Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước có nhiệm vụ : “....thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, chính sách thuế đối với hàng

doc153 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1931 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa xuất khẩu” [8, tr43]. Hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế tất yếu có ảnh hưởng đến mọi quốc gia trên thế giới, xu thế này đã tạo ra sự gia tăng mạnh mẽ các dòng lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn - công nghệ, nguồn nhân lực lao động,.. giữa các quốc gia cùng với sự tăng lên không ngừng của lượng hành khách, phương tiện xuất nhập cảnh. Yêu cầu của việc thực hiện lộ trình dỡ bỏ các rào cản thương mại đang là áp lực rất lớn đối với các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh nêu trên, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một đòi hỏi tất yếu khách quan, nó mang lại nhiều cơ hội để phát triển kinh tế đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức, khó khăn cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung. Với những nỗ lực cải cách, mở cửa, tập trung ưu tiên cho hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển thương mại, thúc đẩy quá trình hội nhập trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước mà rõ nét nhất là nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm và đặc biệt là Việt Nam đã trở thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên, cũng chính quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã kéo theo sự gia tăng của các loại tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác, đặc biệt là hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và gian lận thương mại. Điều này đang đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng cần nghiên cứu, xây dựng các giải pháp tăng cường công tác khám phá, ngăn chặn hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, trong đó ngành Hải quan đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong các năm qua, ngành Hải quan đã không ngừng cải cách, phát triển, hiện đại hoá nhằm nâng cao năng lực trong hoạt động thực thi nhiệm vụ nói chung và năng lực đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại nói riêng, đã tích cực phối hợp với các lực lượng, ngành chức năng như: Công an, Quản lý thị trường, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng,… đã thu được nhiều kết quả khả quan trong công tác khó khăn và gian khổ này. Tuy nhiên tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại vẫn là vấn đề bức xúc, nóng bỏng và ngày càng có xu hướng tinh vi, xảo quyệt hơn. Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan luôn là một lĩnh vực được chú ý và quan tâm, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực đặc thù này, nhưng hầu hết đều là những đề tài nghiên cứu sâu trong chuyên ngành luật như đề tài luận văn thạc sỹ của Quách Đăng Hòa về “Điều tra của lực lượng Hải quan đối với các vụ án buôn lậu qua tuyến đường biển Việt Nam " hay đề tài luận văn thạc sỹ của Đặng Công Thành về “Thẩm quyền điều tra hình sự của Hải quan Việt Nam”.... Tuy nhiên hiện chưa có công trình nghiên cứu hay đề tài nghiên cứu toàn diện về công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. Vì vậy học viên chọn đề tài “Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Từ nghiên cứu hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. - Phạm vi nghiên cứu là những chính sách, giải pháp của ngành Hải quan và những kết quả, hạn chế trong hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2002 đến nay 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic đồng thời còn sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp chuyên gia….để làm rõ nội dung nghiên cứu. 5. Những đóng góp của luận văn - Làm rõ thực trạng hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan trong thời gian qua. - Đưa ra các dự báo về tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong những năm tới đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chương 2: Thực trạng hoạt động của ngành Hải quan trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI 1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 1.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề buôn lậu, gian lận thương mại Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều gắn chặt với thị trường: Sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ gì, khối lượng bao nhiêu ? sản xuất bằng cách nào ? ai sẽ nhận hàng hoá - dịch vụ sau khi sản xuất ra ? tất cả đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường và thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Thị trường là tập hợp các thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá - dịch vụ. Trong thị trường, người mua và người bán hàng hoá - dịch vụ tác động với nhau hình thành cung cầu hàng hoá - dịch vụ, sự tương tác giữa cung - cầu hàng hoá - dịch vụ trên thị trường hình thành giá cả thị trường. Thị trường điều tiết cung - cầu - hàng hoá - dịch vụ, mối quan hệ kinh tế giữa người mua, người bán, giữa nhà sản xuất kinh doanh với khách hàng thông qua mua bán bằng tiền trên thị trường. Trong kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế đều tiền tệ hoá, khi tiền tệ tham gia vào quá trình lưu thông hàng hoá thì trao đổi hiện vật trực tiếp cũng không tồn tại. Tiền tệ có mặt trong lưu thông, làm cho quá trình trao đổi nhanh hơn, thúc đẩy quy mô sản xuất tăng lên và đời sống nhân dân được nâng cao. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động thương mại phát triển và nó có vị trí rất quan trọng. Thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất, nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương mại hoặc để tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. Ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu tạo ra sự liên tục của quá trình tái sản xuất, khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu của người khác, để trao đổi mua bán hàng hoá. Không thể nói đến sản xuất hàng hoá mà không nói đến thương mại. Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu hút lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận, kinh doanh thương mại trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai. Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thông qua việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy phân công xã hội tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất. Thương mại kích thích sự phát triển lực lượng sản xuất, trong đó lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác áp dụng khoa học và công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời, cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, chuyên môn và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới, lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Thương mại một mặt, làm cho nhu cầu trên thị trường trung thực với nhu cầu, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu. Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng về loại hình, kiểu dáng, mẫu mã chất lượng sản phẩm. Điều này tác động ngược lại với người tiêu dùng, làm bật dậy các nhu cầu tiềm năng. Tóm lại thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và là nguồn gốc rễ cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh. Thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển. Điều đó giúp chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi thế so sánh, từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến nước ta thành bộ phận của phân công lao động quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, thương mại thể hiện sự tự do mua bán theo giá cả thị trường, người mua và người bán được tự do lựa chọn bạn hàng, ở đó có sự gắn kết giữa sản xuất với thương mại. Thương mại cũng là một chức năng của sản xuất hàng hoá, giữa các doanh nghiệp, các vùng và quốc gia thực hiện cơ chế mở trong mua bán trao đổi hàng hoá. Thực tế, trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, thương mại phát triển có những mặt tích cực nhưng bên cạnh đó có những mặt tiêu cực. Vì mục tiêu lợi nhuận đã làm phát sinh tư tưởng sùng bái đồng tiền, chạy theo cuộc sống giàu có mà không tôn trọng pháp luật, làm giàu bất chính, đó là tệ nạn “buôn lậu và gian lận thương mại”. Từ lợi dụng cơ chế tự do buôn bán lưu thông hàng hoá, một số người đã kinh doanh trái pháp luật, gian lận thương mại để kiếm lời. Tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại là một nhược điểm rất lớn trong nền kinh tế thị trường, nó bóp méo vai trò của thương mại đi ngược lại với bản chất của thương mại. Thương mại có tác động tích cực đối với nền kinh tế, ngược lại tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại lại tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Việc nghiên cứu hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại để hạn chế tác hại của nó là rất cần thiết. Do vậy, để đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại đem lại hiệu quả trước hết phải có nhận thức đầy đủ về buôn lậu và gian lận thương mại trong kinh tế thị trường như thế nào? * Khái niệm về buôn lậu Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa rất khác nhau. Từ góc độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa là buôn bán những hàng hoá trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những hiểu biết xưa nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thông hiện nay. Theo tài liệu của Tổ chức Hải quan thế giới dành cho các điều tra viên về gian lận thương mại thì hành vi buôn lậu được khái niệm như sau: “Đó là hành vi đưa hàng hoá vào trong lãnh thổ một quốc gia hay đưa hàng hoá ra khỏi lãnh thổ đó mà vi phạm pháp luật hay các quy định hiện hành của quốc gia đó, trốn tránh hay có ý định trốn tránh nộp thuế Hải quan bằng cách không khai báo hoặc trốn tránh không chịu sự kiểm tra của cơ quan chức năng” [27, tr57]. Từ khái niệm nêu trên cho thấy, từ “buôn lậu” được chia làm hai loại như sau: - Trốn tránh hoặc tìm có cách trốn tránh nộp thuế/lệ phí theo quy định hoặc - Nhập khẩu, xuất khẩu hay có tìm cách nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá nằm trong những mặt hàng cấm theo quy định của pháp luật, các chính sách hay hạn ngạch khác. Từ xa xưa, trong "Quốc triều Hình luật" của triều Lê (1428 - 1788) được xem là Bộ Luật hình sự hoàn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt Nam, tội danh buôn lậu không được quy định. Mặc dù vậy "Quốc triều Hình luật" đã quy định "những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hoá lên bờ thì bị xử biếm (cách chức), phạt gấp 3 tang vật để sung công …" Những người bán ruộng đất ở bò cõi, binh khí; các thứ chất nổ có thể chế hoả tiễn, hoả pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém", "bán mắm muối ra nước ngoài … thì bị xử đi Châu Xa". Các mặt hàng cấm xuất khẩu lúc đó được quy định gồm: ruộng đất, thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng, vàng da trâu, gỗ lim, vỏ quế, trân châu, ngà voi … Những hành vi cụ thể, tách biệt nói trên trong tiềm thức xã hội đều được gộp chung lại là hiện tượng buôn lậu chứ không có tội danh buôn lậu. Trước năm 1985, thuật ngữ "tội buôn lậu" đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (30/6/1982). Song về cơ bản tội danh "buôn lậu" lúc đó chưa được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu thành và dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng của các quan niệm truyền thống, cho rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép, trốn thuế, đầu cơ tích trữ, làm hàng giả, buôn bán hàng cấm. Từ năm 1985, Bộ luật Hình sự ra đời (27/06/1985) đã chính thức ghi nhận tội danh buôn lậu. Điều 97 của Bộ Luật Hình sự tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định: "Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm …". Bắt đầu từ đây, tội danh buôn lậu đã được xác định với bốn yếu tố cấu thành tội phạm (các mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ quan) và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nên đã có tác dụng hướng dẫn nhận thức cũng như chỉ đạo thực phi pháp luật. Từ năm 1986, đất nước chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, tình hình buôn lậu có xu hướng gia tăng. Đến năm 1999, trước yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 10, ngày 21/12/1999, Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung, sửa đổi Bộ luật hình sự, tại Điều 153 của Bộ luật, tội buôn lậu được quy định thành một tội độc lập (đã tách tội vận chuyển trái hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định tại Điều 154 Bộ luật hình sự): Như vậy, về mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý hoặc những vật phẩm có giá trị khác.....”. Hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới” là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, được xác định như sau: - Buôn bán qua biên giới, trái với quy định về quản lý hải quan những hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc hàng hóa là các vật phẩm thuộc di tích, lịch sử văn hóa hay hàng cấm có số lượng lớn. Hành vi đó thường được thể hiện dưới một số hình thức như: không khai báo, khai báo gian dối; giả mạo giấy tờ dùng trong xuất, nhập khẩu; giấu hàng hoá tiền tệ; không đi qua các cửa khẩu hoặc trốn tránh sự kiểm tra, giám sát của Hải quan, Thuế vụ, Bộ đội biên phòng, Công an..... - Không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. * Khái niệm về gian lận thương mại Gian lận thương mại theo Từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc" trong hoạt động thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian thương" tức là "người có nhiều mưu mô lừa lọc", "kẻ buôn bán gian lận và trái phép". Gian lận được coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói hoặc cử chỉ, hành động không đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa người khác. Trong dân gian gian lận thương mại gắn liền với thành ngữ "buôn gian, bán lận" và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khóe lừa lọc khách hàng hoặc người khác để thu lời bất chính. Hành vi "buôn gian, bán lận" trong dân gian được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo điêu, buôn bán hàng cấm, lén lút, giấu giếm, lậu thuế … Hành vi gian lận thương mại trước hết phải là hành vi gian lận được thể hiện trong lĩnh vực thương mại. Chủ thể của hành vi gian lận thương mại là các chủ hàng, có thể là người mua hoặc người bán, cũng có khi là cả người mua và người bán. Mục đích của hành vi gian lận thương mại là nhằm thu lợi bất chính từ thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá. Như vậy, gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là những hành vi gian lận thương mại của chủ hàng trong hoạt động xuất khẩu để trốn tránh việc kiểm soát và quản lý của Hải quan. Vấn đề này được Hội đồng Hợp tác Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan thế giới) chú ý từ những ngày mới thành lập. Trong Bản khuyến nghị về giúp đỡ hành chính lẫn nhau do Hội đồng Hợp tác Hải quan quốc tế đưa ra ngày 5/12/1975 cũng đã đề cập vấn đề giúp đỡ hành chính lẫn nhau về chống gian lận thương mại. Qua nhiều lần bổ xung, thảo luận, đến 9/6/1977 định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan mới được Hội đồng Hợp tác Hải quan quốc tế đưa ra trong Công ước quốc tế về hỗ trợ hành chính lẫn nhau trong ngăn chặn, trấn áp và điều tra các vi phạm Hải quan - Công ước Nairobi. Khái niệm về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan được Công ước Nairobi nêu ra như sau: "Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là hành vi phạm pháp luật Hải quan trong đó một cá nhân lừa dối Hải quan để nhằm lẩn tránh một phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, việc áp dụng các biện pháp cấm hoặc hạn chế do luật pháp Hải quan quy định, hoặc thu được một khoản lợi nhuận nào đó qua việc vi phạm pháp luật này". Về khái niệm này đã khái quát được hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan, hành vi đó được thể hiện bằng sự lừa dối thông qua hành động lẩn tránh việc nộp thuế và tuân thủ pháp luật hải quan nhằm mục đích thu được một khoản lợi nào đó. Thực tế, trong bối cảnh hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, song song với xu thế này là những hoạt động gian lận thương mại cũng ngày càng phức tạp, tinh vi. Điều đó cho thấy, khái niệm trên chưa thể hiện được một cách đầy đủ, chính xác hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan. Vì vậy, tại hội nghị quốc tế lần thứ V về chống gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan do Tổ chức Hải quan thế giới triệu tập tại Brussels (Bỉ) từ ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995 đã xem xét lại khái niệm về gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan và thống nhất đưa ra một khái niệm mới như sau: "Gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm các điều khoản pháp quy hoặc pháp luật hải quan nhằm: - Trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuế hải quan, phí và các khoản khu khác đối với việc di chuyển hàng hoá thương mại và/hoặc: - Nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hoá không thuộc đối tượng đó và/hoặc: - Đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các nguyên tắc và tập tục, cạnh tranh thương mại chân chính". Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động gian lận thương mại ngày càng đa dạng và tình tinh vi phức tạp hơn. Hội nghị đã thống nhất phân chia các hình thức gian lận thương mại thành 16 loại: 1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải quan (thí dụ: Buôn bán động vật quý hiếm, sản phẩm văn hoá …) 2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá. 3. Khai tăng, giảm giá trị hàng hoá. 4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá (ví dụ: Nhà nước ta có chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hoá của các nước ASEAN, Trung Quốc,..). 5. Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng hoá gia công. 6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng hoá được miễn thuế xuất nhập khẩu nhưng đã sử dụng sai mục đích ). 7. Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (thí dụ các loại giấy phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng, cho y tế, văn hoá, xã hội …) 8. Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước (ví dụ: hàng của Lào, Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam). 9. Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá. 10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, buôn bán trái phép hàng hoá được sử dụng nhất định (ví dụ: Hàng cho đồng bào bị bão lụt, cho các dân tộc miền núi để xoá đói giảm nghèo, hàng cho các cơ quan ngoại giao…). 11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ người tiêu dùng. 12. Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã. 13. Buôn bán hàng không có sổ sách 14. Làm giả, làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế Hải quan (thí dụ: Làm giả chứng từ về hàng đã xuất …) 15. Kinh doanh "ma" để hưởng tín dụng thuế trái phép. 16. Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (ví dụ: Công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản). Nhìn chung, đối với các nước trên thế giới, tuỳ thuộc vào mức độ tác hại, hậu quả của các hành vi gian lận thương mại đó mang lại cho xã hội sẽ bị xử lý hành chính hay xử lí hình sự. Đối với nhiều nước như Mỹ, Nhật, Pháp bên cạnh việc áp dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi này theo luật Hải quan, còn quy định trong Luật Hình sự các tội danh cụ thể tương ứng với những hành vi đó. Hiện nay, một vấn đề mới trong gian lận thương mại mà Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) cũng đang rất quan tâm đó là gian lận thương mại trong chuyển tải hàng hoá xuất nhập khẩu. Chuyển tải là một khâu cần thiết trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, nhằm đưa hàng hoá từ nơi này đến nơi khác nhưng phải đi qua một số địa điểm nhất định nào đó. Tuy nhiên, đôi khi chủ hàng sử dụng hoạt động chuyển tải để che giấu xuất xứ thực sự của hàng hoá và đó là gian lận thương mại trong chuyển tải. Do vậy, gian lận thương mại trong chuyển tải được hiểu như sau “Gian lận trong chuyển tải là việc sử dụng một nước thứ 3 để giấu nguồn gốc thực sự của hàng hoá, che mắt Hải quan của nước nhập khẩu”. Tại nước thứ 3, người ta cung cấp các tài liệu giả hoặc có hoạt động gian dối nhằm thay đổi nguồn gốc hàng từ xuất khẩu sang nước quá cảnh (hay nước thứ 3). Như vậy đến khi nhập vào, họ tránh được hạn chế đặt ra của nước nhập như: hạn ngạch, li xăng, chế độ ưu đãi.,… Qua thực tế cho thấy, một số dạng gian lận thương mại qua chuyển tải là : - Hàng hoá đưa vào một cảng hoặc một kho ở nước chuyển tải ở đây chúng có thể thay thế được nhãn rồi lại bốc lên tàu và xem như sản phẩm của nước chuyển tải hoặc một số nước nào đó. - Hàng đưa vào nước chuyển tải là hàng hoàn chỉnh hoặc bán sản phẩm nhưng được khai là nguyên nhiên phụ kiện được coi là nguyên liệu để sản xuất hoặc để chế biến và nghiễm nhiên trở thành sản phẩm của nước chuyển tải. - Hàng mang giấy tờ giả để chứng minh là hàng của nước thứ 3 trên đường đi từ nước xuất hàng đến nước nhập hàng. 1.1.2. Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thương mại Gian lận thương mại dù không phải là một tội danh trong Bộ luật hình sự, nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu và buôn lậu cũng bao gồm gian lận thương mại. Theo nghiên cứu khoa học về tội phạm thì gian lận thương mại thực chất là những hành vi, thủ đoạn cụ thể để gian dối nhằm có được lãi suất cao trong kinh doanh, buôn bán nói chung, nhưng nếu sự gian lận đó được thực hiện để nhằm buôn bán trái phép qua biên giới thì đó chính là các hành vi trong mặt khách quan của tội buôn lậu. Hội nghị Quốc tế lần thứ năm (1995) về chống gian lận thương mại của Tổ chức Hải quan thế giới tại Brussels (Bỉ) đã xếp buôn lậu vào trong các hình thức gian lận thương mại, nhưng coi đó là loại hình gian lận thương mại nguy hiểm, đặc biệt. Công ước quốc tế Nairobi cũng đã đưa ra khái niệm buôn lậu và gian lận thương mại nhằm che dấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện trong việc đưa hàng hoá lén lút qua biên giới. Trong Bộ Luật hình sự của nước ta đã ghi nhận tội buôn lậu "….buôn bán trái phép, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới…..", tổ chức Hải quan thế giới phân loại các hành vi gian lận thương mại có hành vi "buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải quan", “khai báo sai chủng loại hàng hoá", "khai tăng, giảm giá trị hàng hoá".... Đây là những hành vi buôn bán gian lận trái pháp luật mang tính chất giống như buôn lậu. "Buôn lậu" từ trước đến nay được nhiều người biết đến hơn là "gian lận thương mại". Gian lận thương mại là thuật ngữ mới xuất hiện, bao gồm nhiều hành vi gian lận, trái pháp luật hơn buôn lậu hay nói cách khác nội hàm của nó rộng hơn nội hàm của buôn lậu. Vì vậy hai thuật ngữ này thường đi kèm với nhau "Buôn lậu và gian lận thương mại". 1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu và gian lận thương mại Buôn lậu và gian lận thương mại là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện trong hoạt động lưu thông hàng hoá cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan. Nếu như hoạt động lưu thông hàng hoá góp phần cân bằng quan hệ cung - cầu trên thị trường thì những nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại và phát triển của tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại là sự chênh lệch giá cả, nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau, do hành vi kiếm lời bất chính, cạnh tranh trái pháp luật, không lành mạnh. Doanh số bán lẻ trên thị trường xã hội là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu dùng thực đã được thực hiện của toàn xã hội. Còn chỉ số giá cả, và theo đó là sự biến động của nó là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng hoá và sức mua. Nói cách khác đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu về hàng hoá. Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm cách tiết kiệm chi phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến mẫu mã hấp dẫn, phù hợp thị hiếu sử dụng, nâng cao chất lượng sản phẩm, bán ra với giá thị trường chấp nhận, nhằm quay vòng vốn nhanh, thu lợi nhuận cao. Để làm được những điều này không phải là việc dễ dàng và lại nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Một trong những hiện tượng cạnh tranh, kinh doanh để kiếm lời nhưng trái pháp luật là lao vào "buôn lậu và gian lận thương mại". Một số nhà kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, dù ở mức độ khác nhau đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong cuộc chạy đua " một vốn bốn lời", chạy theo lối sống giàu sang nhưng lại không đủ khả năng làm giàu hợp pháp mà kinh doanh một cách bất hợp pháp để kiếm lời nhanh và dễ dàng. Lợi ích cá nhân của họ đặt lên quá cao mà không nghĩ đến lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Từ đó mà buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng nảy sinh và phát triển, hành vi buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi, diễn biến ngày càng phức tạp là điều bức xúc đối với xã hội hiện nay. Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau và hàng hoá có chất lượng cao, giá thấp hơn ở nơi này sẽ có xu hướng chuyển sang nơi khác có hàng hoá với chất lượng thấp hơn, giá cao hơn. Đây cũng là quy luật cạnh tranh trong lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ sản xuất nội địa Nhà nước phải dùng đến hàng rào thuế quan (thậm chí thuế rất cao), gian thương tìm mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán, vận chuyển hàng hoá qua biên giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, đánh lẫn hàng hoá … để trốn thuế kiếm lời bất chính. Một số loại hàng hoá nhà nước cấm buôn bán vì lý do bảo vệ an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức khỏe cộng đồng (ma túy, vũ khí, rác thải…), trên thực tế một số loại hàng hóa cấm nhu cầu vẫn có nên giá cao, việc buôn bán trái phép những hàng hoá này mang lại lợi nhuận rất cao lại càng thúc đẩy gian thương buôn bán để kiếm lời bất chính. Hoặc có những loại hàng hoá buôn bán phải có phải được sự cho phép của nhà nước (hàng hóa đã qua sử dụng, biệt dược,…) vẫn bị gian thương tìm mọi cách để buôn bán kiếm lời. Đối với mỗi quốc gia tuỳ thuộc quy định của pháp luật, chính sách quản lý kinh tế, yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa và khả năng quản lý khác nhau thì quy mô, tính chất, mức độ buôn lậu và gian lận thương mại cũng khác nhau. Buôn lậu và gian lận thương mại gắn bó rất chặt chẽ với các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội khác. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì những tệ nạn này không ngừng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. 1.1.4. Ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại đối với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước * Hậu quả đối với nền kinh tế Buôn lậu, gian lận thương mại có tác hại rất lớn đối với nền kinh tế, những thành tựu của công cuộc đổi mới mà đất nước đang tiến hành. Buôn lậu, gian lận thương mại có nguy cơ kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo thành một lực cản lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hàng hoá nhập lậu là hàng gian lận, trốn thuế sẽ làm mất tính cân bằng trong cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng thời làm thất thu thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà nước. Thuế quan đánh trên hàng hoá xuất, nhập khẩu, nhằm mục đích làm tăng giá của hàng nhập khẩu, bảo vệ và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy, hàng nhập lậu - gian lận trốn thuế đã phá vỡ cạnh tranh lành mạnh giữa hàng nội và hàng ngoại nhập. Hàng ngoại nhập lậu vào thị trường do trốn thuế nhập khẩu nên giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn hàng nội do có công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị khoa học hiện đại. Trong khi đó, những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước vẫn phải nhập khẩu và chịu thuế một số nguyên vật liệu, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, họ còn phải nộp các khoản thuế khác như: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, hệ thống công nghệ kỹ thuật trong một số lĩnh vực sản xuất hiện vẫn còn đang lạc hậu, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp, hàng hoá không phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, nên không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên chính thị trường của mình.. Theo quy luật cung - cầu và giá trị hàng hoá trên thị trường thì cuộc cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập thì hàng nhập lậu do giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn, làm cho hàng nội khôn._.g tiêu thụ được trên thị trường dẫn đến đọng vốn, thiếu nợ vốn. Điều này dễ làm cho các doanh nghiệp sản xuất đứng trước nguy cơ phá sản, nhất là những doanh nghiệp và những ngành công nghiệp non trẻ, mới ra đời. Đây thực sự là mối đe dọa đời sống của hàng nghìn công nhân trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước. Cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập lậu không chỉ gây thiệt hại cho người sản xuất, mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Hàng ngoại tràn ngập thị trường với giá rẻ tạo nên thị hiếu, tâm lý ưa dùng hàng ngoại. Tuy hàng ngoại với giá rẻ hơn giá thành hàng nội là do trốn được thuế nhưng rất bấp bênh vì không phải lúc nào nhập hàng cũng trốn được thuế. Mặt khác, các hoạt động tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian thương mại của các lực lượng chức năng sẽ làm cho nguồn hàng khan hiếm, vì vậy trong từng thời kỳ sẽ nẩy sinh cơn sốt về giá, về hàng, làm đảo lộn sự ổn định giá cả trên thị trường. Với cạnh tranh đó, kết cục tất yếu là hàng ngoại lấn át hàng nội địa, phá vỡ thế bình ổn giá cả, sản xuất trong nước bị đình đốn. Nhập lậu hay xuất lậu cũng gây thiệt hại như nhau về kinh tế, bởi nhập lậu ồ ạt biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài, đặc biệt là hàng dư thừa, ế ẩm. Còn xuất lậu hàng hoá, đặc biệt là nguyên liệu, khoáng sản, nhiên liệu thô, các mặt hàng chiến lược, hàng quốc cấm sẽ làm cho tài lực của đất nước cạn kiệt. Hậu quả rõ nhất làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm chệch hướng phát triển của nền kinh tế. Mặt khác, buôn lậu và gian lận thương mại còn làm cho đất nước thất thu lớn về thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác gây ảnh hưởng đến quá trình cân đối thu - chi ngân sách của Nhà nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh ra ngoài biên giới. * Hậu quả về mặt văn hoá - xã hội Buôn lậu, gian lận thương mại gây nên những hậu quả phức tạp và nặng nề về mặt văn hoá - xã hội. Đây là một trong những yếu tố làm gia tăng giữa giàu và nghèo, tạo đà cho việc thuê mướn, bóc lột sức lao động. Một số tư thương đánh mất khuynh hướng tạo việc làm, chỉ mải mê làm giàu thông qua buôn lậu, gian lận thương mại. Hiện tượng buôn lậu xuất hiện đã lôi kéo một lực lượng lao động khá lớn tham gia vào đội quân “cửu vạn” mang vác hàng qua biên giới. Lực lượng đó không chỉ bao gồm lao động tại chỗ, mà còn có cả lao động từ nơi khác đến làm cho sản xuất bị buông lỏng, tình hình trật tự an toàn xã hội cũng bị biến động. Thành phần lao động bị tiền thuê mướn cám dỗ, có cả trẻ em ở tuổi đến trường, bỏ sản xuất, bỏ học hành làm “cửu vạn”. Đây là đội ngũ tiếp tay và bao che cho buôn lậu, có những làng thuộc khu vực biên giới đường bộ người dân ở đây bỏ cả sản xuất, coi việc mang vác, vận chuyển “thuê” hàng hoá nhập lậu là một nghề để sinh sống. Tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá dân tộc. Những kẻ buôn lậu không từ một thủ đoạn nào để thu được nhiều lợi nhuận bất chính, đồng tiền bất chính đã làm hại những người đi buôn lậu, làm nẩy sinh các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè… ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân các con người, làm cho đạo đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Không chỉ có thế, buôn lậu và gian lận thương mại bao giờ cũng dẫn đến tiêu cực, tham nhũng dễ dẫn đến tha hoá một bộ phận cán bộ công chức của Nhà nước. Thực tế cho thấy những ngành chức năng trong hoạt động chống buôn lậu, gian thương mại; trong điều hành, thực thi chính sách thương mại hoặc liên quan đến hoạt động thương mại nếu không vững vàng sẽ bị lôi kéo, mua chuộc và trở thành nô lệ của đồng tiền. Do bị lôi kéo bởi khoản lợi nhuận khổng lồ, gian thương tìm mọi mánh khoé, mọi thủ đoạn để móc nối với một số cán bộ Nhà nước bị tha hoá, biến chất. Do bị sự cám dỗ của đồng tiền mà họ đã lợi dụng vị trí, quyền lực nhà nước giao cho để cấu kết với buôn lậu, tiếp tay và bao che cho các buôn lậu, gian lận thương mại và hình thành những đường dây phức tạp, khó phát hiện, Hàng nhập lậu tuồn vào thị trường nội địa bất hợp pháp trong đó còn có nhiều tài liệu phản động, văn hoá đồi trụy, thậm chí có cả vũ khí của những phần tử thù địch từ nước ngoài chuyển về. Một bên là bọn buôn lậu hám lợi và phi nghĩa, một bên là các thế lực thù địch luôn có ý đồ làm thay đổi bản sắc văn hoá dân tộc, từ đó làm thay đổi bản chất của dân tộc được hình thành từ trong quá trình đấu tranh chống lại áp bức bóc lột và phát triển sản xuất. Bọn buôn lậu lợi dụng triệt để quá trình mở cửa để tăng cường chống phá ta trên mặt trận văn hoá - xã hội bằng các thủ đoạn tuyên truyền lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền, ấn hành các sản phẩm văn hoá, phủ nhận quá khứ của dân tộc, ca ngợi lối sống hưởng thụ, chúng tuồn vào nước ta băng hình, tác phẩm văn hoá đồi truỵ, phản động,…Cho nên những tác hại do buôn lậu gây ra không chỉ thuần tuý về kinh tế, mà nó còn ảnh hưởng đến văn hoá - xã hội, xâm hại thuần phong mỹ tục của đất nước. * Hậu quả đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội Những hậu quả do buôn lậu, gian lận thương mại gây ra đối với nền kinh tế và đối với nền văn hoá xã hội đã dẫn đến những tác hại về mặt chính trị, gây khó khăn cho sự quản lý Nhà nước. Hàng nhập lậu, gian lận trốn thuế làm cho thị trường hỗn loạn, đời sống kinh tế của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển; công bằng, văn minh xã hội không được thiết lập; nhà nước thất thu thuế nên không cân đối được thu - chi ngân sách, một số quỹ phúc lợi bảo hiểm xã hội bị giảm sút…. Buôn lậu và các chủ thể buôn lậu vì những khoản lợi nhuận khổng lồ đã bất chấp pháp luật, bất chấp chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước với những thủ đoạn tinh vi để thu lợi nhuận bất chính. Những khoản lợi nhuận này tạo cho bọn buôn lậu giàu có và ăn chơi sa đoạ, phung phí, trong khi đại bộ phận nhân dân làm ăn chân chính thì sống khó khăn và nghèo khổ. Chính sự bất công đó đã làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, kèm theo khủng hoảng cả hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp. Một trong những hậu quả nữa của buôn lậu gây ra về mặt chính trị là tác hại của nó đối với chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay, hoà bình, hợp tác để phát triển đang trở thành xu hướng của thời đại, sức mạnh quân sự đang được thay thế bằng sức mạnh kinh tế. Với ưu thế về kinh tế khoa học, kỹ thuật, các nước tư bản phát triển đã và đang thực hiện chiến lược “biên giới mềm” đẩy thế giới vào cuộc chiến tranh không có khói lửa - chiến tranh kinh tế. Kinh tế thị trường là giải pháp hữu hiệu để tăng trưởng kinh tế, nên các nước chậm phát triển đều có xu hướng phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ với nước ngoài để thu hút vốn và khoa học kỹ thuật tiên tiến. Với chính sách mở cửa thì cuộc chiến tranh giành thị trường nổ ra không kém phần gay go so với các hình thức chiến tranh khác. Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa với hình thức xâm lăng mới, đó là “diễn biến hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”, hàng hoá đến đâu là biên giới đến đó - dần dần các nước chậm phát triển từng bước phụ thuộc vào kinh tế và cuối cùng phải phụ thuộc vào chính trị. Trên thực tế, biên giới nhiều quốc gia vẫn còn nguyên vẹn, bộ máy nhà nước vẫn do những cán bộ trong nước điều hành, nhưng thực chất độc lập, chủ quyền lãnh thổ bị mất. Vì vậy, bảo vệ an ninh biên giới không chỉ là việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà thực chất là bảo vệ các tiềm năng - yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo vệ an ninh quốc gia góp phần bảo vệ vững chắc nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự vững chắc của chế độ chính trị. * Ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội Buôn lậu, gian lận thương mại gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối nền kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị, đây là những hậu quả trực tiếp dễ nhìn nhận. Một hậu quả khác không kém phần nguy hại là hậu quả của buôn lậu, gian lận thương mại dưới góc độ cả về vĩ mô và vi mô. Nó làm cho cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được tình hình xuất nhập khẩu và liên doanh đầu tư với ngoài; công tác điều hành của cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn và hoạt động kém hiệu quả. Xét về góc độ quản lý vĩ mô, buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những nguyên nhân làm hàng hoá nội địa bị đình trệ trong khâu phân phối và tiêu dùng, sản xuất trong nước bị đình đốn. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa không cạnh tranh nổi trên thị trường, nợ nần chồng chất dẫn đến phá sản, kéo theo sự gia tăng của đội quân thất nghiệp. Buôn lậu, gian lận thương mại còn là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến dẫn đến các tệ nạn xã hội, đó là tham nhũng, tha hoá, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp…. Do đó, nó làm cho công tác quản lý của Nhà nước thêm khó khăn, phức tạp. Mặt khác, buôn lậu và gian lận thương mại trực tiếp dẫn đến thất thu về thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác, đây là khoản thu lớn của ngân sách nhà nước. Điều này ảnh hưởng đến các kế hoạch về kinh tế, tài chính khiến nhà nước mất cân đối về thu - chi ngân sách. Buôn lậu, gian lận thương mại còn phá vỡ sự bình ổn của thị trường, tạo nên cơn sốt về hàng hoá và giá cả làm cho nhà nước không quản lý được hoạt động xuất nhập khẩu; việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bị sai lệch… Những hậu quả của buôn lậu, gian lận thương mại đối với quản lý vĩ mô đã trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến quản lý vi mô. Hệ thống pháp luật của ta về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, nếu không nói là chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, những chủ thể buôn lậu, gian lận thương mại đã lợi dụng kẽ hở, những quy định thiếu chặt chẽ của nhà nước để thực hiện hành vi buôn lậu, gian lận trốn thuế. Từ đó việc quản lý của cơ quan nhà nước ở cơ sở gặp nhiều khó khăn do sự lũng đoạn thị trường của hàng ngoại nhập lậu. Giải pháp đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, tăng cường hiệu lực kiểm tra, kiểm soát của các ngành chức năng vẫn chưa được giải quyết tận gốc, buôn lậu đã làm cho một số cơ quan quản lý lúng túng, bị động, khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội. Cũng dưới góc độ quản lý, trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hàng ngoại nhập với lợi thế về giá cả rẻ hơn hàng nội do trốn được thuế, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp nên được tiêu thụ mạnh, tạo nên tâm lý ưa dùng hàng ngoại (như hàng điện tử, gia dụng,…) trong nhân dân. Nhưng do nguồn hàng không ổn định, giá cả không ổn định nên buôn lậu là nguyên nhân gây nên những cơn sốt về hàng, về giá cả hàng hoá làm cho thị trường nội địa không thiết lập, lưu thông hàng hoá bị rối loạn và gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. * Ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng Hành vi buôn lậu có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, giống nòi của cộng đồng thông qua việc đưa hàng giả, hàng nhái hoặc những loại hàng kém phẩm chất, không đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định của nhà nước tuồn vào tiêu thụ trong nội địa đặc biệt là các loại hàng hoá phải đảm bảo tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về y tế, tiêu chuẩn chất lượng như: Tân dược, đồ chơi trẻ em, mũ bảo hiểm, rượu, nước giải khát… Tóm lại những hậu quả và tác hại do buôn lậu, gian lận thương mại gây nên đó là: Làm mất ổn định giá cả thị trường, kìm hãm sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, gây thất thu cho ngân sách cho nhà nước, tạo nên sự cạnh tranh không bình đẳng giữa hàng nội và hàng ngoại, là nguyên nhân phát sinh các tiêu cực trong xã hội. Vì vậy tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại phải được ngăn chặn một cách triệt để và là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có ngành Hải quan. 1.1.5. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngành Hải quan đối với hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại “Hải quan” theo từ điển tiếng Việt được hiểu là “cơ quan làm công tác kiểm soát, đánh thuế xuất nhập cảng” [6, tr 771]. Theo nghĩa rộng, khái niệm Hải quan được hiểu là cơ quan Nhà nước thực hiện quản lý (kiểm tra, giám sát, kiếm soát) đối với hàng hoá, phương tiện đưa ra, đưa vào lãnh thổ quốc gia, và thu thuế quan đối với các đối tượng theo quy định phải chịu thuế. Xét về lịch sử phát triển, thuật ngữ “Hải quan” có nguồn gốc từ “Douane” (thu quốc gia) của người Ai Cập ngay từ khi Nhà nước của quốc gia này hình thành. Sau đó, La Mã đã Latinh hoá, và Pháp cũng sử dụng thuật ngữ này. Hy Lạp và Đức gọi là Rull (thu quốc gia). Anh và các nước nói tiếng Anh gọi là “Customs” (tập quán) ... . Theo tập quán và thông lệ quốc tế, Hải quan là cơ quan hành pháp mà bất cứ Nhà nước có chủ quyền nào cũng phải tổ chức ra để bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Thuật ngữ “Hải quan” du nhập vào Việt Nam từ đầu những năm 1950 và xuất hiện lần đầu tiên trên văn bản của cơ quan Nhà nước tại Nghị định số 136/BCT-KH-NĐ, ngày 14/12/1954 của Bộ Công thương về thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công thương [23, tr 85]. Ở nước ta, ngày 30 tháng 8 năm 1984, Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, tiếp theo ngày 20 tháng 10 năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan, Nghị định 139/HĐBT nêu rõ “Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng: - Kiểm tra và quản lý hàng hóa, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; - Thi hành chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu; - Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác liên quan đến việc xuất nhập khẩu; - Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” [23, tr 192]. Nghị định 139/HĐBT đã đánh dấu một bước phát triển mới của Hải quan Việt Nam. Bằng văn bản pháp lý, Nhà nước đã xác định tính chất công tác hải quan, làm rõ sự thống nhất về đầu mối quản lý trong toàn ngành, về vai trò, vị trí của Hải quan Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phục vụ công tác đối ngoại. Trong đó, chức năng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi vi phạm pháp luật Hải quan khác được xác định là một trong những chức năng cơ bản và quan trọng của ngành Hải quan. Cùng với sự phát triển kinh tế thì tình hình đầu cơ, buôn lậu ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh kinh tế quốc tế và sản xuất trong nước. Trong lĩnh vực xử lý hành chính, Chính phủ Nghị định 46/HĐBT, ngày 10 tháng 5 năm 1983 về “xử lý bằng biện pháp hành chính các vi phạm về buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa”, trên cơ sở đó Tổng cục Hải quan cũng đã ban hành Thông tư số 1090/TCHQ, ngày 19 tháng 10 năm 1985 để hướng dẫn Nghị định này. Bên cạnh đó, hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới bị coi là tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự (Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985). Để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, theo Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì cơ quan Hải quan có quyền “ Đối với hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát....” và “ Đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển cho cơ quan điều tra....”. Ngày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, theo điều 28 của Pháp lệnh thì Hải quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, tiến hành điều tra đối với tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới theo Điều 97 của Bộ luật hình sự năm 1985. Ngày 28 tháng 12 năm 1989, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự, theo đó một số hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép trái phép hàng hóa qua biên giới do có tính chất quản lý nhà nước đối với các mặt hàng đó, nên đã quy định thành một tội riêng như: Ma túy, vũ khí. chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ, chất độc. Vì vậy, Hải quan không có thẩm quyền khởi tố vụ án và tiến hành hoạt động điều tra đối với các tội danh này. Trên cơ sở, kế thừa thành tựu và kết quả đã đạt được, Pháp lệnh Hải quan được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 20 tháng 2 năm 1990 quy định chức năng của Hải quan Việt Nam là: “quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt nam. Đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối, tiền Việt Nam qua biên giới”. Sự ra đời của Pháp lệnh Hải quan năm 1990 đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng về chất của ngành Hải quan cả về quy mô, phương thức và hiệu quả hoạt động [23, tr 223]. Trong giai đoạn từ 1987 - 1993, công tác kiểm soát chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới của ngành Hải quan tập trung vào việc chuyển biến nhận thức, tư tưởng và tổ chức hoạt động. Trong các năm từ 1987 - 1990, ngành Hải quan đã phát hiện được nhiều vụ buôn lậu, trong đó có một số vụ lớn, tinh vi. Công tác kiểm soát kết hợp với biện pháp quản lý công khai đã giúp Hải quan phát hiện tài liệu phản động, ấn phẩm đồi trụy, vũ khí, chất nổ,.... thẩm lậu vào nước ta, ngăn chặn nhiều vụ xuất lậu đồ cổ. Để thể chế hóa kịp thời các quan điểm đổi mới của Đảng về chính sách phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến Hải quan và đáp ứng đòi hỏi các cam kết quốc tế liên quan đến hoạt động Hải quan mà Việt nam tham gia hoặc có nghĩa vụ phải thực hiện. Sau một thời gian chuẩn bị dự án Luật Hải quan, ngày 29 tháng 6 năm 2001 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X toàn văn Luật Hải quan đã được thông qua. Điều 11, Luật Hải quan quy định nhiệm vụ của Hải quan: “Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”. Điều 32 của Luật Hải quan năm 2001 đã chính thức hóa về mặt pháp lý đối với công tác kiểm tra sau thông quan, đây là một trong những biện pháp nghiệp vụ của phương pháp quản lý hải quan hiện đại đó là việc kiểm tra các chứng từ thương mại, chứng từ sổ sách kế toán sau khi hàng đã được thông quan, để thẩm định lại mức độ chính xác của các thông tin về các lô hàng, do chủ hàng khai báo trước đó [8, tr 268]. Trên cơ sở, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 , Chính phủ đã ban hành Nghị định 138/2004/NĐ-CP, ngày 17 tháng 6 năm 2004 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan. Năm 2003, Quốc hội ban hành Bộ luật tố tụng hình sự thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự, thì thẩm quyền điều tra của Hải quan được quy định cụ thể tại Điều 111, khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì cơ quan hải quan có thẩm quyền “ Đối với hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, ít nghiêm trọng thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát....” và “ Đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành hoặc hoạt động điều tra ban đầu và chuyển cho cơ quan điều tra....”. Ngày 20 tháng 8 năm 2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh số 23/2004/PL-UBTVQH11 về tổ chức điều tra hình sự, Điều 20 của Pháp lệnh đã trao quyền thực hiện một số hoạt động điều tra hình sự cho cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh quản lý của mình phát hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật hình sự. Để phù hợp với cam kết quốc tế và tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại, ngày 14 tháng 6 năm 2005, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan. Tại khoản 1a, điều 15 quy định: “....kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan để đảm bảo quản lý nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu...”. Đây là cơ sở pháp lý, tiền đề cơ bản của việc triển khai phương pháp quản lý hải quan hiện đại (phương pháp quản lý rủi ro) đáp ứng yêu cầu công tác quản lý hải quan trong điều kiện hội nhập quốc tế đó là phải cân bằng giữa việc tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát thương mại (chống buôn lậu, gian lận thương mại có hiệu quả). Trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, để phù hợp với quy định của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 10, Chính phủ đã ban hành Nghị định 97/2007/NĐ-CP, ngày 7 tháng 6 năm 2007 quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan để thay thế Nghị định 138/2004/NĐ-CP. Qua nghiên cứu lịch sử phát triển, hình thành của Hải quan Việt Nam cho thấy, cơ quan hải quan chiếm một vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, tầm quan trọng được thể hiện: Thứ nhất, cơ quan hải quan, mặc dù tên gọi, cơ cấu tổ chức bộ máy có thể thay đổi theo từng giai đoạn để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của đất nước, nhưng là cơ quan quản lý duy nhất trong hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; thực hiện nhiệm vụ thu thuế và các khoản thu khác theo quy định đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thứ hai, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa qua biên giới; chống gian lận thương mại luôn là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu được Nhà nước giao cho cơ quan hải quan từ những ngày đầu thành lập nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế, trật tự trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan. Để thích ứng với nhiệm vụ nêu trên, cơ cấu tổ chức của ngành Hải quan được quy định và thiết lập như sau: - Tổng cục Hải quan là đơn vị thuộc Bộ Tài chính, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất thành hệ thống từ trung ương đến địa phương, gồm: Tổng cục Hải quan; Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cục Hải quan địa phương) trực thuộc Tổng cục Hải quan. Hiện tại, ngành Hải quan có 33 Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố quản lý các địa bàn trên toàn quốc (chi tiết tại Phụ lục 2); Chi cục Hải quan cửa khẩu, Đội Kiểm soát Hải quan và các đơn vị tương đương trực thuộc Cục Hải quan địa phương. - Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hải quan gồm: + Bộ máy giúp việc Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan: Vụ giám sát quản lý về hải quan, Vụ kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu, Vụ Pháp chế, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Kế hoạch - tài chính, Vụ Tổ chức cán bộ, Thanh tra, Văn phòng, Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục Kiểm tra sau thông quan , Cục Công nghệ thông tin. + Đơn vị sự nghiệp thuộc Tổng cục Hải quan : Viện nghiên cứu hải quan, Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Miền Bắc, Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Miền Trung, Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Miền Nam, Báo Hải quan, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức Hải quan. Để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, ngành Hải quan có quan hệ phối hợp với các lực lượng chức năng trong và ngoài phạm vi địa bàn hoạt động của mình (địa bàn hoạt động hải quan) * Địa bàn hoạt động hải quan: Địa bàn hoạt động hải quan là những khu vực, phạm vi mà tại đó cơ quan Hải quan có quyền hạn và trách nhiệm tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan đối với đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh. Hướng dẫn Luật Hải quan, ngày 23/12/2006 Chính phủ ban hành Nghị định 107/2002/NĐ-CP quy định phạm vi địa bàn hoạt động hải quan quan hệ phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan, Điều 2 quy định: 1. Phạm vi địa bàn hoạt động hải quan là khu vực có ranh giới cụ thể tại các khu vực cửa khẩu đường bộ, ga đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu, khu chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu vực ưu đãi hải quan, bưu điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong lãnh thổ và trên vùng biển thực hiện chủ quyền của Việt Nam, trụ sở doanh nghiệp khi tiến hành kiểm tra sau thông quan. 2. Phạm vi địa bàn hoạt động hải quan khác là khu vực có ranh giới xác định tại những nơi có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh cần có hoạt động kiểm tra kiểm tra, giám sát, kiểm soát của cơ quan hải quan” [12, tr 1]. * Quan hệ phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan: Trên cơ sở quy định về phạm vi địa bàn hoạt động hải quan nêu trên thì mối quan hệ phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan là: - Trong phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan: “cơ quan Hải quan các cấp có trách nhiệm bố trí lực lượng, phương tiện, điều kiện vật chất để thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan”[12, tr 6]. - Ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan thì cơ quan hải quan có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan, cụ thể: + Ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan trên tuyến biên giới đường bộ, Bộ đội biên phòng hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng của nhà nước. + Ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan trên biển, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển chủ trì hoặc phối hợp với các lực lượng chức năng. + Tổ chức phối hợp chặt chẽ với Cơ quan quản lý thị trường, Cơ quan Công an các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của các lực lượng này. Ngoài ra Nghị định 107/2002/NĐ - CP cũng quy định rất rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là: + Lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban nhân dân các cấp địa phương thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các quy định của pháp luật về phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan. + Phối hợp với Tổng cục Hải quan thực hiện các chủ trương của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ, của ngành Hải quan trong và các cơ quan hữu quan khác Cơ quan quản lý thị trường, Cơ quan Công an các cấp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan... [12, tr 7]. Như vậy, việc quy định cụ thể về địa bàn hoạt động của Hải quan và mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng đã tạo thuận lợi cho ngành Hải quan công tác trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan. Thẩm quyền xử lý đối với các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại của Hải quan Việt Nam Theo quy định hiện hành, đối với các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại thì cơ quan hải quan sẽ tiến hành: Xử phạt vi phạm hành chính theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002; khởi tố và tiến hành một số hoạt động điều tra hình sự đối với 2 tội danh: “Tội buôn lậu” theo Điều 153 và “Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” theo Điều 154 Bộ Luật hình sự năm 1999. * Xử phạt vi phạm hành chính theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002: - Thẩm quyền xử phạt: Tại Điều 34, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 và Điều 28, Nghị định 97/2007/NĐ-CP, ngày 7 tháng 6 năm 2007 quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan, cụ thể như sau: + Đội trưởng Đội nghiệp vụ Hải quan. + Chi cục trưởng Chi cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cục Hải quan), Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan. + Cục trưởng Cục Hải quan. + Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan. + Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định tại Nghị định 97/2007/NĐ-CP). + Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển (có quyền xử phạt theo quy định tại các Điều 32 và 33 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính về hải quan được quy định tại điều 13 Nghị định 97/2007/NĐ-CP). Theo Luật Quản lý thuế được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2007 thì Cơ quan hải quan (gồm: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan, Chi cục Hải quan) được coi là Cơ quan quan lý thuế. Vì vậy, tại điểm 1.I, phần I, Thông tư 62/2007/TT-BTC đã xác định “Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định quản lý nhà nước về hải quan (bao gồm cả thuế đối với hàng hóa xuất nhập, nhập khẩu) chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định tại Nghị định 97/2007/NĐ-CP, ngày 7 tháng 6 năm 2007 phải bị xử phạt vi phạm hành chính về Hải quan...” Ngoài việc xử phạt theo thẩm quyền, cơ quan Hải quan còn được giao thẩm quyền thực hiện: Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm bảo việc xử l._.h tổ chức điều tra hình sự năm 2004. 15. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002. 16. Quy chế phối hợp số 5314/QCPH/TCHQ-TCCS ngày 22/11/2007 giữa Tổng cục Hải quan - Bộ Tài chính và Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. 17. Quy chế phối hợp giữa Hải quan và biên phòng ngày 16/9/2002. 18. Thông tư 62/2007/TT-BTC, ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghị định 97/2007/NĐ-CP, ngày 7/6/2007 của Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan. 19. Thông tư 102/2005/TT-BTC ngày 21/11/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quy chế hoạt động hoạt động của lực lượng Hải quan chuyên trách phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới ban hành kèm Quyết định số 65/2004/QĐ-TTg ngày 19/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ. 20. Tổng cục Hải quan, công văn 2226/TCHQ-VP ngày 15/5/2008 về việc triển khai thực hiện 745/QĐ - BTC của Bộ Tài chính và Chi thị 1007/CT-TCHQ của Tổng cục hải quan. 21. Tổng cục Hải quan, chỉ thị số 1007/CT-TCHQ ngày 18/4/2008 về việc tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại và chống thất thu thuế. 22. Tổng cục Hải quan, Quyết định số 1882/QĐ-TCHQ ngày 29/11/2005 về việc ban hành quy định về các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát Hải quan. 23. Tổng cục Hải quan, 60 năm Hải quan Việt nam (1945 - 2005), nhà xuất bản công an nhân dân. 24. Tổng cục Hải quan, Hải quan Việt nam những sự kiện (1945 - 2005), nhà xuất bản công an nhân dân. 25. Tổng cục Hải quan, báo cáo tổng kết công tác kiểm soát Hải quan năm 2002, 2003,2004,2005,2006,2007, sáu tháng đầu năm 2008 và báo cáo kết quả chống buôn lậu của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố. 26. Tổng cục Hải quan, Bản tin nghiên cứu Hải quan các số 6,7,8/2007 và 4,5,6,7,9/2008. 27. Tổng cục Hải quan, Cẩm nang của Tổ chức Hải quan thế giới dành cho các điều tra viên về gian lận thương mại (bản dịch năm 1999). MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 - Kết quả chống buôn lậu, gian lận thương mại từ 2002 - 2008 82 Bảng 2.2 - So sánh kết quả chống buôn lậu, gian lận thương mại giữa 6 tháng đầu năm 2008 và sáu tháng đầu năm 2007 84 LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước có nhiệm vụ : “....thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu”. Trong các năm qua, ngành Hải quan đã không ngừng cải cách, phát triển, hiện đại hoá nhằm nâng cao năng lực trong hoạt động thực thi nhiệm vụ và năng lực đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại. Tuy nhiên tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại vẫn là vấn đề bức xúc, nóng bỏng và ngày càng có xu hướng tinh vi, xảo quyệt hơn. Vì vậy học viên chọn đề tài “Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Từ nghiên cứu hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. - Phạm vi nghiên cứu là những chính sách, giải pháp của ngành Hải quan và những kết quả, hạn chế trong hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2002 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic đồng thời còn sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp chuyên gia….để làm rõ nội dung nghiên cứu. 5. Những đóng góp của luận văn - Làm rõ thực trạng hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan trong thời gian qua. - Đưa ra các dự báo về tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong những năm tới đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chương 2: Thực trạng hoạt động của ngành Hải quan trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI 1.1. Cơ sở lý luận về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 1.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề buôn lậu, gian lận thương mại Trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, thương mại phát triển có những mặt tích cực nhưng bên cạnh đó có những mặt tiêu cực. Vì mục tiêu lợi nhuận đã làm phát sinh tư tưởng sùng bái đồng tiền, chạy theo cuộc sống giàu có mà không tôn trọng pháp luật, làm giàu bất chính, đó là tệ nạn “buôn lậu và gian lận thương mại”. * Khái niệm về buôn lậu Từ góc độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa là buôn bán những hàng hoá trốn thuế và hàng cấm. Theo tài liệu của Tổ chức Hải quan thế giới đưa ra khái niệm như sau: “Đó là hành vi đưa hàng hoá vào trong lãnh thổ một quốc gia hay đưa hàng hoá ra khỏi lãnh thổ đó mà vi phạm pháp luật hay các quy định hiện hành của quốc gia đó, trốn tránh hay có ý định trốn tránh nộp thuế Hải quan bằng cách không khai báo hoặc trốn tránh không chịu sự kiểm tra của cơ quan chức năng”. * Khái niệm về gian lận thương mại Gian lận thương mại theo Từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc" trong hoạt động thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian thương" tức là "người có nhiều mưu mô lừa lọc", "kẻ buôn bán gian lận và trái phép". Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là những hành vi gian lận thương mại của chủ hàng trong hoạt động xuất, nhập khẩu để trốn tránh việc kiểm soát và quản lý của cơ quan Hải quan. 1.1.2. Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thương mại Gian lận thương mại dù không phải là một tội danh trong Bộ luật hình sự, nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu và buôn lậu cũng bao gồm gian lận thương mại. "Buôn lậu" từ trước đến nay được nhiều người biết đến hơn là "gian lận thương mại". Gian lận thương mại là thuật ngữ mới xuất hiện, bao gồm nhiều hành vi gian lận, trái pháp luật hơn buôn lậu hay nói cách khác nội hàm của nó rộng hơn nội hàm của buôn lậu. Vì vậy hai thuật ngữ này thường đi kèm với nhau "Buôn lậu và gian lận thương mại". 1.1.3. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu và gian lận thương mại 1.1.4. Ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại đối với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước - Hậu quả đối với nền kinh tế. - Hậu quả về mặt văn hoá - xã hội. - Hậu quả đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. - Ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội. - Ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. 1.1.5. Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngành Hải quan đối với hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại - Ngày 30/8/1984, Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN phê chuẩn việc lập Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, tiếp theo ngày 20/10/1984 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan, Nghị định 139/HĐBT nêu rõ “Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng: Kiểm tra và quản lý hàng hóa, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thi hành chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu; ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác liên quan đến việc xuất nhập khẩu; chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”. - Để phù hợp với cam kết quốc tế và tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại, ngày 14 tháng 6 năm 2005, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan. Tại khoản 1a, điều 15 quy định: “....kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan để đảm bảo quản lý nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu...”. Qua nghiên cứu lịch sử phát triển, hình thành của Hải quan Việt Nam cho thấy, cơ quan hải quan chiếm một vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, tầm quan trọng được thể hiện: Thứ nhất, cơ quan hải quan, mặc dù tên gọi, cơ cấu tổ chức bộ máy có thể thay đổi theo từng giai đoạn để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của đất nước, nhưng là cơ quan quản lý duy nhất trong hệ thống bộ máy hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; thực hiện nhiệm vụ thu thuế và các khoản thu khác theo quy định đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thứ hai, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa qua biên giới; chống gian lận thương mại luôn là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu được Nhà nước giao cho cơ quan hải quan từ những ngày đầu thành lập nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế, trật tự trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan. 1.2. Kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại của Hải quan các nước trên thế giới Trong phần này, luận văn đã nghiên cứu thực tiễn triển khai các hoạt động phòng chống buôn lậu gian lận thương mại của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), Hải quan một số nước như: Trung Quốc, New Zealand, Hàn Quốc, Australia đồng thời rút ra một số kinh nghiệm sau: Trong xu thế toàn cầu hóa, để nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, hiện tại Hải quan các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới có xu hướng xúc tiến, ký kết các thỏa thuận hợp tác hỗ trợ hành chính, phối hợp chống buôn lậu - gian lận thương mại trong khuôn khổ song phương và đa phương (điều này được thể hiện rất rõ qua các hoạt động hợp tác trong các khối ASEAN, APEC, ASEM). Trong kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh chạy đua theo lợi nhuận nên tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại là điều khó tránh khỏi. Vì vậy để phòng chống các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại cần có hệ thống luật pháp hoàn chỉnh để ngăn chặn và răn đe những hành vi kinh doanh trái phép làm ảnh hưởng đến an ninh kinh tế, trật tự xã hội. Trong nền kinh tế mở, cần chú trọng cải tiến các hoạt động nghiệp vụ hải quan gắn với việc tăng cường trang thiết bị kỹ thuật để ngành Hải quan thực hiện tốt hơn chức năng của mình đối với hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH HẢI QUAN TRONG HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI 2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước và các biện pháp của ngành Hải quan trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 2.1.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước Trong những năm qua, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước được cụ thể hóa bằng các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật như: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004; Luật Hải quan; Quyết định số 65/2004/QĐ-TTg ngày 19/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động của lực lượng Hải quan chuyên trách phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới (gọi tắt là lực lượng kiểm soát Hải quan).... Bên cạnh đó, nhà nước điều chỉnh, ban hành một số chính sách như: chính sách ưu đãi đầu tư, ưu đãi về thuế, chính sách tín dụng đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để kích thích đầu tư sản xuất tạo ra công ăn việc làm cho người lao động ở vùng này nhằm ngăn chặn tình trạng tiếp tay cho buôn lậu. 2.1.2. Các biện pháp của ngành Hải quan trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại - Thực hiện hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại gắn với công tác cải cách thủ tục hành chính, trọng tâm hiện đại hóa ngành Hải quan: Các năm qua, ngành Hải quan đã tích cực triển cải cách thủ tục hành chính, sắp xếp tổ chức, bộ máy làm việc… nhằm hạn chế những sơ hở trong quy trình thủ tục hải quan và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của các bộ phận nghiệp vụ trong ngành. - Công tác tổ chức và nghiệp vụ của lực lượng kiểm soát hải quan: Đây là lực lượng chủ công trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại, thời gian qua lực lượng này đã được ngành quan tâm phát triển về tổ chức và nghiệp vụ. - Công tác kiểm tra sau thông quan : Đây là biện pháp nghiệp vụ phổ biến của Hải quan các nước tiên tiến, hiện nay lực lượng kiểm tra sau thông quan cũng đang phát triển cả về chất và lượng. - Công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan: Ký kết và thực hiện quy chế phối hợp công tác với Bộ đội biên phòng, Tổng cục cảnh sát - Bộ Công an, hiện đang triển khai các thủ tục để ký kết Quy chế phối hợp với Quản lý thị trường, Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI). - Phổ biến, tuyên truyền pháp luật và cộng tác, phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp: Thông qua các hoạt động đối thoại với doanh nghiệp, đa dạng kênh thông tin về chính sách thủ tục hải quan, ký kết - thực hiện các thỏa thuận phối hợp. - Hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại: Thực hiện hợp tác quốc tế về trao đổi thông tin phục vụ đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại trong các khuôn khổ song phương và đa phương. 2.2. Khái quát tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong thời kỳ mở cửa nền kinh tế và phát triển kinh tế thị trường 2.2.1. Tình hình buôn lậu - Trên tuyến biên giới đường bộ: Hàng nhập lậu chủ yếu là vải may mặc; bánh kẹo; giầy dép; bát sứ; cốc thuỷ tinh; hàng tạp hoá, hàng điện tử; phân bón gia súc, gia cầm và các sản phẩm từ gia súc, gia cầm; lá thuốc lá đã sấy khô chưa tách cọng; đồ chơi trẻ em cấm lưu thông, pháo, mũ bảo hiểm, rau quả, thực phẩm. Hàng xuất lậu : Chủ yếu là động vật hoang dã, quặng, gỗ quý hiếm như gỗ Sưa, Trắc, Cẩm Lai, Giáng Hương,... Theo báo cáo tổng hợp của Cục Hải quan 6 tỉnh biên giới, từ năm 2002 đến nay đã phát hiện, bắt giữ 5555 vụ, trị giá vi phạm 133, 3 tỷ đồng, tang vật tịch thu gồm có 11.173 kg pháo nổ, 65.399 kg gia cầm, 544.203 quả trứng gà,..... - Tuyến biên giới miền Trung (Việt Nam - Lào): Hàng nhập lậu chủ yếu là đồ điện tử, máy điều hoà nhiệt độ, rượu ngoại, mỹ phẩm… (chỉ tính riêng trong năm 2007, tổng số máy điều hoà nhiệt độ được nhập miễn thuế vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo là 26.534 bộ, trị giá gần 8 triệu USD). Lợi dụng quy định của nhà nước cho phép một số tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh được phép nhập khẩu xe ôtô miễn thuế để sử dụng trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo nên một số doanh nghiệp đã nhập khẩu và đăng ký sử dụng với số lượng lớn, sau đó bán vào thị trường nội địa để trốn thuế với thủ đoạn lập một hợp đồng tài chính là thuê xe. Ngoài ra còn xuất hiện các mặt hàng do Việt Nam sản xuất như bia, sữa, xà phòng, dầu ăn là những mặt hàng đã làm thủ tục nhập vào Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo sau đó quay vòng trở lại thị trường nội địa để gian lận trốn thuế giá trị gia tăng. - Tuyến biên giới Tây Nam (Việt Nam - Campuchia): Hàng nhập lậu chủ yếu là điện thoại di động, mỹ phẩm, quần áo cũ, vải khúc các loại, đường cát và thuốc lá ngoại,….Năm 2006, Hải quan các tỉnh biên giới Tây nam đã bắt giữ được 122.568 gói thuốc lá nhập lậu, 92.989 kg đường kính trắng. Hàng xuất lậu tập trung vào ngoại tệ, vàng và xăng dầu, xe đạp điện… Năm 2006 Cục Hải quan An Giang đã phát hiện 2 vụ thu giữ 98.069 USD và 04 kg vàng. * Tuyến hàng không - bưu điện Hàng hoá nhập lậu chủ yếu: Các loại hàng hoá có giá trị cao, mỹ phẩm, điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, máy vi tính xách tay, màn hình thu nhỏ, linh kiện điện tử cao cấp, vải, quần áo may sẵn cao cấp, thuốc lá ngoại, rượu ngoại... Hàng hóa xuất lậu chủ yếu: Ngoại tệ, đá quý, cổ vật,…. * Tuyến biển và cảng biển: - Về tình hình buôn lậu trên biển: Các đầu nậu thường sử dụng các loại tàu thuyền lớn vận chuyển hàng lậu từ nước ngoài về ngoài khơi, sau đó liên hệ với các thuyền nhỏ lợi dụng đêm tối, thời tiết xấu để sang mạn, vận chuyển vào các bãi ngang, cửa sông. - Tại các cảng biển: Mặt hàng nhập lậu chủ yếu tại các cảng biển là: Gỗ, nguyên phụ liệu may mặc, giày dép, hàng kim khí điện máy, linh kiện điện tử, phụ tùng ôtô, các loại máy móc và hàng điện tử đã qua sử dụng, ôtô đã qua sử dụng, máy in công nghiệp, máy công cụ, kính xây dựng, giấy, thép và các sản phẩm của thép, thép phế liệu, thiết bị vệ sinh, gạch lót, đồ gốm sứ, đồ trang trí nội thất, phế liệu.... 2.2.2. Tình hình gian lận thương mại - Lợi dụng chính sách thuế hiện hành của Nhà nước. - Gian lận thông qua việc khai thấp trị giá hàng hoá. - Gian lận bằng thủ đoạn khai báo sai về số lượng, trọng lượng, tên hàng hoá xuất nhập khẩu. - Gian lận về xuất xứ hàng hoá (C/O). - Gian lận thương mại trong lĩnh vực đầu tư gia công, sản xuất hàng xuất khẩu. - Gian lận thông qua lợi dụng hàng hoá gửi kho ngoại quan. - Gian lận thương mại trong lĩnh vực liên doanh đầu tư. - Gian lận thương mại qua lợi dụng kinh doanh hàng chuyển khẩu, hàng tạm nhập - tái xuất. 2.3. Kết quả và hạn chế trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của Ngành Hải quan 2.3.1. Kết quả - Kịp thời ngăn chặn có hiệu quả nhiều vụ việc buôn lậu, gian lận thương mại Bảng 2.1 - Kết quả chống buôn lậu, gian lận thương mại từ 2002 - 2008 Năm Buôn lậu Gian lận thương mại Số vụ Trị giá (tỷ đồng) Số vụ Trị giá (tỷ đồng) 2002 2.716 89,1 1.541 41,25 2003 6.153 225,8 650 36,7 2004 5.116 214,6 660 47,8 2005 3.654 243,1 669 128,5 2006 4.026 111,091 322 200,148 2007 1.769 250,146 440 63,094 Sáu tháng năm 2008 868 24,294 182 59,294 (Nguồn: Báo cáo công tác kiểm soát Hải quan năm 2002, 2003,2004, 2005,2006,2007,2008 và sáu tháng đầu năm 2008 của Tổng cục Hải quan). Từ đầu năm 2008 đến nay, trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và thực hiện chương trình hành động của Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện bảy nhóm giải pháp nhằm ổn định thị trường, chống lạm phát năm 2008. Ngành Hải quan đã tăng cường triển khai hàng loạt các biện pháp biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại và chống thất thu thuế có hiệu quả. So sánh số liệu thống kê kết quả phát hiện bắt giữ các vụ buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và gian lận thương mại giữa sáu tháng đầu năm 2008 và cùng kỳ năm 2007, cụ thể như sau: Bảng 2.2 - So sánh kết quả chống buôn lậu, gian lận thương mại giữa 6 tháng đầu năm 2008 và sáu tháng đầu năm 2007 Kết quả Sáu tháng đầu 2007 Sáu tháng đầu 2008 So sánh (2008/2007) Số vụ Trị giá (tỷ đồng) Số vụ Trị giá (tỷ đồng) Số vụ Trị giá (+, -) (%) (+, -) (%) Buôn lậu 863 13,319 868 24,294 03 5% 10,975 182% Gian lận thương mại 226 10,077 182 59,294 -44 - 80% 49,217 488% (Nguồn: Báo cáo công tác kiểm soát Hải quan sáu tháng đầu năm 2007 và sáu tháng đầu năm 2008 của Tổng cục Hải quan). Qua bảng trên cho thấy: Số vụ buôn lậu tăng lên 5%, trị giá vi phạm tăng 182 % ; số vụ gian lận thương mại giảm tới 80% trong khi trị giá vi phạm tăng 488%. Ngoài ra còn thấy chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2008 toàn ngành Hải quan đã phát hiện, xử lý các vụ gian lận thương mại với trị giá vi phạm gần tương đương với cả năm 2007 (khoảng 94%). 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế * Hạn chế - Công tác hoạch định, xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch dài hạn về phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại còn hạn chế và chưa đồng bộ. - Về nhận thức và tổ chức thực hiện hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại. - Về công tác cán bộ: Một bộ phận cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng và theo kịp yêu cầu thực hiện nhiệm vụ; chưa có chế độ, chính sách cụ thể đối với cán bộ, công chức thuộc lực lượng kiểm soát hải quan. - Việc xử lý các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại, hành vi tiếp tay cho bọn buôn lậu chưa nghiêm, chưa đủ tác dụng răn đe. * Nguyên nhân của hạn chế - Nguyên nhân khách quan + Hệ thống Luật pháp, các chế độ chính sách quản lý kinh tế của nước ta đang trong quá trình hoàn thiện do vậy còn nhiều bất cập, sơ hở, thiếu đồng bộ tạo ra những kẽ hở cho các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại. + Các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại với những phương thức mới với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt mang tính quốc tế cũng xuất hiện tại Việt Nam. + Chất lượng và giá cả hàng hóa sản xuất trong nước chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại trên thị trường quốc tế. + Do đặc thù về địa lý của các tuyến biên giới đa dạng, phức tạp nên công tác đấu tranh chống buôn lậu của ngành Hải quan gặp khó khăn. Bên cạnh đó, chính quyền một số địa phương giáp biên còn buông lỏng quản lý cho nên đã tạo điều kiện cho hoạt động buôn lậu phát triển. - Nguyên nhân chủ quan + Một bộ phận cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành chưa nhận thức một cách đầy đủ về tác hại của tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại đối với nền kinh tế trong nước dẫn đến chưa coi trọng hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại. + Một số đơn vị trong ngành Hải quan thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ chưa tốt dẫn đến một số bộ phận cán bộ đã bị buôn lậu móc nối, thậm chí có trường hợp trực tiếp tham gia buôn lậu. + Hoạt động phối hợp giữa các đơn vị, lực lượng trong ngành Hải quan còn hạn chế. + Sự phân định trách nhiệm trong công tác chống buôn lậu tại từng địa bàn, từng khu vực chưa được rõ ràng. 2.3.3. Bài học kinh nghiệm về phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại 1. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về tác hại, hậu quả của của tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại đối với nền kinh tế - xã hội. Việc triển khai hoạt động đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại phải được thực hiện gắn kết chặt chẽ với các chương trình kinh tế - xã hội khác. 2. Vai trò thường trực, tham mưu, hướng dẫn của Tổng cục Hải quan là rất quan trọng. Thường xuyên thực hiện và coi trọng công tác chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn trong quá trình tổ chức thực hiện. 3. Duy trì và thực hiện tốt công tác hỗ trợ, phối hợp với các lực lượng chức năng khác. Chú trọng và quan tâm tới công tác đào tạo, tập huấn để cập nhật, nâng cao các kỹ năng nghiệp vụ trong hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại. 4. Phải có cơ chế, chính sách phù hợp với lực lượng chuyên trách chống buôn lậu, gian lận thương mại để. Đồng thời phải không ngừng củng cố và tăng cường xây dựng lực lượng kiểm soát chống buôn lậu, quan tâm đầu tư trang thiết bị phương tiện phục vụ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI CỦA NGÀNH HẢI QUAN 3.1. Dự báo tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong thời gian tới - Các đối tác thương mại ngày càng mở rộng, hầu hết các khu vực, các trung tâm kinh tế lớn đều có quan hệ thương mại và đầu tư quan trọng với Việt Nam, trong đó có những khu vực có mức độ rủi ro cao về buôn lậu, về ma tuý, về khủng bố quốc tế. - Các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng mang tính quốc tế hơn, xuất hiện nhiều phương thức, thủ đoạn có tính tổ chức, tinh vi hơn, - Về phương thức, thủ đoạn buôn lậu và gian lận thương mại sẽ đa dạng và tinh vi hơn: + Các đối tượng buôn lậu tiếp tục lợi dụng mặt biển rộng, có nhiều vịnh, bãi ngang, cửa sông và biên giới đường bộ kéo dài, hiểm trở, đi lại khó khăn để vận chuyển hàng lậu từ nước ngoài vào Việt Nam. + Các hoạt động gian lận thương mại thời gian tới tiếp tục phát triển theo hướng lợi dụng các sơ hở của chính sách quản lý, quy trình thủ tục Hải quan thông thoáng, các hành vi gian lận chủ yếu vẫn là: Gian lận qua giá; gian lận xuất xứ; khai báo sai tên, phẩm chất, quy cách hàng hóa; giả mạo hồ sơ, chứng từ.... + Một điểm đáng chú ý cần quan tâm là sự tổ chức tương đối tinh vi, chặt chẽ trong các tổ chức buôn lậu, gian lận thương mại và sự liên kết giữa các tổ chức buôn lậu, gian lận thương mại ngày càng chặt chẽ với phạm vi rộng lớn hơn. 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan 3.2.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội - Nhà nước cần nghiên cứu, rà soát nhằm hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi và ổn định xã hội. - Tiếp tục ưu tiên xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới, hải đảo, ven biển; vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tập trung đào tạo nghề cho người lao động và giải quyết tốt chính sách giải quyết việc làm. 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Hoàn thiện pháp luật Hải quan. - Hoàn thiện pháp luật hình sự. - Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự quy định thẩm quyền điều tra của Hải quan. 3.2.3. Triển khai thực hiện công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải quan có hiệu quả - Rà soát, nghiên cứu toàn bộ công tác thu thập thông tin của toàn ngành Hải quan. - Cần nghiên cứu xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin bổ sung cho hệ thống cơ sở dữ liệu lấy từ hoạt động thông quan của ngành. - Nghiên cứu ban hành các văn bản quy định chế độ thu thập, quản lý và sử dụng thông tin nghiệp vụ với các chế tài nghiêm ngặt, đảm bảo các hệ thống thông tin luôn được cập nhật, sống động theo sát tình hình thực tế. - Đẩy mạnh triển khai các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan để hỗ trợ cho công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan. - Cần sớm ban hành các văn bản pháp lý dưới hình thức thông tư liên tịch giữa Bộ Tài chính và các Bộ, Ngành có liên quan để trao đổi các thông tin nghiệp vụ cần thiết. Bên cạnh đó cũng cần sớm nghiên cứu và đề xuất Chính phủ cho phép cử cán bộ Hải quan ra nước ngoài làm công tác thu thập thông tin (Hải quan các nước gọi là Tùy viên Hải quan) để có thể chủ động hơn với nguồn thông tin từ ngoài nước. 3.2.4. Giải pháp về đào tạo và sử dụng cán bộ trong hoạt động phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại - Ngành Hải quan thống nhất ban hành bản mô tả chức danh công việc trong tất cả các lĩnh vực chuyên môn của ngành. Trên cơ sở đó mới đánh giá tổng thể yêu cầu về số lượng, chất lượng cán bộ của từng bộ phận công tác, từ đó có kế hoạch tổng thể về đào tạo, đào tạo lại; tuyển dụng mới cho phù hợp. - Công tác đào tạo và đào tạo lại: Xây dựng kế hoạch đào tạo dài hạn và có lộ trình thực hiện cụ thể. Bên cạnh đó, cần đổi mới quy mô và phương pháp đào tạo. - Xây dựng chế độ công tác chuyên trách, chuyên sâu dựa trên chế độ luân chuyển hợp lý. Cần có cơ chế chính sách khen thưởng, chính sách tiền lương thoả đáng đối với cán bộ làm nhiệm vụ chống buôn lậu và gian lận thương mại. - Ngành Hải quan cần quan tâm thường xuyên giáo dục ý thức trách nhiệm, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho cán bộ, công chức. 3.2.5. Nâng cao hiệu quả phối hợp trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại - Phối hợp giữa các lực lượng trong ngành Hải quan. - Tăng cường phối hợp giữa Hải quan với các lực lượng chức năng khác. 3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại Thực hiện tốt việc hợp tác với Hải quan các nước, vùng lãnh thổ trên cơ sở các thỏa thuận hợp tác song phương đã ký kết và phát huy vai trò đầu mối tại Văn phòng tình báo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (RILO A/P). 3.2.7. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ cho hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại 3.2.8. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho quần chúng nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật với những hình thức và nội dung phù hợp để quần chúng nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp: - Thấy được hình thức xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm pháp luật hải quan đồng thời cũng thấy được Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với các doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật trong quá trình hoạt động. - Tích cực cộng tác, hợp tác với cơ quan Hải quan trong việc góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh. KẾT LUẬN Nghiên cứu đề tài “Hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan - Thực trạng và giải pháp”, luận văn đã hoàn thành những mục tiêu trong nghiên cứu và có những đóng góp sau: 1. Hệ thống hóa và làm rõ những cơ sở lý luận về hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Đồng thời để làm rõ những vấn đề lý luận, luận văn đã nghiên cứu thực tiễn hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại ở một số nước để rút ra một một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn với nước ta hiện nay. 2. Luận văn đã làm rõ chủ trương, chính sách của Nhà nước và biện pháp của ngành Hải quan về phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Từ đó luận văn đã đi sâu phân tích tình hình phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta trong thời gian qua. Đó là cơ sở đề xuất những giải pháp trong chương 3. 3. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại của ngành Hải quan từ năm 2002 đến nay, luận văn đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22676.doc
Tài liệu liên quan