mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập, hiệu quả của doanh nghiệp quyết định không chỉ sức mạnh cạnh tranh, vị thế, thị phần của doanh nghiệp mà còn là điều kiện tồn tại bền vững của doanh nghiệp. Do đó nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ quan trọng có tính quyết định của mọi doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước Việt nam, nhiệm vụ nâng cao hiệu quả còn có ý nghĩa quan trọng hơn. Trải qua thời gian dài hoạt động trong cơ chế tập tru
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA TỔNG Công ty XNK XÂY DỰNG Việt Nam (VINACONEX), THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quan liêu bao cấp và sau đó là cơ chế chuyển đổi, cho đến nay nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa hoàn toàn hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh và tự chủ tài chính, năng suất và chất lượng còn thấp. Trước ngưỡng cửa của việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), trước sức ép cạnh tranh ngày càng lớn hơn, trước khả năng Nhà nước không còn có thể tiếp tục bao cấp hơn nữa, các doanh nghiệp nhà nước, nếu không tự mình nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, sẽ có thể bị giải thể hoặc phá sản.
Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt nam (VINACONEX) cũng nằm trong bối cảnh chung đó. Mặc dù đã nỗ lực đổi mới rất nhiều từ hơn 10 năm nay, nhưng cho đến nay hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty vẫn chưa xứng với năng lực của Tổng công ty cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu của Bộ xây dựng đối với Tổng công ty. Đặc biệt, vào năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã quyết định thí điểm cổ phần hoá toàn bộ VINACONEX với phương thức Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Sự chuyển đổi mô hình này vừa là cơ hội, vừa là thử thách đối với Tổng công ty. Hiện nay, khi Việt nam gia nhập WTO, môi trường hoạt động của Tổng công ty sẽ mở rộng, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng nhiều. Vì thế nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cấp bách của VINACONEX hiện nay. Để góp sức cùng VINACONEX hoàn thành nhiệm vụ đó, đề tài “Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt nam- VINACONEX, thực trạng và giải pháp “ được nghiên cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu (XNK) của doanh nghiệp Việt nam nói chung, của VINACONEX nói riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu như:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn của thương mại Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - Tiến sĩ Nguyễn Văn Lịch – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, tài liệu Hội thảo Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương năm 2003.
- Thương mại Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế: quá khứ – hiện tại – tương lai – PGS.TS Nguyễn Thị Mơ - Trường đại học ngoại thương, tài liệu Hội thảo Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương năm 2003.
- Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của thương mại Việt nam vào kinh tế khu vực và Quốc tế – PGS. TS Nguyễn Phúc Khanh – Trường đại học ngoại thương, tài liệu Hội thảo Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương năm 2003.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ nhằm chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế của nước ta – PGS. TS Nguyễn Văn Nam – Viện nghiên cứu thương mại, tài liệu Hội thảo Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương năm 2003.
- Định hướng và giải pháp phát triển thương mại Việt nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế Quốc tế – Trần Nga – Sở thương mại và du lịch Hà nam, tài liệu Hội thảo Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương năm 2003.
- Định hướng và giải pháp phát triển thương mại Việt nam đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế. – TS Phạm Minh Trí – Hội khoa học kinh tế và quản lý TP.HCM, tài liệu Hội thảo Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương năm 2003.
Nội dung chủ yếu của các đề tài nêu trên là khái quát đặc điểm của thương mại trong điều kiện toàn cầu hoá, thời cơ và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích giải pháp thích ứng của Nhà nước, ngành và doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế…
Một hướng khác đi sâu nghiên cứu về nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp cụ thể, đề xuất phương hướng và giải pháp thích nghi cho doanh nghiệp có các công trình như sau:
- Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước trên địa bàn Tỉnh Nghệ An – Thực trạng và giải pháp – Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Hạnh, bảo vệ năm 2001 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Tỉnh Kiên Giang – Luận văn thạc sĩ của tác giả Lương Thanh Phương, bảo vệ năm 2001 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Thương mại Yên bái trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế thực trạng và giải pháp – Luận văn cao cấp lý luận của Cù Đức Đua – Sở Thương mại và du lịch Yên bái.
Ngoài ra có một số công trình nghiên cứu sâu về các nghiệp vụ, các nhân tố tác động tới hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về hoạt động kinh doanh XNK của VINACONEX.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK trong VINACONEX, từ đó đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu đáp ứng các mục tiêu của VINACONEX và phù hợp với tình hình hội nhập mới ở Việt nam.
Để hoàn thành mục tiêu đó luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hoạt động XNK trong điều kiện hội nhập, về hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp nhà nước, về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hội nhập.
- Tổng thuật một số kinh nghiệm hoạt động XNK của các doanh nghiệp trên thế giới và Việt Nam để rút ra bài học cho VINACONEX.
- Phân tích thực trạng hoạt động XNK của VINACONEX để tìm ra điểm yếu, điểm mạnh và nguyên nhân.
- Đề xuất hệ thống định hướng và giải pháp giúp VINACONEX nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
VINACONEX hoạt động trong nhiều lĩnh vực như xây lắp, XNK hàng hoá, xuất khẩu lao động, đầu tư, dịch vụ...Nhưng để tập trung đi sâu nghiên cứu và phù hợp với khuôn khổ cho phép, luận văn chỉ nghiên cứu một trong ba lĩnh vực chủ yếu của VINACONEX, đó là XNK hàng hoá.
Ngoài ra, VINACONEX đã có lịch sử phát triển dài và nhiều biến động, tăng trưởng theo các thời kỳ lịch sử của đất nước. Để tập trung vào các vấn đề liên quan đến XNK trong thời kỳ hội nhập, luận văn cũng chỉ khảo sát thực trạng hoạt động XNK của VINACONEX từ 1995 trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế truyền thống như phân tích, tổng hợp dựa trên các công trình nghiên cứu đã có, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng và Nhà nước, số liệu thống kê. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp mô hình và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về hoạt động XNK của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nêu được bức tranh chung về hoạt động XNK của VINACONEX.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động XNK của VINACONEX.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương, 8 tiết và biểu bảng, sơ đồ
Chương 1 Một số vấn đề chung về kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hội nhập Kinh Tế Quốc Tế
1.1. Đặc điểm và vai trò của kinh doanh xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Thực chất hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế
Nếu như thương mại nội địa được xem là hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ một nước theo nguyên tắc ngang giá trên cơ sở sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì hoạt động XNK được coi là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước với nhau trên phạm vi toàn thế giới. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau.
Nói cách khác, kinh doanh XNK là quá trình buôn bán giữa các nước với nhau, là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá với nước ngoài. Hoạt động XNK là lĩnh vực mà qua đó một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Có thể nói, XNK ra đời là do kết quả của sản xuất phát triển. Bởi lẽ, khi sản xuất đã phát triển, người ta sẽ chuyên môn hoá trong sản xuất và tất yếu sẽ dẫn đến sự phân công lao động quốc tế. Cùng với thời gian, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn nữa, khiến một nước không thể phát triển mà không tham gia vào hợp tác và phân công lao động quốc tế. Chính vì vậy, XNK cũng ngày càng phát triển. XNK cho phép một nước mở rộng khả năng tiêu dùng của mình ở tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể nếu giả định nước đó đóng cửa thực hiện chế độ tự cung tự cấp.
Hoạt động XNK xuất hiện từ sự đa dạng và khác nhau về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các khu vực và các quốc gia. Các nước nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế thì chắc chắn hiệu quả sử dụng nguồn lực quốc gia sẽ tốt hơn. Điều này đã được nhà kinh tế học người Anh David Ricardo phát biểu như sau: Một quốc gia hay một cá nhân có thể nâng cao mức sống và thu nhập thực tế bằng cách chuyên môn hoá các mặt hàng mà nước này hay cá nhân này có thể sản xuất với lợi thế so sánh cao nhất, xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác. Lúc này xuất nhập khẩu sẽ có lợi cho cả hai bên.
Tóm lại:
- Hoạt động XNK được coi là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước với nhau. Sự trao đổi đó là kết quả và biểu hiện của phân công lao động quốc tế.
- Hoạt động XNK là xu hướng phát triển có tính khách quan xuất phát từ sự đa dạng và khác nhau về điều kiện tự nhiên của sản xuất và trao đổi giữa các khu vực và các quốc gia.
- Hoạt động XNK có qui mô, hình thức, luật lệ mang tính lịch sử.
Xuất phát từ những lý do đó mà XNK ra đời và ngày càng đóng góp vai trò tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của từng nước nói riêng. Điều này thể hiện rõ nét thông qua vai trò của hoạt động XNK đối với nền kinh tế.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế
1.1.2.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
* Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Việt Nam đang đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu và chậm phát triển. Máy móc; thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại, chúng là động lực của quá trình này. Để có thể nhập khẩu (NK) máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại, chúng ta cần một số vốn rất lớn. Số vốn này có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ ngoại tệ, xuất khẩu lao động,... Nhưng vốn có được từ đầu tư nước ngoài hay từ vay nợ sớm muộn đều phải trả bằng cách này hay cách khác. Nguồn thu từ du lịch, dịch vụ chỉ đáp ứng được một phần nhỏ. Xuất khẩu lao động chủ yếu là để tạo công ăn việc làm, không thể là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu. Do đó, nguồn ngoại tệ quan trọng nhất để NK, để công nghiệp hoá đất nước hình thành từ xuất khẩu (XK). XK quyết định quy mô và tốc độ tăng của NK.
* Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Có 2 quan điểm về tác động của XK đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Theo quan điểm thứ nhất, XK chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta hiện nay, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ chờ vào sự thừa ra của sản xuất thì XK vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Quan điểm thứ hai, là quan điểm được nhiều nhà kinh tế hiện đại ủng hộ, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động của XK đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở chỗ:
Một là, XK tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển XK gạo, cơ hội cho ngành chế biến, chăn nuôi, ngành sản xuất bao gì, ngành hoá chất là rất lớn.
Hai là, XK tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần làm cho sản xuất phát triển ổn định. Bởi vì, khi khả năng sản xuất đã được mở rộng mà thị trường trong nước nhỏ hẹp thì thị trường ngoài nước là nơi tiêu thụ lớn, đem lại ngoại tệ đồng thời hướng sản xuất theo yêu cầu thoả mãn nhu cầu của thị trường đó.
Ba là, XK tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Bốn là, XK tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Bởi vì xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật thu hút công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam.
Năm là, thông qua XK, hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất có tính thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
Sáu là, XK còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Thực tế cho thấy, dù vốn của doanh nghiệp có lớn đến đâu mà người chủ không quản lý tốt thì doanh nghiệp cũng không phát triển mạnh được.
* XK có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Hàng XK của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng thô và nguyên liệu hoặc mới chỉ qua sơ chế. Tuy vậy, cũng đã có hàng triệu lao động được thu hút để sản xuất những mặt hàng này. Tới đây, khi chúng ta tăng hàm lượng chế biến hàng xuất khẩu, cho dù có sự hỗ trợ của máy móc, thì một lượng không nhỏ người lao động nữa sẽ có thêm thu nhập.
Đẩy mạnh XK, tham gia vào thị trường thế giới, tức là chúng ta đã đi sâu hơn vào phân công lao động quốc tế, con đường tốt nhất để tạo công ăn việc làm và thu nhập cao cho người lao động.
Đời sống của người lao động được cải thiện dần theo thu nhập ngày càng tăng lên, dựa vào đà tăng của kim ngạch XNK cả nước. Cần lưu ý rằng không chỉ những người lao động tham gia một cách trực tiếp vào XK mới có thu nhập tăng lên. Những người lao động khác, dù ở những ngành có hay không liên quan đến XK, nếu không được hưởng những quyền lợi vật chất, chẳng hạn như lương cao, thì cũng được hưởng những phúc lợi xã hội do sự đóng góp của các doanh nghiệp XK bằng cách này hay cách khác vào ngân sách nhà nước. Nếu chỉ dựa vào những thành tựu trong nước, thì đến nay chúng ta đã không được hưởng những phát minh khoa học như máy giặt, tủ lạnh, máy ảnh hay ti vi,... XK còn tạo ra nguồn vốn để NK vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, hiện đại phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong phú của nhân dân.
* XK góp phần mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
XK là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Nó ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển.
XK tăng sẽ tạo đà cho các quan hệ kinh tế phát triển. Bạn bè thế giới sẽ biết đến nước ta. Ngoài những người có nhu cầu tham quan du lịch, tìm hiểu văn hoá, phong tục, còn có những người tiến hành tìm kiếm thăm dò thị trường thông qua du lịch và hoạt động này đã khiến ngành du lịch tăng trưởng và phát triển nhanh chóng.
Khi XK nhiều lên, nhu cầu về vận tải, bảo hiểm tăng, quan hệ tín dụng cũng phát triển theo, đầu tư cũng gia tăng bởi bạn hàng nước ngoài thấy được khả năng phát triển của Việt Nam thông qua hoạt động XK được đẩy mạnh.
Ngược lại, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa kể trên cũng tạo tiền đề cho mở rộng XK trong khi ngành vận tải của Việt Nam chưa lớn mạnh, ngành bảo hiểm còn non trẻ, những kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế còn chưa nhiều.
Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Cùng với xu hướng hội nhập của đất nước thì xu hướng vươn ra thị trường thế giới của doanh nghiệp cũng là một tất yếu khách quan. Bán hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau:
- XK mở ra những thị trường rộng lớn hơn, giúp doanh nghiệp có cơ hội tiêu thụ nhiều hàng hoá hơn, điều này đặc biệt quan trọng khi dung lượng thị trường nội địa còn hạn chế như ở nước ta.
- XK buộc doanh nghiệp phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh đến từ khắp nơi trên thế giới. Vì vậy doanh nghiệp luôn phải nâng cao năng lực mọi mặt của mình để tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Đây là điều kiện tốt để doanh nghiệp phát triển một cách hiệu quả.
- XK giúp doanh nghiệp mở rộng quan hệ, kịp thời nhận được những thông tin mới để điều chỉnh chiến lược của mình cho phù hợp.
1.1.2.2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
NK là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. NK tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. NK là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vai trò của NK thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, NK sẽ thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai, NK sẽ bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
Thứ ba, NK đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Thứ tư, NK có vai trò tích cực thúc đẩy XK, góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng XK, tạo môi trường thuận lợi cho XK hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước ta NK của họ.
Thứ năm, đối với doanh nghiệp, NK đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, là hoạt động kinh doanh có khả năng đem lại nhiều lợi nhuận và nhiều lợi ích kinh tế khác của doanh nghiệp.
Từ những điều phân tích nêu trên, có thể khái quát về vai trò của hoạt động XNK như sau:
Thứ nhất, XNK là một hình thức trao đổi tích cực, nó vừa thể hiện mối quan hệ xã hội, vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng rẽ mà có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu của mình cho dù đó là những nhu cầu có khả năng thanh toán. Việc buôn bán quốc tế cho phép một nước mở rộng khả năng sản xuất và khả năng tiêu dùng, tận dụng được những trang thiết bị, máy móc của nước khác mà điều kiện sản xuất của nước đó chưa cho phép. Chính vì vậy XNK trở thành vấn đề sống còn đối với tất cả các quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, kinh doanh XNK chiếm một vị trí quan trọng trong tái sản xuất xã hội. Nói cách khác, XNK mở rộng quá trình tái sản xuất của một quốc vượt ra khỏi đường biên giới. Khi sản xuất các hàng hoá để XK, các quốc gia bỏ ra những chi phí nhất định. Các hàng hoá XK không tham gia vào quá trình lưu thông trong nước, chúng được tiêu thụ ở nước ngoài. Khi XK, nước XK thu được một số ngoại tệ nhất định. Khi XNK, các tỷ lệ trao đổi được hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan của nó khác với giá nội bộ của nước XK. Sau khi NK, sản phẩm NK tham gia vào lưu thông hàng hoá trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội thực tế các sản phẩm sử dụng đầu vào sản xuất là hàng NK.
Mặt khác, kinh doanh XNK thông qua hoạt động XK, NK đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hàng hoá hoặc làm tăng mức giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước.
Hơn nữa, XNK còn phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Đến lượt mình, sự đa dạng của sản xuất và tiêu dùng sẽ khuyến khích nền kinh tế tăng trưởng.
Ngoài ra, hoạt động XNK còn tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước và hàng nhập ngoại. Sự cạnh tranh này làm cho chất lượng sản phẩm và doanh nghiệp trong nước được nâng cao, xoá bỏ nhanh chóng sản phẩm lạc hậu, sản phẩm mà thị trường thế giới không chấp nhận.
Như vậy, kinh doanh XNK có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi nước, phát huy được thế mạnh của mỗi nước và thế mạnh của cả nền kinh tế thế giới, là chiếc cầu nối liền nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh Xuất Nhập Khẩu của Doanh Nghiệp
Hoạt động kinh doanh XNK phụ thuộc vào trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp, cũng như sự tận dụng các nguồn lực đó. Đồng thời hoạt XNK của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào môi trường trong đó doanh nghiệp hoạt động.
1.2.1. Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp như lao động, khoa học kỹ thuật, thông tin,...
1.2.1.1. Lực lượng lao động
Lao động là một yếu tố quan trọng của quá trình hoạt động kinh doanh. Việc sử dụng lao động hợp lý sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên các mặt giảm chi phí, tăng khả năng cải tiến, thay đổi mặt hàng, linh hoạt trong ứng xử với đối tác.... Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động là biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng. Lực lượng lao động của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK ở những điểm sau:
Thứ nhất, Lao động là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của hoạt động kinh doanh XNK: Đội ngũ người lao động bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên liệu mới có hiệu quả hơn trước hoặc cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, hiệu quả so với trước. Khả năng sáng tạo, đổi mới, tính năng động của người lao động quyết định khả năng thích nghi và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thế giới.
Thứ hai, trình độ kỹ năng của người lao động: người lao động trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả của doanh nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng công suất của thiết bị máy móc, tận dụng nguyên vật liệu, chi phí trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh làm tăng năng suất, tăng hiệu quả từng nơi làm việc.
Thứ ba, cách thức tổ chức khoa học lao động: lao động có kỹ thuật, chấp hành đúng mọi quy định về thời gian, về quy trình hoạt động, quy trình bảo dưỡng thiết bị máy móc dẫn đến kết quả không phải chỉ tăng hiệu quả mà còn tăng độ bền, giảm chi phí sửa chữa góp phần làm giảm chi phí kinh doanh.
Ngoài ra chất lượng kinh doanh còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với những thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Lực lượng lao động có trình độ, có trách nhiệm là động cơ tốt phát huy hiệu quả kinh doanh XNK.
Để có được đội ngũ lao động có trình độ, tinh thần, ý thức trách nhiệm cao thì doanh nghiệp phải chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động.
1.2.1.2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật
Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng chất lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ mới là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Nếu xét trong mối quan hệ với lao động thì cơ sở vật chất kỹ thuật vừa là công cụ, vừa là môi trường tốt để nâng cao năng lực của đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có năng lực, có trình độ kết hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại thì hiệu quả kinh doanh sẽ rất cao.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã thực sự nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm ở tất cả các hãng kinh doanh trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt Nam đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ngày càng cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, cải thiện và nâng cao trình độ trang thiết bị cho doanh nghiệp mình. Nếu doanh nghiệp chỉ có cơ sở vật chất trang thiết bị yếu kém, máy móc lạc hậu, không đồng bộ thì việc bán sản phẩm trên thị trường thế giới sẽ thực sự khó khăn. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì điều này càng trở nên quan trọng hơn, bởi lẽ sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh với các hãng sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với rất nhiều hãng khác trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải biết tận dụng những gì do công nghệ mới mang lại, do cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tạo ra để sản xuất ra những hàng hoá có chất lượng cao mới đem lại lợi nhuận cao trong kinh doanh XNK và mới có thể thâm nhập, mở rộng thị trường tiêu thụ ở tất cả các quốc gia.
Thực tế trong những năm chuyển đổi kinh tế vừa qua cho thấy doanh nghiệp nào tạo dựng được công nghệ sản xuất và hệ thống thiết bị hiện đại, làm chủ được các yếu tố kỹ thuật và phát triển sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó đạt được hiệu quả kinh tế cao, có khả năng đứng vững trên thị trường và đem lại những cơ hội cho phát triển doanh nghiệp.
1.2.1.3. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật tiến bộ đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực, đặc biệt tin học và điện tử ngày càng đóng vai trò quan trọng. Thông tin được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh và nền kinh tế thị trường hiện nay được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để kinh doanh trên thị trường thành công, các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, thông tin về các đối thủ cạnh tranh, thông tin về người mua, người bán, thông tin về hàng hoá, dịch vụ, giá cả, tỷ giá,... Không những thế các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn phải biết được kinh nghiệm thành công hoặc thất bại của các doanh nghiệp trong nước và trên thế giới, các thông tin về chính sách vĩ mô của Nhà nước và các nước có liên quan đến thị trường XNK của doanh nghiệp.
Đặc biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh XNK, yêu cầu về thông tin càng trở nên có ý nghĩa hơn. Thông tin trong nước cũng như quốc tế phải nhanh nhạy, thông tin về tỷ giá, chính sách XNK, quota,... phải được xem xét thường xuyên và cập nhật.
Hệ thống thông tin có tác động lớn đối với hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp, cụ thể là:
- Những thông tin kịp thời, chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng XNK, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình khuyến mãi ngắn hạn, để đưa ra các quyết định đúng đắn khi ký hợp đồng. Nếu thông tin thu thập được mà không kịp thời, chính xác thì kinh doanh sẽ không đạt hiệu quả, do bỏ lỡ cơ hội mà thị trường đã đem lại cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin về thị trường, giá cả và đối thủ cạnh tranh.
- Thông tin giúp doanh nghiệp nắm bắt và nghiên cứu đầy đủ hơn về môi trường kinh doanh ở quy mô khu vực và thế giới, đặc biệt là những biến động bất thường trên thị trường. Có thông tin tin cậy, doanh nghiệp có thể nắm bắt và tận dụng những cơ hội kinh doanh tốt và tránh được rủi ro.
Tóm lại, việc tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin kinh doanh XNK, giúp cho doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh XNK có hiệu quả, vừa giảm đáng kể chi phí kinh doanh XNK.
1.2.1.4. Yếu tố quản trị doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng, yếu tố quản trị ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Yếu tố này tác động tới hiệu quả kinh doanh XNK thông qua một loạt các kênh nội tại của doanh nghiệp như cơ cấu lao động, cơ sở vật chất, kỹ thuật,... Công tác quản trị doanh nghiệp được tiến hành tốt sẽ giúp doanh nghiệp tạo dựng một hướng đi đúng trong xác lập thị trường, mặt hàng và đối tác chiến lược, trong xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả, trong xác định hợp lý các mục tiêu kinh doanh ngắn và dài hạn.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp hợp lý không những giúp cho điều hành hoạt động kinh doanh XNK tốt mà còn giảm các chi phí quản lý và xây dựng một cơ cấu điều phối lao động tối ưu, góp phần xây dựng và lựa chọn hợp lý các phương án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào phục vụ cho mục tiêu kinh doanh XNK của doanh nghiệp.
- Kinh doanh XNK là hoạt động thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và ngày càng tối ưu các yếu tố đầu vào, đầu ra bằng các kiến thức khoa học và nghệ thuật. Nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp, bằng phẩm chất và tài năng của mình, có vai trò quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành đạt của doanh nghiệp. Để có thể tạo dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt, đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có kiến thức khoa học và nghệ thuật kinh doanh, đáp ứng được hai nhiệm vụ chủ yếu là:
- Xây dựng tập thể lao động thành một khối đoàn kết, năng động với chất lượng cao.
- Dìu dắt tập thể dưới quyền, hoàn thành mục đích và mục tiêu một cách vững chắc và ổn định. ở bất kỳ một doanh nghiệp nào, hiệu quả kinh tế đều phụ thuộc lớn vào tổ chức cơ cấu bộ máy quản trị, nhận thức hiểu biết về chất lượng và trình độ của đội ngũ các nhà quản trị, khả năng xác định chính xác mục tiêu, phương hướng kinh doanh có lợi nhất cho doanh nghiệp.
1.2.2. Nhóm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, kinh doanh XNK nói riêng, không những chịu tác độ._.ng của các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhân tố tác động từ bên ngoài. Đó là các nhân tố về môi trường chính trị, luật pháp, văn hoá xã hội, môi trường quốc tế, tỷ giá hối đoái,...
1.2.2.1.Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, thông lệ, quy tắc liên quan đến hoạt động XNK. Môi trường pháp lý tác động trực tiếp đến hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh XNK trên các mặt: Hệ thống luật lệ tạo ra hành lang cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà nếu doanh nghiệp không tuân thủ thì hậu quả sẽ rất tai hại; Một môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh XNK của mình đồng thời cũng điều chỉnh các hoạt động kinh doanh XNK theo hướng có lợi không phải chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho nền kinh tế; Đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh XNK, môi trường pháp lý còn được xem xét dưới dạng chi phí. Nếu môi trường pháp lý đơn giản, minh bạch thì doanh nghiệp vừa dễ nắm vững luật pháp, vừa phải chi phí về pháp lý thấp. Ngược lại, môi trường pháp lý không rõ ràng, thay đổi tuỳ tiện thì hoạt động kinh doanh XNK của doanh nghiệp gặp rủi ro rất lớn.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các định chế kinh tế thương mại khu vực và quốc tế còn có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh XNK. Các doanh nghiệp phải nắm vững các chính sách quản lý XNK của các đối tác thương mại trong khuôn khổ song phương, khu vực và đa phương để tận dụng tối đa các cam kết giảm thuế, mở cửa thị trường của họ nhằm tối đa hoá lợi ích kinh doanh XNK, cũng như phải nắm vững các chế tài nhằm có chiến thuật hợp lý, giảm tổn thất do quy định pháp lý gây ra.
* Môi trường văn hoá xã hội
Môi trường văn hoá xã hội ở nước sở tại cũng như môi trường văn hoá xã hội ở nước ngoài đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh XNK của doanh nghiệp. Đối với nước sở tại thì môi trường văn hoá xã hội sẽ tác động đến những yếu tố: tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, trình độ giáo dục, phong cách lối sống, những đặc điểm truyền thống, tâm lý xã hội. Do đó hiệu quả kinh doanh XNK cũng bị tác động theo cả hai hướng tích cực hoặc không tích cực. Với xã hội có trình độ văn hoá cao sẽ tạo thuận lợi lớn trong việc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao, tiếp thu nhanh kiến thức cần thiết và tác phong lao động công nghiệp sẽ tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Môi trường văn hoá xã hội ở nước ngoài nơi mà các doanh nghiệp kinh doanh XNK hàng hoá sang thị trường các nước đó lại có vai trò quan trọng hơn đối với hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Bởi lẽ, mỗi nước sẽ có một nền văn hoá, phong tục tập quán riêng và do đó họ sẽ có yêu cầu và sở thích khác nhau đối với những loại hàng hoá mà họ tiêu thụ. Các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải nắm bắt được vấn đề này mới có thể bán được hàng, mới tạo dựng được uy tín và thị phần, từ đó mới có thể thu được lợi nhuận cao nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yếu tố văn hoá trong kinh doanh ngày càng trở nên vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp thành công là các doanh nghiệp biết lồng ghép, gắn yếu tố văn hoá vào các sản phẩm của mình trong việc đưa ra các mẫu mã hàng hoá phù hợp, có tính văn hoá cao, phù hợp với con người, xã hội của thị trường XK. Ngược lại, nếu các sản phẩm gây phản cảm hay thậm chí đi ngược lại yếu tố văn hoá truyền thống của thị trường sở tại thì sẽ bị tẩy chay.
Trong tình hình hiện nay, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến yếu tố tôn giáo. Đây là vấn đề vô cùng nhạy cảm. Nếu vô tình vi phạm, xúc phạm những điều kiêng kỵ của một giáo phái có thể sẽ dấy lên phong trào phản đối, tẩy chay sản phẩm không những chỉ ở một nước mà còn lan ra toàn thế giới. Đó là bài học đắt giá mà một số doanh nghiệp châu Âu mắc phải trong thời gian gần đây khi vô tình xúc phạm vào điều cấm của đạo Hồi.
1.2.2.2. Môi trường chính trị
Cũng tương tự như môi trường văn hoá xã hội, môi trường chính trị trong nước và các nước có liên quan đến việc XNK của các doanh nghiệp đều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Môi trường chính trị trong nước ổn định sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK yên tâm với hoạt động kinh doanh của mình. Khi đó Chính phủ sẽ có những biện pháp tích cực nhằm mở rộng và kích thích, tạo đà cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK phát huy được hết thế mạnh của mình và trên cơ sở đó đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Môi trường chính trị nước ngoài ổn định cũng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Bởi lẽ khi đó hoạt động kinh doanh của họ không bị gián đoạn do nội chiến, đình công, xung đột,... ở thị trường những nước này. Đồng thời Chính phủ các nước này cũng sẽ có những ưu đãi nhất định đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Ngoài ra, quan hệ chính trị giữa hai nước và nhiều nước cũng có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động XNK. Các chính sách cấm vận hoặc ưu đãi của quốc gia này đối với quốc gia khác có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh XNK thu lợi nhuận lớn, song cũng có thể làm cho doanh nghiệp XNK hứng chịu các khoản thua lỗ do hành vi chính trị của chính phủ nước quan hệ gây ra.
1.2.2.3. Môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng
Tình trạng môi trường, xử lý phế thải, ô nhiễm và các ràng buộc xã hội về môi trường đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng. Nếu như môi trường trong sạch và hợp vệ sinh, hệ thống xử lý nước thải và các chất phế thải được trang bị cẩn thận và hợp lý sẽ góp phần làm giảm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một trong những thuận lợi để doanh nghiệp có điều kiện cải thiện tốt hơn nữa các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ đem lại cho doanh nghiệp những hiệu quả kinh tế cao hơn.
Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đóng vai trò rất quan trọng đối với việc trực tiếp giảm chi phí lao động để xây dựng trang thiết bị, kỹ thuật cho doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là cơ sở hạ tầng tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời gian vận chuyển hàng hoá của doanh nghiệp và do đó tác động đến hiệu quả kinh tế. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm tăng chi phí đầu tư, cản trở hoạt động cung ứng hàng hoá, do đó sẽ tác động xấu đến sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì cơ sở hạ tầng của nền kinh tế lại càng quan trọng hơn. Nếu cơ sở hạ tầng yếu kém thì có nghĩa là vận tải quốc tế sẽ không phát triển mà hàng hoá cần thiết phải được đưa từ quốc gia này sang quốc gia khác trong thời gian ngắn nhất với chi phí thấp nhất. Có một điều mà các doanh nghiệp kinh doanh XNK luôn quan tâm, đó chính là hệ thống kho ngoại quan. Nếu kho ngoại quan được thành lập theo đúng quy định và có nhiều ưu điểm sẽ giúp cho chủ hàng kinh doanh XNK yên tâm gửi hàng trong thời gian chờ đợi để XK hoặc NK. Nếu hàng hoá XNK gửi ở kho ngoại quan được đảm bảo an toàn về mặt số lượng và chất lượng, đồng thời các thủ tục xuất nhập kho được giải quyết nhanh chóng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh XNK bởi họ không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
1.2.2.4. Môi trường thị trường quốc tế
Môi trường quốc tế cũng là một trong những nhân tố có vai trò quyết định đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Với một nền kinh tế mở cửa phù hợp với xu thế hội nhập cùng phát triển, thì ảnh hưởng của môi trường quốc tế đối với doanh nghiệp XNK nói chung là thuận lợi. Ngược lại, xu thế xung đột leo thang, hàng rào bảo hộ dựng lên phổ biến thì hoạt động XNK sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, những biến động của tỷ giá hối đoái, các cuộc khủng hoảng khu vực và thế giới... gây tác động rất lớn đến môi trường kinh doanh của các quốc gia có liên quan. Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho hoạt động buôn bán thương mại quốc tế giữa các nước và do đó ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu đồng nội tệ lên giá thì XK sẽ bị hạn chế đồng thời kích thích NK và ngược lại. Các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải thường xuyên đối phó với vấn đề tỷ giá, phải cập nhật sự thay đổi của tỷ giá hối đoái để có quyết định đúng đắn trong quá trình kinh doanh XNK.
1.2.2.5. Môi trường khoa học công nghệ trong nước và quốc tế
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, các hoạt động nghiên cứu và triển khai ngày càng tạo ra nhiều công nghệ mới, kỹ thuật mới. Khoa học công nghệ trong các lĩnh vực của nền kinh tế rất được coi trọng bởi các lợi ích mà nó đem lại là rất lớn. Yếu tố công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả trong công tác XNK. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng, bạn hàng qua telex, Internet, giảm bớt những chi phí đi lại, khả năng nắm bắt thông tin nhanh hơn. Hơn nữa, các doanh nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin về thị trường ngoài nước bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Bên cạnh đó, yếu tố công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực vận tải hàng hoá, các nghiệp vụ thanh toán trong ngành ngân hàng,... đó cũng là yếu tố tác động tới công tác XNK theo chiều hướng tích cực.
Ngoài ra, thách thức đối với các doanh nghiệp là việc cần đầu tư triển khai khoa học công nghệ mới để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Để thành công, các doanh nghiệp phải là người đi đầu trong ứng dụng thành quả khoa học vào công việc và sản phẩm kinh doanh của mình.
1.2.2.6. Môi trường kinh tế trong nước
Môi trường kinh tế trong nước bao gồm các yếu tố như tăng trưởng kinh tế quốc dân, các chính sách kinh tế của Chính phủ, lạm phát, biến động tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh luôn luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp XNK. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhìn chung hoạt động ngoại thương sẽ sôi nổi, do đó cơ hội kinh doanh thành công khá lớn. Ngược lại, kinh tế trì trệ, thị trường trong nước thu hẹp, cạnh tranh để XK và NK sẽ gay gắt hơn rất nhiều.
Các chính sách kinh tế của Chính phủ như chính sách tài chính, tiền tệ, biểu thuế,... vừa tác động điều tiết vĩ mô, vừa tạo ra cơ hội, thách thức với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp XNK. Nếu chính sách lãi suất, tín dụng quy định mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho việc vay vốn của các doanh nghiệp và làm tăng chi phí về vốn. Chính sách tỷ giá không hợp lý cũng kiềm chế ngoại thương... Sự tồn tại một số doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh vượt trội thì cơ hội cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ hiếm hoi...Do vậy, trong quá trình hoạt động kinh doanh XNK, các doanh nghiệp phải luôn nhạy cảm với môi trường kinh tế để có thể ra các quyết định kinh doanh phù hợp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
1.2.3. Các yếu tố khác
- Giá cả: Vấn đề giá cả hàng hoá trong cơ chế thị trường rất phức tạp vì mỗi thị trường có một giá cả khác nhau. Hiện nay, giá cả thị trường bấp bênh, không ổn định. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải phán đoán để lựa chọn mặt hàng XNK sao cho phù hợp với thị trường về giá cả và sở thích của dân cư.
- ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong nước. Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm NK, tạo ra sản phẩm thay thế sản phẩm NK, làm giảm nhu cầu hàng NK đồng thời các sản phẩm XK sẽ được nâng cao chất lượng, nguồn hàng hoá XK tăng lên tạo khả năng thúc đẩy XK. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng cung cấp các sản phẩm NK và thúc đẩy hoạt động này đồng thời tạo ra sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt đối với hàng hoá trong nước.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước của các doanh nghiệp thương mại quyết định sự chu chuyển lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế. Bởi vậy nó tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh hoạt động XNK.
Như vậy, các yếu tố bên ngoài tạo ra cả những cơ hội, lẫn nguy cơ đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh XNK, nó gắn bó chặt chẽ với môi trường bên trong doanh nghiệp, tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại một cách khách quan, có thể gây khó khăn, cũng có thể hỗ trợ hiệu quả sản xuất kinh doanh XNK của doanh nghiệp.
1.3. Tính tất yếu khách quan của đẩy mạnh hoạt động Xuất Nhập Khẩu trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập kinh tế Quốc tế
1.3.1. Các lý thuyết về lợi ích thương mại quốc tế
a. Lý thuyết về lợi thế so sánh
Lý thuyết lợi thế so sánh do Adam Smit và Đa vit Ricardo đưa ra. Theo các ông này, các quốc gia dựa vào sự khác nhau về các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, tài nguyên cũng như sự khác biệt về công nghệ giữa các ngành có thể thu lợi khi tiến hành trao đổi hàng hoá với nhau. Các nhà kinh tế sau này cụ thể thêm khi nhấn mạnh một quốc gia sẽ có lợi thế so sánh trong những ngành sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà quốc gia đó dồi dào. Chẳng hạn như Việt Nam dồi dào tương đối về nguồn lực tự nhiên và lao động bán kỹ năng nên có lợi thế so sánh về các ngành thâm dụng nguồn lực tự nhiên như gạo, cà phê hoặc thâm dụng lao động bán kỹ năng như dệt, da, may mặc.
Lý thuyết lợi thế so sánh chỉ ra rằng một quốc gia chỉ cần có lợi thế so sánh thì có thể thu được lợi ích từ ngoại thương cho dù năng suất của quốc gia đó thấp trên tất cả các ngành. Về mặt trực quan, lý thuyết này khá lý thú, nó giúp cho những nhà làm chính sách xác định những ngành hoặc những sản phẩm mà quốc gia họ có lợi thế để phân bổ một cách có hiệu quả nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế và lý thuyết này cũng cho thấy rằng mậu dịch quốc tế mang lại lợi ích cho các nước tham gia cho dù năng suất trong các ngành của quốc gia đó thấp hơn so với các quốc gia khác.
Tuy nhiên những giả thiết làm cơ sở cho lý thuyết này không thực tiễn trong hầu hết các ngành như giả thiết về công nghệ đồng nhất giữa các quốc gia, không có lợi thế kinh tế theo quy mô, các yếu tố sản xuất không dịch chuyển giữa các quốc gia. Với lý thuyết về lợi thế so sánh, mậu dịch và sự chuyên môn hoá dựa vào nguồn lực (lao động, vốn, tài nguyên) giúp cho một quốc gia đạt được sự thịnh vượng. Trong một thế giới mà thị trường phân khúc, có sự khác biệt sản phẩm, khác biệt về công nghệ và các ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô, dường như lý thuyết lợi thế so sánh không đủ để giải thích tại sao các công ty lại thành công trên thị trường thế giới và đạt được mức tăng trưởng cao.
b. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh
Lý thuyết lợi thế cạnh tranh đề cập đến một cách tiếp cận mới nhằm trả lời những câu hỏi sau: Tại sao một số doanh nghiệp cạnh tranh thành công trong khi một số doanh nghiệp khác thì thất bại trong một ngành? Chính phủ cần phải làm gì để cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế? Với lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia, M.Porter (1990) đã tập trung vào việc giải thích những vấn đề trên. M.Porter cho rằng sự gia tăng mức sống và sự thịnh vượng của quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào khả năng đổi mới, khả năng tiếp cận nguồn vốn và hiệu ứng lan truyền công nghệ của nền kinh tế. Nói tổng quát hơn, sức cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào sức cạnh tranh của các ngành trong nền kinh tế. Sức cạnh tranh của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành: khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của ngành và môi trường kinh doanh. Các đầu vào quan trọng đối với hoạt động sản xuất của nền kinh tế không phải chỉ thuần là lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên mà còn là những đầu vào do chính doanh nghiệp hoặc chính phủ tạo ra. Với cách nhìn nhận như vậy, M.Porter (1990) cho rằng bốn yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là:
1. Chiến lược của doanh nghiệp, cơ cấu và sự cạnh tranh: Những ngành có chiến lược và cơ cấu phù hợp với các định chế và chính sách của quốc gia, hoạt động trong môi trường có cạnh tranh trong nước căng thẳng hơn sẽ có tính cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Chẳng hạn như ngành sản xuất xe hơi của Nhật có một số công ty cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới một phần là do các công ty này đã cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường trong nước, luôn suy nghĩ và hành động mang tính chiến lược.
2. Các điều kiện về phía cầu: Những ngành phải cạnh tranh mạnh ở trong nước thì mới có khả năng cạnh tranh quốc tế tốt hơn. Thị trường trong nước với số cầu lớn, có những khách hàng đòi hỏi cao và môi trường cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Chẳng hạn như ngành chế biến thức ăn nhanh của Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh được trên thị trường quốc tế bởi lẽ người tiêu dùng Hoa Kỳ là những người đòi hỏi tốc độ và sự thuận tiện nhất thế giới.
3. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan: Tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các nhập lượng và các dịch vụ hỗ trợ. Các nhà cung cấp nhập lượng có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu có thể mang lại cho doanh nghiệp - khách hàng của họ lợi thế về chi phí và chất lượng. Các ngành có quan hệ ngang cũng mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua sự lan truyền công nghệ. Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế kinh tế theo quy mô. Ví dụ như ngành sản xuất máy tính của Hoa Kỳ là ngành đầu đàn vì các công ty có nhiều sáng kiến trong ngành công nghiệp bán dẫn, vi xử lý, hệ thống điều hành và dịch vụ vi tính
4. Các điều kiện về các yếu tố sản xuất: bao gồm chất lượng lao động, vốn và lao động rẻ, cơ sở hạ tầng mạnh và công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngành và của các quốc gia. ở đây chúng ta nhấn mạnh đến chất lượng của các yếu tố đầu vào được tạo ra chứ không phải là nguồn lực trời cho ban đầu. Chẳng hạn như ngành sản xuất thép ở Nhật bản có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới dù họ không có tài nguyên về sắt hoặc than, mà bởi vì họ có công nghệ sản xuất tốt.
Một quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong những ngành mà người ta tìm thấy bốn yếu tố cơ bản trên khá mạnh. Đây là những khu vực mà chính phủ nên tập trung nỗ lực của họ nhằm để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của quốc gia.
1.3.2. Sự cần thiết đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta
Kinh doanh XNK ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đây là một trong những lĩnh vực hoạt động được Đảng và Nhà nước rất chú trọng.
Ngay từ khi hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, Đại hội VI của Đảng (1986) đã nhấn mạnh cần đổi mới hoạt động ngoại thương, tăng quyền tự chủ XNK cho doanh nghiệp [3]. Tiếp đó, Đại hội VII đã xác định hệ quan điểm đổi mới toàn diện hoạt động đối ngoại của nước ta, trong đó có ngoại thương, theo phương châm: "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”, với lập trường "Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó nước ta đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi chính sách bao vây cô lập của các nước phản động, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều loại đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hoá, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính - tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật). Sự hợp tác này được thực hiện theo cơ chế mới: cơ chế thị trường. Nghị quyết Trung Ương 3 (ngày 29/6/1992) về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại nêu rõ chủ trương nước ta mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn mạnh “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, mở rộng hợp tác với các tổ chức khu vực, trước hết là ở Châu á Thái Bình Dương” [11].
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về XK, đồng thời đại hội cũng nêu rõ nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần VIII còn nhấn mạnh: "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại". Nghị quyết Trung Ương 4 khoá VIII (29/12/1997) đã nêu nguyên tắc hội nhập quốc tế của ta là “trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài”, “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” [6].
Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền sản xuất nào nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đối với nước ta vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK thực sự cần thiết và trở thành cấp bách bởi lẽ:
Nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm.
Mặt khác, các doanh nghiệp XNK mang những nét chung của doanh nghiệp nói chung và ngoài ra còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những yêu cầu và đòi hỏi khắt khe từ phía khách hàng nước ngoài, các tác động của thế giới nên việc nâng cao hiệu quả kinh doanh càng trở nên quan trọng hơn.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK trong điều kiện các nguồn lực đầu vào ngày càng khan hiếm và trong điều kiện nền sản xuất xã hội phát triển như hiện nay thì có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu của hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, và đặc biệt là việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. [2] Chính nhờ việc đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế trong hơn 20 năm qua mà nền kinh tế Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực và hàng tiêu dùng đến chỗ đã có dư, tăng XK và có dự trữ. Hoạt động XNK đã góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, tăng thu ngân sách. [4, tr 17]
Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài, có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua đã góp phần tích cực giúp cho Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với các quốc gia ở khắp các châu lục trên thế giới, từ đó góp phần tích cực vào việc phát triển thị trường XNK. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 167 nước, xuất khẩu hàng hoá tới trên 200 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết 87 Hiệp định thương mại song phương. Việt Nam cũng đã ký hơn 350 Hiệp định hợp tác phát triển với các nhà tài trợ, 48 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 42 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và 37 Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế [11]. Nhờ mở rộng kinh tế đối ngoại, trong đó XNK có vai trò quan trọng, Việt Nam đã tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Hoạt động thương mại quốc tế, tăng trưởng XK đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng đã có sự chuyển biến theo định hướng về lợi thế năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung để hạ thấp giá thành và tạo điều kiện áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại hơn trong sản xuất và đầu tư. Tỷ trọng của lĩnh vực nông lâm, thuỷ sản trong GDP đã giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 21,7% năm 2004. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 40,1% năm 2004 [4, tr 30, 31]. Trong nông nghiệp, tỷ trọng thuỷ sản và chăn nuôi từ 30,6% năm 2001 tăng lên trên 31,5% năm 2005. Hiện tại cơ cấu dịch vụ và công nghiệp của Việt Nam chiếm gần 80% tổng GDP [11].
Đối với bản thân các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK là điều kiện tiên quyết nhằm đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. Nhờ nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK doanh nghiệp mới có thể xâm nhập những thị trường rộng lớn ở khu vực và quốc tế. Thông qua đó, doanh nghiệp có cơ hội nâng cao khả năng quản lý để tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình với các hàng hoá của các thị trường khác. Qua đó, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ, điều chỉnh hoạt động kinh doanh XNK của mình cho phù hợp. Trong thời gian qua, nhận thức rõ ý nghĩa của vấn đề nêu trên, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh không ngừng hoạt động XNK. Số doanh nghiệp tham gia XK đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng lớn mạnh. Từ chỗ doanh nghiệp chỉ được trực tiếp kinh doanh XK, NK khi được Bộ Thương mại cấp Giấy phép kinh doanh XK, NK, cho đến nay doanh nghiệp đã được quyền tự do XK, NK theo cơ chế đăng ký kinh doanh. Tính đến năm 2005, tổng số doanh nghiệp đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh XNK là: 35.714 doanh nghiệp, tăng gấp 965 lần so với năm 1986 (37 công ty), trong đó, các doanh nghiệp quốc doanh là 4.296 doanh nghiệp và 31.418 doanh nghiệp thuộc các loại hình khác như công ty TNHH, cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI. [11]
Đối với bản thân từng cá nhân thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp sẽ cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, tạo cho họ động lực để phát huy hết khả năng sẵn có của mình nhằm phục vụ cho quá trình phát triển nền kinh tế và bản thân.
1.3.3. Xu hướng toàn cầu hoá và đòi hỏi doanh nghiệp phải đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu
Hội nhập là xu thế tất yếu mà không doanh nghiệp nào có thể bỏ qua hoặc tránh né. Trong quá trình hội nhập kinh tế, từng bước vươn ra thị trường quốc tế và khu vực, Nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi, sự thành công tới đâu trong quá trình này là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp [10]. Do vậy các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước hỗ trợ tất yếu sẽ dẫn tới sự tự đào thải bản thân doanh nghiệp.
Hội nhập đòi hỏi các doanh nghiệp cần có chiến lược riêng cho đơn vị mình, phải quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung nỗ lực đầu tư cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị, của địa phương mình, lấy thị trường, đặc biệt là thị trường XK làm kim chỉ nam định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng quốc tế, doanh nghiệp cần quan tâm tổng kết thực tiễn, so sánh đối chiếu với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, xem chính sách của nước đó đối với hàng hoá của Việt Nam thế nào? Mức thuế cao hay thấp? Các chế độ chính sách thủ tục phi quan thuế trong XNK và đầu tư đối với ta có điều gì trở ngại bất hợp lý cần tháo gỡ kịp thời để phản ánh cho các cấp quản lý, phản ánh cho Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp tổng hợp đưa ra đàm phán, đòi các nước này sửa đổi.
Doanh nghiệp cần thông qua các đơn vị chủ quản của mình, các Hiệp hội ngành hàng, phản ánh nguyện vọng, đóng góp vào việc xây dựng chiến lược và phương án đàm phán cụ thể với từng tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nói khác đi, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp cần được tăng cường, duy trì thường xuyên và đều đặn.
Chương 2 Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt nam
2.1. quá trình hình thành và phát triển của VINACONEX
2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành VINACONEX
Tiền thân của VINACONEX là Công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài được thành lập theo quyết định số1118/BXD – TCLĐ ngày 27/09/1988 của Bộ trưởng Bộ xây dựng. Trong những năm đầu mới thành lập, Công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài có chức năng quản lý lực lượng lao động Việt Nam làm việc trong các công ty và các đội xây dựng đồng bộ ở nước ngoài gồm Iraq, Algerie, Liên xô, Bungari, Tiệp khắc, Đức... Đến năm 1990 lực lượng lao động này đã lên tới trên 13.000 người, làm việc trong 15 công ty và đội xây dựng đồng bộ tại các nước nói trên. Ngoài chức năng quản lý lao động, Công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài còn có nhiệm vụ:
Tiếp nhận lao động từ nước ngoài về, duy trì lực lượng lao động đó trong nước.
Bám trụ và tiếp tục tìm kiếm, mở đường XK lao động trở lại hoặc sang các thị trường mới.
Kinh doanh NK hàng hoá, chủ yếu là xe máy và các mặt hàng tiêu dùng công nghiệp điện tử, để bán theo tiêu chuẩn miễn thuế cho người lao động khi họ về nước.
Ngày 10/08/1991 Bộ xây dựng đã có quyết định 342/BXD-TCLĐ chuyển Công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài thành Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX. So với nhiều TCT, nhiều đơn vị khác trong ngành, VINACONEX ra đời muộn, cơ sở vật chất kỹ thuật và vốn liếng ban đầu đều không được Nhà nước cấp. Có thể nói TCT đã đi lên từ hai bàn tay trắng.
Trong giai đoạn từ năm 1992 đến 1994 các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của VINACONEX là xây lắp, XK lao động, kinh doanh XNK. Trong giai đoạn này, hoạt động kinh doanh của VINACONEX đã tương đối ổn định và thu được những kết quả bước đầu.
Năm 1995, Bộ Xây dựng đã có quyết định số 275/BXD-TCLĐ ngày 15-04-1995 chuyển một số doanh nghiệp trực thuộc Bộ sang trực thuộc VINACONEX. Tiếp đó, nhằm thực hiện việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước cấp TCT, Bộ Xây dựng, được uỷ quyền của Thủ tướng Chính Phủ, đã có quyết định số 992/BXD-TCLĐ ngày 20/11/1995 về việc thành lập lại Tổng công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam (VINACONEX) với chức năng nhiệm vụ lớn hơn.
Khác với các đơn vị trong Bộ Xây dựng, ngay từ khi mới thành._.gia hiệu quả vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của VINACONEX.
- Xây dựng một số kho bảo quản hàng nông sản tươi sống tại các khu sản xuất nông sản tập trung, cửa khẩu, cảng. Phát triển các phương tiện vận chuyển có thiết bị lạnh để chủ động XK hàng tươi sống.
3.2.1.2. Thiết lập mạng lưới phân phối trong nước và đối tác tin cậy ở nước ngoài
Hoạt động kinh doanh XK ngày càng mở rộng đòi hỏi VINACONEX phải có được mạng lưới phân phối trong nước và nước ngoài rộng lớn, bền vững. Muốn vậy, trong thời gian tới, VINACONEX phải không ngừng củng cố và phát triển mạng lưới phân phối trong nước và xây dựng mối quan hệ đối tác chặt chẽ với bạn hàng quốc tế. TCT cần có kế hoạch cụ thể để các đơn vị thành viên xây dựng hệ thống phân phối chiếm lĩnh thị trường trong nước trước khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn theo các lộ trình cam kết trong khuôn khổ AFTA và các hiệp định thương mại song phương, chuẩn bị cho việc thực hiện các quy định của WTO.
VINACONEX cần tổ chức nghiên cứu về khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước của từng loại hàng hoá và dịch vụ để có chiến lược phát triển mạng lưới phân phối ở từng khu vực, từng vùng, miền trong nước để đối phó với sức ép cạnh tranh của các công ty kinh doanh XNK trong và ngoài nước.
Đối với thị trường ngoài nước, VINACONEX cần tăng cường nghiên cứu thị trường, tạo mọi điều kiện để các đơn vị thành viên hiểu biết về thị trường thế giới, tiếp cận trực tiếp với thị trường và bạn hàng để thiết lập hệ thống phân phối tại các thị trường trọng điểm
3.2.1.3. Đầu tư xây dựng và củng cố lại các đại diện và chi nhánh ở nước ngoài
Đại diện thương mại và chi nhánh ở nước ngoài có thể coi là chiếc cầu nối giữa TCT với thị trường và bạn hàng quốc tế. Thông qua đại diện thương mại, VINACONEX có thể nắm bắt thông tin về thị trường XK một cách cập nhật và thường xuyên, có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng quốc tế và tiến hành thuận lợi các giao dịch, thoả thuận, ký kết hợp đồng. Khách hàng quốc tế cũng dễ dàng tìm hiểu thông tin về sản phẩm và dịch vụ của VINACONEX tại các đại diện thương mại của doanh nghiệp nước XK. Đại diện thương mại và chi nhánh hoạt động hiệu quả có thể đem lại những hợp đồng XK lớn, cũng như thiết lập được những mối quan hệ kinh doanh lâu dài với bạn hàng quốc tế.
Xuất phát từ lợi ích của việc thành lập đại diện thương mại và chi nhánh ở nước ngoài, trong thời gian tới, VINACONEX cần đầu tư xây dựng và củng cố lại các đại diện và chi nhánh ở nước ngoài để tăng cường việc mở rộng thị trường XK. Việc đầu tư xây dựng và củng cố các đại diện và chi nhánh ở nước ngoài đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhưng đòi hỏi chi phí lớn nên VINACONEX cần phải cân nhắc kỹ lưỡng xem xây dựng và đầu tư vào đại diện thương mại và chi nhánh tại thị trường nào để hiệu quả kinh doanh đem lại là cao nhất. Cần lưu ý trong quá trình hoạt động tại thị trường quốc tế, đại diện thương mại và chi nhánh của TCT phải tuân thủ luật pháp của nước sở tại, các thông lệ kinh doanh quốc tế và phải liên hệ chặt chẽ với cơ quan thương vụ, ngoại giao của Việt Nam tại nước sở tại để được bảo vệ quyền lợi kinh doanh hợp pháp.
3.2.2. Đa dạng hoá chủng loại mặt hàng xuất nhập khẩu của VINACONEX
3.2.2.1. Đa dạng hoá những mặt hàng mang tính thời cơ để thu lợi nhuận tạo nguồn vốn kinh doanh sau này
Những mặt hàng mang tính thời cơ là những mặt hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường trong một thời điểm nhất định. Đó là những mặt hàng có thể đem lại lợi nhuận cao cho công ty với điều kiện công ty phải hết sức nhạy bén và linh hoạt trước những biến động về nhu cầu trên thị trường để có thể điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình. Kinh doanh những mặt hàng mang tính thời cơ đòi hỏi khả năng dự báo, nắm bắt tình hình thị trường và khả năng có thể lường trước những rủi ro. Song bù lại, khi kinh doanh những mặt hàng mang tính thời cơ, công ty có thể thu được lợi nhuận cao để tích luỹ vốn kinh doanh.
Xuất phát từ lợi ích của những mặt hàng mang tính thời cơ, trong thời gian tới, VINACONEX nên phát huy tối đa năng lực kinh doanh để theo sát những biến động của thị trường, nhanh chóng nắm bắt được những cơ hội trong kinh doanh để thu lợi nhuận cao về cho TCT. Tuy nhiên, khi kinh doanh những mặt hàng này, VINACONEX cần có phản ứng linh hoạt với thị trường để tránh tình trạng chậm chân hoặc đọng vốn khi những mặt hàng được TCT đánh giá là mang tính thời cơ lại được tung ra thị trường không đúng thời cơ.
3.2.2.2. Đa dạng hoá chủng loại mặt hàng xuất nhập khẩu
Xét theo quan điểm kinh tế vi mô thì đa dạng hoá chủng loại mặt hàng cũng là một biện pháp để phân tán rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác, trong kinh doanh quốc tế, đa dạng hoá chủng loại mặt hàng còn gắn liền với việc mở rộng quy mô kinh doanh, hướng tới việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và xa hơn là hướng tới sự phát triển của TCT.
Sắp tới, để đa dạng hoá sản phẩm, VINACONEX cần đa dạng hoá kinh doanh, nhưng mang tính chọn lọc, để bảo đảm được chất lượng của sản phẩm đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Với quy mô và phạm vi kinh doanh ngày càng mở rộng, VINACONEX cần giữ vững thị trường hiện tại thông qua việc cố gắng lấp đầy nhu cầu của thị trường hiện tại, mặt khác phải hướng tới khai thác nhu cầu ở những thị trường mới. Các mặt hàng của của TCT phải ngày đa dạng hoá không những về chủng loại mà còn phải phong phú về hình thức, mẫu mã, giá cả để không chỉ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nội địa, khách hàng ở một thị trường nhất định mà có thể đáp ứng được nhu cầu của nhiều thị trường khác nhau trên thế giới.
3.2.2.3. Triển khai mặt hàng mới song hành cùng những dự án đầu tư của Tổng Công ty để tạo tiền đề ban đầu khi mới triển khai ngành hàng mới
TCT cần xác định lại một số mặt hàng trọng điểm trong cơ cấu XK để tập trung khuyến khích đầu tư. Song song với việc đa dạng hoá cơ cấu XK, nên lựa chọn ra một số mặt hàng mà ta có thế mạnh, có tiềm năng để tập trung khuyến khích đầu tư, tạo thêm những ngành hàng chủ lực mới có khả năng XK nhiều hơn. TCT nên chọn mặt hàng theo những tiêu chí sau:
- Mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong thương mại thế giới.
- Mặt hàng đó phải là mặt hàng mà TCT có khả năng phát triển ổn định, không bị hạn chế về nguồn nguyên liệu cũng như về năng suất lao động.
- Mặt hàng đó phải thay đổi được cơ cấu XK của TCT theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng chế biến tinh và có giá trị gia tăng cao.
3.2.3. Đa dạng hoá hình thức xuất nhập khẩu
3.2.3.1 Tăng cường chất lượng hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp
Trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng ở các nước, VINACONEX cần quan tâm tổng kết thực tiễn, so sánh đối chiếu với các cam kết quốc tế xem mức thuế cao hay thấp, các chế độ chính sách thủ tục phi quan thuế trong XNK và đầu tư có điều gì trở ngại, bất hợp lý để nhanh chóng tháo gỡ, tạo cơ sở kinh doanh hiệu quả.
TCT cần chú trọng nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm thực tiễn trong quan hệ bạn hàng với các nước, kết hợp với năng lực sản xuất và kinh doanh của TCT để nâng cao chất lượng hoạt động XNK. VINACONEX cần thông qua các Hiệp hội ngành hàng, phản ánh nguyện vọng, đóng góp vào việc xây dựng chiến lược và phương án đàm phán cụ thể với từng tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nói khác đi, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan quản lý của Nhà nước và VINACONEX cần được tăng cường, duy trì thường xuyên và đều đặn theo hướng tận dụng tối đa mọi lợi thế để nâng cao chất lượng hoạt động XNK.
3.2.3.2. Tích cực khai thác vai trò đại lý phân phối độc quyền cho nhà sản xuất nước ngoài
Hiện lộ trình hội nhập khu mậu dịch tư do đông nam á (AFTA) đã gần như hết thời kỳ quá độ, các loại hàng hoá buôn bán trong các nước của khu vực đã được cởi mở và thuế NK gần như bằng 0%. Đây là cơ hội lớn cho các loại hàng hoá của các nước xâm nhập vào nhau, thậm chí các hãng của các nước ASEAN sẽ trực tiếp tham gia bán hàng tại Việt Nam, ngược lại các công ty của Việt Nam có thể trực tiếp bán hàng tại nước ngoài. Để tận dụng cơ hội này, VINACONEX cần phải thiết lập ngay quan hệ đại lý hoặc nhà phân phối độc quyền cho các nhà sản xuất hàng hoá của ASEAN. Không giới hạn ở kinh doanh hàng thiết bị và vật liệu xây dựng, VINACONEX nên mở rộng kinh doanh siêu thị và trung tâm thương mại, tận dụng khả năng sẵn có để mở rộng thị phần trong nước hỗ trợ cho NK. Đặc biệt, VINACONEX cần quan tâm tới việc làm đại lý hay phân phối độc quyền cho các hãng sản xuất hàng tiêu dùng của ASEAN.
Ngoài ra để chuẩn bị cho việc hội nhập WTO, trong những năm tới cần đón trước xu hướng kinh doanh buôn bán giữa các nước sẽ rất sôi động và áp lực cạnh tranh sẽ tăng nhanh để có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ về tinh thần và hành động trên các phương diện thiết lập quan hệ bạn hàng đại lý, nhà phân phối độc quyền với các đối tác truyền thống trước kia cũng như với những đối tác mới ở những mặt hàng mà VINACONEX sẽ định hướng kinh doanh chuyên sâu. Nếu chờ đến khi hội nhập WTO mới bắt đầu hành động thì đã quá muộn, các đối tác đã thiết lập các quan hệ bạn hàng từ trước đó, VINACONEX sẽ mất vị thế cạnh tranh.
3.2.3.3. Tăng cường tìm kiếm đối tác liên doanh vừa sản xuất vừa bán hàng
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, buôn bán XNK sẽ ngày càng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt nên TCT cần tận dụng và phối hợp tối đa các phương pháp để làm cho sản phẩm bán ra có tính cạnh tranh. Một trong những phương pháp VINACONEX nên áp dụng là tìm kiếm đối tác vừa liên doanh vừa sản xuất bán hàng vì VINACONEX đã có một hệ thống các cơ sở sản xuất và bất động sản, chỉ thiếu vốn để đầu tư công nghệ. Việc áp dụng phương pháp này sẽ có những lợi thế sau:
- Giảm giá thành sản xuất sản phẩm do việc giảm được thuế NK
- Giảm giá thành sản phẩm do tiền thuê nhân công trong nước thấp, đầu tư và xây dựng nhà máy và cơ sở hạ tầng thấp.
- Chủ động được việc cung cấp hàng hoá cho khách hàng trong nước, giảm phí vận chuyển.
- Giải quyết được các vấn đề xã hội như việc làm và vấn đề đầu tư sản xuất, đồng thời chủ động được các vấn đề liên quan tới công nghệ.
3.2.3.4. Đẩy mạnh công tác cung cấp hàng hoá trọn gói cho những dự án lớn
Việc cung cấp trọn gói các thiết bị lẻ và thiết bị toàn bộ cho các dự án trong nước cần được duy trì và phát triển. Tuy nhiên, với tình hình cạnh tranh gay gắt, VINACONEX cần tập trung vào những thiết bị đồng bộ sản xuất vật liệu xây dựng và các thiết bị xây dựng lẻ để tận dụng được thế mạnh chuyên môn của lực lượng cán bộ hiện có, hơn nữa đó cũng là chức năng chuyên sâu của TCT.
Việc cung cấp trọn gói cho các dự án lớn thông thường đòi hỏi lượng vốn lớn, vì trị giá cung cấp thiết bị thường rất lớn. Trong bối cảnh các chủ đầu tư chậm thanh toán hiện nay thì để giảm tối đa chi phí ban đầu về vốn và giảm thiểu rủi ro chậm thanh toán, đồng thời làm tăng lòng tin của các chủ đầu tư vào công nghệ nước ngoài, cần thiết lập với đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này quan hệ đại diện cho các nhà cung cấp dây chuyền hay thiết bị. Tức là VINACONEX là đại diện thay mặt hãng đó tại Việt nam, chịu trách nhiệm giao dịch cung cấp thông tin, tài liệu, đàm phán và phối hợp với các hãng thực hiện các dịch vụ bảo hành, bảo trì và đưa đón chuyên gia khách hàng vào trong nước hay đi nước ngoài. Tuy nhiên việc ký kết hợp đồng chính thức sẽ được thực hiện trực tiếp giữa hãng nước ngoài và chủ đầu tư Việt nam, việc thanh toán sẽ theo thông lệ thanh toán quốc tế, có ngân hàng đứng ra bảo lãnh, vì vậy sẽ không có rủi ro cho phía VINACONEX. Khi hợp đồng được thực hiện, VINACONEX, với tư cách là người đại diện, người đã môi giới thành công cho việc ký kết hợp đồng, nhà cung cấp nước ngoài sẽ phải trích lại cho VINACONEX một tỷ lệ nhất định theo giá trị hợp đồng. Thực hiện phương pháp này, VINACONEX sẽ rất an toàn về mặt tài chính. Vì thông thường việc thanh toán giữa hai doanh nghiệp Việt Nam từ trước đến nay qui định là chỉ thanh toán một phần trước khi đặt hàng và thanh toán phần còn lại khi dự án kết thúc, do vậy rủi ro thường gặp ở phần thanh toán còn lại. Còn phía nước ngoài, thông thường yêu cầu mở thư tín dụng không huỷ ngang L/C tức là đã có ngân hàng đứng ra bảo lãnh, và việc thanh toán dựa trên cơ sở của các chứng từ mà hai bên qui định. Việc sai phạm về mặt hàng hoá hay qui định hợp đồng đã có trọng tài quốc tế giải quyết.
3.2.3.5. Chủ động khai thác trực tiếp thị trường xuất khẩu vật liệu xây dựng và nội thất do VINACONEX tự sản xuất
VINACONEX cần tiếp tục phát triển các dự án đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng chất lượng cao để XK sang các nước phát triển và cung cấp cho thị trường trong nước. Để làm tốt việc này cần chuẩn bị các kế hoạch và định hướng chiến lược cụ thể nhằm ổn định và tối ưu hoá kế hoạch sản xuất của các nhà máy. Hiện VINACONEX đã có 05 nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp để XK là nhà máy sản xuất đá ốp lát cao cấp, nhà máy sản xuất ống nhựa PPR, nhà máy sản xuất kính đúc và kính an toàn và 02 nhà máy sản xuất xi măng với công suất gần 3 triệu tấn/năm dự kiến ra sản phẩm vào đầu năm 2007. Một mặt, cần củng cố để phát huy hết công suất của các nhà máy này. Mặt khác, cần chuẩn bị, nghiên cứu thị trường để triển khai các dự án sản xuất mới.
Dự báo, trong tương lai gần, việc XK hàng Việt Nam sang các nước ASEAN khó khăn, vì hàng của các nước ASEAN có sức cạnh tranh hơn hàng Việt Nam, hơn nữa, hàng Trung Quốc hiện đã xuất hiện rất nhiều tại thị trường này, đồng thời hiệp định thương mại tự do giữa Trung quốc và ASEAN đã được ký kết, vì vậy trong một tương lai không xa hàng Trung Quốc vào các nước ASEAN sẽ không thuế. Để thích ứng, VINACONEX cần tập trung vào XK mặt hàng đặc chủng là đá granit nhân tạo cao cấp do VINACONEX sản xuất. Đây là thế mạnh của TCT vì ở Châu á mới chỉ có Hàn quốc và Đài loan có dây chuyền sản xuất tương tự. Đối với mặt hàng xi măng do VINACONEX sản xuất, TCT cần tập trung vào hai thị trường “hàng xóm” là Lào và Camphuchia vì cự ly vận chuyển không xa cả về hai phía. Hơn nữa, trước đây Lào đã là thị trường quen thuộc của VINACONEX khi TCT cung cấp xi măng và thép xây dựng theo chương trình viện trợ. Ngoài ra, TCT nên triển khai một số dự án xây lắp tại hai thị trường này.
VINACONEX cần mở rộng XK đá Granit nhân tạo sang úc, Mỹ, EU (hiện mỗi năm XK khoảng 12 triệu USD). Cần tìm cách hoá giải sức cạnh tranh của hàng của Trung Quốc, nhất là ở phương diện chất lượng, cần lợi dụng yếu thế của hàng Trung Quốc do dây chuyền sản xuất nhái lại nên sản xuất có giá thành sản phẩm, rẻ nhưng chất lượng chưa cao. Để cạnh tranh thắng lợi, VINACONEX cần giữ vững và nâng cao chất lượng đá đi đôi với cải tiến kỹ thuật để có giá thành ngang bằng giá thành hàng Trung Quốc hoặc thấp hơn.
Đối với mặt hàng ống nhựa PPR và kính an toàn, để có thể XK được, phải tập trung vào thị trường các nước đang và chậm phát triển như Lào, Campuchia, Libi, các tiểu vương quốc Arập... Cần tận dụng khả năng của các đại diện quản lý lao động của VINACONEX ở các nước này để chào bán các vật liệu xây dựng không những của VINACONEX mà của các công ty Việt nam khác.
3.2.4. Cải thiện chất lượng quản trị kinh doanh ở Tổng công ty
3.2.4.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác XNK của VINACONEX và đổi mới chính sách nhân sự
Trong hoạt động kinh doanh XNK thì đội ngũ cán bộ làm công tác XNK là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong kinh doanh, bởi đây chính là lực lượng trực tiếp hoạch định kế hoạch và thực thi các kế hoạch đã đề ra. Với đội ngũ cán bộ XNK năng động, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu thị trường quốc tế, VINACONEX có thể nắm bắt được chính xác các diễn biến trên thị trường XNK, khai thác được các cơ hội và dự đoán được những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động kinh doanh của TCT, mặt khác, có thể hoạch định chiến lược kinh doanh cho TCT trong dài hạn. Do vậy, để hoạt động XNK đạt hiệu quả cao, VINACONEX cần xây dựng được cho mình một đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi, thường xuyên được đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế.
Để làm được như vậy, bên cạnh việc tổ chức các khoá đào tạo quy mô lớn cho cán bộ kinh doanh của toàn TCT và cử cán bộ tham gia các khoá đào tạo trong nước và quốc tế, VINACONEX cần khuyến khích và vận động các đơn vị trực thuộc tham gia vào công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tay nghề cho cán bộ kinh doanh, cán bộ quản lý trong TCT để có được lực lượng cán bộ thành thạo về nghiệp vụ kinh doanh XNK, hiểu biết về thị trường XNK, có nghệ thuật kinh doanh phù hợp với từng loại khách hàng. TCT cần có các chính sách hỗ trợ đối với các đơn vị trực thuộc trong công tác đào tạo xây dựng nguồn nhân lực như tạo điều kiện về mặt tài chính, về chế độ lương thưởng cho các cán bộ có chuyên môn cao.
Trong thời gian tới, VINACONEX cần tiếp tục đổi mới chính sách nhân sự theo hướng chú trọng chất lượng hơn số lượng. Một mặt, TCT phải tinh giản lực lượng cán bộ ở những phòng, ban có cơ cấu cồng kềnh mà hoạt động kém hiệu quả, tránh tình trạng cán bộ kinh doanh “ngồi chơi xơi nước”. Mặt khác, phải tuyển dụng thêm những cán bộ kinh doanh giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở bên ngoài cho TCT có được đội ngũ cán bộ có thể đảm đương được những vị trí công tác trọng yếu trong quá trình kinh doanh XNK. Việc tuyển dụng cán bộ kinh doanh phải thực sự nghiêm túc, ưu tiên sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và những người có trình độ cao để đội ngũ kinh doanh ngày càng có khả năng thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh quốc tế trong thời kỳ hội nhập. Bên cạnh đó, VINACONEX cần có chính sách thu hút nhân tài thông qua việc phân bổ lương, thưởng một cách hợp lý, xứng đáng với khả năng, công sức của người lao động để tránh tình trạng cán bộ giỏi của VINACONEX chuyển sang công ty khác.
Đồng thời với các giải pháp trên cũng cần thường xuyên nhấn mạnh đào tạo cán bộ ở các doanh nghiệp, bởi con người là yếu tố quyết định, cần đặc biệt ưu tiên đầu tư để TCT đảm bảo thắng lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đào tạo cán bộ ở VINACONEX cần được qui hoạch, phân loại, để đào tạo theo năng lực sở trường dựa trên yêu cầu công việc. Đào tạo lại và đào tạo mới cần kết hợp để đáp ứng được những nhu cầu mới phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt cần lưu ý tới 3 loại cán bộ sau đây:
ã Đào tạo cán bộ có trình độ kinh doanh XNK giỏi. Đây là yếu tố trọng yếu để cải thiện hoạt động XNK của TCT. Phải có chương trình đào tạo hợp lý để có những cán bộ rất tổng hợp, am hiểu sản xuất, am hiểu thị trường, có kỹ thuật đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng và giỏi ngoại ngữ. Hiện tại TCT rất thiếu loại cán bộ này.
ã Đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt là luật sư trong lĩnh vực kinh tế và thương mại quốc tế, để TCT có đủ các luật sư có trình độ tư vấn, trợ giúp giám đốc trong kinh doanh và hợp tác quốc tế.
ã Đào tạo công nhân lành nghề ở từng lĩnh vực, dây chuyền sản xuất. Vấn đề này cần được nhấn mạnh ở thời điểm này, bởi thời gian qua cán bộ của TCT đã được đào tạo ở cấp đại học, nhưng đội ngũ người lao động trực tiếp chưa được chú trọng đào tạo tay nghề nên TCT thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề.
Trong các chương trình đào tạo, cần chú trọng đào tạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh cho cán bộ, nhân viên của TCT
3.2.4.2. Đổi mới quản lý tài chính TCT theo hướng trao nhiều hơn quyền hạch toán kinh doanh cho các doanh nghiệp thành viên
Đối với lĩnh vực kinh doanh XNK thì những vấn đề tự chủ tài chính là rất quan trọng. Nếu các doanh nghiệp không có quyền tự chủ tài chính thì sẽ mất khả năng ứng xử linh hoạt. Vì vậy cơ chế quản lý tài chính của TCT, nếu hợp lý sẽ là động lực khuyến khích XK, nếu không hợp lý, sẽ kìm hãm hoạt động này.
Thời gian tới, TCT nên đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong kinh doanh XNK theo hướng mở rộng quyền tự chủ hạch toán kinh doanh cho các doanh nghiệp thành viên. Để làm như vậy, có hai vấn đề quan trọng có quan hệ hữu cơ với nhau đó là: Sự quản lý chặt chẽ đối với các qui định tài chính đã qui định ra và xây dựng một hành lang quản lý tài chính mà ở đó cán bộ làm kinh doanh có thể phát huy hết khả năng của mình để thực thi công việc.
- Đối với việc quản lý chặt chẽ các qui định tài chính trong kinh doanh. Đây là vấn đề tiên quyết vì nó là kế hoạch đã được xây dựng từ ban đầu, cần phải được mọi cán bộ tuân thủ một cách nghiêm khắc, có kỷ luật và có sức ép công việc. Có như vậy thì dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người quản lý hay cán bộ phải vượt qua mọi trở ngại khó khăn để đạt được yêu cầu của TCT đã đề ra. Thông thường những trục trặc trong buôn bán thương mại đều có thể giải quyết được bằng vấn đề tài chính, vì vậy nếu mọi sự việc cứ được nhân nhượng giải quyết bằng tài chính thì phần thiệt thòi sẽ thuộc về TCT, nếu người quản lý hay cán bộ không có trách nhiệm hay sức ép trong công việc. Xây dựng một hành lang quản lý tài chính ở đây có nghĩa là phải xác định các khung khổ và nguyên tắc điều chỉnh hành vi làm việc của các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XNK.
- Phải có chế độ đãi ngộ thoả đáng cho cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XNK, bởi vì, trong nền kinh tế thị trường mở cửa và không có chiến tranh, không thể đòi hỏi cán bộ chỉ biết làm giầu hết sức mình cho TCT mà không quan tâm gì tới đãi ngộ cho chính mình. Vì vậy cần phải có một chính sách quản lý tài chính sao cho người làm được nhiều sẽ hưởng được những lợi ích xứng đáng, có như vậy thì những người có ý chí làm giàu mới có cơ hội được phát huy hết khả năng và sự cố gắng của mình và như vậy mới đặt nền móng cơ bản cho việc phát triển lớn mạnh của một TCT đi đôi với sự cải thiện đời sống của các nhà quản lý và các cán bộ của TCT.
3.2.4.3. Hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc của Tổng công ty
Trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra tất yếu và trong thời đại thông tin liên lạc phát triển ở mức độ rất cao, việc hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc là điều kiện tối thiểu cho hoạt động XNK. Bởi vì việc giao dịch thương mại với các đối tác nước ngoài đều phải thông qua các thư tín Email, fax, điện thoại... và qua các Website. Xu hướng phát triển thương mại thế giới ngày càng điện tử hoá như: Các chứng từ XNK được truyền tải qua mạng, thủ tục hải quan được thực hiện qua mạng (hiện đã có một số nước phát triển thực hiện thủ tục hải quan qua mạng theo hiệp định ECAP), việc buôn bán không còn phải giới thiệu năng lực công ty hay hàng hoá qua các Quyển Catalô mà thay bằng các Website, các đĩa hay file..., các việc thanh toán đã thực hiện qua mạng... Việc mạng hoá toàn bộ các giao dịch thương mại trên thế giới, giảm tối đa dùng giấy in là đều tất yếu sẽ xảy ra trong xu thế phát triển của tương lai. Vì vậy để tồn tại và phát triển trong xu hướng này, VINACONEX bắt buộc phải có đầu tư thích đáng cho các thiết bị phục vụ thông tin liên lạc, đây là những công cụ lao động tối thiểu phải có cho hoạt động ở loại hình này. TCT cần chú trọng việc nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học cho các nhà quản lý và cán bộ để dễ dàng sử dụng được tối đa khả năng của thông tin và máy tính.
3.2.4.4. Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy TCT cho phù hợp với cơ chế điều hành mới
Hội nhập một mặt tạo thêm rất nhiều cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế, đồng thời cũng tạo ra thách thức không nhỏ. Yếu tố quyết định sự thành bại của quá trình này là sức cạnh tranh của hàng hoá và tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Để thích ứng, các đơn vị sản xuất và kinh doanh của VINACONEX cần chuẩn bị tốt, chủ động chuyển dịch cơ cấu sản xuất trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, tạo những mặt hàng mũi nhọn có sức cạnh tranh cao. Đây là sức ép lớn không chỉ Việt Nam mà ngay cả các nước có sức mạnh kinh tế cũng phải chấp nhận đương đầu, có lúc phải từ bỏ một số ngành nghề để tạo cơ hội phát triển cho những ngành có lợi thế so sánh hơn đồng thời có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ động thích ứng và vượt lên. Vấn đề sống còn hiện nay là phải quy hoạch lại sản xuất thật hợp lý, đổi mới cả về công nghệ và phương thức quản lý để XK những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tốt nhất. Mặt khác, cần tận dụng những cam kết quốc tế đã đạt được để biến thành chương trình hành động của chính đơn vị mình.
3.2.4.5. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát trong hệ thống VINACONEX
Hiện tại VINACONEX có nhiều các đầu mối làm chức năng XNK. Trước đây đã có một phó Tổng giám đốc phụ trách lĩnh vực XNK để phục vụ công tác điều hành và kiểm tra kiểm soát các hoạt động liên quan tới hoạt động XNK. Nhưng hiện nay bắt đầu có thêm các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng XK và việc cổ phần hoá toàn bộ các đơn vị thành viên và TCT đã được thực hiện xong, vì vậy mỗi một công ty hay đầu mối liên quan tới hoạt động XNK đều phải có hội đồng quản trị và ban kiểm soát để kiểm tra, giám sát và định hướng hoạt động cho các đầu mối.
Hơn nữa lĩnh vực XNK là lĩnh vực nhạy cảm, dễ có những vi phạm liên quan tới pháp luật trong nước và quốc tế, vì vậy ngoài việc kiểm tra và giám sát hoạt động còn phải có bộ phận đảm đương việc tư vấn. TCT nên thành lập thêm bộ phận vừa kiểm tra, giám sát vừa tư vấn các vấn đề pháp lý như phòng pháp chế chẳng hạn.
kết luận
Xuất nhập khẩu là hoạt động chưa quen thuộc của nhiều doanh nghiệp Việt Nam, nhất là XNK theo các quy định của các tổ chức thương mại quốc tế. Bởi vì tham gia XNK trong bối cảnh như vậy, các doanh nghiệp không những phải tự nâng cao nội lực của mình, mà còn phải hoá giải nhiều tác động của môi trường như sự thay đổi và chế định của các quy định pháp lý, chiến lược của đối thủ cạnh tranh, các rủi ro từ thị trường, từ quan hệ chính trị giữa các nước, từ thiên tai…Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá, khi nhiều nước phát triển trên thế giới đã tạo ra trình độ lực lượng sản xuất đòi hỏi tái cơ cấu lại phân công lao động quốc tế, thì các doanh nghiệp của Việt Nam không thể kinh doanh có hiệu quả nếu không vươn ra thị trường thế giới. TCT Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam - VINACONEX cũng không phải là ngoại lệ.
Là một doanh nghiệp nhà nước thành lập trong giai đoạn đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế mạnh mẽ, VINACONEX đã nhanh chóng làm quen với cung cách kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và mở cửa. TCT cũng không phải gánh chịu quá nhiều tàn dư của cơ chế quản lý cũ như các doanh nghiệp nhà nước khác. Nhờ đó, trong thời gian qua, VINACONEX đã đạt được một số thành tựu đáng kể, doanh số XNK không ngừng tăng lên, thị trường XNK được mở rộng, tạo được uy tín đối với khách hàng, từng bước tạo được mặt hàng XK riêng... Tuy nhiên, do đầu tư ban đầu của Nhà nước cho VINACONEX quá mỏng, môi trường hoạt động luôn thay đổi, chủng loại mặt hàng hoạt động có tính chuyên biệt, đội ngũ cán bộ, nhân viên có tay nghề chưa cao, kinh nghiệm hoạt động XNK chưa nhiều, cơ chế chính sách của Nhà nước chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK của TCT... nên kết quả hoạt động XNK chưa đáp ứng mong đợi, chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của TCT.
Để nâng cao vai trò và đóng góp của hoạt động XNK trong hoạt động chung của VINACONEX, trong thời gian tới TCT cần kiên trì phương hướng hành động chủ động để chớp thời cơ khi nước ta chính thức là thành viên của WTO, cần chú trọng đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm XK của TCT, nỗ lực mở rộng thị trường XNK trên cơ sở đa dạng hoá sản phẩm và đa dạng hoá đối tác, nâng cao chất lượng dịch vụ XNK trong toàn TCT, nỗ lực giảm chi phí quản lý và chi phí dịch vụ XNK...Để thực hiện thành công phương hướng đó, VINACONEX cần áp dụng một hệ thống giải pháp đồng bộ trong các lĩnh vực xúc tiến thương mại, xác lập mạng phân phối tối ưu, đầu tư cho các chi nhánh ở nước ngoài, coi trọng kinh doanh mặt hàng thời cơ ngắn hạn, chủ động xây dựng mặt hàng chủ lực và tạo dựng thương hiệu, đa dạng hoá bản thân dịch vụ XNK, tích cực đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực vững mạnh..., trong đó các giải pháp về thị trường và con người có vai trò quyết định.
Nâng cao hiệu quả hoạt động XNK của một doanh nghiệp lớn như VINACONEX là đề tài rộng, phức tạp. Trong khuôn khổ thời gian có hạn, luận văn không tránh khỏi còn sai sót. Tác giả luận văn hy vọng nhận được sự quan tâm và góp ý của các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp để tác giả có thể tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ Thương mại (2004, 2005), Báo cáo thương mại năm 2004, 2005, Hà Nội.
2. Bộ Thương mại (2004), Báo cáo tổng kết quá trình nhận thức về toàn cầu hoá và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
3. Bộ Thương mại (2001), Chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, Hà Nội.
4. Bộ Thương mại (2004), Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
5. Bộ Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (2002), Sách trắng về thương mại quốc tế năm 2001.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Liên hợp quốc (2001), Tiếp cận môi trường trong thương mại ở Việt Nam,
8. Nguyễn Văn Dân (2001), Những vấn đề của toàn cầu hoá kinh tế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
9. Tài liệu Hội thảo khoa học do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương (CIEM) và Dự án hỗ trợ Thúc đẩy Thương mại Star-Việt Nam tổ chức ngày 16/6/2003;
10. Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự - Tổng Thư ký UBQG về HTKTQT (2004), “Đẩy nhanh tiến trình HNKTQT: Vấn đề và Giải pháp”, Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia tháng 3/2004; Hà Nội
11. Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự - Tổng Thư ký UBQG về HTKTQT (2005), “Tiến trình HNKTQT của Việt Nam”, Báo cáo tháng 2/2005, Hà Nội
12. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2000), Việt Nam và các tổ chức quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế (2002), Tài liệu Hội nghị toàn quốc quán triệt và thực hiện nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia.
14. VINACONEX ( ) 17 năm xây dựng và phát triển Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam – VINACONEX.
15. VINACONEX- Catalogue giới thiệu Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam.
16. VINACONEX - 15 năm đặc san Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam.
17. VINACONEX - Năng lực Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam.
18. VINACONEX- Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng VN từ năm 1999 - 2004.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2775.doc