Hoạt động Nhập khẩu máy vi tính vàphụ kiện máy vi tính của Công ty FPT: thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã khẳng định đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Trong bối cảnh thế giới khoa học công nghệ phát triển như vũ bão Việt nam không thể nằm ngoại lệ, muốn đạt mục tiêu thì phải có trình độ công nghệ nhất định và liên tục được nâng cao. Năng lực nội sinh hiện tại của Việt nam còn thấp, không thể chỉ tự phát huy nội lực mà cần phải học hỏi bạn bè các nước. Có nhiều cách học h

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Nhập khẩu máy vi tính vàphụ kiện máy vi tính của Công ty FPT: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏi nhưng lựa chọn cách thích hợp và có hiệu quả thì mới đem lại thành công. Đối với Việt nam hiện nay, những mặt hàng chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao như máy vi tính và phụ kiện máy vi tính có tính năng tiện dụng cao nhưng trong nước chưa đủ khả năng sản xuất mặc dù nhu cầu trên thị trường Việt nam lớn thì nhập khẩu là tất yếu và rất cần thiết. FPT (Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ) là công ty công nghệ lớn của Nhà nước, có nhiệm vụ là một trong những doanh nghiệp đi đầu, tiên phong trong lĩnh vực tin học. Trong 13 năm hình thành và phát triển, công ty đã đóng góp phần không nhỏ trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cho nước nhà. Nhập khẩu mặt hàng máy vi tính và phụ kiện máy vi tính đã được FPT thực hiện ngay từ khi thành lập, cho đến nay vẫn được duy trì, phát triển và có hiệu quả. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, tất cả các thành phần kinh tế được tham gia vào thị trường một cách bình đẳng, công ty FPT ngoài nhiệm vụ phục vụ cho các dự án của Nhà nước còn phải tự tìm kiếm đối tác và khách hàng. Bên cạnh những kết quả đạt được, công ty vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đã được học tại trường kết hợp với cơ sở thực tiễn đã được quan sát tại Công ty FPT cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo, Thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai và các cô chú tại phòng Kế hoạch Kinh doanh của công ty, em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là “Hoạt động nhập khẩu máy vi tính vàphụ kiện máy vi tính của công ty FPT: Thực trạng và giải pháp”. Mục đích của luận văn là: -Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu để phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu hai mặt hàng nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính tại công ty FPT trong những năm gần đây. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn hiện hoạt động nhập khẩu của công ty nói chung và hai mặt hàng chính trên nói riêng trong thời gian tới. Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Vấn đề nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính tại công ty FPT. Phạm vi nghiên cứu: công ty FPT hoạt động trong cả lĩnh vực nhập khẩu và xuất khẩu. Về hoạt động nhập khẩu, công ty nhập khẩu khá nhiều mặt hàng, tuy nhiên trong đề tài luận văn tốt nghiệp này em chỉ đề cập đến vấn đề “Nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT”. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh thông qua các số liệu thu được để thấy sự tăng giảm qua các năm của từng chỉ tiêu trong từng thời kỳ. Kết cấu của luận văn tốt nghiệp: Ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương chính: Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu Chương II: Thực trạng hoạt động hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT trong thời gian qua Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty fpt Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu I. Khái niệm và vai trò nhập khẩu 1. Khái niệm: Hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ được coi là hoạt động thương mại, nó bao gồm hoạt động nội thương và hoạt động ngoại thương trong đó ngoại thương bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ các tổ chức kinh tế hay các doanh nghiệp nước ngoài theo các nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động nhập khẩu là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, nó thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Từ đó thấy được lợi thế so sánh về vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ,... để có chính sách khai thác hợp lý và có lợi nhất. Xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra khá mạnh mẽ, đó là sự hình thành các khu vực mậu dịch, các liên minh kinh tế như AFTA, NAFTA,... đã cho thấy khối lượng giao dịch giữa các quốc gia ngày càng lớn và rõ ràng vai trò nhập khẩu là không thể thiếu, nó không chỉ quan trọng đối với một quốc gia mà còn đối với cả sự ổn định kinh tế chung của khu vực. ở một giới hạn nhất định nhập khẩu có thể quyết định tới sự sống còn của nền kinh tế nước đó đã thống nhất dưới một mái nhà chung của nền kinh tế thế giới. 2. Vai trò nhập khẩu: Một điều khẳng định rằng, trên thế giới nơi nào có hoạt động thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế phát triển thì nơi đó có nền kinh tế phát triển. Trước đây một số nước như Trung quốc, Liên xô (cũ), Việt nam đã coi độc lập kinh tế là vấn đề trên hết và có ý thức xây dựng một nền kinh tế tự cấp, tự túc. Nhưng thực tế đã thất bại, sự khan hiếm hàng hoá trầm trọng đã ảnh hưởng đến kinh tế cũng như xã hội. Bài học này cho thấy rằng hoạt động ngoại thương là vô cùng quan trọng, phải biết kết hợp cả nội lực và ngoại lực, ngoại lực là yếu tố quan trọng còn nội lực là yếu tố quyết định. Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia đã tích cực tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế nơi thúc đẩy sự trao đổi buôn bán giữa các nước diễn ra một cách mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Và thành phần không thể thiếu, đó là nhập khẩu đã đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế quốc gia cũng như đối với sự phát triển của thương mại quốc tế. *Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo đã chỉ ra rằng một nước sẽ có lợi hơn khi nhập khẩu một loại mặt hàng mà nếu chi phí sản xuất trong nước cao hơn và nên chuyên môn hoá vào lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn bằng cách xem xét đầu tư. Qua đó ta thấy vai trò nhập khẩu từ rất lâu đã được đánh giá là khá quan trọng bởi vì nó là hai mặt của hoạt động thương mại quốc tế, góp phần đưa nền kinh tế nước nhà đi lên trong một phạm vi nhất định. *Nhập khẩu cùng với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Nhờ hoạt động này mà một quốc gia có thể tiêu dùng vượt khả năng sản xuất của mình. Cũng nhờ có hoạt động nhập khẩu cơ cấu hàng hoá lưu thông trên thị trường trở nên phong phú hơn cả về quy cách, chất lượng, chủng loại, mẫu mã thoả mãn được nhu cầu trong nước ở mức độ cao đặc biệt đối với hàng hóa trong nước chưa sản xuất được. Bên cạnh đó nó cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại nhập, thanh lọc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và khuyến khích các doanh nghiệp nội địa vươn lên. Nó xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Mặt khác, hoạt động nhập khẩu còn góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu các phương tiện, công cụ lao động mới, tiên tiến và an toàn. *Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hóa (CNH-HĐH). Không phải tất cả các quốc gia đều có thể tự sản xuất để rồi tự trang bị cho mình, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng rất lớn và việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tất yếu phải thông qua con đường nhập khẩu. *Nhập khẩu bổ sung những mặt hàng còn thiếu hụt của nền kinh tế nội địa, giải quyết tình trạng không cân bằng giữa cung và cầu hàng hoá. Vì một lý do nào đó tác động đến cân bằng cung cầu và cung không đáp ứng đủ cầu trong nước. Mục tiêu hiệu quả kinh tế làm cho các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế, tập trung phát triển mặt hàng lợi thế. Hàng loạt các nhu cầu không thể đáp ứng bằng nguồn lực sản xuất nội địa mà phát sinh nhu cầu nhập khẩu mang tính chu kỳ và khá ổn định. Tham gia hoạt động nhập khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu được khắc phục nghĩa là góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra thường xuyên và ổn định. Không chỉ nhập khẩu trực tiếp hàng hoá thiết yếu mà thị trường nội địa còn khan hiếm mà cả máy móc, nguyên phụ liệu, công nghệ giúp cho sản xuất trong nước phát triển, năng suất lao động cao hơn, hàng hoá sản xuất ra dồi dào và ngoài ra còn có tác dụng giữ giá ổn định trên thị trường, hạn chế sự leo thang của giá cả bằng cách tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh-chất lượng và giá cả được quan tâm. *Nhập khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh vì nó cung cấp nguyên phụ liệu để sản xuất hàng hoá trong nước, tỷ lệ nguyên phụ liệu này tuỳ thuộc vào từng quốc gia với nhu cầu của họ, đem lại nhiều trình độ công nghệ khác nhau phù hợp với từng vùng, địa phương với quy mô và khả năng sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng. Ngoài ra nhập khẩu hàng tiêu dùng, sách báo khoa học, kỹ thuật, văn hoá góp phần nâng cao dân trí. Nhập khẩu và xuất khẩu có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện nay trên thế giới, các nước đều nhấn mạnh đến hoạt động xuất khẩu nhưng không vì thế mà nhập khẩu bị coi nhẹ. Có những mặt hàng nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, cá biệt có thể là 100%, mà lợi thế so sánh chỉ là giá nhân công rẻ hoặc được hưởng ưu đãi nào đó. Đối với những nước kém về công nghệ thì việc nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị giúp cho hàng hoá sản xuất chất lượng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngược lại, nhập khẩu phải có lượng dự trữ ngoại tệ, khoản này không thể chỉ trông mong từ hoạt động đi vay từ các tổ chức quốc tế mà nó cần thiết phải được lấy ra từ hoạt động xuất khẩu và các nước đều cân đối để cán cân thương mại được cân bằng. Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu cũng có những hạn chế chủ yếu sau: *Tất cả các hoạt động trong xã hội cần có sự quản lý, hoạt động nhập khẩu cũng vậy, có nhiều phương pháp để thực hiện việc này thông qua thuế quan, phi thuế quan hoặc hành chính. Nếu quản lý không tốt thì tình trạng nhập khẩu sẽ không đúng với mục tiêu của Nhà nước gây nên tình trạng nhập khẩu tràn lan, giá thành giảm nhanh và dẫn đến lãng phí vừa tác động xấu đến sản xuất trong nước vừa gây thiệt hại cho các nhà nhập khẩu. Các cơ quan chức năng liên quan trực tiếp đến hoạt động này như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan nếu không thực hiện một cách đồng bộ quản lý từ trên xuống thì cách xử lý sẽ tạo ra sự không công bằng và thiệt hại có thể cho nền kinh tế trong nước hoặc nhà nhập khẩu hoặc cả hai. Ngoài ra, vì lợi ích trước mắt mà nhiều cán bộ của Hải quan đã cho qua các máy móc thiết bị có thông số kỹ thuật không phù hợp vào Việt nam, những thiết bị công nghệ cũ đã gây ô nhiễm môi trường vừa lãng phí tiền của vừa ảnh hưởng tới sức khoẻ của người lao động và người dân sống xung quanh. *Nhập khẩu thường phải sử dụng ngoại tệ đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Những nước đang phát triển nhu cầu nhập khẩu cao trong khi ngoại tệ lại thiếu nên việc vay nợ từ ngân hàng trong nước hoặc nước ngoài của các đơn vị là phổ biến khi lượng dự trữ ngoại tệ không đủ. Nếu kinh tế nước đó phát triển chậm hoặc không ổn định, cung ngoại tệ thấp hơn cầu thì tình trạng nợ sẽ không giải quyết được và nếu tỷ giá hối đoái tăng cao, nợ nước ngoại tệ có thể kéo dài. *Trong trường hợp giá trị nhập khẩu nhiều hơn giá trị xuất khẩu sẽ gây nên tình trạng mất cân bằng cán cân thương mại quốc tế ảnh hưởng đến quan hệ thương mại quốc tế giữa nước đó với các nước khác. Tỷ giá hối đoái tăng lên gây thiệt hại cho nước nhập khẩu, ngoài ra có thể chịu sức ép về kinh tế hay chính trị để có thể giải quyết được vấn đề nợ. *Đào tạo con người- nhân tố trung tâm của mọi hoạt động-cần hết sức coi trọng. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động khó đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao. Nếu không đào tạo cán bộ nhập khẩu và cán bộ làm công tác quản lý liên quan đến nhập khẩu như Hải quan, cán bộ thuế thì thiệt hại chắc chắn xảy ra do sự vô ý hay cố tình liên quan đến đạo đức làm giảm hiệu quả nhập khẩu. Việt nam là nước đang phát triển, nhu cầu về công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu, phục vụ nhu cầu xã hội là rất lớn trong khi trình độ, khả năng tự có là không thể thì phương thức tối ưu nhất là nhập khẩu. Những mặt hàng như nhựa, đồ điện tử,... phụ liệu, linh kiện không thể tự sản xuất thì không có cách nào khác đó là nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng giá cả, chất lượng luôn dẫn đầu. Để thực hiện được mục tiêu của mình, phương châm mua sắm trong thời kì đầu rồi từng bước học tập, cải tiến máy móc, kỹ thuật, áp dụng phù hợp với hoàn cảnh Việt nam để sản xuất có hiệu quả hơn. Song, để phát huy tốt vai trò của nhập khẩu trong quá trình CNH-HĐH, vấn đề đặt ra là: cần thiết hoạt động nhập khẩu phải là phương tiện kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế. Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT Trong thời gian qua I. KháI quát chung về công ty 1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển: 1.1. Lịch sử hình thành: Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn mới, sau Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, toàn xã hội phải tập trung mọi nỗ lực để đảm bảo nuôi sống xã hội. Mặt khác, nhóm sáng lập của công ty, một nhóm các nhà khoa học, mong muốn phát triển các công nghệ mới như công nghệ sấy, công nghệ tin học, tự động hoá. Ngày 13 tháng 9 năm 1989, Công ty Công nghệ và Chế biến Thực phẩm được thành lập theo quyết định số 80-88 QĐ/VCN do Viện Trưởng Viện Công Nghệ Quốc gia ký. Tên giao dịch Quốc tế : Food Procesing Technology Tên viết tắt: : FPT Văn phòng tại : 30-Hoàng Diệu Ngày mới thành lập công ty chỉ có 13 người, cơ sở vật chất nghèo nàn. Là một công ty nên cương lĩnh điều lệ được ra đời ngay từ khi thành lập, trong đó có một nguyên tắc đáng chú ý: “FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, hùng mạnh bằng nỗ lực sáng tạo trong khoa học kỹ thuật và công nghệ, góp phần hưng thịnh quốc gia, đem lại cho mỗi thành viên của mình điều kiện phát triển đầy đủ nhất về tiềm năng, một cuộc sống đầy đủ vật chất và tinh thần”. Song song với soạn thảo là sáng tác Logo. Những ngày đầu mới thành lập, FPT là một đơn vị liên kết giữa Viện Khoa học Việt nam với Viện Cơ học thuộc Viện Khoa học Việt nam với hoạt động chính là nghiên cứu và triển khai sản xuất kinh doanh đồng thời phối hợp với nhau để thực hiện hợp đồng trao đổi vật tư thiết bị với Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô (cũ) mà chủ yếu là máy vi tính. Ngày 27 tháng 10 năm 1990, công ty quyết định đổi tên thành Công ty Phát triển Đầu tư Công nghệ để phù hợp với phương châm hoạt động mà FPT đề ra từ những ngày đầu thành lập. “Công nghệ là mối quan tâm hàng đầu của FPT, công ty không chỉ cung cấp cho khách hàng phần cứng mà cả phần mềm, giải pháp tổng thể và dịch vụ hoàn hảo”. Năm 1996 FPT rời trụ sở về 89-Láng hạ, Hà nội. Tên giao dịch quốc tế: The Corporation for Financing and Promoting Technology Viết tắt : FPT Trụ sở chính : 89-Láng hạ-Hà nội FPT là doanh nghiệp nhà nước, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng. 1.2. Quá trình phát triển: Trải qua 13 năm tồn tại và phát triển, từ một doanh nghiệp vật chất hầu như không đáng kể đã vươn lên trở thành một doanh nghiệp nổi bật trong hoạt động kinh doanh. Trải qua các biến động của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt nam, FPT cũng có vấp váp và thành công, từ cái vấp váp đó để công ty có thể nhận ra được phương hướng cho hoạt động của mình. Ngay từ năm 1989, công ty đã có văn phòng đại diện tại Matxcơva đồng thời ký và thực hiện hơp đồng máy vi tính lớn với Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô (cũ). Ngoài ra xây dựng thị trường tin học trong nước. Do nhu cầu về mặt hàng ngày càng tăng, hoạt động kinh doanh cần phải được mở rộng, đến năm 1990 FPT Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, bộ phận này hoạt động khá hiệu quả. Các năm tiếp theo liên tục kí kết hợp đồng đại lý với các doanh nghiệp sản xuất máy tính lớn trên Thế Giới như Olivetti, IBM, Compaq. Ngoài ra, thành công còn thể hiện trong việc công bố sản phẩm phần mềm phục vụ kế toán, ngân hàng. Với hoạt động ngày càng mở rộng, một loạt các đơn vị nòng cốt được thành lập: Phòng tài vụ, trung tâm hệ thống thông tin, xí nghiệp giải pháp phần mềm, trung tâm máy tính và thiết bị văn phòng, trung tâm phân phối máy tính và thiết bị văn phòng vào năm 1994. Đối với công ty, năm 1995 là năm đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động đối ngoại, đó là lần đầu tiên FPT xuất khẩu phần mềm. Đến năm 1996, mạng Trí tuệ Việt nam ra đời, FPT trở thành nhà cung cấp dịch vụ và thông tin Internet đầu tiên của Việt nam. Ba năm liên tục 1998, 1999, 2000 FPT được bạn đọc báo PCWord bình chọn là công ty tin học có uy tín nhất. Năm 1999, 2000 được Bộ Thương mại tặng bằng khen về thành tích xuất khẩu phần mềm. Năm 1999, 2000 lần lượt đặt văn phòng thương mại tại ấn độ và Mỹ nhằm hướng vươn ra thị trường nước ngoài với việc xuất khẩu phần mềm. Bước đầu đã có thành công nhất định. Bên cạnh đó FPT cũng đã ký những thoả thuận với các trường đào tạo CNTT, tin học như đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Hà nội, liên kết với ấn độ thành lập trung tâm đào tạo lập trình viên Quốc tế để có được những nhân tài trong lĩnh vực công nghệ thông tin Thành tích xuất sắc nhất là ngày 17/02/2000, FPT đã nhận chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 1994 do BVQI cấp và ngày 17/04/2001 FPT là công ty tin học đầu tiên ở khu vực Đông Nam á nhận chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 2000 cũng do công ty chuyên cấp chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế của Anh BVQI. Đây chính là nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên của FPT, cho biết chất lượng của công ty mang tầm cỡ quốc tế mà không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được. 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty FPT: 2.1. Chức năng: FPT là một công ty thương mại và chuyển giao công nghệ (CGCN) có chức năng nghiên cứu, triển khai, chuyển giao công nghệ, sản xuất các chương trình phần mềm, lắp đặt các thiết bị văn phòng, làm đại lý cho các nhà sản xuất máy tính hàng đầu thế giới. Là một đơn vị kinh tế quốc doanh, công ty luôn thực hiện các chức năng chủ yếu của mình thông qua các kế hoạch nhà nước đặt hàng, các hợp đồng nghiên cứu và các chương trình nghiên cứu công nghệ của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện, công ty có thể thực hiện liên doanh với các đơn vị kinh doanh trong và ngoài nước để phát triển khoa học công nghệ, tạo dựng vốn, mở rộng thị trường. FPT còn có chức năng tham gia vào việc đầu tư theo chiều sâu để phát triển các hoạt động đưa công nghệ tiên tiến vào phục vụ đời sống, xã hội cho các tài năng trẻ cũng như các hoạt động xã hội khác. 2.2. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty: -Xây dựng và tổ chức các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về nghiên cứu, xuất nhập khẩu sản phẩm tin học, CGCN tin học để đáp ứng nhu cầu ứng dụng CNTT trong các ngành theo đúng kinh doanh và mục đích thành lập công ty. -Bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà nước giao. Liên doanh, liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước tổ chức dịch vụ để phát triển dịch vụ và phát triển đầu tư công nghệ. -Chấp hành và thực hiện đúng pháp lụât và chế độ, nguyên tắc quản lý của Việt nam. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. 2.3. Quyền hạn: -Được phép khai thác các nguồn lực về công nghệ để phục vụ cho mục tiêu hoạt động của công ty. -Được phép cung cấp các trang thiết bị theo tiêu chuẩn quốc gia cho các khách hàng. 3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty FPT: 3.1. Về nhân sự: Cho đến nay công ty có 600 cán bộ công nhân viên, trong đó nữ chiếm 1/4. Độ tuổi trung bình là 27.3 , tuổi trung bình công tác là 2 năm 4 tháng. Cơ cấu lao động theo trình độ: -Trên đại học : 30 người -Đại học : 414 người -Trung cấp và trung học: 29 người Các thành viên trong FPT đa số sử dụng tiếng Anh và máy vi tính thành thạo Lương trung bình là 2.100.000 VND/người/tháng. Tỉ lệ cán bộ công nhân viên có chứng chỉ Quốc tế là 1/5. Nhằm trau dồi chuyên môn cho cán bộ công nhân viên nên cứ sau 6 tháng công ty thực hiện chính sách kiểm tra nghiệp vụ, tiếng Anh, IQ. 3.2. Hệ thống tổ chức bộ máy: Công ty FPT có cơ cấu tổ chức bộ máy theo mô hình trực tuyến-chức năng. (Xem sơ đồ tổ chức bộ máy công ty FPT (Trang bên)). Ban Giám đốc của công ty bao gồm: Tổng giám đốc chịu trách nhiệm về mọi mặt của doanh nghiệp trước Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, trước tập thể cán bộ công nhân viên của công ty. Do vậy, tổng giám đốc có quyền quyết định trong phạm vi công ty. Ba phó tổng giám đốc phụ trách các mặt kinh doanh, kế toán tài vụ và nhân sự. Ngoài ra công ty còn có chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh gồm một tổng giám đốc chi nhánh và hai phó tổng giám đốc chi nhánh. Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty: Tổng Giám đốc Phó Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc Phòng Kế hoạch kinh doanh Văn phòng FPT Trung tâm hệ thống thông tin Trung tâm xuất khẩu phần mềm Trung tâm đề án và chuyển giao công nghệ Trung tâm Đào tạo lập trình viên Quốc tế Phòng Tài vụ Trung tâm phân phối các sản phẩm Trung tâm cung cấp điện thoại di động Trung tâm tích hợp hệ thống Phòng nhân sự Trung tâm phân phối dự án Trung tâm đảm bảo chất lượng Trung tâm Internet Tổ thư ký Trung tâm bảo hành Trung tâm phần mềm số 3 Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh không có bộ phận tích hợp hệ thống, các bộ phận khác tương ứng, chi nhánh này chịu sự quản lý điều hành của FPT Hà nội. Phòng Tài vụ: FPT đã tuyển chọn đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao nhằm thực hiện công tác kế toán của công ty theo đúng chế độ kế toán do nhà nước ban hành, đồng thời giúp công ty quản lý tốt về mặt tài chính để trên cơ sở đó sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực của công ty. Hình thức kế toán ở công ty là kế toán tập trung. Mọi công việc kế toán đều tập trung về phòng Tài vụ như: Phân loại chứng từ, lập bảng kê, định khảo kế toán, ghi sổ tổng hợp,... công tác kế toán của công ty được tin học hoá và xử lý trên hệ thống máy tính nối mạng của công ty. Năm 2001, FPT đã triển khai hệ thống phần mềm kế toán Solomon- chương trình phần mềm hiện đại nhất hiện nay-phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của Việt nam. Hoạt động kế toán cũng được chỉ đạo chặt chẽ bởi một phó giám đốc phụ trách kế toán. Chính nhờ tổ chức và hoạt động một cách khoa học phòng Tài vụ luôn đạt năng suất lao động cao. Văn phòng FPT: Chức năng chủ yếu của phòng là quản lý về mặt nhân sự trong công ty, chịu trách nhiệm về thủ tục hành chính, có trách nhiệm trang bị và trang thiết bị văn phòng phẩm, bảo đảm môi trường sạch sẽ phục vụ cho hoạt động và làm việc của các nhân viên tại công ty và khách hàng tới liên hệ. Phòng Kế hoạch Kinh doanh: Chịu trách nhiệm lập phương án kinh doanh cho từng năm của công ty. Phòng có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tìm nguồn hàng, khách hàng để ký kết hợp đồng kinh doanh và tham mưu cho Ban giám đốc cũng như xây dựng chiến lược phát triển của công ty. Mỗi nhân viên trong phòng có công việc cụ thể dưới sự điều hành chung của trưởng phòng. Công ty thành lập nhiều trung tâm đảm nhận những lĩnh vực chuyên biệt. Giám đốc các trung tâm chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về hoạt động kinh doanh và chuyển giao công nghệ của bộ phận mình. Các trung tâm, bộ phận như theo sơ đồ trên. 4. Các hoạt động kinh doanh của FPT: Công ty đã liên tục mở rộng hoạt động kinh doanh do nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng, thể hiện qua: 4.1. Dịch vụ tư vấn và lắp đặt thiết bị tin học: -Máy PC và các phụ kiện IBM, Compaq, Olivetti -Máy mini IBM: RS/6000, AS/400 -Thiết bị mạng: 3 Com, Cisco -Hệ điều hành Netward UNIX, OS/400, NT -Cơ sở dữ liệu của Oracle 4.2. Phần mềm ứng dụng: -Tự động hoá chi nhánh NHTM -Phần mềm kế toán ứng dụng -Giải pháp khách sạn -Giải pháp truyền thông -Thư tín điện tử -Phần mềm đặc trưng của Bộ, ngành: thuế, thanh toán tập trung cho NHTM, các dịch vụ này được đánh giá cao. 4.3. CGCN và giải pháp: -Tìm kiếm các công nghệ và giải pháp phù hợp với môi trường Việt nam. -Ngân hàng bán lẻ -Nhận dạng vân tay tự động cho C27 Bộ nội vụ -Quản lý khách sạn cho khách sạn Metropole -Quản lý xuất, nhập cảnh cho A18 Bộ nội vụ -Xây dựng cơ sở hạ tầng cho Internet Việt nam 4.4. Dịch vụ bảo hành và bảo trì: -Là nhà bảo hành cho IBM, Compaq tại Việt nam -Sửa chữa, nâng cấp các trang thiết bị tin học -Nhận bảo hành tại công trình. 4.5. Đào tạo: -Chương trình nhập môn tin học -Tin học cho học sinh phổ thông -Kế toán và tự động hoá văn phòng -Lập trình các loại ngôn ngữ -Chương trình nâng cao thiết kế và phân tích hệ thống mạng và quản trị mạng Novell Netware, NT Unix 4.6. Dịch vụ tư vấn: -Xây dựng cơ sở hạ tầng Internet và intranet -Mạng TTVN-mạng thông tin nhiều người dùng và phong phú về nội dung. Lượng khách hàng ngày càng tăng, không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài rất hài lòng với sản phẩm của công ty đã chứng tỏ rằng FPT có uy tín lớn trong việc kinh doanh về tin học. Bên cạnh việc tập trung vào sản phẩm tin học là chính nhưng công ty cũng kinh doanh cả nhưng mặt hàng phi tin có hàm lượng công nghệ cao như điện thoại di động, khoản doanh thu và lợi nhuận từ mặt hàng này không phải là nhỏ. Xu hướng thế giới ngày một nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, do đó FPT đã chọn chiến lược hướng vào những mặt hàng mang hàm lượng công nghệ cao để thực hiện tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước đồng thời đạt đúng mục tiêu như trong điều lệ đã ghi. II. Thực trạng về hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT trong thời gian qua 1. Kim ngạch và các mặt hàng nhập khẩu: Như trên đã nói, vai trò của máy vi tính và phụ kiện máy vi tính rất quan trọng, việc nhập khẩu mặt hàng này đã đóng góp phần không nhỏ cho nước nhà. Do nhu cầu thị trường trong nước tăng, khả năng của Việt nam hiện tại không đáp ứng được nên lượng nhập khẩu ngày càng tăng. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm1997 giá trị nhập khẩu các thiết bị máy tính, linh kiện tin học là 130 triệu USD, chiếm 1,2% kim nghạch nhập khẩu của cả năm và tăng 30% so với năm trước. Tuy nhiên, giá thành nhập khẩu của các thiết bị tin học lại giảm từ 15-20%. Năm 1997, Việt nam nhập khẩu 900 máy PC-server hầu hết của các hãng tên tuổi trên thế giới. Đến năm 2000, giá trị nhập lên đến 187 triệu USD, chiếm 1,4% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000, tăng 17% so với năm 1999. Các hãng lớn như IBM, COMPAQ, SONY, LG, SAMSUNG,... đã có mặt ở thị trường Việt nam, nhưng con đường nhập khẩu chính từ các nước Đông Nam á, đứng đầu là Singapo với 57%, Đài loan 11,5%, Hồng kông 5,5%, Mỹ 11%, Thái lan 4,28%, Hàn quốc 5%, Malaixia 2%. FPT là công ty kinh doanh về sản phẩm tin học hàng đầu Việt nam hiện nay, công ty đã nhập khẩu ngay từ khi mới thành lập với hợp đồng cho Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô (cũ). Kinh doanh trong lĩnh vực tin học bao gồm cả phần cứng và phần mềm, nhưng phần mềm chỉ chiếm khoảng 5% doanh thu, điều đó cho thấy vai trò phần cứng là quan trọng đối với hoạt động nhập khẩu tại Việt nam, các sản phẩm này đều nhập từ nước ngoài và cần phải lựa chọn thị trường phù hợp. Bảng 1: Hàng nhập khẩu của công ty trong các năm 1998-2000 Đơn vị: Trị giá: Triệu USD Tỷ trọng: % Năm Mặt hàng 1998 1999 2000 Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng 1.Phi tin: -Đồ dùng nhà bếp -Điện thoại di động -Máy fax, nhắn tin -Thiết bị cho y tế -Thiết bị điện -Máy móc khác 5,685 26,0 2,79 13,0 2,50 11,00 0,875 4,0 0,10 0,5 0,00 0,00 2,159 9,8 2,16 10,0 2,30 9,60 0,200 0,9 0,10 0,5 0,00 0,00 0,760 3,5 0,03 0,2 0,04 0,20 0,366 1,7 0,05 0,3 0,06 0,30 1,325 6,7 0,35 1,3 0,10 0,65 2.Tin học: -Máy vi tính (MVT) -Phụ kiện MVT -Linh kiện tin học khác 16,164 74,0 18,926 87,0 21,5 89,00 11,896 54,0 13,804 64,0 14,20 59,00 3,533 16,0 5,083 23,0 7,00 29,00 0,735 3,4 0,039 0,2 0,30 1,25 Tổng 21,849 100 21,716 100 24,000 100 Nguồn: FPT Từ những số liệu trên ta thấy hàng nhập khẩu tăng qua các năm, năm 1999 có giảm do tỷ giá của USD/VND tăng cao và tình trạng thiểu phát xảy ra ở Việt nam. Năm 1998 kim ngạch nhập khẩu của công ty tăng 0,15% so với năm 1997, năm 2000 kim ngạch nhập khẩu tăng so với năm 1999 là 10,5%. Mặt hàng tin học là mặt hàng chính bao gồm máy vi tính, phụ kiện máy vi tính và các linh kiện tin học khác tăng đều qua các năm đạt tổng trị giá 16,164 triệu USD năm 1998 với tỷ trọng so với toàn bộ giá trị nhập khẩu là 74% lên 21,5 triệu USD và tỷ trọng cũng tăng lên 89% vào năm 2000. Trong khi đó giá trị nhập khẩu hàng phi tin lại liên tục giảm từ 5,685 triệu USD năm 1998 và chỉ còn 2,5 triệu USD vào năm 2000, có nghĩa giá trị giảm hơn một nửa trong vòng 2 năm. Đó là do trước đây công ty nhập khẩu uỷ thác cho các công ty không đủ khả năng nhập khẩu và với mục đích mở rộng thị trường nâng dần uy tín của FPT. Tuy nhiên sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra, tình hình khan hiếm ngoại tệ đã buộc công ty phải tiết kiệm ngoại tệ để tập trung vào những mặt hàng có giá trị gia tăng cao thuộc hàng phi tin và mặt hàng tin học là mục đích kinh doanh chính. Trong tổng giá trị nhập khẩu hàng tin học, máy vi tính và phụ kiện chiếm giá trị khá lớn và xu hướng tăng nhanh trong khi các linh kiện tin học khác có chiều hướng giảm xuống. Mặt hàng máy vi tính đạt giá trị 11,896 triệu USD năm 1998, tỷ trọng là 54% tổng kim ngạch nhập khẩu tăng lên đến 14,2 triệu USD trong năm 2000 với tỷ trọng 59%. Tương tự vậy, giá trị kim ngạch nhập khẩu phụ kiện máy vi tính năm 1998 chỉ chiếm tỷ trọng 16%, giá trị nhập khẩu là 3,533 triệu USD nhưng đến năm 2000 chiếm tỷ trọng so với tổng nhập khẩu cao hơn nhiều đạt 29% với giá trị 7 triệu USD. Riêng hàng linh kiện tin học khác giảm chỉ còn 0,3 triệu USD năm 2000 so với 0,735 triệu USD năm 1998. Tuy nhiên tốc độ tăng trung bình trong 3 năm của máy vi tính chỉ tăng gần 10%/năm trong khi tốc độ tăng của phụ kiện máy vi tính là 40%/năm. Điều đó cho thấy vai trò của phụ kiện máy vi tính ngày càng quan trọng đối với việc kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu. Hàng phi tin học tất cả đều giảm, chỉ riêng mặt hàng điện thoại di động không những không giảm như các mặt hàng khác mà vẫn tiếp tục tăng và chiếm hầu hết giá trị nhập khẩu của phi tin. Nhận thấy nhu cầu về mặt hàng điện thoại di động đang tăng lên đồng thời Singapo là thị trường có mối quan hệ với công ty khá lâu lại có nhiều đại lý lớn hàng điện thoại di động nên công ty quyết định nhập về. Năm 1998 tỷ trọng của mặt hàng này so với giá trị nhập khẩu hàng phi tin là 38% đã tăng vọt lên tới 92._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2346.doc