong những trường hợp phát sinh các nhu cầu về BHXH. Nói cách khác, BHXH phải xuất phát hay vì lợi ích của con người, một trong những vấn đề quan trọng của mọi quốc gia. Và rõ ràng là BHXH phải tạo lập một mạng lưới an toàn trong xã hội để bảo vệ cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro hay rơi vào tình trạng không còn nguồn thu nhập thì có được những khoản trợ cấp nhất định để sinh sống. Xã hội ngày càng phát triển trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; Là một lĩnh vực mang tính xã hội, BHXH ngày càng đòi hỏi phải được nhận thức sâu rộng hơn. Ngoài việc nêu lên phạm vi, mức độ thức hiện các chế độ của BHXH thì vai trò của các nhân tố, các bên tham gia, phương thức tổ chức và thực hiện quá trình bảo hiểm cũng càng ngày phân định rõ hơn. Đó là quá trình tiến tới thoả mãn tốt hơn nhu cầu của con người về BHXH. 2. Bản chất của BHXH 2.1. Về phương diện cá nhân, BHXH là một nhu cầu khách quan của con người. BHXH là một nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp, nó nhằm đảm bảo an toàn về kinh tế, giữ cho cuộc sống ổn định, an toàn, tránh được đói nghèo sa sút khi bị mất nguồn thu nhập trong cuộc sống. Đó chính là các nhu cầu về BHXH và cũng là những nhu cầu tự nhiên trong hệ thống các nhu cầu về cuộc sống của con người. Điều này xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo các tiêu chuẩn hay giá trị cho một cuộc sống tối thiểu. Theo nhà nghiên cứu tâm lý và hành vi của con người Maslow, nhu cầu BHXH nằm trong nhóm nhu cầu ở bậc thiết yếu cùng với các nhu cầu về điều kiện sinh tồn khác là ăn, ở, mặc và đi lại mức tối thiểu nhất. BHXH cần phải được đảm bảo trước khi thoả mãn các nhu cầu xã hội khác rộng hơn trong đời sống con người. BHXH thực sự là một nhu cầu bức thiết. C. Mác đã từng viết “Vì nhiều rủi ro khác nhau nên phải dành một số thặng dư nhất định cho quỹ BHXH để mở rộng theo kiểu luỹ tiến quá trình tái sản xuất ở mức độ cần thiết, phù hợp với sự phát triển của nhu cầu và tình hình tăng dân số”. BHXH thoả mãn các nhu cầu về đảm bảo cuộc sống như đã trình bày ở trên, BHXH còn là cần thiết để tái sản xuất sức lao động, một trong những tiền đề quan trọng nhất để tái sản xuất xã hội. 2.2. Dưới góc độ kinh tế: BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó: đối với những người hưởng các chế độ BHXH, đó là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống khi họ ở trong điều kiện khó khăn do giảm hoặc mất khả năng lao động mà giảm hay mất thu nhập, thông qua việc tích luỹ dần của cá nhân trong quỹ BHXH và sự đóng góp của số đông những người có cùng khả năng gặp rủi ro như nhau. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hoạt động BHXH mang nội dung của quá trình phân phối lại một phần thu nhập trong dân cư thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH, một quỹ tiền tệ tập trung có quy mô rất lớn và ngày càng tăng lên. Khi có sự phát triển của thị trường tài chính và nếu được sự quản lý và sử dụng tốt, quỹ BHXH còn có khả năng sinh lời từ đầu tư hợp pháp khác nhau. Việc sử dụng quỹ BHXH để đầu tư sinh lời được thấy rõ trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Hiện tại BHXH Việt nam bắt đầu thực hiện hoạt động này như dùng quỹ để mua trái phiếu. Trong tương lai, việc sử dụng quỹ BHXH vào các hoạt động đầu tư cũng sẽ được mở rộng ra với nhiều hình thức khác nhau. Kinh tế càng phát triển thì BHXH ngày càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. 2.3. Về phương diện chính trị: BHXH là sự liên kết giữa những người lao động khác nhau trong xã hội cũng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có cá nhân tham gia BHXH. BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Đối với quốc gia đây còn là những hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của Chính phủ đối với người dân trong xã hội. Trong rất nhiều nước, sự không ổn định hay khủng hoẳng của hệ thống BHXH có tác động rất mạnh đến hệ thống chính trị của các nước đó. Chính vì vậy chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của các chính sách về kinh tế, xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của các quốc gia. 2.4. Về mặt xã hội: BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó, bảo vệ và phát triển nguồn lao động xã hội, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì lợi ích của con người trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an toàn xã hội và có ý nghĩa xã hội lâu dài. Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diển ra giữa 3 bên: bên tham gia, bên BHXH và bên được BHXH. Như vậy, tổ chức và vận hành một hệ thống BHXH phải đứng trên một quan điểm tổng thể, toàn diện. BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị nhất định và phải dựa trên nền tảng kinh tế cụ thể. BHXH không phải là loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà đó là sự bảo hiểm đặt trong những ràng buộc giữa những con người với nhau trong những mối quan hệ nhất định trong cộng đồng mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là nhu cầu của mỗi con người. BHXH gắn liền với những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, đó có thể là những rủi ro ngẫu nhiên: ốm đau, tai nạn lao động ... nhưng cũng có thể là những trường hợp xảy ra hoàn toàn không ngẩu nhiên như: tuổi già, thai sản. Đồng thời những biến cố đó có thể xảy ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Sự giảm hoặc mất khả năng lao động làm giảm hoặc mất thu nhập, phần thu nhập này sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung do các bên tham gia đóng góp. 3. Sự cần thiết và tác dụng của BHXH 3.1. Sự cần thiết của BHXH: Con người muốn tồn tại và phát triển luôn cần phải thoả mãn các nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần và để thoả mãn các nhu cầu đó con người phải lao động, sáng tạo sản xuất ra các sản phẩm. Mặt khác, con người ai cũng phải trải qua các giai đoạn phát triển của đời người đó là: sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết. Trong các giai đoạn sinh, lão, bệnh tử của con người thì không ai có thể tồn tại độc lập khỏi sự giúp đỡ, chia sẻ của những người xung quanh. Cuộc sống không phải lúc nào cũng diển ra bình thường, con người không phải bao giờ cũng gặp thuận lợi, có đủ thu nhập và điều kiện sinh sống mà trái lại rủi ro luôn đi kèm với con người. Trong nhiều trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập hay những điều kiện sinh sống khác do ốm đau, TNLĐ, già yếu. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu cần thiết của cuộc sống con người không vì thế mà giảm đi hoặc mất đi, thậm chí còn tăng lên hoặc phát sinh những nhu cầu mới như chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau xảy ra. Bởi vậy, muốn đảm bảo duy trì cuộc sống người lao động làm thế nào để tạo ra nguồn thu nhập thay thế hoặc bù đắp. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người phần vừa tự lực, phần biết kết hợp đoàn kết để đi săn bắt, hái lượm để kiếm sống. Khi gặp rủi ro, tai nạn thì họ vừa tự mình chịu đựng khắc phục vừa được các thành viên trong cộng đồng hỗi trợ, cưu mang. Trong xã hội phong kiến, quan lại dựa vào bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, làng xóm ... Ngành công nghiệp hình thành cùng với nền kinh tế hàng hoá phát triển đã làm xuất hiện quan hệ thuê mướn nhân công. Những người làm công phải hoàn toàn dựa vào tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Có việc thì mới có lương dù đó là đồng lương ít ỏi. Khi ốm đau, tai nạn, sinh đẻ ... thì phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống bị đe doạ. Người lao động đã ý thức được sự cần thiết phải có thu nhập đề phòng khi họ gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ nên họ đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau, thai sản ... Lúc đầu giới chủ cam kết đảm bảo cho người lao động những khoản thu nhập nhất định đó. Song nhiều khi rủi ro xảy ra liên tục buộc người chủ phải chi ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Do vậy, giới chủ đã chi ít hơn nên xuất hiện mâu thuẫn và tranh chấp giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này ngày càng gay gắt. Để giải quyết mâu thuẫn này dần xuất hiện một bên thứ ba, đóng vai trò trung gian nhằm giải quyết mâu thuẫn và điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ. Điều đó thay cho việc giới chủ và giới thợ phải trả trực tiếp một khoản tiền khi người lao động bị ốm đau, tai nạn ... Giới chủ có thể trích ra hàng tháng một số tiền nhỏ được tính toán chặt chẽ dựa trên những biến cố của tập hợp những người lao động. Số tiền này giao cho bên thứ ba dồn tích thành một quỹ tiền tệ. Khi người lao động gặp rủi ro, bên trung gian sẽ chi trả theo cam kết không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không, làm như thế một mặt giới chủ đỡ khó khăn về mặt kinh tế do không phải chi trả một lúc những khoản tiền lớn, mặt khác người lao động làm thuê cũng được đảm bảo một phần thu nhập khi họ gặp rủi ro. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì cơ chế này bộc lộ nhiều bất cập, tính pháp lý không cao. Do vậy, nhiều chủ sử dụng lao động đã không tự giác tham gia, tính chất rủi ro còn quá lớn không có sự đảm bảo về tài chính một cách vững chắc. Trước tình hình đó, Nhà nước phải can thiệp điều chỉnh, sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, một mặt Nhà nước phải tăng chi tiêu ngân sách, đồng thời buộc giới chủ và thợ phải góp thêm một phần để đảm bảo cho chính mình. Từ đó, cả giới chủ và thợ đều được đảm bảo và họ thấy có lợi. Các nguồn đóng góp của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nước hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung- quỹ BHXH. Mặt khác, khi nền kinh tế ngày càng phát triển những rủi ro đi liền với nó cũng xuất hiện như thất nghiệp, tai nạn lao động, ốm đau, những rủi ro này gây ra thiệt hại về thu nhập ngày càng lớn hơn. Do vậy, BHXH cũng ngày càng phải hoàn thiện hơn để thích ứng với tình hình cụ thể. Như vậy, BHXH ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tế và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết phải tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao động và được thừa nhận là nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi cơ bản của con người như Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948: “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền được hưởng BHXH ...” 3.2. Tác dụng của BHXH. Trên cơ sở cương lĩnh công ước Giơnevơ (Công ước năm 1952) các quốc gia tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình mà có những hình thức tổ chức BHXH riêng phù hợp. Tuy vậy, ở tất cả các quốc gia đều có chung một điểm là: BHXH do Nhà nước thống nhất và quản lý. Từ khi BHXH xuất hiện đến nay, hoạt động này vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính cộng đồng, nhân văn lớn, điều này cũng có nghĩa là dù kinh tế có phát triển đến mức độ nào, dù có biến động như thế nào về thể chế chính trị, xã hội thì bản chất BHXH vẫn không thay đổi, vẫn là một trong những chính sách quan trọng của một quốc gia. BHXH có những tác dụng sau: a. BHXH nhằm giúp người lao động ổn định cuộc sống khi họ gặp rủi ro. Mục đích lớn nhất của BHXH là bảo đảm cuộc sống ổn định cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp rủi ro, giảm hoặc mất sức lao động ảnh hưởng đến thu nhập. Do đó, BHXH có tác dụng rất lớn đối với người lao động làm cho họ yên tâm với công việc. Nói là bảo đảm thay thế bù đắp một phần thu nhập cho người lao động là nói sự thay thế bù đắp đó nhất định phải xảy ra, chắc chắn xảy ra khi người lao động bị rơi vào các trường hợp làm giảm hoặc mất thu nhập nói trên và hội đủ các điều kiện quy định thì họ được hưởng trợ cấp với mức hưởng, thời điểm và thời gian hưởng theo quy định của Nhà nước. Ngoài ra, BHXH còn làm cho người lao động gắn bó hơn với công việc, sống và làm việc có trách nhiệm hơn đối với chính mình và đối với cộng đồng- điều này đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng suất, hiệu quả làm việc của người lao động. BHXH góp phần hạn chế và điều hoà các mâu thuẫn xảy ra giữa những người lao động và giới chủ, tạo môi trường làm việc ổn định cho tất cả các bên khi tham gia BHXH để từ đó tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. b.Gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. BHXH không chỉ bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro mà nó còn bảo vệ cho người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho họ ổn định tài chính để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. BHXH còn bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho người lao động góp phần tái sản xuất giản đơn sức lao động cho người lao động. Giúp người lao động nhanh chóng trở lại làm việc góp phần tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân. c. Phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia. Cũng giống như tất cả các loại hình bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” và vì vậy người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp cũng như trong quyền lợi nhận được từ quỹ BHXH. Tập hợp tất cả những người đóng BHXH thuộc tất cả các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Bao gồm tất cả các loại công việc từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc độc hại... Chính vì thế tính chất xã hội của BHXH là rất cao. BHXH phân phối lại thu nhập giữa các đối tượng khác nhau giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc và những người ốm đau bệnh tật, thai sản ... Thực hiện chức năng phân phối lại, BHXH cũng đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội. d. BHXH tập trung được nguồn vốn lớn cho phát triển sản xuất. Nguồn quỹ hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia cũng là nguồn vốn nhàn rỗi có thể dùng để đầu tư vào nền kinh tế quốc dân. Quỹ BHXH có thể có số dư và phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư cho các chương trình kinh tế, xã hội, vừa đóng góp vào xây dựng đất nước vừa làm tăng trưởng quỹ. Trong điều kiện hiện nay hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài ra, với chức năng giám đốc của mình, BHXH tiến hành kiểm tra, giám sát việc tham gia và thực hiện chính sách BHXH để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động theo những quy định của pháp luật. Qua đó tạo điều kiện để người lao động yên tâm làm việc, còn người sử dụng lao động chủ động hơn trong việc quản lý và sử dụng lao động trong quá trình hoạt động của mình. Chức năng giám đốc còn thể hiện ở các khâu nghiệp vụ của hoạt động BHXH và thực hiện chính sách BHXH. 4. Nội dung cơ bản của BHXH. 4.1.Đối tượng của BHXH BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ năm 1883, ở nước Phổ (CHLB Đức) đã ban hành đạo luật bảo hiểm y tế. Một số nước châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối những năm 1920 mới có đạo luật về BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, bị mất việc làm vì các nguyên nhân rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, già yếu ... Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý và sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững. 4.2. Các yêu cầu có tính nguyên tắc của BHXH. Lĩnh vực BHXH liên quan đến rất nhiều đối tượng, có phạm vi hoạt động rất rộng và thể hiện trên nhiều mặt khác nhau. Để thực hiện được chức năng là đảm bảo an toàn cho người lao động, khuyến khích người lao động trong quá trình làm việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội, hoạt động này phải tuân theo các nguyên tắc nhất định. Thực tế do tính chất hoạt động và mục đích của BHXH không hoàn toàn như nhau trong mọi điều kiện. Do vậy, không thể có những nguyên tắc chung thống nhất cho mọi trình độ phát triển, cho mọi hình thức BHXH ở tất cả các nước. Tuy nhiên, về cơ bản hoạt động BHXH phải đảm bảo thực hiện theo những yêu cầu mang tính nguyên tắc chung sau đây: a. Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và hưởng quyền lợi về BHXH. Yêu cầu này xuất phát từ quyền bình đẳng của mọi công dân trong xã hội, một quyền lợi cao nhất mà mọi quốc gia đều thừa nhận và cam kết thực hiện. Thực hiện yêu cầu này là sự đảm bảo mọi thành viên trong xã hội, trước hết là những người có nhu cầu tham gia vào lĩnh vực BHXH mà không hề có bất cứ một sự phân biệt nào. Nhà nước với tư cách là người quản lý toàn bộ và đại diện quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội có trách nhiệm đứng ra tổ chức hệ thống BHXH để đáp ứng nhu cầu đó. Việc đảm bảo thoả mãn nhu cầu này phải được thực hiện trên cơ sở một hệ thống pháp luật với những quy định luật pháp và chính sách thích hợp. Đồng thời phải dựa trên cơ sở một hệ thống tổ chức BHXH phát triển thống nhất và hoạt động có hiệu quả cao. Còn có một bộ phận lớn chưa tham gia vào BHXH chứng tỏ những hạn chế của hệ thống BHXH trong việc thực hiện nguyên tắc này. Đây là một vấn đề cần được giải quyết ở nước ta trong thời gian tới. b. BHXH phải: Đảm bảo cho người lao động về mức thu nhập để họ có thể duy trì được cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời cũng như khi hết tuổi lao động. c. BHXH vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính tự nguyện. Trước hết BHXH phải mang tính bắt buộc, đó là quá trình tiến tới xã hội hoá hoàn toàn BHXH và ở đây thể hiện rõ nhất vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực này. Tính bắt buộc được thể hiện trong các nghĩa vụ tham gia và đóng góp, bao gồm mức tiền đóng và thời gian tham gia theo mỗi chế độ của BHXH. Đó trước hết phải là trách nhiệm pháp lý của người lao động và người sử dụng lao động tham gia vào BHXH vì sự an toàn của cuộc sống không chỉ của mỗi cá nhân, một tổ chức mà đó còn phải là một sự an toàn lớn hơn đó là an toàn cả xã hội nói chung. Tính bắt buộc này, trong hầu hết các nước được thể chế hoá bằng các chính sách, các chế độ và những quy định của Chính phủ. Đỉnh cao của hiệu lực pháp lý này là Luật BHXH. Mặt tự nguyện trong một chừng mực nhất định chính là việc tạo cơ hội cho người lao động có nguyện vọng có thể có cơ hội và tự nguyện tham gia hay lựa chọn các hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp. Thực tế ở đây cần có sự khuyến khích để người lao động tham gia vào BHXH. Tính tự nguyện phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức, ý thức của người lao động trong xã hội, nó có thể thực hiện cho nhiều đối tượng và theo các loại hình khác nhau như tự nguyện tham gia vào một loại hình nào đó, nhất là đối với những người thuộc đối tượng bắt buộc, đã tham gia vào BHXH nhưng tự nguyện tham gia thêm một chế độ nào nếu thấy có thể được và có nhu cầu. d. Xác định mức đóng và hưởng. Tuỳ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế và của lĩnh vực BHXH mà có thể xác định một số mức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đa dạng về BHXH của người lao động. Mức đóng BHXH có liên quan đến thu nhập dùng để tính tỷ lệ đóng BHXH. Mức đóng và hưởng có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và số lượng tham gia vào BHXH. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu, thiết kế các chính sách và nội dung của từng chế độ cụ thể thích hợp trong BHXH. e. Đảm bảo tính công bằng trong xã hội. Đây là một nguyên tắc quan trọng nhưng cũng rất phức tạp trong xây dựng và thực hiện chính sách về BHXH. Sự công bằng trước hết phải được xét đến những mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ. Người đóng nhiều phải được hưởng nhiều hơn. Công bằng còn phải được thực hiện trong việc để cho người lao động có cơ hội tham gia vào BHXH. Tuy nhiên, cũng như các lĩnh vực bảo hiểm khác trong nhiều chế độ của BHXH vẫn mang tính chất bù trừ cho nhau giữa những người cùng tham gia BHXH. Đó là lấy số đông bù số ít, lấy thời gian dài trong đóng góp để tính trả cho thời gian hưởng. Đó cũng là tính xã hội, tính cộng đồng. Do vậy khó có được một sự công bằng mang tính tuyệt đối, nhưng phải đảm bảo sự hợp lý và trước hết vì lợi ích số đông của cộng đồng. Tính công bằng sẽ được nâng cao cùng với việc nâng cao trình độ tổ chức và quản lý trong lĩnh vực BHXH. 4.3. Các cấp độ thực hiện. Trong từng điều kiện khác nhau, trước hết là trình độ phát triển kinh tế, hay trong từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định của mỗi nước mà phạm vi và nội dung thực hiện khác nhau. Sự khác nhau này biểu hiện ở 3 cấp độ hoạt động của BHXH sau: - Cấp độ thứ nhất: BHXH áp dụng cho mọi thành viên trong xã hội, dưới hình thức như là bảo trợ xã hội. Đối tượng được hưởng BHXH ở đây là những người không có khả năng đóng phí BHXH. Đó là những người nghèo, những người không có thu nhập hoặc thu nhập thấp. Việc chi trả cho các đối tượng này được Nhà nước đứng ra đảm bảo. - Cấp độ thứ 2: BHXH thực hiện đối với những người có công việc làm tại các doanh nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước, Chính phủ... Họ là những người có thu nhập thấp, những người này thuộc đối tượng bắt buộc phải tham gia đóng phí BHXH để hình thành quỹ BHXH. Quỹ này là cơ sở tài chính cho các chế độ BHXH mà người đóng góp sẽ được hưởng. Tất nhiên trong chừng mực nhất định họ có thể có được sự hỗ trợ của Nhà nước. Những người này là đối tượng chính, chiếm phần chủ yếu trong tổng số những người tham gia và được hưởng quyền, lợi ích của BHXH. - Cấp độ thứ 3: BHXH mang tính tự nguyện. ở cấp độ này sẽ có những hình thức áp dụng cho những người tự nguyện lựa chọn một hay một số chế độ BHXH mà họ có nhu cầu hoặc những người có thu nhập cao tự nguyện lựa chọn các mức đóng để sau đó có mức hưởng tương ứng. Chẳng hạn có thể đóng nhiều hơn mức thông thường để sau đó được hưởng mức cao hơn. Ngành BHXH sẽ có chế độ và quy định riêng cho các đối tượng này cả về quản lý và tổ chức thực hiện cũng như trên phương diện hạch toán. Nhìn vào các cấp độ thực hiện của BHXH có thể thấy rõ BHXH là một trong những chỉ tiêu tổng hợp quan trọng đánh giá trình độ phát triển, trình độ văn minh, sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của một quốc gia. Những nước có nền kinh tế càng phát triển thì càng có điều kiện để phát triển những hoạt động BHXH của mình ở trình độ cao hơn. 4.4. Các loại chế độ BHXH. Theo công ước số 102 “Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội” quy định gồm có 9 chế độ BHXH như sau: Chăm sóc y tế. Trợ cấp ốm đau. Trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp tuổi già. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp gia đình. Trợ cấp thai sản. Trợ cấp tàn tật. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng. 4.5. Tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH Việt nam . Việc tổ chức thực hiện sự nghiệp BHXH do cơ quan BHXH Việt nam đảm nhiệm. BHXH Việt nam trực thuộc Chính phủ và có 3 cấp: cấp Trung ương; cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và cấp quận (huyện). BHXH Việt nam hoạt động dưới sự điều hành của Hội đồng quản lý BHXH Việt nam , chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ LĐ- TBXH. Cơ quan BHXH Việt nam có nhiệm vụ tổ chức thu BHXH, quản lý BHXH và chi các chế độ trợ cấp BHXH theo quy định của Nhà nước. II. Khái niệm chung về quỹ BHXH 1. Khái niệm quỹ BHXH. Trong đời sống kinh tế- xã hội người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác nhau như quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ dự trữ quốc gia. Tất cả các loại quỹ này đều có điểm chung đó là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo những mục tiêu và định hướng trước. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng và điều kiện vật chất để thực hiện các hoạt động BHXH. Tất cả các loại quỹ không chỉ tồn tại với một khối lượng tỉnh tại tại một thời điểm mà luôn luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với một khoản chi như một d._.òng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm được khối lượng của nó tại một thời điểm mà quan trọng hơn là phải nắm được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Theo những quan điểm nói trên về quỹ nói chung thì quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm. Như vậy, quỹ BHXH vừa là một quỹ tiêu dùng vừa là một quỹ dự phòng. Quỹ tiêu dùng được thể hiện ở mục đích chi của quỹ BHXH là cho những người hưởng BHXH, là một quỹ dự phòng thể hiện quỹ chi trả trợ cấp khi có rủi ro xảy ra và người lao động có thể được hưởng trợ cấp ở một thời điểm rất xa so với thời điểm đóng góp. Đồng thời quỹ BHXH còn mang tính chất kinh tế và mang tính chất xã hội cao, là điều kiện và cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. 2. Sự cần thiết của quỹ BHXH. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người lao động luôn phải gánh chịu, đương đầu với vô vàn các rủi ro. Những rủi ro đó có thể làm cho người lao động mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn, mất nguồn sống hay chết người, con cái mất nơi nương tựa, hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, để có nguồn thu nhập duy trì, ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình họ trong lúc gặp rủi ro hoặc tuổi già thì tất yếu phải lập quỹ dự trữ bảo hiểm thích hợp, đủ lớn để có thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình trong tương lai. Mặt khác do quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lức lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ họ còn phải làm nghĩa vụ sinh con, nuôi con và chăm sóc khi con ốm đau ... cũng đòi hỏi phải có quỹ bảo hiẻm giúp đỡ... Việc tạo lập quỹ BHXH cho người lao động những lúc gặp rủi ro bất ngờ hoặc lúc tuổi già có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, quỹ BHXH có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của người lao động. Trong thực tế không ai muốn mất việc làm hoặc mất, giảm khả năng lao động để được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH, do đó nó phù hợp với nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại thu nhập giữa những người lao động có thu nhập khác nhau, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc và những người đang ốm đau phải nghỉ việc hay giữa những người đang hưởng trợ cấp BHXH khác nhau. Từ đó cũng thấy rằng khả năng, vai trò của quỹ BHXH trong việc phân phối lại thu nhập và công bằng xã hội, động viên người lao động hăng hái làm việc: Khi người lao động đang làm việc sẽ có thu nhập, còn khi mất khả năng lao động thì họ lại được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Như vậy, họ đã có “van an toàn” để đảm bảo cuộc sống cho họ, đó là chỗ dựa vững chắc khi họ không có khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn và làm cho người lao động yên tâm gắn bó với công việc. Bên cạnh đó quỹ BHXH đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế - xã hội, khoản này không những tạo thêm khả năng mở rộng quỹ BHXH mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Qũy BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết hậu quả của rủi ro cho người tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, giảm thiểu tối đa thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước. Quỹ sử dụng để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro và một phần chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH. 3. Nguồn hình thành quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với sự nghiệp BHXH. Do đó, nguồn hình thành quỹ bao giờ cũng được quan tâm đúng mức nhằm đảm bảo chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH và đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả. 3.1. Sự đóng góp của người lao động Hệ thống BHXH ở các nước trên thế giới từ trước đến nay chủ yếu vẫn thực hiện trên nguyên tắc: Người tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ BHXH mới được hưởng trợ cấp BHXH. Người lao động tham gia đóng góp là để bảo hiểm cho mình, vừa thực hiện nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất ở đây người lao động đã dàn trải rủi ro theo thời gian. 3.2. Sự đóng góp của người sử dụng lao động . Người sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động. Đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của người sử dụng lao động. ở đây người sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xẩy ra rủi ro đối với người lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thường, vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi người lao động có nhu cầu BHXH. 3.3. Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Sự tham gia của Nhà nước thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với các thành viên trong xã hội. Trong hệ thống BHXH Nhà nước có thể tham gia trực tiếp hay gián tiếp. Sự tham gia của Nhà nước ở đây chủ yếu dưới hình thức bảo đảm giá trị đồng vốn cho quỹ trong một số trường hợp như bù lỗ những khoản thiếu hụt. 3.4. Các nguồn thu khác. Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau: - Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển quỹ BHXH. Nhưng phải chú ý là phần vốn nhàn rỗi mới được mang đi đầu tư. Bởi vì khi thực hiện các hoạt động này nếu bị rủi ro thì không ảnh hưởng đến phần quỹ BHXH chi trả cho các đối tượng được hưởng. - Các nguồn tài trợ và viện trợ khác ở trong nước, ngoài nước và cộng đồng quốc tế, kể cả các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân hảo tâm ... Tuy nhiên nguồn này không ổn định và không nhiều. - Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo các quy định của Nhà nước. - Các nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ được hưởng thụ. Thông thường sự đóng góp của ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước tạo ra nguồn quỹ cơ bản nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà tỷ lệ đóng góp của mỗi bên được quy định khác nhau. Ví dụ: ở Việt Nam, theo Nghị Định 12/CP (26/1/1995) đã quy định: Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung ngoài ngân sách Nhà nước được hình thành từ ba nguồn: + Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia trong đơn vị. + Người lao động đóng bằng 5% lương hàng tháng. + Ngân sách Nhà nước (NSNN) đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động. Nguyên tắc hoạt động của quỹ BHXH là cân đối thu- chi. 4. Phân loại quỹ BHXH. Để quản lý và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả cần phải phân loại quỹ BHXH. Có nhiều cách phân loại quỹ BHXH theo các tiêu thức khác nhau, có thể phân loại như sau: * Phân loại theo tính chất sử dụng. - Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nhẹ. - Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nặng. Quỹ này chịu ảnh hưởng của tài chính tiền tệ. * Phân loại theo các chế độ. - Quỹ hưu trí, tử tuất. - Quỹ TNLĐ và BNN. - Quỹ thất nghiệp. - Quỹ ốm đau, thai sản. * Phân loại theo đối tượng. - Quỹ cho công chức. - Quỹ cho lực lượng vũ trang. - Quỹ cho người lao động trong các doanh nghiệp. - Quỹ cho các loại lao động khác. 5. Quản lý quỹ BHXH. Chính sách BHXH không phải là hoạt động tinh thần mà nó phải giải quyết quan hệ xã hội cụ thể. Quản lý BHXH bao gồm hai phần khăng khít: Quản lý Nhà nước về BHXH (mặt vĩ mô) và quản lý BHXH về mặt sự nghiệp (về mặt thu chi tài chính, quản lý và sử dụng quỹ). ở Việt nam trước năm 1995 quỹ BHXH là một bộ phận của ngân sách Nhà nước, nguồn trích lập quỹ BHXH quá nhỏ nên không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu. Việc chi trả mới đảm bảo được 1/5 nhu cầu, còn lại 4/5 nhu cầu do ngân sách Nhà nước trang trải. Trên thực tế là quỹ BHXH không tồn tại. Vì đối tượng tham gia BHXH mới chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số lao động xã hội ở nước ta cho nên việc quản lý quỹ BHXH không đảm bảo tính tập trung, thống nhất mà lại chia cắt, phân tán do nhiều chủ thể cùng tham gia quản lý. Đứng trước thực trạng về quản lý quỹ BHXH như vậy nên ngày 16/2/1995 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt nam. BHXH Việt nam ra đời trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương do Bộ LĐ- TBXH và Tổng liên đoàn lao động Việt nam quản lý. BHXH Việt nam giúp Thủ tướng Chính phủ quản lý quỹ BHXH, thực hiện các chính sách BHXH theo luật pháp Nhà nước. BHXH Việt nam có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, được Nhà nước bảo hộ và quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. BHXH Việt nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quản lý của Nhà nước, của Bộ LĐ- TBXH và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, sự giám sát cua tổ chức công đoàn. III. Tình hình thực hiện BHXH ở một số quốc gia trên thế giới. 1. Mỹ. a. Đối tượng tham gia: ở Mỹ tất cả những người trong độ tuổi lao động là công dân Mỹ có thu nhập, kể cả những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc hộ gia đình và lao động tự cung tự cấp có thu nhập trên mức thu nhập tối thiểu (do Nhà nước quy định mức tối thiểu) đều phải nộp thuế (một hình thức đóng BHXH) hay còn gọi là thuế lương cho “quỹ BHXH”. b. Quỹ BHXH. Nguồn tài trợ cho các chế độ trợ cấp BHXH là từ thuế phúc lợi xã hội mà chính quyền liên bang thu. Trong số tiền lương của người lao động, chính quyền sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định. Sau đó đưa các khoản thu này vào các quỹ BHXH. Mức khấu trừ cụ thể: - Người sử dụng lao động: 13,65%. - Người lao động: 7,65%. Tổng cộng: 21,3%. Để được hưởng trợ cấp, người đóng BHXH phải nộp đến một mức nào đó. Chính quyền liên bang Mỹ có cách tính thống kê từng người đã nộp đủ tiền thuế hay chưa. Kể từ năm 1993, một người đóng BHXH nếu nộp đủ 590 $ thì được một điểm hưởng thụ. Mỗi người phải có đủ 40 điểm trong 10 năm trước khi nghỉ hưu. Như vậy, cơ chế thu BHXH ở Mỹ là vừa theo tỷ lệ trích nộp, vừa phải thu đến một “ngưỡng” do chính quyền quy định, cơ chế này có vẽ đơn giản. Mặt khác tỷ lệ đóng góp cũng không quá cao. c. Các chế độ BHXH. - Trợ cấp hưu trí. - Trợ cấp tử tuất. - Trợ cấp y tế. - Trợ cấp thương tật. 2. Pháp. a. Đối tượng tham gia. BHXH ở Pháp có mầm mống từ thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của cứu trợ công cộng và tương hỗ. Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH là những người lao động có thu nhập trong tất cả các thành phần kinh tế (Chính phủ quy định mức gọi là có thu nhập). b. Quỹ BHXH. Nguồn tài trợ quỹ BHXH được xác định theo một cơ chế hết sức phức tạp. Cụ thể như sau: - Quỹ BH y tế, thai sản, thương tật, chết: Sự đóng góp vào quỹ này được tách biệt ra hai khoản: Đóng cho rủi ro nghề nghiệp và rủi ro phi nghề nghiệp. Đối với rủi ro nghề nghiệp, nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên lương: Giới chủ đóng 12,8%, người lao động đóng 6,8%. Đối với rủi ro phi nghề nghiệp khoản này được thu trên lương do giới chủ đóng toàn bộ. Tỷ lệ đóng góp được xác định tuỳ theo số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp. - Quỹ trợ cấp hưu trí, goá bụa, trợ cấp gia đình: Nguồn tài trợ này cũng chủ yếu từ các khoảm đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Đối với trợ cấp hưu trí, người sử dụng lao động phải đóng bằng 9,8%, người lao động đóng 6,55% tiền lương, tổng cộng 16,35%. Để được hưởng trợ cấp goá bụa người lao động còn phải đóng góp 0,1%. Đối với trợ cấp gia đình người lao động, người sử dụng lao động phải đóng góp toàn bộ với tỷ lệ 5,4% lương của người lao động. c. Các chế độ BHXH. ở Pháp phạm vi BHXH bao gồm hầu hết các chế độ BHXH theo quy định của ILO (9 chế độ). 3. ở một số nước Đông á. ở Đông á, đối với những nước có nền kinh tế thị trường phát triển sớm trong khu vực, để tạo lập quỹ BHXH cũng dựa vào ba nguồn cơ bản: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Trước hết là người sử dụng lao động và người lao động phải đóng góp theo tỷ lệ trích vào lương cho từng chế độ trợ cấp. - ở Thái Lan, trợ cấp BHXH bao gồm: Thương tật, ốm đau, thai sản, mất khả năng lao động, tử tuất, tuổi già và thất nghiệp. Việc đóng BHXH theo cơ chế: người lao động nộp 1/3 trên thu nhập, giới chủ nộp 1/3 và Nhà nước 1/3. Ví dụ chế độ thất nghiệp quy định: người lao động đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 5% và Nhà nước 5%. - ở Nhật Bản: sự đóng góp vào quỹ BHXH cũng tương đối cao. Người lao động phải dóng từ 3,5% đến 4,6% thu nhập hàng tháng, giới chủ đóng từ 25,5% đến 30,5%, còn Nhà nước trợ cấp cho quỹ BHXH theo nhu cầu thiếu hụt. - ở Hàn quốc: Đối tượng tham gia là những người lao động thường xuyên ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, các viên chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, văn hoá giáo dục. Tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động tương tự ở Nhật Bản, phần tài trợ của Nhà nước là đáp ứng chi phí quản lý hành chính và hưu trí dài hạn cho 1/3 số người dân (có thu nhập thấp). Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển chính sách BHXH của các nước trên thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể: Góp phần đảm bảo đời sống cho mỗi người lao động và gia đình họ, thực hiện ổn định chính trị và an toàn xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, chính sách BHXH đã và đang được nghiên cứu đổi mới để hoàn thiện phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. * Những kinh nghiệm rút ra được từ hoạt động BHXH của các nước trên thế giới. Qua kinh nghiệm các nước trên thế giới có hoạt động BHXH, các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển chúng ta có thể học hỏi được một số vấn đề sau: Việc xây dựng một mô hình BHXH phải phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và tính hiệu quả của các cơ chế và chính sách biện pháp thu BHXH. Có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ một thể chế kinh tế, xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc ít hay nhiều, điều này còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy việc đề ra các chính sách BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có thể thu hút được ngày càng nhiều đối tượng tham gia; vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an toàn của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH căn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào mức lương của người lao động dùng làm căn cứ đóng BHXH trước khi về hưu. Việc sử dụng các nguồn thu thuế từ lương của người lao động và người sử dụng lao động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân làm việc trên lãnh thổ nước mình và công dân nước mình làm việc ở nước ngoài nhưng có đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế này, Chính phủ các nước này cho rằng không cần thiết có một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện chi BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng xã hội, vì vậy những người được hưởng các chế độ BHXH đều nhận được các khoản phúc lợi xã hội vượt quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây dựng hệ thống BHXH theo kiểu này chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế phát triển, những nước có mức phúc lợi xã hội cao. Trước đây, chúng ta đã xây dựng mô hình BHXH gần tương tự như mô hình này. Tuy vậy, nó đã không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế- xã hội Việt nam bởi sự bao cấp quá lớn của ngân sách Nhà nước và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế. Như vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt nam trong từng thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường việc tăng cường khả năng đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước là một trong những hướng chính trong việc xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH ở Việt nam hiện nay. Chương II: Thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. I. Vài nét về BHXH ở Việt Nam. 1. Chính sách BHXH giai đoạn trước năm 1995. ở nước ta, dưới thời thuộc Pháp, chính quyền Pháp đã thực hiện BHXH đối với công chức và quân nhân Việt nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và lực lượng vũ trang của Pháp với các chế độ ốm đau , hưu trí, tử tuất. Sau khi nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Chính phủ Việt nam đã ký và ban hành nhiều văn bản pháp Luật về BHXH: Sắc lệnh 54/SL ngày1/1/1945 ấn định những điều cho công tác về hưu. Sắc lệnh 165/SL ngày 14/6/1945 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này quy định công chức phải đóng hưu liểm và trong quỹ hưu bổng phải có thêm phần đóng góp của Nhà nước. Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với viên chức. Trong khu vực sản suất, lúc này chưa thành lập quỹ BHXH, nhưng sắc lệnh 19/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã ấn định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, thực hiện hiến pháp năm 1959 Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệnh tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961. Các chế độ BHXH bao gồm 6 loại trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Theo Điều lệ tạm thời, quỹ BHXH được chính thức thành lập thuộc Ngân sách Nhà nước. Các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước chỉ nộp một tỷ lệ phần trăm so với tổng quỹ lương. Công nhân viên chức Nhà nước không phải đóng góp cho quỹ BHXH. Có thể chia giai đoạn này thành 2 thời kỳ như sau: Thời kỳ từ năm 1962 đến quý II năm 1964: Trong giai đoạn này Tổng công đoàn Việt nam (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt nam) chịu trách nhiệm quản lý 6 chế độ BHXH nói trên. Thời kỳ từ quý II năm 1964 đến Nghị định 12/CP (ngày 26/1/95). Ngày 20/3/63 Chính phủ ra Nghị định 31/CP giao trách nhiệm quản lý BHXH cho 2 tổ chức: Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam tổ chức và thực hiện 3 chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bện nghề nghiệp. Bộ Nội vụ (nay là Bộ LĐ-TBXH) quản lý và thực hiện 3 chế độ dài hạn còn lại. Ngày 10/4/64 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 62/CP giao nốt trách nhiệm quản lý một phần quỹ BHXH cho Bộ Nội vụ. Ngày 22/6/93 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời các chế độ BHXH. Đây là một bước đệm trước hết nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp để lại trong lĩnh vực BHXH. Nghị định này đã quy định rõ đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, các chế độ nguồn hình thành quỹ BHXH. Nghị định này ra đời, nói chung là phù hợp nguyện vọng của người lao động ở các thành phần kinh tế và phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế nước ta.Tuy nhiên do tình hình kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, số lượng hưởng chính sách BHXH lao động lại đông, vì vậy chính sách BHXH này chưa thể hoàn toàn hợp lý và để BHXH đáp ứng được nhu cầu của người dân, đảm bảo an toàn cuộc sống cho họ. Điều này được biểu hiện ở những hạn chế sau: - Các chính sách BHXH cũ được thực hiện ở phạm vi đối tượng hạn hẹp công nhân viên chức Nhà nước, chưa mở rộng ra các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội. - Các chế độ quản lý BHXH phân tán cho 2 hệ thống thực hiện . - Nhà nước hỗ trợ số lớn từ ngân sách do thu không đủ chi, cơ chế quản lý chưa tập trung thống nhất, một số kẻ hở đã hình thành trong cơ chế quản lý tài chính, quản lý đối tượng tham gia BHXH ngày một nhiều và rõ nét hơn. Đó là đóng BHXH không đầy đủ, khai man về tuổi đời và thời gian công tác. Quản lý về chế độ ốm đau, thai sản lỏng lẻo theo cơ chế khoán gây lãng phí thất thoát tài sản của Nhà nước. - Mối quan hệ giữa người lao động, người SDLĐ và cơ quan BHXH bị tách rời, thiếu chặt chẽ, chưa phối hợp thực hiện chính sách BHXH. - Các chính sách BHXH mạng nặng bao cấp, cơ chế tạo nguồn quỹ riêng chưa có, tất cả trở thành gánh nặng đối với Nhà nước. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước cùng các ngành hữu quan có liên quan nghiên cứu, sửa đổi nhiều mặt về tổ chức và cơ cấu quản lý BHXH cho phù hợp với tình hình mới của đất nước. 2. Chính sách BHXH giai đoạn từ năm 1995 đến nay. Trước sự đổi mới mạnh mẽ về nhiều mặt kinh tế - xã hội, một thực tế khách quan đặt ra là công tác BHXH cũng cần có những đổi mới, điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới. Đáp ứng nhu cầu thực tế khách quan đó, ngày 26/1/1995. Chính phủ ban hành nghị định 12/CP và kèm theo Điều lệ BHXH đã làm cho hoạt động BHXH ở Việt nam có sự thay đổi lớn. Điều lệ BHXH mới này cụ thể hoá những nội dung về BHXH đã được quy định trong Bộ Luật lao động nhằm đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho những người tham gia BHXH và gia đình họ trong các trường hợp người tham gia BHXH bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng lao động, hết tuổi lao động hoặc chết. Điều lệ này sửa đổi chỉ còn 5 chế độ BHXH cụ thể là: - Trợ cấp ốm đau. - Trợ cấp thai sản. - Trợ cấp TNLĐ -BNN. - Trợ cấp hưu trí. - Trợ cấp tử tuất. Quy định các đối tượng sau đây phải áp dụng các chế độ BHXH bắt buộc: + Người lao động làm việc trong các cơ quan Nhà nước. + Người lao đông làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sủ dụng từ 10 lao động trở lên. + Người lao động Việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt nam, trừ trường hợp điều ước Quốc tế mà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. + Ngưòi lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể. + Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang . + Người giữ chức vụ dân cử, dân bầu làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. + Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. Các đối tượng trên đi học, thực tập,công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. Người lao động và người sử dụng lao động phải đóng phí BHXH để thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn thu BHXH và sự trợ cấp của Nhà nước và được quản lý thống nhất. Tiếp theo ngày 16/2/1995 Chính phủ ra Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt nam. Từ ngày 1/10/1995, hệ thống BHXH Việt nam bước vào hoạt động trên phạm vi toàn quốc. Sự ra đời của BHXH Việt nam là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển BHXH Việt nam. Trong giai đoạn này, sự thay đổi quan trong nhất trong quản lý BHXH là quỹ BHXH được quản lý tập trung, độc lập, nằm ngoài ngân sách Nhà nước, toàn bộ hoạt động về thu chi, bảo tồn và phát triển quỹ BHXH đều do cơ quan BHXH Việt nam thực hiện. BHXH Việt nam chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ và dưới sự quản lý Nhà nước của Bộ LĐ - TBXH, Bộ Tài chính và Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam. II. Thực trạng quản lý quỹ BHXH ở Việt nam . 1. Giai đoạn trước năm 1995. Sau khi thành lập nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Chính phủ ta đã có các sắc lệnh 27/SL, 76/SL và 77/SL ban hành một số chính sách về BHXH nhằm ổn định tình hình chính trị xã hội lúc bấy giờ, đảm bảo quyền lợi cho cán bộ công nhân viên chức làm việc cho Nhà nước. Do điều kiện tài chính hạn hẹp, nên Chính phủ phải quy định 2 chính sách BHXH, đó là trợ cấp hưu trí và trợ cấp tử tuất. Đồng thời Chính phủ Việt nam đã quy định mức đóng góp để có nguồn chi cho các chế độ trên, cụ thể: Nhận xét về chế độ BHXH lúc bấy giờ, các nhà hoạch định chính sách phát triển xã hội cũng như các nhà kinh tế học Việt nam cho rằng Chính phủ ta đã sớm tiếp thu những chính sách kinh tế xã hội, trong đó có chính sách BHXH. Chính sách này tuy sơ khai nhưng đã phản ánh được những mặt tiến bộ nhất định về mặt hình thành một quỹ BHXH, nguồn tạo quỹ chủ yếu dựa vào những đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, mức trợ cấp cũng được tính một tỷ lệ thấp phù hợp với mức đóng góp và khả năng tài trợ của quỹ. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước (Theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961) và được áp dụng từ năm 1962, trải qua năm tháng, các nội dung của BHXH có nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, nhưng nhìn chung vẫn được thực hiện theo cơ chế tập trung bao cấp. Với cơ chế này quỹ BHXH không tồn tại độc lập mà là một bộ phận nằm trong ngân sách Nhà nước với các nguồn thu cơ bản là : + Các cơ quan, xí nghiệp, các nông lâm quốc doanh (gọi chung là các đơn vị Nhà nước) hàng tháng trích nộp vào quỹ BHXH một khoản tiền bằng 4,7 % so với tổng quỹ lương của đơn vị mình (Phần này được tính trong chi phí giá thành đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh). + Tiền bù cấp của ngân sách Nhà nước trong những trường hợp cần thiết. + Các khoản thu khác như tiền ủng hộ, tiền viện trợ . Như vậy, nếu Qbh là: Quỹ Bảo hiểm thì cơ cấu quỹ như sau: Qbh = Đđv + Đns + Tk Trong đó: Đđv : Số tiền đóng góp bằng 4,7% quỹ lương của đơn vị Nhà nước. Đns : Phần bù của ngân sách Nhà nước. Tk : Các khoản thu khác. ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang khoản trích này vào quỹ BHXH do ngân sách Nhà nước cấp, còn ở các đơn vị sản xuất kinh doanh khoản trích nộp như đã nêu trên được tính vào chi phí giá thành. Nói chính xác trong cơ chế tập trung bao cấp chỉ có trích nộp của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nhưng bản thân các xí nghiệp quốc doanh cũng hoạt động theo cơ chế “Cấp phát giao nộp ”. Cho nên quỹ BHXH suy cho cùng là do ngân sách Nhà nước đài thọ. Mặt khác trên thực tế trong quá trình hoạt động qũy BHXH luôn luôn thâm hụt vì số lượng công nhân viên chức nghỉ hưu, nghỉ mất sức tăng nhanh, nên dẫn đến thu BHXH đã mất cân đối. Trong giai đoạn này, chế độ BHXH dường như là một đặc ân của Nhà nước đối với công nhân viên chức Nhà nước. Người lao động chỉ cần vào biên chế Nhà nước là đồng nghĩa với việc được công nhận hưởng chế độ BHXH. Từ đó tạo nên tâm lý “Yên tâm lao động suốt đời” trong khu vực Nhà nước, tư tưởng đó cùng với chế độ đãi ngộ bình quân, không thoả đáng đã làm triệt tiêu tinh thần sáng tạo của người lao động. Cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH ở giai đoạn này theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961, Chính phủ giao cho Tổng công đoàn quản lý quỹ BHXH cũng như toàn bộ sự nghiệp BHXH. Tổng Công đoàn và Ngân hàng Việt nam chịu trách nhiệm lập kế hoạch thu chi quỹ BHXH và thực hiện việc chi trả trợ cấp BHXH theo quy định của Nhà nước. Theo điều lệ thì quỹ BHXH bao gồm các khoản chi sau: - Chi trả 6 chế độ trợ cấp BHXH - Chi cho quản lý và các hoạt động sự nghiệp, bao gồm trả lương và phúc lợi cho cán bộ, công nhân viên phục vụ, chi phí hành chính, chi phí sửa chữa nhỏ, nuôi dưỡng thêm cho những người hưởng trợ cấp hưu trí vào các nhà dưỡng lão, chi phí cho công nhân viên chức đi nghỉ mát. Theo đó cơ cấu chi của quỹ BHXH: Qbhxh = Ctc + Cql + Ck Trong đó: Ctc: Là chi trả các trợ cấp BHXH cho các chế độ hưu trí, mất sức lao động, TNLĐ và BNN, ốm đau, thai sản và tử tuất. Cql: Là chi quản lý cho các khoản chi phí hành chính, lương cán bộ công nhân viên... Ck: là các khoản chi khác. Đến ngày 20/3/1961 Chính phủ đã ra Quyết định 31/CP điều chỉnh lại trách nhiệm quản lý quỹ BHXH và các chế độ chi trả. Trước đó là chỉ có Tổng công đoàn quản lý, nhưng từ ngày 01/01/1964 sẽ giao ba chế độ dài hạn: Hưu trí, mất sức lao động và tử tuất cho Bộ TB-XH (nay là Bộ LĐTB-XH ) quản lý. Còn các chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN vẫn do Tổng Công đoàn quản lý. Như vậy, quỹ BHXH do hai cơ quan quản lý và sử dụng vào mục đích chi trả cho các chế độ nhưng được điều chỉnh theo cơ chế tập chung bao cấp, quỹ là một bộ phận nằm trong ngân sách Nhà nước, cứ chi cho các chế độ, thiếu bao nhiêu ngân sách bù bấy nhiêu. Người lao động tức là công nhân viên chức không cần phải đóng mà chỉ cần vào biên chế Nhà nước là có quyền được hưởng BHXH. Còn vấn đề thu của quỹ BHXH, hàng tháng cơ quan, đơn vị nộp khoảng bằng 1% của tổng quỹ lương của đơn vị cho cơ quan Bộ TB-XH để phục vụ các chế độ dài hạn, 3,7% nộp cho Tổng Công đoàn nhưng được giữ lại cơ sở để trực tiếp đơn vị chi trả cho các chế độ ngắn hạn kịp thời nếu chi không hết thì nộp lên cho Công đoàn cấp trên, nếu chi thiếu thì Công đoàn cấp trên sẽ bù lại phần thiếu đó. Do vậy trong giai đoạn này quỹ BHXH gặp rất nhiều khó khăn do những yếu tố bất lợi trên. Để hiểu rõ hơn ta đi tìm hiểu chi tiết hơn từng cơ quan quản lý trong giai đoạn này. a. Quỹ BHXH do Tổng liên đoàn lao động Việt nam quản lý. * Thời kỳ 1962- 1963 Thời kỳ này quỹ BHXH chỉ do Tổng Liên đoàn lao động quản lý, để quản lý tốt ngày 2/4/1962 Tổng Công đoàn Việt nam ra Quyết định số 364 xây dựng các nguyên tắc quản lý và phân cấp chế độ thu chi BHXH theo 3 cấp: - Tổng công đoàn Việt nam là cấp tổng dự toán thu chi BHXH - Liên hiệp công đoàn tỉnh, thành phố và một số công đoàn ngành và Bộ là đơn vị dự toán cấp I. - Công đoàn cơ sở là đơn vị dự toán cấp II. Công tác quản lý thu, chi được quy định cụ thể cho từng cấp theo nguyên tắc trên duyệt dự toán hàng quý, hàng năm cho cấp dưới. Việc thu nộp BHXH từ các cấp công đoàn cơ sở lên các đơn vị dự toán cấp I được tính theo phương pháp thu chênh lệch giữa số phải nộp với số tạm ứng chi cho các chế độ BHXH tại các đơn vị dự toán cấp II. Cơ chế hạch toán trên đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế, phù hợp với tình hình tổ chức bộ máy và trình độ của cán bộ lúc bấy giờ. Nhờ vậy mà công tác thu BHXH đã đạt được tỷ lệ cao đáp ứng được nhu cầu chi lúc bấy giờ, thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình thu- chi quỹ BHXH do Tổng LĐLĐVN qu._.ng nhất, không chia lẻ quỹ cho các Bộ ngành quản lý. - Kiện toàn Hội đồng quản lý - cơ quan cao nhất của BHXH Việt nam trên cơ sở mở rộng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và số lượng thành viên của Hội đồng quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và thực hiện thu, chi, quản lý quỹ BHXH, bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản lý trong công tác đầu tư tăng trưởng quỹ, được quyền xem xét và lựa chọn thêm các phương án đầu tư thích hợp. - Thành lập thêm đơn vị trực thuộc BHXH Việt nam để chuyên trách giúp Tổng giám đốc trong công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. 2.4. Nhà nước tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế. Với cơ chế kinh tế mới, Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất kinh doanh như tạo hành lang pháp lý cho việc sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thêm về vốn, công nghệ... giúp các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động vào làm việc. Đây là điều kiện thuận lợi để BHXH Việt nam tăng số người tham gia BHXH đồng thời tăng thu BHXH. Song vấn đề là Nhà nước phải duy trì được sự phát triển ổn định, các doanh nghiệp ăn nên làm ra và thu nhập của người lao động được đảm bảo. Đối với quỹ BHXH, Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo hỗ trợ đầy đủ, kịp thời vào quỹ BHXH để quỹ chi trả cho các chế độ BHXH như lương hưu và các trợ cấp khác cho người nghỉ hưu và các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH trước năm 1995. Có như vậy mới đảm bảo cho quỹ BHXH tồn tại và phát triển, đồng thời nhằm ổn định đời sống cho các đối tượng và ổn định xã hội. 3. Về mặt quản lý sự nghiệp BHXH. 3.1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Hiện nay, dân số nước ta khoảng 76 triệu người, trong đó có khoảng 45 triệu lao động, nhưng mới chỉ có khoảng hơn 3,5 triệu lao động tham gia BHXH. Do đó, số lao động chưa tham gia BHXH là rất lớn, những người này bao gồm các lao động trong các doanh nghiệp dưới 10 lao động, lao động ở nông thôn, lâm nghiệp. Như vậy, để thực hiện bình đẳng xã hội cần đa dạng hoá các loại hình BHXH để đảm bảo mọi người lao động trong tất cả các thành phần kinh tế có thể tham gia BHXH. Hiện nay đối tượng tham gia BHXH bao gồm: Các đối tượng đang thực hiện theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt nam. - Người làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. - Người làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. - Người giữ chức vụ dân bầu, dân cử và những người làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. - Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. Các đối tượng trên đều hưởng 5 chế độ BHXH hiện hành. Các đối tượng thực hiện theo Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 của Thủ tướng Chính phủ. - Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng cả 5 chế độ. - Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí (bản thân không phải đóng BHXH) được hưởng 2 chế độ: trợ cấp TNLĐ- BNN và chế độ tử tuất. Các đối tượng quy định tại Nghị định 09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ. - Bí thư đảng uỷ xã. - Phó bí thư đảng uỷ xã, Chủ tịch HĐND xã, Chủ tịchUBND. - Phó chủ tịch HĐND xã, Phó chủ tịch UBND xã, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Trưởng các đòan thể (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn TNCS), xã đội trưởng, trưởng công an xã. - Uỷ viên UBND xã. - Bốn chức danh chuyên môn: địa chính, tư pháp, tài chính kế toán, văn phòng UBND. Mở rộng thêm các đối tượng: - Người làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động. - Người làm việc trong các hợp tác xã phi nông nghiệp. - Người làm việc trong thuộc các đơn vị, cơ sở ngoài quốc doanh, các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh có thuê mướn lao động. - Các tổ chức bán công, dân lập có thuê mướn lao động thuộc các ngành: giáo dục, văn hoá, du lịch... - Người nước ngoài làm việc tại Việt nam. Để tạo nguồn thu cho quỹ BHXH bằng cách mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến mọi người lao động thì phải quy định các loại hình BHXH thích hợp. Bộ Luật lao động cũng đã quy định 2 hình thức BHXH bắt buộc và tự nguyện. Loại hình BHXH bắt buộc mới chỉ thực hiện đối với các đối tượng đã nêu trên. Cho nên trong thời gian tới loại hình BHXH bắt buộc phải cần phải được pháp luật quy định áp dụng đối với tất cả người lao động làm việc trong các đơn vị có quan hệ lao động tức là có quan hệ thuê mướn. Cụ thể có thể mở rộng BHXH bắt buộc đến người lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng 5 lao động trở lên. Xu hướng trong những năm tới lực lượng lao động ngoài quốc doanh sẽ tăng lên ngày càng nhanh do việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế và sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ và thương mại. Do vậy bảo vệ quyền lợi cho họ, thực hiện bình đẳng xã hội nên áp dụng loại hình BHXH bắt buộc. Loại hình BHXH tự nguyện việc thực hiện rất khó khăn vì lực lượng lao động đa dạng, phức tạp, vừa mang tính chất thương mại, vừa mang tính chất xã hội tuỳ thuộc rất nhiều vào nhu cầu thị trường, mùa vụ và khả năng nắm bắt thông tin về các đối tượng này rất phức tạp. Do đó, loại hình BHXH tự nguyện cần phải nhanh chóng cụ thể hoá bằng văn bản pháp Luật. Loại hình này thực hiện cho các đối tượng sau: + Xã viên hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. + Người lao động tự do. + Nhữmg người lao động tham gia BHXH thuộc diện bắt buộc muốn tham gia thêm BHXH tự nguyện. Trong trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện không có khả năng đóng BHXH do các nguyên nhân khách quan thì cung nên được hưởng trợ cấp 1 lần, hoặc được bảo lưu tiền đóng BHXH đến khi người tham gia có điều kiện tiếp tục đóng BHXH. Số tiền đóng và số năm tham gia đóng BHXH được cộng dồn. Quỹ BHXH tự nguyện phải hoàn toàn hạch toán độc lập, cân đối thu chi. Nghĩa là có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo hình thức trên đây một mặt bảo đảm sự bình đẳng xã hội, một mặt tạo nên sự lớn mạnh của quỹ BHXH, gắn chặt quyền lợi của người lao động với quỹ BHXH đưa quỹ trở thành một công cụ xã hội quan trọng. 3.2. Bổ sung hoàn thiện mức thu BHXH. Hệ thống BHXH của Việt nam là hệ thống chuyển đổi, hiện tại số người thụ hưởng BHXH chủ yếu từ trước năm 1995. Vì vậy, số tiền từ Ngân sách Nhà nước chuyển sang cho quỹ BHXH rất lớn (bình quân khoảng 5000 tỷ đ/năm) để chi trả cho các đối tuợng này. Tuy vậy phần tiền này sẽ giảm dần đi vì số người hưởng sẽ giảm. Ngược lại phần đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động sẽ ngày càng tăng vì số người tham gia ngày càng đông. Tuy nhiên, do hệ thống chuyển đổi nên có một bộ phận khá đông người lao động hiện đang tham gia BHXH, đã có thời gian làm việc khá dài trong các cơ quan Nhà nước (bình quân 15 năm/người) trong thời gian đó họ không phải đóng BHXH. Số người này trong tương lai sẽ về hưu rất nhiều. Do vậy, hiện nay số dư của quỹ BHXH khá lớn nhưng phải chi trả cho số người đã có thời gian làm việc từ trước năm 1995 nhiều nên quỹ sẽ có sự thâm hụt. Cần tiếp tục lấy nguyên tắc hạch toán cân đối thu - chi quỹ làm căn bản trong chính sách BHXH. Trên cơ sở nguyên tắc này, cần xác định mức đóng và mức trợ cấp cần hợp lý theo từng thời kỳ, phù hợp với sự biến động của giá cả và khả năng tăng trưởng quỹ BHXH. Tính toán nâng mức đóng BHXH là một nội dung hết sức quan trọng, tuy rằng nâng cao mức đóng BHXH là hết sức khó khăn, liên quan đến thu nhập của người lao động và chi phí đầu vào của sản xuất ở các doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta như hiện nay thì mức thu BHXH 20% trên lương, trong đó người lao động 5%, chủ sử dụng lao động 15% là phù hợp. Tỷ lệ này ở một số nước trong khu vực là từ 20% đến 40%. Nếu nâng mức đóng của người lao động lên nữa sẽ ảnh hưởng đến đời sông của người lao động. Vì mức thu nhập bình quân hiện nay chỉ từ 300.000đ đến 400.000đ/người. Sau khi đóng BHXH và các khoản đóng góp khác, người lao động chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu. Còn đối với chủ sử dụng lao động, tuy khoản đóng góp 15% được hạch toán vào giá thành sản phẩm, nhưng trong điều kiện sức mua của thị trường có hạn thì khó có thể tăng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động. Vì tăng mức đóng BHXH lên sẽ làm tăng giá thành, người tiêu dùng không chấp nhận, dẫn đến doanh nghiệp thua lỗ nên không có khả năng đóng BHXH. Đương nhiên, nếu mở rộng ra các chế độ trợ cấp BHXH thì cũng phải tính đến nguồn bù đắp. Và lúc đó phải tính đến việc tăng phí đóng góp BHXH cho tương xứng với mức hưởng thêm các chế độ mới. Ví dụ: nếu Nhà nước cho áp dụng chế độ thất nghiệp thì ít nhất cũng phải thu thêm 5% trong đó người lao động phải đóng thêm 1%, chủ sử dụng lao động đóng thêm 4%, mức đóng này so với các nước còn thấp. Ví dụ: Thái lan đóng 15% lương cho chế độ thất nghiệp, trong đó người lao động đóng 5%, chủ sử dụng lao động đóng 5% và Nhà nước đóng 5%. 3.3. Chống thất thu nợ đọng BHXH. Thực tế là đang có quá nhiều đơn vị sản xuất nhỏ và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thậm chí ngay cả doanh nghiệp Nhà nước cũng trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động. Theo thống kê, hiện nay số nợ đọng BHXH lên đến 500 tỷ đồng, tức khoảng 12% số thu BHXH. Việc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động bởi BHXH Việt nam sẽ đứng trước khả năng thiếu hụt nguồn chi trả. Theo thống kê của BHXH Việt nam, hiện 80% doanh nghiệp với 73% lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc nhưng vẫn chưa tham gia BHXH. Hình thức man trá trong thu, chi BHXH chủ yếu vẫn là giả mạo hồ sơ hoặc khai không đúng tuổi đời, năm công tác để hưởng chế độ BHXH, chậm cắt giảm đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động khi hết thời hạn được hưởng. ở mốt số địa phương, tình trạng cắt chậm từ 1 đến 6 tháng là phổ biến. Việc cắt giảm định suất tuất cũng xảy ra tương tự. Bên cạnh đó là việc lập chứng từ giả, khai không đúng thời gian để hưởng chế độ ốm đau, thai sản, vừa hưởng tiền quỹ BHXH, vừa hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai giảm số lao động và quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Từ những thực trạng trên có thể thấy nhiều điểm trong Điều lệ BHXH qua thời gian đã bộc lộ kẻ hở. Ví dụ: Điều lệ quy định doanh nghiệp có 10 lao động hợp đồng từ 3 tháng trở lên mới có nghĩa vụ đóng BHXH. Các doanh nghiệp khai thác triệt để điều này để luồn lách. Họ chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng, sử dụng lao động theo mùa vụ (nhưng thực chất là làm việc liên tục), kê khai lao động chính thức dưới xuống 10 người để không bị bắt đóng BHXH. Cũng phải thấy rằng một số chế độ BHXH đối với người lao động còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội và sự dịch chuyển nhanh chóng cơ cấu trong lao động. Thậm chí hệ thống chính sách BHXH chưa đồng bộ và tính pháp lý chưa cao, quyền lợi của người lao động chưa được quan tâm thoả đáng, trong thực hiện còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan BHXH với các cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức công đoàn. Cùng với đó là cơ chế quản lý BHXH chưa hoàn thiện, hoạt động còn mang tính hành chính và chưa thực sự trở thành một cơ quan dịch vụ vì lợi ích của người lao động. Phải coi việc triển khai công tác BHXH ở các khu vực kinh tế là nhằm đạt tới sự công bằng cho mọi người lao động có quyền tham gia BHXH. Cần phải xử lý nghiêm minh và kiên quyết những vi phạm trong việc thực hiện chính sách BHXH, mức xử phạt cần cao hơn, nếu cần thiết phải đưa ra truy tố trước pháp Luật. Giao thêm quyền xử lý cho BHXH Việt nam để tăng thêm tính cưỡng chế trong việc chấp hành chế độ và chính sách BHXH. 3.4. Công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Trước yêu cầu phải tăng cường khả năng duy trì và phát triển nguồn quỹ BHXH để có thể ngày càng giảm sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước thì nhiệm vụ của BHXH Việt nam trong thời gian tới phải nghiên cứu tìm ra được hình thức đầu tư vừa an toàn, vừa có hiệu quả cao. BHXH có liên quan, ảnh hưởng đến nhiều đối tượng trong xã hội, đặc biệt là người lao động và gia đình họ. Chính vì vậy, để có được hình thức đầu tư vừa đảm bảo an toàn, vừa có hiệu quả cao thực sự là bài toán khó đặt ra đối với BHXH Việt nam. Tại mục 2, Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ- TTg ngày 26/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ có quy định: BHXH Việt nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ như: + Mua trái phiếu, tín phiếu của Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại Nhà nước. + Cho vay đối với ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại Nhà nước. + Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ. Như vậy, trong 3 nội dung phân cấp đầu tư thì chỉ có nội dung thứ 3 là phải có sự chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và được Chính phủ bảo lảnh còn 2 nội dung trên Nhà nước phân cấp cho BHXH Việt nam được quyền quyết định đầu tư, Chính phủ không phải chỉ định và không được Chính phủ bảo trợ. Nhiều ý kiến cho rằng, sự phân cấp đó chưa thật phù hợp, chưa đảm bảo cho việc bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển quỹ BHXH, trong thời gian tới Chính phủ cần có những chính sách hợp lý cho hoạt động đầu tư, tránh tình trạng số tiền đầu tư lại nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lạm phát hàng năm. Vấn đề đầu tư của quỹ BHXH cần phải thực hiện các biện pháp sau: - Cần phải chia ra 2 loại đầu tư: + Nếu cho ngân sách Nhà nước vay theo chỉ định của Chính phủ thì có thể thực hiện với mức lãi suất thấp, ưu đãi, dưới mức lãi suất cho vay trên thị trường. Vì ngân sách Nhà nước vay là không phải để kinh doanh, mà để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế quốc dân, hoặc chi theo mục đích của Chính phủ. + Nếu cho các ngân hàng thương mại vay thì phải theo mức lãi suất của thị trường. Vì các ngân hàng thương mại vay là để kinh doanh lấy lãi. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại theo thị trường, trong khi đó lãi suất đi vay của quỹ BHXH lại theo lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất đi vay trên thị trường. Khoản lợi nhuận đó các ngân hàng thương mại được hưởng, gây thiệt hại đến quỹ BHXH của người lao động. - Bổ sung nội dung phân cấp như sau: + Thêm mua công trái xây dựng tổ quốc vào nội dung nhất. + Thêm đoạn cuối: Được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ ở nội dung thứ 2. + Phải nói rõ các dự án và doanh nghiệp lớn được phép đầu tư ở nội dung thứ 3. Có như vậy mới làm rõ được trách nhiệm, quyền hạn của BHXH Việt nam đến đâu, còn lại phải có sự chỉ định của Chính phủ. Nhưng nói chung, dù có phân cấp quyền hạn và trách nhiệm trong việc đầu tư quỹ BHXH thì BHXH Việt nam và Chính phủ đều phải bảo đảm nguyên tắc trong đầu tư tăng trưởng quỹ thì mới đảm bảo quỹ BHXH được bảo tồn và tăng trưởng. - Về hình thức đầu tư: Ngoài các hình thức đầu tư như hiện nay, Chính phủ nên cho phép quỹ BHXH được đầu tư dưới hình thức liên doanh, góp vốn cổ phần vào các ngành sản xuất kinh doanh đang có lãi cao và thu hồi vốn nhanh như: Điện tử viễn thông, các khu công nghiệp kỹ thuật cao, chế biến dầu khí, sự nghiệp xã hội (xây dựng cơ sở hạ tầng). Tuy vậy, đối với mỗi dự án cần có sự thẩm định kỹ lưỡng về mọi phương diện để đảm bảo đầu tư an toàn và có hiệu quả. 3.5. Hoàn thiện quy chế quản lý chi BHXH. * Về tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH: Nhìn tổng quát trên mặt bằng quy định tại công ước 102 của ILO và kinh nghiệm của các nước thì tỷ lệ hưởng BHXH ở nước ta là cao, trong khi mức đóng BHXH của nước ta lại thấp hơn của các nước và công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH lại chưa phát triển, còn bị hạn chế nhiều. Từ thực tế đó có thể cảnh báo quỹ BHXH của nước ta trong tương lai không xa sẽ bị mất cân đối, lúc đó ngân sách Nhà nước tất yếu sẽ phải trợ giúp mới đảm bảo chi trả đủ cho các đối tượng. Để hạn chế sự mất cân đối của quỹ BHXH cùng với các biện pháp nghiên cứu tăng thu, tăng trưởng quỹ, ngay từ bây giờ phải xem xét mức hưởng và điều kiện hưởng của một số chế độ. Ví dụ: Trợ cấp hưu trí, điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí ở nước ta Điều 145 Bộ Luật lao động quy định: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, có thời gian đóng BHXH 20 năm. Quy định điều kiện nghỉ hưu như vậy là phù hợp tình hình thực tế nước ta và cũng phù hợp với đa số các nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong một số ngành nghề đặc thù, tuổi về hưu lại quá thấp, như quân đội có trường hợp 38 đến 40 tuổi đã về hưu, hoặc phổ biến đối với các ngành nghề độc hại, nặng nhọc được Nhà nước cho phép nghỉ hưu trước 5 tuổi so với quy định. Việc giảm tuổi về hưu có ý nghĩa cân đối cung cầu về lao động trong giai đoạn hiện nay. Nhưng giảm tuổi về hưu lại có ảnh hưởng rất lớn đến cân đối quỹ BHXH vì các lý do sau: + Giảm 5 năm đóng BHXH. + Tăng chi lương hưu cho người lao động thêm 5 năm (tính theo tuổi thọ bình quân). + Tăng chi phí mua bảo hiểm y tế cho người về hưu thêm 5 năm nữa. + Tăng thêm một số chi phí khác. Như vậy, nếu giảm tuổi về hưu cũng có nghĩa là quỹ BHXH sẽ phải giảm năm đóng BHXH của một người lao động và quỹ BHXH sẽ phải chi thêm hàng nghìn tỷ đồng. Đây là vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến quỹ BHXH. Tổ chức ILO đã khuyến cáo các nước thành viên vấn đề này. Hiện nay, xu hướng của các nước trên thế giới là tăng tuổi về hưu. Vì vậy, đối với nước ta cũng phải tính đến việc tăng tuổi về hưu để đảm bảo cân đối quỹ BHXH. *Tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí: Điều 67 công ước 102 của ILO quy định người về hưu được hưởng 40% lương đóng BHXH. ở nước ta, tỷ lệ này tối đa là 75% mức lương đóng BHXH. Trước mắt nước ta chưa thể kéo tỷ lệ trợ cấp xuống như mức quy định của ILO. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, thu nhập người lao động nâng cao, lúc đó sẽ phải nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ trợ cấp hưu trí xuống để tạo cân đối quỹ BHXH. Ngoài ra ở một số nơi có một số trường hợp lơi dụng BHXH để trục lơi cá nhân và đã gây không ít thiệt hại cho quỹ BHXH. Để có thể ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất cơ quan BHXH cần có biện pháp sau: + Rà soát lại các văn bản quy định điều kiện hưởng BHXH. + Thường xuyên kiểm tra các doanh nghiệp và cơ quan khi có những biến động bất thường về tình trạng ốm đau, thai sản để hạn chế tiêu cực. + Trong việc cấp phát sổ hưu cũng cần có sự quản lý chặt chẽ giữa các địa phương nhằm tránh tình trạng một người về hưu có nhiều sổ hưu ở nhiều địa phương khác nhau. + Nên có hình thức xử phạt thích đáng đối với cá nhân và tổ chức lợi dụng BHXH để trục lợi. 3.6. Công tác thanh tra, kiểm soát tài chính đối với quỹ BHXH. Do nguồn quỹ BHXH nước ta còn nhỏ và yêu cầu phát triển quỹ nhằm đảm bảo thu đủ chi nên trong thời gian tới cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát công tác thu chi BHXH. Phải quản lý chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng, kể cả đối tượng đang tham gia, đang hưởng và đối tượng đã cắt chế độ BHXH nhằm tránh các hiện tượng tiêu cực tham ô, móc ngoặc gây thất thoát kinh phí. Thực hiện chi trả đúng đối tượng, đúng định mức và đúng chế độ. Quỹ BHXH phải được kiểm toán trong quá trình quản lý và sử dụng nhằm đảm bảo trật tự kỹ cương quản lý tài chính Nhà nước đối với hoạt động của quỹ BHXH. Việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các Bộ và các cơ quan chức năng. 3.7. Công tác đào tạo cán bộ. Để tăng cường công tác quản lý thu, chi BHXH và thực hiện khoán chi hoạt động bộ máy BHXH Việt nam cần phải có một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt. BHXH là một ngành có chuyên môn sâu nhưng hầu hết số cán bộ làm công tác BHXH hiện nay loại chủ yếu có chuyên môn về kinh tế, tài chính, xã hội, họ chưa được đào tạo chuyên về BHXH. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong thời gian tới công tác cán bộ ngành BHXH tập trung thực hiện các mặt sau: - Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức của ngành sao cho phù hợp với năng lực chuyên môn và nhiệm vụ được giao. - Tuyển lựa thêm một số cán bộ, công chức đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt là các chuyên gia giỏi, trẻ để thực thi nhiệm vụ thay thế trong tương lai. - Nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại bán bộ công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong các năm tới. Đội ngũ cán bộ, công chức của ngành phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, yư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp BHXH. Với những người cán bộ, công chức như vậy việc quản lý BHXH nói chung và quản lý quỹ BHXH nói riêng sẽ có hiệu quả hơn. 3.8. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH. Nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của mọi người lao động và chủ sử dụng lao động về chính sách, chế độ BHXH, cần phải coi thông tin tuyên truyền là nhiệm vụ quan trọng trong thời gian hiện tại cũng như lâu dài, cần phải chủ động và có biện pháp phối hợp chặt chẽ thường xuyên, với nội dung, hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng thu hút được sự quan tâm của mọi người. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH đòi hỏi phải có sự tham gia, phối hợp giữa cá cơ quan, các tổ chức chính trị xã hội đặc biệt là tổ chức công đoàn và các cơ quan thông tin đại chúng. để thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền cần phải làm tốt các vấn đề sau: + Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động thông tin tuyên truyền. + Đầu tư cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác thông tin tuyên truyền từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố. + Đầu tư phương tiện, trang thiết bị làm việc để đảm bảo cho hoạt động thông tin tuyên truyền. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền về BHXH sẽ giúp người lao động hiểu rõ hơn ý nghĩa, trách nhiệm và quyền lợi của việc tham gia BHXH, từ đó thúc đẩy họ tham gia BHXH nhằm tăng thu cho quỹ BHXH. 3.9. ứng dụng tin học vào công tác quản lý BHXH. Hiện nay, công tác quản lý BHXH như quản lý thu, chi BHXH, quản lý đối tượng hưởng BHXH, công tác hạch toán kế toán, công tác quản lý cán bộ trong ngành hầu hết còn là thủ công. Khoa học công nghệ, tốc độ thông tin phát triển như vủ bão. Vì vây, hiện đại hoá biện pháp quản lý bằng công nghệ tin học là một đồi hỏi cấp thiết. Song song với việc xây dựng trụ sở làm việc, xây dựng cơ sở hạ tầng mạng lưới thông tin cần phải trang bị kịp thời các máy móc, thiết bị kỹ thuật nhằm đảm bảo đầy đủ các điều kiện làm việc tối thiểu cho cán bộ, công chức của ngành thực hiện tốt và hiệu quả sự nghiệp BHXH. Bên cạnh trang bị máy móc, thiết bị kỹ thuật cần phải quan tâm đến việc bồi dưỡng kiến thức khoa học, công nghệ và ứng dụng các phần mềm vào quản lý BHXH thống nhất. 3.10. Công tác cấp sổ BHXH. Công tác này không chỉ có vai trò quan trọng đối với người lao động mà còn đối với cơ quan BHXH. Đối với người lao động, nó ghi nhận sự đóng góp vào quỹ BHXH của từng người, trong từng giai đoạn theo lương tháng. Trên cơ sở đó tính mức lương hưởng BHXH theo chế độ. Giúp người lao động giám sát kết quả đóng BHXH của người sử dụng lao động, việc thực hiện các chế độ của cơ quan BHXH. với việc quản lý sổ giúp cơ quan BHXH tận thu được tiền đóng BHXH tránh bỏ sót, tạo ra cách quản lý thống nhất để giải quyết các chế độ BHXH một cách chính xác, đúng đối tượng.Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc trong công tác cấp sổ BHXH là hồ sơ để được cấp sổ như do gián đoạn công tác, thất lạc hồ sơ gây khó khăn cấp sổ cho người lao động. Cơ quan BHXH cần có phương thức tháo gỡ những vướng mắc trên để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có được sổ BHXH. Như vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng quỹ BHXH thì công tác cấp sổ BHXH là một trong những vấn đề đáng được quan tâm, cần phải có các văn bản quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải có trách nhiệm kê khai, giúp người lao động có được sổ BHXH. 3.11. Hợp tác trong nước và quốc tế. Sự hợp tác trong nước về công tác BHXH tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác BHXH tốt hơn trên toàn quốc đó là việc giám sát chặt chẽ đối tượng tham gia, giải quyết chi trả chế độ BHXH chính xác đúng đối tượng. Bên cạnh đó các cơ quan BHXH ở địa phương có thể học hỏi được các phương cách làm việc có hiệu quả, có sự hợp tác trong việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Để hoàn thiện hơn nữa chính sách BHXH ở Việt nam thì việc hợp tác với các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế cũng rất cần thiết. Bên cạnh học hỏi được kinh nghiệm, những vấn đề mới trong công tác BHXH còn có thể có được sự hỗ trợ về phương tiện kỹ thuật và tài chính thông qua các chương trình viện trợ, cho vay, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trên thế giới. Do vậy, Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc đặt quan hệ hợp tác của cơ quan BHXH Việt nam với các nước, các tổ chức quốc tế. Trên đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt nam. Các giải pháp đưa ra yêu cầu phải có sự phối hợp đồng bộ thì mới đạt được hiệu quả hơn. Kết luận Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bả vệ che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách chế độ BHXH, cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng được đổi mới căn bản. Nội dung quan trọng nhất của việc đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH là việc hình thành quỹ BHXH tập trung thống nhất, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của các bên tham gia BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH theo Luật định. Chủ sử dụng lao động và người lao động phải tham gia đóng BHXH thì người lao động mới được hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, không đóng không hưởng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được đầu tư tăng trưởng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nội dung đổi mới về cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng đã bộc lộ ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần hơn nữa vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội bên cạnh những đổi mới chung về chính sách BHXH thì quỹ BHXH cũng phải không ngừng được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Đề tài “Hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam” đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện đổi mới hơn nữa cơ chế quản lý quỹ BHXH. Trên đây là những kết quả nghiên cứu của đề tài. Hoàn thành được đề tài này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự đóng góp , giúp đỡ tích cực của thầy giáo và các cán bộ Vụ BHXH. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình kinh tế bảo hiểm - trường ĐHKTQD Hà nội 2. Một số vấn đề về chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay -1996 3. Tạp chí lao động và xã hội năm 1998, 1999, 2000, 2001 4. Bộ Luật lao động 5. Nghiên cứu đào tạo tài chính bảo hiểm xã hội. 6. Quy hoạch tổng thể bảo hiểm xã hội của bảo hiểm xã hội Việt Nam 7. Đề tài khoa học: Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội. 8. Hội thảo về bảo hiểm xã hội năm 2000 9. Chính sách xã hội một số vấn đề lý luận và thực tiễn 10. Hệ thống các văn bản hiện hành về bảo hiểm xã hội XB 1995 11. Đề tài khoa học “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính BHXH Việt nam” 12. Tạp chí BHXH các số năm 2000, 2001. Mục lục Lời nói đầu Chương I Lý Luận Chung Về Bảo Hiểm Xã Hội Một số vấn đề tổng quan về BHXH Khái niệm BHXH ...........................................................................3 Bản chất BHXH .............................................................................5 Sự cần thiết và tác dụng của BHXH................................................7 Nội dung cơ bản của BHXH...........................................................10 Khái niệm chung về Quỹ BHXH Khái niệm Quỹ BHXH...................................................................15 Sự cần thiết Quỹ BHXH..................................................................16 Nguồn hình thành Quỹ BHXH......................................................17 Phân loại quỹ BHXH......................................................................18 Quản lý Quỹ BHXH........................................................................19 Tình hình thực hiện BHXH ở một số quốc gia trên thế giới Mỹ....................................................................................................20 Pháp..................................................................................................20 ở một số nước Đông á.................................................................. 21 Chương II Thực Trạng Quản lý quỹ BHXH Vài nét về BHXH ở Việt Nam Chính sách BHXH giai đoạn trước 1995 ................................... 24 Chính sách giai đoạn 1995 dến nay ........................................... 25 Thực trạng quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam Giai Đoạn trước 1995 .................................................................. 27 Giai đoạn từ 1995 đến nay ......................................................... 42 Chương III Hoàn Thiện Và Đổi Mới Quản Lý Quỹ BHXH Việt Nam Đánh giá những khó khăn và thuận lợi Khó khăn ....................................................................................... 78 Thuận lợi .......................................................................................81 Dự báo về nhu cầu BHXH ở Việt Nam Dự báo về nhu cầu tham gia BHXH ...........................................82 Dự báo quỹ BHXH ........................................................................86 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới quản lý Quỹ BHXH Việt Nam Một số quan điểm về cơ chế quản lý Quỹ BHXH ......................89 Về mặt quản lý nhà nước ..............................................................92 Về mặt quản lý sự nghiệp ..............................................................95 Kết Luận Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0050.doc