Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 15 năm thực hiện chính sách mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo cho nền kinh tế nước nhà có sự chuyển biến lớn, có những bước đi phù hợp, đúng đắn để tồn tại và phát triển đi lên hội nhập cùng nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, song bên cạnh đó nó cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách lớn để thích nghi với môi trường mới- môi trường cạnh tranh gay gắt đang diễ
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động kinh doanh Xuất khẩu của Công ty XNK thủ công mỹ nghệ - Artexport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ra trên thế giới và trong khu vực để giữ cho quốc gia mình tồn tại và phát triển được.
Kinh doanh thương mại quốc tế là hình thức mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nhằm thu được lợi nhuận.
Mục đích của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm tối đa hoá hoặc ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đầu tư, thực hiện giảm chi phí đầu tư theo qui mô và tìm kiếm nguồn nhân lực, lợi thế từ nước ngoài... Nhờ phát triển kinh doanh ra thị trường quốc tế các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ tăng số lượng sản phẩm bán ra khắp toàn cầu, tận dụng chi phí lao động rẻ, chi phí năng lượng, nguyên liệu thấp ... Cho phép doanh nghiệp có thêm một số chiến lược cạnh tranh với phạm vi đa quốc gia mà các doanh nghiệp kinh doanh nội địa không có được. Hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Đề tài được chia làm 3 chương với các nội dung sau:
Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu
Chương II: Thực trạng về hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty
Mặc dù bài viết này có nhiều cố gắng song do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tế nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Em rất mong được sự góp ý bổ sung của thầy cô và bạn bè. Nhân đây em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới T.S Phan Kim Chiến cùng toàn thể cán bộ công nhân viên phòng kinh doanh mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 2002
Sinh viên: Vũ Thị Khuyên
Chương I
một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Kinh doanh thương mại quốc tế là hình thức mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nhằm thu được lợi nhuận.
Mục đích của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm tối đa hoá hoặc ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đầu tư, thực hiện giảm chi phí đầu tư theo qui mô và tìm kiếm nguồn nhân lực, lợi thế từ nước ngoài... Nhờ phát triển kinh doanh ra thị trường quốc tế các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ tăng số lượng sản phẩm bán ra khắp toàn cầu, tận dụng chi phí lao động rẻ, chi phí năng lượng, nguyên liệu thấp ... Cho phép doanh nghiệp có thêm một số chiến lược cạnh tranh với phạm vi đa quốc gia mà các doanh nghiệp kinh doanh nội địa không có được. Hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Vậy xuất khẩu hàng hoá là gì? nó có vai trò như thế nào trong nền kinh tế quốc dân?
I. Khái niệm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân .
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu :
Hoạt động xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. sự trao đổi mua bán hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế xét có điều kiện không gian và thời gian. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế xã hội, thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Các mối quan hệ này xuất hiện khi có sự phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất.
Chuyên môn hoá đã thúc đẩy nhu cầu mậu dịch nhưng ngược lại, một quốc gia sẽ không tiến hành chuyên môn hoá sản xuất nếu không chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động trao đổi hàng giữa các quốc gia. Mà hoạt động trao đổi hàng hoá này lại có ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của mỗi cá nhân hay quốc gia. Khi chưa diễn ra hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ thì cá nhân cũng như tổ chức phải tự thoả mãn lấy nhu cầu của mình nên nhu cầu bị bó hẹp, không kích thích hoạt động hàng hoá phát triển, kéo theo nền kinh tế trong nước chậm phát triển.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và tác động của các qui luật kinh tế khách quan,phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng nên sự ràng buộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt xuất khẩu phát triển. Chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của qui luật lợi thế so sánh. Qui luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, qua đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Qui luật này cũng khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại có lợi cho cả hai bên.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích phần nào việc buôn bán giữa các nước, nên sẽ có lợi khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt thích hợp cho xuất khẩu. Chuyên môn hoá qui mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu quả tuyệt đối ở cả hai nước là giống nhau, buôn bán có thể diễn ra do sự khác nhau về nhu cầu.
Hoạt động xuất khẩu nước ta là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Do vậy, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, trong đó lĩnh vực quan trọng là vật tư và thương mại hàng hoá dịch vụ đối với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn toàn phù hợp với thời đại và xu hướng phát triển của thế giới trong những năm gần đây.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng hoá của quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể và nó chỉ ra những lĩnh vực, sản phẩm có thể chuyên môn hoá được, những công nghệ và tư liệu sản xuất ở trong nước còn thiếu để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quốc tế. Vì thế, nó đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm mục tiêu phát triển đất nước mở rộng quan hệ đối ngoại. Xuất khẩu có những vai trò sau:
2.1) Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ quốc tế trong nước.
Xuất khẩu vừa mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa làm cho nền kinh tế trong nước gắn chặt với phân công lao động quốc tế . Thông thường họat động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển .Như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế ...phát triển. Đến lượt mình, các quan hệ kinh tế đối ngoại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
2.2)Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Vì quá trình công nghiệp hoá đất nước phát triển, ổn định nền kinh tế đòi hỏi phải có một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, kỹ thuật, vật tư, công nghệ tiên tiến...Mà nguồn vốn dùng cho nhập khẩu hình thành từ :
Vay nợ, viện trợ.
Liên doanh, đầu tư từ nước ngoài.
Thuế
Xuất khẩu.
Từ các hoạt động du lịch, dịch vụ.
Trong các nguồn trên, thì chỉ có xuất khẩu là nguồn chính cho nhập khẩu và quyết định đến qui mô, tốc độ của hoạt động nhập khẩu .
2.3) Xuất khẩu góp phần tạo ra việc làm và cải thiện đời sống cho nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu phát triển tạo cơ hội mở rộng sản xuất, thu hút nguồn lao động dư thừa trong xã hội, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống của nhân dân.
2.4)Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
Thay đổi cơ cấu kinh tế và tiêu dùng một cách có lợi nhất là một trong những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự chuyển dịch cơ cấu này còn chịu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu. Các ảnh hưởng đó được xem xét theo các bước sau:
- Xuất khẩu những sản phẩm trong nước ra nước ngoài, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và có xu hướng phát triển theo những ngành đang chiếm ưu thế xuất khẩu.
- Căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm cần thiết. Đây là một ảnh hưởng tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi, như sự phát triển của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ kéo theo sự phát triển của các làng nhề thủ công mỹ nghệ.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác,xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế.
-Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trưòng thế giới về giá cả và chất lượng sản phẩm. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường.
-Hoạt động xuất khẩu còn đồi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Như ta biết, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Do đó khi tiến hành hoạt động này cần phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, nghiên cứu rõ ràng và chính xác các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Hoạt động xuất khẩu diễn ra chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau.
3.1. Yếu tố doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu diễn ra khi có sự tham gia của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. ở mỗi quốc gia đều có bộ luật riêng, trình độ luật pháp hành pháp, tư pháp, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố pháp luật này không chỉ chi phối tới tất cả các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Như vậy để có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tể thì trước hết doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trường luật pháp ở chính quốc gia đó và quốc gia của đối tác cùng các thông lệ quốc tế hiện hành vì chính các yếu tố đó có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh, khai thác được các cơ hội trong kinh doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới.
3.2. Yếu tố chính trị
Chính trị là tổng thể các quan điểm, các phương pháp hoạt động thực tế nhất định của Đảng, Nhà nước, của giai cấp. Nó bao gồm cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Vì vậy, chính trị cũng có thể cản trở quá trình quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh phát triển theo hướng nhất định.
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thiết lập các quan hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cường sự liên kết các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu.
Chính sách của chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước và thị trường nội địa khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài với các chính sách kinh tế có lợi cho doanh nghiệp trong nước bằng các hình thức như hàng rào thuế quan.
Nhưng ngược lại sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và bóp nghẹt các mối giao lưu về công nghệ. Nhiều nơi trên thế giới hiện nay có sự bất ổn về chính trị và cuộc chiến tranh sắc tộc diễn ra mạnh mẽ, tại đây sự an toàn trong kinh doanh là không cao hoặc không có. Điều này đã và đang sẽ buộc các doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh trên thị trường và phân bổ lại nguồn lực sang thị trường khác có độ an toàn cao hơn.
Với các yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc mở rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm và mở ra các cơ hội kinh doanh mói cho các doanh nghiệp. Song chính các yếu tố chính trị có thể lại là cái rào chắn giới hạn sự tự do trên thị trường thế giới cuả các doanh nghiệp .
3.3.Yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế bao gồm:
- Chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ
- Yếu tố lạm phát
- Thuế quan
Các yếu tố trên có tác động xuất khẩu ở cả tầm vi mô và vĩ mô trong đó điển hình là nhân tố thuế quan. Thuế quan xuất khẩu là loại thuế được đánh vào mỗi đơn vị hàng sản xuất, nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước. Vì vậy, thuế quan đã ảnh hưởng đến hạn ngạch xuất khẩu hàng hoá .
Thuế quan là một công cụ quản lí kinh tế lâu đời nhất của nhà nước,nó đem lại nguồn thu ngân sách cho nhà nước. Nhưng thuế quan xuất khẩu gây nên sự khó cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Thuế quan xuất khẩu còn gây ra xu hướng làm hạ thấp tương đối giá cả trong nước hoặc làm thay đổi một cách bất lợi cho các loại hàng hoá này. Vì vậy, nhà nước nên có một chính sách thuế xuất khẩu hợp lí đối với từng mặt hàng, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu phát triển .
Trên thế giới ngày nay với sự đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ để ngoại thương phát triển thì các công cụ về thuế quan phải mềm dẻo và linh hoạt, xoá bỏ dần hàng dào thuế quan và phi thuế quan, tạo ra các liên kết kinh tế quốc dân ở tầm khu vực và trên thế giới.
3.4 Yếu tố về khoa học công nghệ
Cùng với sự phát triển loài người, khoa học công nghệ đã đạt được những bước tiến vượt bậc. Các thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó hoạt động xuất khẩu hàng hoá đã thu được nhiều lợi ích từ việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ . Các yếu tố khoa học công nghệ có mối quan hệ khá chặt chẽ vói các yếu tố kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Khi khoa học công nghệ phát triển sẽ tạo cho doanh nghiệp thực hiện chuyên môn hoá ở tầm cao hơn, tay nghề ngày một tích luỹ.
Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp có được sự nhậy bén trong việc nhận biết các thông tin, sự kiện đang xẩy ra xung quanh giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt chíng xác về bạn hàng, khách hàng, đối tác làm ăn và các phương diện, từ đó có thể hạn chế được sự rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác doanh nghiệp có thể áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào việc thiết kế và cải tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu thế biến động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi có sự đào tạo chuyên môn sâu tới mức chuyên môn hoá cao hơn để tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm, giữ được thế cạnh tranh trên thị trường.
3.5. Yếu tố văn hoá - xã hội
Văn hoá - Xã hội là tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm ...khắc hoạ nên bản sắc văn hoá của một gia đình, cộng đồng, làng xóm, vùng miền, quốc gia, xã hội....Văn hoá chính là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái đúng,cái đẹp,cái hợp lí và sự phát triển bền vững, an toàn cho cộng đồng, nhân loại, xã hội. Nói cách khác văn hoá là nền tảng tinh thần của XH, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Do đó văn hoá là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ tới nhu cầu thị trường, nó có tính chất quyết định tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại.
Hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động hết sức phức tạp vì nó chịu sự tác động của nền văn hoá xã hội của nhiều quốc gia có quan hệ ngoại thương. Vì vậy để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải quan tâm nghiên cứu sản xuất các sản phẩm phù hợp với các yếu tố văn hoá của quốc gia địa phương đó.
3.6. Các yếu tố về tỉ giá hối đoái
Trong hoạt động thương mại quốc tế thường lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Do đó, tỉ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vì tỉ giá hối đoái được dùng để tính giá trị giữa các đồng tiền khác nhau nên ảnh hưởng trực tiếp đến nhà xuất khẩu và trở thành một trong các nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doãnh xuất nhập khẩu .
Nếu khi một hợp đồng xuất khẩu được kí với đồng tiền thanh toán là đồng tiền của bên nhập với một thời hạn thanh toán nhất định. Khi đến hạn thanh toán, đồng tiền của bên tăng giá so với bên nhập khi đó bên xuất sẽ mất đi một khoản thu nhập đáng kể do sự biến động của tỉ giá hối đoái giữa hai đồng tiền và ngược lại. Do đó, lợi ích của hai bên đều bị ảnh hưởng. Hoạt động thương mại tiếp tục hay ngừng trệ điều này tuỳ thuộc vào tỉ giá hối đoái giữa hai đồng tiền thanh toán có làm lợi ích của họ được bảo đảm hay không được bảo đảm.
Chính sách tỉ giá hối đoái cân bằng linh hoạt và được điều chỉnh theo giá cả thị trường là chính sách hoàn toàn đáp ứng được hai bên xuất và nhập khẩu.Vì vậy khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần lưu ý đến yếu tố tỉ giá hối đoái để quyết định có kí hợp đồng hay không.
3.7. Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp
3.7.1. Ban lãnh đạo
Đây là bộ phận “đầu não” của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp để đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển công ty , đồng thời giám sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra. Đồng thời họ cũng là người gánh vác trách nhiệm kinh doanh trực tiếp trước cơ quan nhà nước trực thuộc địa phương mà doanh nghiệp đó có trụ sở chính.Vì vậy, trình độ năng lực quản lí của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh cuả doanh nghiệp .
3.7.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp
Một cơ cấu tổ chức hợp lí sẽ loại trừ các “nhiễu” trong sự truyền tải thông tin từ ban lãnh đạo tới các thành viên trong công ty. Cơ cấu tổ chức này có thể sửa đổi, bổ xung lượng thông tin kịp thời, chính xác, đúng vị trí . Đồng thời cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định, giúp ban lãnh đạo đưa ra nhưng quyết định khách quan hợp lý.
Như vậy, cơ cấu tổ chức không những ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3.7.3. Nguồn lực trong doanh nghiệp
Các nguồn lực trong doanh nghiệp gồm nguồn lực con người, nguồn vốn kinh doanh, nguồn tài sản cố định như các thiết bị văn phòng, máy móc, phân xưởng...
Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi đã có sự nghiên cứu về thị trường như: nghiên cứu hàng hoá, bạn hàng đối tác, phương thức giao dịch, đàm phán kí kết hợp đồng. Do đó vấn đề là phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có chuyên môn trong lĩnh vực này, họ có khả năng phân tích và giải quyết các thủ tục hành chính trong xuất khẩu. Đồng thời doanh nghiệp vẫn cần có một đội ngũ cán bộ có khả năng kinh nghiệm trong việc thu gom đóng gói bảo quản hàng hoá, kết hợp với đội ngũ cán bộ thị trường để tìm kiếm bạn hàng, quảng cáo tạo ra một sức mạnh thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển.
3.8 Các yếu tố thuộc về sản phẩm
Trước đây các doanh nghiệp thường sản xuất những cái gì mà mình có và theo đơn đặt hàng, chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước. Cùng với sự thay đổi của thời gian, nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường muốn được tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần phải quán triệt việc sản xuất cái gì người mua cần. Hoạt động xuất khẩu cũng đòi hỏi như vậy, không thể xuất khẩu những gì mình sản xuất được, mà xuất khẩu những cái gì mà thị trường cần xuất khẩu chỉ có thể phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ khi sản phẩm xuất khẩu đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
4. Các phương thức chủ yếu trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu
4.1 Giao dịch thông thường
Là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại… với người bán (hoặc người mua) về hàng hoá, mẫu mã sản phẩm, số lượng, giá cả, điều kiện giao dịch cũng như phương thức thanh toán.
4.2. Giao dịch qua trung gian
Là giao dịch mà người mua (người bán) qui địnhnhững điều kiện mua bán loại hàng, chủng loại, giá cả, số lượng, điều kiện giao dịch, thanh toán… Tức là mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua với người bán và qui đinh các điều kiện mua bán đều phải thông qua người thứ ba- người trung gian.
Hiện nay hình thức giao dịch trung gian này là rất phổ biến, chiếm khoảng hơn 52% kim ngạch buôn bán quốc tế.
Có ba loại trung gia phổ biến trên thế giới là:
- Môi giới
- Đại lý
- Hợp đồng đại lý
4.3 Giao dịch tại hội chợ triển lãm
Hôị chợ là thị trường hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian và một địa điểm nhất định trong một thời gian nhất định. Tại đó người bán đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để kí kết hợp đồng mua bán.
4.4 Buôn bán đối lưu
Là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi với nhau có giá trị tương đương.
4.5 Đấu thầu và đấu giá quốc tế
Đấu thầu quốc tế là phương thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua công bố trước điều kiện giao hàng để người bán xem xét và báo giá mình muốn mua. Sau đó người mua chọn mua của người bán mà đáp ứng được yêu cầu của mình mua.
Đấu giá quốc tế là phương thức buôn bán đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá sẽ được bán cho người trả giá cao nhất.
4.6 Giao dịch bằng thương mại điện tử
Thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử làm thương mại, nói cách khác đó là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử.
4.7 Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định. Người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, các sản phẩm có thể thay thế được nhau.
Có 3 loại giao dịch ở sở giao dịch:
- Giao dịch giao ngay
- Giao dịch kỳ hạn
- Nghiệp vụ tự bảo hiểm
II. Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
1. Các bước chuẩn bị để tiến hành giao dịch kí kết hợp đồng.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh đối ngoại ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống quan hệ mua bán trong nền thương mại có tổ chức, nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là nhằm tối đa ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đầu tư. Nhờ phát triển hoạt động xuất khẩu ra thị trường quốc tế mà các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường quốc tế .
Song hoạt động kinh doanh đối ngoại có những nét riêng, phức tạp hơn so với hoạt động đối nội. Do đó trước khi vào giao dịch thì doanh nghiệp phải chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng từng khâu, từng bước một để từ đó tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ kịp thời cho sản xuất và tiêu dung trong nước.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức, thực hiện bao gồm các bước sau:
1.1 Nghiên cứu tiếp cận thị trường nước ngoài.
1.1.1 Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Nghiên cứu thị trường là quá trình tìm hiểu, xem xét có hệ thống cùng với sự phân tích thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề Maketting.
Nghiên cứu thị trường sẽ giúp các nhà kinh doanh nắm bắt được các qui luật vận động thị trường để kịp thời đưa ra các quyêt định thích hợp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Vì thế nghiên cứu thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Vì vậy, khi nghiên cứu thị trường nước ngoài, các yếu tố chính trị, luật pháp, cơ sở hạ tầng, văn hoá,...doanh nghiệp còn phải biết nên xuất khẩu mặt hàng này, dung lượng thị trường hàng hoá đó là bao nhiêu....Để làm tốt công tác đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải biết nắm bắt, lọc bỏ những thông tin không cần thiết, đồng thời phải có một kế hoạch hợp lí.
a) Nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu
Để nhận biết mặt hàng xuất khẩu, phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Từ đó cần tìm hiểu giá trị thương phẩm hàng hoá, tình hình sản xuất mặt hàng, chu kỳ sống mà sản phẩm đang trải qua, tỉ suất ngoại tệ của mặt hàng kinh doanh.
Tìm hiểu tình hình sản xuất mặt hàng để giải đáp về vấn đề như đặc điểm của hàng trước nhu cầu của thị trường, khả năng và các nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty canh tranh. Từ đó xác định được khả năng cạnh tranh của mình ở thị trường và nắm được các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả.
Chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm 4 giai đoạn. Phân tích xem sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm là hết sức quan trọng. Ví dụ: nếu sản phẩm của doanh nghiệp đang ở giai đoạn 2, giai đoạn phát triển của sản phẩm thì doanh nghiệp nên tăng số lượng hàng hoá của mình trên thị trường để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và tăng lợi nhuận của mình. Còn nếu sản phẩm đang ở giai đoạn 4, giai đoạn suy thoái của sản phẩm thì doanh nghiệp cần có quyết định rút lui khỏi thị trường nếu doanh nghiệp không muốn lâm vào tình trạng phá sản.
Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu là số tiền Việt Nam phải chi ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Trên cơ sở so sánh tỷ suất này với tỉ giá hối đoái hiện hành, với mức doanh lợi thu được từ thị trường trong nước để quyết định có thu được hàng hoá hay không? Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ giá hối đoái thì xuất khẩu là có hiệu quả và ngược lại.
Viêc nghiên cứu nhận biết hàng hoá mà thị trường có nhu cầu là bước quan trọng, nó thể hiện tư tưởng chỉ bán cái mà thị trường đang cần chứ không phải là bán cái mà doanh nghiệp đang có.
b) Nghiên cứu về dung lượng thị trường hàng xuất khẩu
Dung lượng thị trường là khối luợng hàng hoá mà thị trường có thể tiêu thụ hoặc giao dịch trong một thời gian nhất định (tháng, năm). Dung lượng ảnh hưởng đến khối lượng hàng có thể tiêu thụ ở thị trường .
Dung lượng không cố định mà thay đổi tuỳ tình hình của thị trường. Nghiên cứu về dung lượng của thị trường, đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu thực của thị trường, phải nắm bắt được các đối thủ cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng xuất khẩu. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của hàng hoá trên thị trường, giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc các đề nghị, ra quyết định kịp thời, nhanh chóng chớp được thời cơ, đạt hiệu quả kinh doanh cao.
c) Nghiên cứu các hình thức và các biện pháp tiêu thụ hàng để biết các điều kiện về chính trị, thương mại của nước đó.
Như các mối quan hệ và các điều kiện của hiệp định cấp Chính phủ của nước đó với các nước khác, hệ thống giấy phép hạn ngạch, biểu thuế quan hàng xuất khẩu, việc tham gia của nước đó vào các khối chính trị...
Sau khi nghiên cứu, phân tích, các doanh nghiệp phải đánh giá được đặc điểm và các biện pháp kinh doanh của thị trường. Từ đó đưa ra được những kế hoạch cần làm để thâm nhập vào thị trường, tìm chỗ đứng ban đầu hay củng cố phát triển mối quan hệ đã có.
d) Nghiên cứu các điều kiện vận tải.
Cước phí vận tải và các phương tiện vận tải góp phần quan trọng vào khả năng cạnh tranh. Do đó các doanh nghiệp phải tìm phương án vận tải tối ưu nhất cho mình.
1.1.2. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Trên thị trường thế giới người bán hàng từ nhiều nguồn, nhiều nước khác nhau, cách sản xuất và chi phí sản xuất cũng khác nhau. Do đó việc cạnh tranh diễn ra liên tục, từng nơi, từng lúc rất đa dạng và phức tạp.
Có rất nhiều cách cạnh tranh, điển hình và phổ biến nhất là dùng giá cả. Có khi người bán hàng bán với lãi suất rất thấp, có khi chỉ cần hoà vốn lúc đầu để chiếm lĩnh được thị trường, gây được tín nhiệm, từ đó tăng giá dần. Có trường hợp người bán chịu thua lỗ ban đầu khi mới vào thị trường, khi đã quen khách hàng và thị trường mới tăng giá để bù lỗ và thu lãi.
Hiện nay các đối tượng cạnh tranh thường dùng các chiến lược cạnh tranh sau đây:
- Chiến lược cạnh tranh bằng giá cả: bán hàng với giá cả rẻ, có khi chịu lỗ ban đầu để bán hàng, giữ chân ở thị trường.
- Chiến lược cạnh tranh bằng hàng hoá chất lượng tốt, phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Có thể phối hợp bán hàng chất lượng tốt và giá rẻ.
- Chiến lược công nghệ mới: Dùng công nghệ mới để cải tiến chất lượng hàng để tăng cạnh tranh.
- Chiến lược dịch vụ trước, trong và sau bán hàng
- Chiến lược giữ quan hệ hướng tới khách hàng
Xem xét đối tượng cạnh tranh thực hiện chiến lược nào, thực lực của đối tượng cạnh tranh như thế nào? Từ đó mà doanh nghiệp biết được thực lực cạnh tranh của họ để có thái độ và chiến lược phù hợp.
1.1.3 Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
“Giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới, xác định đúng giá cả hàng hoá trong kinh doanh xuất khẩu có ý nghĩa to lớn đối với hiệu quả kinh doanh xuất khẩu”.
Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là một công việc quan trọng đối với bất cứ một đơn vị kinh doanh nào. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh luôn theo dõi, nghiên cứu sự biến động của giá cả, đồng thời phải có các biện pháp tính toán, xác định một cách chính xác .
Trên thị trường thế giới có các loại giá cả sau:
- Giá tham khảo
- Giá yết bảng ở sở giao dịch hàng hoá quốc tế
- Giá các hợp đồng đã kí
- Giá bán đấu giá, đấu thầu
- Giá ở các bản chào hàng.
Xem xét các loại giá trên để nắm được mức giá tối thiểu và tối đa, xu hướng biến động, dự báo được tình hình để có biện pháp xử lý hiệu quả nhất khi kí kết hợp đồng.
Xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới là rất phức tạp. Do vậy việc nắm bắt tình hình xu hướng biến động giá cả là hết sức khó khăn đòi hỏi phải có thông tin chính xác, kịp thời. Giá cả ảnh hưởng đến sức tiêu thụ, kinh doanh và lợi nhuận. Nó đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và của một số quốc gia. Đánh giá đúng đắn bảo đảm cho nhà xuất khẩu thắng lợi trong kinh doanh, tránh được sự rủi do và thua lỗ.
1.1.4. Lựa chọn khách hàng
Chọn khách hàng là chọn đối tác giao dịch thương nhân để thiết lập quan hệ kinh doanh, an toàn và có lãi. Trước khi lựa chọn ta cần tiến hành điều tra toàn diện như tình hình tài chính, kinh tế, mặt hàng, thái độ kinh doanh với chính sách của nước đó, quan điểm khách hàng đó đối với nước ta.
Nội dung tìm hiể._.u bao gồm:
- Khả năng tài chính, thanh toán: vốn, nợ, tình hình kinh doanh lỗ, lãi.
Quan điểm kinh doanh của bạn hàng nói chung và riêng với ta.
Phong thái kinh doanh, mức độ tín nhiệm, đạo đức kinh doanh.
Khi lựa chọn quốc gia làm đối tượng xuất khẩu hàng hoá, ta phải xem:
-Tình hình sản xuất, tiêu thụ của nước đó.
Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thuộc đối tượng nghiên cứu
Tình hình dự trữ ngoại tệ, phương hướng, nhập khẩu, để biết được khả năng nhập khẩu và dự kiến của đối thủ cạnh tranh.
Như vậy việc lựa chọn đối tác giao dịch phải có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng quyết định trong hoạt động mua bán quốc tế.
1.2.Lập phương án kinh doanh
Sau khi đã nghiên cứu xong mặt hàng mà thị trường có nhu cầu, lựa chọn được đối tác kinh doanh và giá cả của hàng hoá xuất khẩu, đơn vị kinh doanh cần phải lập phương án kinh doanh để thoanh qua phương án, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiến hành các bước kinh doanh. Tức là doanh nghiệp cần phải:
Đánh giá khái quát về tình hình thị trường và đối tác xuất khẩu để từ đó rút ra những nét tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh.
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Đề ra các mục tiêu và biện pháp thực hiện mục tiêu.
+ Biện pháp ngoài nước: Đẩy mạnh quảng cáo, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút đầu tư nước ngoài...
+ Biện pháp trong nước :Đầu tư sản xuất trong nước, cải tiến bao bì, mẫu mã sản phẩm ...
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh qua các chỉ tiêu: tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất doanh lợi, điểm hoàn vốn.
1.3. Tổ chức thu mua tạo nguồn cho xuất khẩu .
Là toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh đến nghiên cứu thị trường, kí kết thực hiện hợp đồng vận chuyển, bảo quản, sơ chế...thu mua tạo nguồn cho xuất khẩu và hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán, trao đổi hàng hoá nhằm tạo nguồn hàng cho xuất khẩu .
1.4. Đàm phán ký kết hợp đồng cho xuất khẩu
Nội dung tiếp theo của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là tiến hành giao dịch, đàm phán để đi đến những thoả thuận chung cho trong thương mại quốc tế.
Đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là việc trao đổi, bàn bạc giữa các đối tác xuất khẩu đưa ra những điều khoản cụ thể trong hợp đồng để đi đến ký kết các hợp đồng.
1.4.1 Đàm phán trao đổi thư từ, điện tín.
Đây là hình thức đàm phán giao dịch thuận tiện, đỡ tốn kém nhất, do chủ động được về thời gian có điều kiện để suy xét tính toán,tham khảo ý kiến nhiều người khác để giải quyết việc có cơ sở hợp lý.
Khi sử dụng đàm phán qua thư tín phải luôn luôn thận trọng trong cách viết thư và gửi thư. Ưu điểm lớn nhấtcủa phương pháp này là tiết kiệm được chi phí giao dịch nhưng có nhược điểm là không nắm bắt được đầy đủ thông tin về đối tác, chậm chạp, kéo dài, dễ mất thời cơ kinh doanh.
1.4.2. Đàm phán giao dịch bằng điện thoại
Trong giao dịch quốc tế, điện thoại đường dài khá phổ biến, việc đàm thoại qua điện thoại được tiến hành rất nhanh chóng và thuận lợi cho các nhà kinh doanh, nhung tốn kém nhiều so với thư từ.
Trao đổi đàm phán qua điện thoại là hình thức giao dịch miệng, không thể làm chứng cứ pháp luật như văn bản, thư từ. Do đó, chỉ dùng điện thoại khi việc khẩn trương, có yếu tố thời hạn, lỡ thời cơ.
Sau khi giao dịch bằng điện thoại phải có văn bản xác nhận nội dung đã trao đổi và những ý kiến đã thoả thuận giữa các bên. Văn bản này có ý nghĩa pháp lí.
1.4.3 Đàm phán giao dịch bằng gặp mặt trực tiếp.
Là hình thức giao dịch đối diện nhau trên cùng một bàn đàm phán. Việc gặp gỡ trực tiếp trong đàm phán là rất quan trọng, nó cho phép hai bên cùng trao đổi, thảo luận những vấn đề chi tiết trong hợp đồng, tú đó dễ tạo ra được điều kiện kết thúc đàm phán để kí hợp đồng.
Với hình thức này nhà kinh doanh vừa trình bầy cặn kẽ, vừa tỉ mỉ hiểu được tâm lý của đối tác. Qua đó, nhà kinh doanh có thể tuỳ cơ ứng biến. Song hình thức đàm phán này đòi hỏi năng lực đàm phán giỏi và tốn kém, mất thời gian và nó cần một địa bàn tốt.
* Các bước tiến hành đàm phán:
- Chào hàng: là việc của nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định của mình, là lời đề nghị kí hợp đồng.
+ Chào hàng cố định
+ Chào hàng tự do
Hoàn giá (mặc cả)
Chấp nhận
Xác nhận
1.5 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu .
Khi hợp đồng mua bán được kí kết xong, nghĩa là nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham gia kí kết hợp đồng đã được xác định, các bên cần thực hiện nghĩa vụ của mình ghi trong bản hợp đồng, cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm. Phải yêu cầu đối phương theo hợp đồng phát sinh trong quá trình thực hiện. Các bên phải kịp thời trao đổi để có thể có hướng giải quyết cụ thể.
Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu bên xuất khẩu cần phải tiến hành thực hiện các công việc sau.
a) Kiểm tra L/C do bên mua mở
Nếu hợp đồng được thanh toán bằng L/C thì doanh nghiệp xuất khẩu cần phải kiểm tra xem nhân hàng mở L/C của bên mua là ngân hàng nào, có đủ số tiền thanh toán không, thời gian hiệu lực của L/C, ngân hàng đó thanh toán có uy tín không.
b) Xin giấy phép xuất khẩu
Giấy phép xuất khẩu là điều kiện quan trọng về mặt pháp lý để tiến hành thực hiện các hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Giấy phép chỉ rõ doanh nghiệp có quyền kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng ghi trong giấy phép và tại một cửa khẩu nhất định.
c) Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp ngoại thương tác động đến các lĩnh vực sản xuất, khai thác để tạo ra nguồn hàng phù hơp với nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể nghiên cứu các nguồn khả năng đáp ứng và điều kiện nguồn lực có thể khai thác được hoặc doanh nghiệp hợp tác, liên doanh... với đối tác để tạo ra loại hàng có chất lượng tốt giá cả phù hợp và cung ứng kịp thời.
d) Uỷ thác thuê tàu
e) Kiểm nghiệm hàng hoá
Quá trình kiểm nghiệm được tiến hành tại cửa khẩu. Thông thường chậm nhất bảy ngày trước khi bốc hàng lên tàu, chủ hàng phải báo cáo cho cơ quan có liên quan và sắp xếp lại hàng để thuận tiện cho việc kiểm tra.
f. Làm thủ tục hải quan
Khi hàng hoá được vận chuyển qua cửa khẩu phải được làm thủ tục hải quan. Đâu là một giải pháp để nhà nước quản lý và ngăn chặn xuất khẩu hàng cấm qua biên giới. Để làm thủ tục này doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện theo các bước sau:
- Khai báo thủ tục hải quan
- Xuất trình hàng hoá
-Thực hiện các quyết định của hải quan.
g) Giao hàng lên tàu.
f) Chủ hàng phải nộp bản đăng kí hàng chuyên trở và xuất trình bản này cho người vận chuyên, theo dõi lịch trình để đưa hàng lên tàu được sự giám sát của hải quan và lấy vận đơn đường biển.
h) Mua bảo hiểm hàng hoá
Hàng hoá xuất khẩu trong quá trình vận chuyển thường có rủi ro bất ngờ. Vì vậy để hạn chế bớt thiệt hại, bảo đảm an toàn cho hàng hoá xuất khẩu cần phải mua bảo hiểm.
Hợp đồng mua bảo hiểm gồm:
Hợp đồng bảo đảm
Hợp đồng chuyến
Bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A)
Bảo hiểm có bồi thường, tổn thất riêng (điều kiệnB)
Bảo hiểm bồi thường tổn thất riêng (điều kiện C)
k) Làm thủ tục thanh toán.
Sau khi giao xong hàng lên tàu, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ lập bộ chứng từ gửi cho người mua để thanh toán và tuỳ theo điều khoản thanh toán trong hợp đồng mà lập các chứng từ khác nhau.
Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, thanh toán là một khâu quan trọng nó đảm bảo cho người xuất khẩu được thu tiền về và tiếp tục chu kì kinh doanh.
l) Giải quyết khiếu nại (nếu có)
2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
2.1 Xuất khẩu trực tiếp
Là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất hoặc đặt mua của doanh nghiệp sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm này với danh nghĩa là hàng hoá của đơn vị mình.
Để tiến hành một hợp đồng xuất khẩu trực tiếp cần theo các bước sau:
Tiến hành kí kết nội địa, sau đó mua hàng và trả tiền cho các đơn vị sản xuất trong nước.
Kí hợp đồng ngoại, sau đó tiến hành giao hàng và thanh toán tiền.
Theo hình thức xuất khẩu này thì doanh nghiệp sẽ phải chịu bất lợi về chi phí vận chuyển, thuế xuất nhập khẩu và chi phí để duy trì cửa hàng, văn phòng đại diện ở nước ngoài. Nhưng nó cũng có ưu điểm là giúp doanh nghiệp kiểm soát và nắm chắc được hoạt động kinh doanh và có cơ may để đứng chân vững chắc ở thị trường nước ngoài.
2.2. Xuất khẩu gián tiếp
Là hình thức bán hàng hoá qua một số trung gian nước ngoài để họ bán lại cho người tiêu dùng.
Xuất khẩu gián tiếp có ưu điểm ít gặp nguy hiểm khi doanh nghiệp không nắm vững thị trường nước ngoài và có thể sử dụng tiềm lực của người trung gian, nhưng có nhược điểm là mức lợi nhuận không được cao
2.3. Cấp giấy phép nhượng quyền
Là một hợp đồng cho phép người được cấp giấy phép sử dụng bản quyền theo các điều kiện thoả thuận để lấy lệ phí.
Ưu điểm của hình thức này là chi phí đầu tư không cao nhưng dễ tạo ra các đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp về lâu dài.
2.4. Liên doanh
Đây là hình thức được nhiều doanh nghiệp ưa thích thông qua hai hay nhiều nhà đầu tư cùng sở hữu một xí nghiệp. Theo phương thức này, đơn vị “chân hàng” cùng bỏ vốn kinh doanh chung với đơn vị ngoại thương với điều kiện lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu.
Liên doanh giúp nhà đầu tư hiểu rõ tình hình thị trường, tận dụng tri thức của đối tác tại địa phương về điều kiện bán hàng, cạnh tranh tại nước chủ nhà và san sẻ chi phí đầu tư.
2.5. Buôn bán đối lưu
Là hình thức giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp vói hoạt động nhập khẩu và người bán cũng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi ở đay có giá trị tương đương nhau. Ta có các loại hình thức buôn bán đối lưu sau:
- Hình thức hàng đổi hàng: là hình thức giao dịch mà hai bên trực tiếp trao đổi hàng hoá, dịch vụ có giá trị tương đương, không dùng tiền làm giá trị trung gian.
- Trao đổi bù trừ: Là hình thức xuất khẩu liên kết với nhập khẩu ngay trong hợp đồng, có thể từ trước hoặc bù trừ song song.
- Nghiệp vụ đối lưu: Là hình thức một bên giao thiết bị cho bên kia rồi mua lại thành phẩm hay bán thành phẩm.
Để thực hiện hình thức này đòi hỏi phải tiến hành theo các yêu cầu sau:
Hai bên cùng cân bằng về mặt hàng hoá
Hai bên cùng cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi
Hai bên cung cân băng về giá cả
Cùng thoả thuận về điều kiện giao hàng
Hình thức buôn bán đối lưu có ưu điểm là có thể thực hiện được khi các bên thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, thiếu ngoại hối, hơn nữa nó tránh được những rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra.
2.7. Xuất khẩu theo nghị định thư
Là hoạt động xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được kí theo nghị định của Chính Phủ. Hình thứ này đem lại khả năng thanh toán chắc chắn, giá cả hàng hoá dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí nghiên cứu tìm hiểu thị trường nhưng xuất khẩu theo hình thức này đem lại lợi nhuân không cao.
2.8 Xuất khẩu tại chỗ
Là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu được bán ngay tại nước xuất khẩu . Doanh nghiệp ngoại thương không phải ra nước ngoài để đàm phán, kí kết hợp đồng mà người mua tự tìm đến doanh nghiệp để mua hàng. Hơn nữa doanh nghiệp cũng không phải làm thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá hay thuê phương tiện vận chuyển.
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu đặc trưng, khác biệt so với các hình thức xuất khẩu khác. Và hình thức này càng được vận dụng nhiều theo xu hướng phát triển thế giới.
2.9. Tái xuất khẩu
Là hình thức xuất khẩu những hàng hoá nhập khẩu nhưng qua chế biến ở nước tái xuất ra nước ngoài.
Hình thức tái xuất khẩu có thể diễn ra theo hai cách:
Hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất khẩu chỉ có vai trò trên giấy tờ như một nước trung gian.
Hàng đưa từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất khẩu, rồi đi từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược lại, dòng tiền lại được chuyển từ nước nhập sang nước tái xuất rồi sang nước xuất khẩu .
Hoạt động tái xuất khẩu chỉ diễn ra khi mà các nước bị hạn hẹp về quan hệ thương mại quốc tế do bị cấm vận hoặc thị trường mới chưa có kinh nghiệm cần có người trung gian.
2.9. Xuất khẩu gia công uỷ thác
Theo hình thức này thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đứng ra với vai trò nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho đơn vị sản xuất, xí nghiệp gia công. Sau đó khi sản phẩm được hoàn nhận lại và xuất cho bên đối tác.
Để hoàn thành một thương vụ xuất khẩu theo hình thức này thì doanh nghiệp cần phải tiến hành theo các bước sau:
Ký hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị sản xuất trong nước.
Ký hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị uỷ thác trong nước.
Ký hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên vật liệu.
Xuất khẩu lại thành phẩm cho bên nước ngoài.
Thanh toán chi phí gia công cho đơn vị sản xuất.
Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp không cần bỏ nhiều vốn kinh doanh nhưng có hiệu quả cao, ít rủi ro, thị trường tiêu thụ chắc chắn. Mặt khác nó cũng có điểm yếu là hình thức này khá phức tạp vì nó đòi hỏi phải tìm được đối tác nước ngoài có nhu cầu. Vì thế, doanh nghiệp phải có uy tín lớn trên thương trường và năng động trong kinh doanh.
2.10. Gia công quốc tế.
Là hình thức kinh doanh trong đó có một bên nhận gia công nguyên vật liệu hay bán thành phẩm của bên đặt gia công nhằm thu được lợi nhuận.
Hiện nay hình thức gia công quốc tế được sử dụng khá phổ biến nhưng thị trường của nó chỉ là thị trường mọt chiều và bên đặt gia công thường là các nước chậm phát triển. Đó là do sự khác nhau về lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Đối với bên đặt gia công, họ tìm kiếm một nguồn lao động với giá rẻ hơn giá trong nước nhằm gỉam chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. Bên nhận gia công có nguồn lao động dồi dào, mong muốn có việc làm tạo thu nhập, cải thiện đời sống và qua đó tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến.
Tóm lại, các hình thức xuất khẩu trên thì việc áp dụng hình thức nào là tuỳ thuộc vào bản thân doanh nghiếp xuất nhập khâủ và phải đáp ứng được yêu cầu của cả hai bêntham gia hợp đồng sản xuất gia công trong nước và nước ngoài. Mỗi một hình thức đều có những mặt tích cực và hạn chế, do đó khi tiến hành các hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần nghiên cứu, đánh giá,xem xét nên xuất khẩu theo hình thức nào để thu về nhiều lợi ích nhất cho doanh nghiệp .
Chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ –artexport
I. Vài nét khái quát về công ty
1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ (có tên giao dịch là Việt Nam National art and handcraft product export import company-artexport) được thành lập theo quyết định số 617/ Bộ ngoại thương nay là Bộ Thương Mại 23/12/1964. Công ty được thành lập theo quyết định số 334/TM - TCCB ngày 31/3/1993, giấy phép đăng ký kinh doanh số 108474 ngày 14/5/1993 do trọng tài kinh tế Nhà nước cấp –Artexport là một doanh nghiệp nhà nước, hoạt động xuất nhập khẩu có tư cách pháp nhân có quyền và nghĩa vụ theo luật định, có con dấu riêng và có tài khoản và các quĩ tập trung, được mở tài khoản trong và ngoài nước, được tố chức và hoạt động theo điều lệ Tổng công ty .
Hiện nay công ty có 4 đơn vị hạch toán trực thuộc công ty :
Tại Hà Nội, trụ sở chính của công ty 31-33 Ngô Quyền Quận Hoàn Kiếm –Thành phố Hà Nội, xưởng gỗ Thanh Lân –Thanh Trì -Hà Nội, xưởng thêu 105 –phố Bạch Mai-Hà Nội, cửa hàng thủ công mỹ nghệ 37 Hàng Khay –Hà Nội, xưởng sản xuất gốm hàng Bát Tràng-Gia Lâm –Hà Nội.
Tại Hải Phòng có công ty giao nhận và dịch vụ xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ số 23 phố Đà Nẵng- Thành phố Hải Phòng
Tại Đà Nẵng có công ty xuất nhập khẩu Đà Nẵng địa chỉ 74 Trưng Nữ Vương- Thành phố Đà Nẵng
Tại thành phố Hồ Chí Minh văn phong đại diện công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ. Địa chỉ 31 Trần Quốc Toản- quận 3 TPHCM.
2. Chức năng, nhiệm vụ củ công ty Artexport.
2.1. Chức năng.
Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport kinh doanh xuất nhập khẩu chuyên về các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trang trí sản xuất các nghành công nghiệp nhẹ. Mục đích hoạt động của công ty là thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ của công ty nhằm khai thác có hiệu quả nguồn vốn, vật tư, nhân lực và tài nguyên của đất nước, đảy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước.
Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có những chức năng sau:
Tổ chức, chế biến, gia công và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu với một số mặt hàng được Bộ Thương Mại cho phép.
Xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm do liên doanh, liên kết tạo ra và các mặt hàng theo quyết định hiện hành của Bộ Thương Mại và Nhà nước cấp.
Nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư, máy móc, thiết bị phương tiện vận tải và sản xuất kinh doanh.
Được uỷ thác và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu các mặt hàng được Nhà nước cho phép. Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân hoạch toán kinh tế độc lập, được mở tài khoản ở Ngân hàng Ngoại Thương và được sử dụng con dấu theo mẫu.
2.2. Nhiệm vụ.
Nhiệm vụ của công ty gồm:
Thực hiện các chức năng kinh tế đối ngoại của Bộ Thương Mại.
Nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra thị trường trong nước để xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu hàng năm và dài hạn đáp ứng yêu cầu công nghiệp nhẹ cũng như nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước.
Thu nhập và phổ biến thông tin thị trường, giá cả, mặt hàng, mẫu mã, chủng loại mới cho các đơn vị và văn phòng trực thuộc, hướng dẫn nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu cho các đơn vị phụ thuộc khác.
Quản lý tập trung quỹ ngoại tệ của toàn công ty để tính toán và sử dụng có hiệu quả theo kế hoạch.
Tuân theo đúng chế độ, chính sách của Bộ Thương Mại.
Thực hiện cam kết trong hợp tác quốc tế qua hợp đồng thương mại.
3. Cơ cấu tổ chức quyền hạn và nhiệm vụ của các bộ phận phòng ban.
3.1. Cơ cấu tổ chức của công ty .
Trước kia bộ máy quản lý của công ty được tỏ chức theo mô hình trực tuyến chức năng. Ngày nay để phù hợp với tình hình hoạt động của công ty, công ty Artexport được chia làm hai khối dưới sự chỉ đạo của ban giám đốc đó là: khối quản lý và khối kinh doanh.
Khối quản lí bao gồm các phòng hành chính và phòng kế toán tài vụ.
Khối kinh doanh bao gồm các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu các phân xưởng sản xuất và các chi nhánh tại Hải Phòng, Đà Nẵng, TPHCM và Hà Nội.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh Artexport
Giám Đốc
Khối Quản lý
Khối kinh doanh
P.
dép
P.
Cói
Văn
phòng
P.
Thêu
P. XNK 4
P.
Thị
trường
P.
TCKT
P.
Tổ
chức
Phòng
XNK
2
Phòng
XNK
3
P
XNK
9
P
TCMN
Phòng
Gốm
X -
Thêu
P.
XNK
5
Phòng XNK
6
3.2. Quyền hạn của công ty
Được chủ động giao dịch đàm phán kí kết và thực hiện các hợp động mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản về hợp tác liên doanh thuộc các lĩnh vực với các tổ chức và các cá nhân thuộc mòi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Được quyền vay vốn và cho vay bằng tiền, ngoại tệ và hiện vật ở trong nước và nước ngoài: Được liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư, sản xuất kinh doanh với các tỏ chức, cá nhân trong và ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh của công ty theo quy chế và pháp luật hiện hành.
Được tham gia hội trợ triển lãm, quảng cáo hàng hoá, tham gia các hội thảo chuyên đề có liên quan đến các hoạt động của công ty ở trong nước và ngoài nước.
Được cử cán bộ của công ty ra nước ngoài hoặc mời bên nước ngoài vào Việt Nam để khảo sát thị trường, để giao dịch, để đàm phán kí kết hợp đồng hoặc giải quyết các vấn đề liên quan thuộc phạm vi kinh doanh của công ty theo quy chế hiện hành của nhà nước và Bộ Thương Mại.
Được mở cửa hàng để giới thiệu và bán sản phẩm thuộc phạm vi kinh doanh của công ty , phù hợp với quy chế hiện hành của nhà nước.
Được kinh doanh các dịch vụ có liên quan đến phạm vi sản xuất kinh doanh của công ty kể cả kinh doanh vận tải và hàng hoá công cộng.
3.3. Nhiệm vụ của các bộ phận trong công ty .
a) Ban giám đốc:
Bao gồm Giám đốc, Phó giám đốc phụ trách tài chính, Phó giám đốc phụ trách nghiệp vụ. đứng đầu công ty là Giám đốc chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của công ty trước pháp luật cũng như Bộ chủ quản. Giám đốc công ty có trách nhiệm sắp xếp bố trí và chỉ đạo chung toàn bộ công ty và lấy ý kiến tham mưu của các phòng ban để lập ra kế hoạch và phát triển của toàn công ty. Bên cạnh đó hai phó Giám đốc ngoài thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình còn giúp Giám đốc chỉ đạo hoạt động của công ty và đại diện cho công ty khi Giám đốc đi vắng.
b)Văn phòng:
Số cán bộ nhân viên của văn phòng gồm 12 người, chịu trách nhiệm quản lí tài sản chung của công ty và của các đơn vị, theo dõi tình hình sử dụng tài sản, quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu thuộc phạm vi chi tiêu của văn phòng.
c) Phòng tổ chức cán bộ gồm có 7 cán bộ nhân viên và họ có nhiệm vụ là:
Giúp các đơn vị tổ chức sắp xếp và quản lí lao động để tạo điều kiện cho các phòng ban công ty nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả lực lượng lao động của công ty.
Làm quy hoạch đào tạo tuyển dụng lao động theo mục đích của sản xuất kinh doanh, giải quyết và khiếu nại, tố cáo về quyền lợi của người lao động, bảo vệ chính trị nội bộ, phòng ban, bảo mật.
d. Phòng kế toán tài chính:
Phòng gồm 11 người với chức năng giám đốc đồng tiền thông qua việc kiểm soát, quản lý tiền vốn và tài sản của công ty. Phòng này có nhiệm vụ là:
Hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh về nghiệp vụ mở sổ sách, theo dõi hoạt động của đơn vị, giúp cho họ làm thống kê báo cáo định kì, hạch toán nội bộ theo quy định của công ty và hướng dẫn của Bộ Tài Chính.
Kiểm soát, kiểm tra các phương án kinh doanh đã được Giám đốc duyệt, thường xuyên đối chiếu chứng từ để giúp các đơn vị hạch toán chính xác, góp ý kiến và chịu trách nhiệm về những kiến nghị và những góp ý của mình với từng phương án kinh doanh cụ thể, xác định được lỗ lãi để tính trả lương cho các đơn vị.
Xây dựng phương thức, qui chế, hình thức cho vay của công ty và bảo lãnh của Ngân hàng, nắm chắc chu trình luân chuyển của vốn, của từng hợp đồng, phương án nhằm ngăn chặn nguy cơ đọng, hụt hoặc mất vốn, không để tình trạng này xảy ra vì buông lỏng quản lý, sao nhãng nguyên tắc quản lý tài chính tiền tệ.
Lập quĩ dự phòng để giải quyết kịp thời các phát sinh bất lợi trong sản xuất kinh doanh, có nguồn vốn dự trữ cho các hợp đồng mới, chủ động xử lý khi có thay đổi về tổ chức, nhân sự, lao động có liên quan đến tiền...
e. Phòng thị trường hàng hoá.
Tìm hiểu khách hàng và thực hiện các biện pháp giữ khách.
Tìm hiểu và tìm kiếm các đối tác để hợp tác kinh doanh với các công ty .
Tìm hiểu các nhu cầu thị trường làm công tác tham mưu cho các phòng kinh doanh.
f) Các phòng nghiệp vụ xuất khẩu :
Bao gồm phòng trực tiếp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu theo các kế hoạch phương án đã được giám đốc duyệt.
Để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, công ty đã ban hành chế độ khoán kinh doanh theo đó các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu được phép vay vốn của công ty, tự tiến hành các hoạt động kinh doanh nếu tìm được các nguồn hàng và thị trường thích hợp, như vậy quyền hạn của các phòng kinh doanh được mở rộng hơn trước đồng thời cũng chịu trách nhiệm nhiều hơn trước.
Với qui chế hoạt động tự bản thân của các phòng kinh doanh được chủ động hơn trong hoạt động, phát huy được tính năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm của từng bộ phận, nhân viên trong phòng. Như vậy các phòng xuất nhập khẩu của công ty được mở rộng phạm vi kinh doanh có thể xuất nhập khẩu hoặc liên doanh liên kết với các tổ chức cá nhân khác nếu có khả năng. Tuy nhiên, từng phòng vẫn giữ các mặt hàng truyền thống và thị trường truyền thống trước kia.
g. Các chi nhánh :
Ngoài các khối đơn vị quản lý và khối các đơn vị kinh doanh công ty còn có các chi nhánh trực thuộc đóng ở Hải Phòng, Đà Nẵng, TP.HCM.
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty
1. Đặc điểm mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Là mặt hàng truyền thống của dân tộc, là loại hàng dịch vụ được sản xuất chủ yếu của nông thôn. Loại hàng hoá được làm chủ yếu bằng tay với nguyên liệu tre, nứa, gỗ, đất sét....Với các loại nguyên liệu đó kết hợp với bàn tay khéo léo của người Việt Nam, nó trở thành những tác phẩm nghệ thuật đa dạng và phong phú về chủng loại sản phẩm như hàng gốm sứ, sơn mài, mây tre đan...
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm rất độc đáo ở Việt Nam, cái độc đáo không phải chỉ vì giá trị thực của sản phẩm mà nó còn mang đậm bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam – một dân tộc đã có bề dày hơn 4000 năm lịch sử. Đây là điểm khác biệt giữa các sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam với sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nước trên thế giới. Từ những hình ảnh rất thực tế, đời thường ở các vùng quê Việt Nam như hình ảnh một cậu bé đang chăn trâu, thổi sáo....Đến những hình tượng trong dân gian dưới con mắt tinh tế, sáng tạo, kết hợp với đôi bàn tay khéo léo và tài ba của các nghệ nhân mà hình ảnh trong cuộc sống đời thường và các hình tượng khác trong đời sống trở thành tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp và trong tác phẩm đó nó không chỉ chứa đựng công sức của người làm ra nó mà nó còn chứa đựng cả một nền văn hoá Việt Nam.
Nghề thủ công mỹ nghệ đã có từ lâu đời ở nước ta, từ những thế kỷ trước, các nghệ nhân ở các vùng địa phương với bàn tay khéo léo và tài hoa của mình đẫ dùng các chất liệu sẵn có để làm nên các vật trang trí trong đền chùa, cung đình...đầy vẻ lộng lẫy và uy nghi.
Trải qua thời gian theo năm tháng, nghề thủ công mỹ nghệ đã có lúc bị mai một đi nhưng đến nay khi Đảng và Nhà nước ta có chính sách mở cửa, mở rộng giao lưu đối ngoại, giao lưu văn hoá và chú trọng đến việc mở rộng mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống thì nghề thủ công mỹ nghệ lại bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh. Hiện nay, dưới con mắt tinh sảo của các nghệ nhân, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ vừa được kế thừa các kinh nghiệm truyền thống, vừa mang phong cách thẩm mỹ hiện đại. Sự kết hợp nhuần nhuyễn này tạo nên giá trị nghệ thuật của sản phẩm ngày càng được nâng cao mà vẫn giữ được bản sắc nghệ thuật dân tộc riêng và văn hoá phương đông nói chung. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ ngày càng được phát triển cả về chủng loại mẫu mã, các đường nét tinh sảo và mang phong cách hiện đại kết hợp với giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam.
2. Đặc điểm tiêu thụ của sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ phần lớn được dùng để trình bày, trang trí, rất ít loại đưa vào giá trị sử dụng. Do vậy, lượng cầu không lớn nhưng đa dạng, phong phú về chủng loại và chi phí cao. Những sản phẩm này mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam nói riêng và các nước Phương Đông nói chung nên sản phẩm có giá trị cao song lại phụ thuộc vào nhu cầu của khách nước ngoài.
Do đặc điểm của sản phẩm thủ công mỹ nghệ nên vấn đề tiêu thụ là vấn đề được đặc biệt quan tâm, mặt khác việc tiêu thụ sản phẩm cũng rất khác so với các sản phẩm tiêu thụ chủ yếu bởi khách nước ngoài mà sản phẩm thủ công mỹ nghệ lại chủ yếu được tiêu thụ bởi khách nước ngoài. Do đó giá trị sử dụng của sản phẩm là rất thấp, chỉ có giá trị văn hoá, giá trị tinh thần là cao. Giá trị của nó được đánh giá không tuân theo quy luật chi phí mà nó tuân theo quy luật cảm nhận giá trị. Do vậy giá trị của sản phẩm cao không phải vì giá đắt hay rẻ, nhỏ hay lớn... mà giá trị của nó được cảm nhận qua giá trị phi vật chất. Điều này rất quan trọng đối với người làm quản lý là phải biết đưa sản phẩm đến đúng nơi có nhu cầu và đưa ra mức giá phù hợp với giá trị cảm nhận của khách hàng đồng thời nhấn mạnh những khía cạnh cuả sản phẩm mà khách hàng ưa chuộng từ đó thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, phát triển thị trường.
Sở dĩ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty nhận được sự đánh giá cao của khách hàng chủ yếu do nó trở thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, kết hợp được những thành quả văn hoá truyền thống của Việt Nam, kết hợp với chức năng thẩm mỹ hiện đại do đó giá trị nghệ thuật của sản phẩm ngày càng được nâng cao đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hơn nữa đối với khách hàng “Tư bản chủ nghĩa” những nước có trình độ khoa học phát triển, tự động hoá cao thì sản phẩm của họ đều dược làm bằng máy móc, dây chuyền hiện đại do đó sản phẩm của họ là sản phẩm công nghệ cao. Vì những sản phẩm hiện đại không có những nét nghệ thuật của những đôi bàn tay khéo léo như là sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Do vậy, họ quý giá trị của những tác phẩm thủ công nhất là những tác phẩm mang tính nghệ thuật.
3. Tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty .
3.1. Nguồn vốn của công ty
Vốn là một trong các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, nếu không có vốn thì doanh nghiệp không thể tiến hành dược các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào ngay từ khi thành lập cũng phải có một lưọng vốn nhất định.
Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ được thành lập theo quyết định của Bộ thương mại với phần lớn vốn là do ngân sách Nhà nước cấp, nguồn vốn còn lại là do công ty tự bổ sung và liên doanh với các nhà đầu tư khác.
Do công ty được thành lập ngay từ những ngày đầu của ngành xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, sau hơn 38 năm cơ sở vật chất và trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất kinh doanh của công ty đã trở nên lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng. Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền kinh tế thị trường, mục tiêu của công ty dề ra là duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh về cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của công ty, góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước và bản thân doanh nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, công ty cần phải có tiềm năng về tài sản cũng như về nguồn vốn và lượng vốn này cần phải lớn thì mới đảm bảo được nhiệm vụ của công ty. Nguồn vốn kinh doanh của công ty được thể hiện qua bảng sau.
Bảng 1 : Nguồn vốn kinh doanh của Artexport
(Đơn vị : Triệu VNĐ)
Tài sản/ năm
1998
1999
2000
2001
TSCĐ
9980
11302
10420
11203
TSLĐ
25670
34383
43036
47598
Tổng VKD
35650
45685
53457
58801
(Nguồn : Báo cáo tài chính của Công ty ).
Nguồn vốn của công ty tăng lên qua mỗi năm. So sánh năm 1999 với năm 1998 ta thấy nguồn vốn của công ty tăng lên một lượng là 10035 triệu VNĐ tức gấp 1,28 lần trong đó vốn cố địng tăng lên 1322 triệu VNĐ gấp 1,13 lần và vốn lưu động tăng 8713 triệu VNĐ gấp 1,34 lần. Còn năm 2000 so với năm 1999 thì nguồ._.của mình, tận dụng những thời cơ đẻ đạy được hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh.
b.Tổ chức hợp lý, hiệu quả hoạt động Marketing-Mix
Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì mà họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi bhững sản phẩm có giá trị với những người khác. Marketing có thể hiểu là các hoạt động nhằm nắm bắt nhu cầu thị trường để xác lập các biện pháp thoả mãn tối đa nhu cầu đó, qua đó mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn tăng cường và phát triển tiềm lực của mình không thể thiếu khả năng Marketing mạnh. Để khẳng định vị thế, uy tín của mình trên thị trường, công ty cần phải có hệ thống Marketing mạnh mẽ để khéo léo hấp dẫn khách hàng đến công ty. Với tầm quan trọng như vậy, công ty Artexport không nên chỉ có hướng chung trong hoạt động Marketing mà điều cần thiết là phải cụ thể, hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động Marketing ở công ty. Công ty cần tuyên truyền giáo dục cho cán bộ công nhân viên của mình biết và thấy được tầm quan trọng của công tác này đồng thời chú trọng tới công tác nâng cao nghiệp vụ Marketing cho các nhân viên thông qua các lớp học ngắn hạn và dài hạn dưới bất kỳ hình thức nào.
Một chiến lược Marketing tốt có thể giúp doanh nghiệp đạt được cả ba mục tiêu: Lợi nhuận, uy tín và sự an toàn trong kinh doanh qua đó nâng cao lợi nhuận của mình ở cả thời điểm trước mắt và trong tương lai.
Hiện nay công ty Artexport không có một phòng Marketing riêng, mà trong mỗi phòng kinh doanh, cán bộ công nhân viên tự làm công tác này, tự tìm hiểu khách hàng và thị trường để ký kết hợp đồng. Như vậy cần phải nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ Marketing cho các cán bộ công nhân viên này vì cơ bản họ chưa có trình độ Marketing chuyên môn.
Nói tóm lại hoạt động Marketing là một hoạt động không thể thiếu được trong các doanh nghiệp ở nền kinh tế thị trường. Để có hiệu quả tốt thì công ty phải xây dựng và hoạch định các chiến lược Marketing tổ chức thực thi sát với thực tế và nhu cầu của thị trường thì mới đáp ứng được mục tiêu mà công ty đề ra.
Đổi mới hình thức xuất khẩu
Hiện nay công ty đang chủ yếu áp dụng hai hình thức xuất khẩu: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác. trong thời gian tới công ty cần có biện pháp tăng cường xuất khẩu trực tiếp cũng như cần thu hút khách hàng nội địa để uỷ thác.
Công ty phải lựa chọn hình thức thanh toán có lợi nhất. Công ty cần có đầy đủ thông tin về khách hàng, bên uỷ thác để kịp thời giải quyết các vấn đề khiếu nại để bảo đảm quyền lợi cho các bên, giữ chữ tín cho công ty.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại
Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu và thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận, thu thập và nghiên cứu thông tin về thị trường ngoài nước, bố trí triển lãm giao lưu quốc tế nhằm hỗ trợ phát triển các mặt hàng mới hoặc ngành nghề sản xuất cụ thể. Hỗ trợ thực hiện các chương trình nằm trong chính sách xuất khẩu của Nhà nước và các tổ chức hợp tác kinh tế đối ngoại. Việt Nam nên có một tổ chức xúc tiến thương mại đủ mạnh để chuyên làm các nhiệm vụ trên. Việc thành lập tổ chức cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các Bộ, các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
Cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt trên 30 nước và lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu mặt hàng này trong mấy chục năm qua có những giai đoạn thăng trầm, có khi thuận lợi, có lúc khó khăn. nhưng nhìn chung trong thời gian gần đây có chiều hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở được nhiều thị trường mới theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thị trường và quan hệ buôn bán.
Trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, một mặt ta không bỏ qua những nhu cầu, những lô hàng nhỏ lẻ, miễn là bán được hàng, phát triển được sản xuất và có hiệu quả kinh tế xã hội. Mặt khác cần hết sức quan tâm có định hướng chiến lược, chính sách và biện pháp khai thác những thị trường có dung lượng lớn, có nhu cầu thường xuyên và phong phú về các chủng loại hàng hoá mà ta có khả năng phát triển, từng bước tạo sức cạnh tranh mới để thâm nhập các thị trường này với quy mô ngày càng lớn. Trên thị trường thế giới trong xuất khẩu những loại hàng hóa này công ty đang phải đương đầu với những đối thủ cạnh tranh có nhiều tiềm năng và có kinh nghiệm lớn. Để thắng trong cạnh tranh, về cơ bản công ty phải tìm hiểu phải nghiên cứu sâu và cần học hỏi những kinh nghiệm, thủ pháp kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh và chính sách của Nhà nước, đồng thời với những chất liệu và kỹ thuật riêng của mình phải tạo ra những mẫu mã hàng hoá đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng.
2.2. Giải pháp về sản phẩm
Giải pháp về giá cả và quản lý hoạt động xuất khẩu
Phát huy những thành tích đã đạt được, Artexport đã rút ra kinh nghiệm thực hiện kế hoạch và vượt qua kế hoạch, tăng cường khả năng của đơn vị, không ngừng tăng kim ngạch.
ổn định và phát triển những mặt hàng mỹ nghệ chủ lực nhằm ổn định kim ngạch của công ty, củng cố những thị trường đã và đang xuất khẩu.
Nhanh chóng điều chỉnh giá cả cho phù hợp với lợi ích của người sản xuất, nâng cao chất lượng và tạo quan hệ kinh tế tốt đẹp. Mặt khác công ty vẫn thu được lợi nhuận và đảm bảo có nguồn huy động hàng ổn định.
Thường xuyên nâng cao chất lượng chào bán, kiên quyết xoá bỏ kiểu làm ăn chạy theo số lượng mà không quan tâm đến chất lượng.
- Nghiên cứu đề xuất một số chính sách giá cả, chính sách đối với các nghệ nhân, trích thưởng phần trăm cho người môi giới ký kết hợp đồng... nhằm tạo một bước chuyển biến căn bản với sản xuất hàng mỹ nghệ.
Khách hàng mua nhiều loại hàng một lần công ty có thể đưa ra những mức giảm giá hoặc trích thưởng thích hợp hoặc có thể cho phép thanh toán từng phần trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Tăng cường các hoạt động bán sản phẩm tại các trung tâm du lịch, các địa điểm của khách nước ngoài nhằm mục đích xuất khẩu tai chỗ.
Giải pháp về tạo nguồn hàng, lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
* Giải pháp về tạo nguồn hàng cho xuất khẩu
Công ty chú trọng hơn đến việc xây dựng mối quan hệ với những nhà cung cấp nguyên vật liệu, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, rất cần có sự ổn định của nguồn cung cấp nhằm đảm bảo thực hiện tốt quá trình xuất khẩu. Điều quan trọng nhất là phải có các chính sách về thu mua giá vận tải, lưu kho nhằm hỗ trợ duy trì làm ăn với người dân vùng chuyên canh.
Công ty nên tiếp tục vận dụng tổng hợp các hình thức kinh doanh: xuất khẩu trực tiếp, uỷ thác, gia công. Đối với các mặt hàng có hạng ngạch cần thực hiện xuất khẩu trực tiếp, công ty cần cố gắng một cách tối đa trong việc xin cấp hạn ngạch.
Trong điều kiện hiện nay việc tìm kiếm khách hàng uỷ thác không phải là dễ. Nhằm thu hút khách hàng uỷ thác công ty phải tạo ra sự hấp dẫn về tỷ lệ thu phí uỷ thác, hỗ trợ khách hàng về vốn và phục vụ tốt các yêu cầu uỷ thác của hãng. Tất nhiên vẫn đảm bảo thu hút mức chi phí hợp lý và lãi trong kinh doanh.
Phương thức ra công xuất khẩu cần phải khai thác tối đa để giải quyết các nhu cầu việc làm cho người lao động. Công ty tích cực tìm kiếm khách hàng, kết hợp chặt chẽ trong việc giao nhận và thanh toán.
Như vậy để ổn định cho nguồn hàng có chất lượng ổn định đồng thời có thái độ tôn trọng, bình đẳng hợp pháp tôn trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi giữa công ty và nguồn hàng. Công ty phải có biện pháp cung ứng vốn cần thiết cho đơn vị nguồn hàng. Có chế độ thu mua hợp lý để tạo nguồn động lực khuyến khích người lao động sản xuất nhưng cũng đảm bảo có lãi cho công ty.
* Lựa chọn mặt hàng chiến lược, đa dạng hoá hình thức xuất khẩu
Ngày nay, một xu hướng kinh doanh được coi có hiệu quả nhất đối với hầu hết các doanh nghiệp đó là đa dạng hoá các mặt hàng trên cơ sở tập trung chuyên môn hoá và một số mặt hàng mũi nhọn, nó sẽ cho phép doanh nghiệp khai thác mọi lợi thế về mặt hàng cũng như về số lượng, giá cả. Đa dạng hoá cho phép doanh nghiệp giảm bớt những rủi ro khi có biến động về mặt hàng. Với chiến lược kinh doanh nay, doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả.
Để xây dựng được các mặt hàng chiến lược, phải dựa trên những thế mạnh đó là nguồn nguyên liệu, nguồn lao động và phải có thị trường. Như vậy hiện nay các mặt hàng cần phải chú trọng của công ty Artexport đó là hàng: gốm sứ, hàng sơn mài mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ vì đối với những mặt hàng này hiện nay có thị trường tiêu thụ rất lớn, nguồn nguyên liệu sẵn có và có nguồn lao động dồi dào, tay nghề cao.
Trên cơ sở các mặt hàng chính đã được xác định là việc nâng cao chất lượng, đa dạng hoá hình thức mẫu mã để thoả mãn một cách tối ưu nhất nhu cầu thị trường quốc tế. Chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ phụ thuộc vào chất lượng và việc xử lý nguyên vật liệu. Thực tế cho thấy sản phẩm mỹ nghệ của Việt Nam rất đa dạng độc đáo, mang tính kỹ thuật cao nhưng do điều kiện dịa lý và thiếu phương tiện kỹ thuật cao nên hàng hoá bị xuống cấp, mặt khác mẫu mã của sản phẩm thủ công mỹ nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Do đó công ty phải có kế hoạch cụ thể để sản phẩm của mình có thể sánh vai cùng với hàng thủ công mỹ nghệ của các nước trên thế giới.
Ngoài việc lựa chọn mặt hàng chiến lược công ty cần phải mở rộng danh mục mặt hàng của mình, vì đây là bước đi hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thị trường hiện nay. Công ty cần loại bỏ những mạt hàng không sinh lời, không có khả năng phát triển hoặc không tiêu thụ được. Việc đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh sẽ tạo được nhiều cơ hội thâm nhập thị trường hơn, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh nhưng công ty không được để dẫn đến việc phân tán làm giảm sức mạnh trong kinh doanh, dẫn đến giảm khả năng về vốn. Bên cạnh đó công ty cần phải có các biện pháp cụ thể để khai thác sử dụng triệt để các nguyên liệu sẵn có trên cơ sở tạo diều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các loại nguyên liệu ta còn thiếu không thể khôi phục được.
Không ngừng cải tiến, đổi mới mẫu mã đề tài, nâng cao chất lượng sản phẩm
Hàng thủ công mỹ nghệ phần lớn là hàng trang trí, nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng, còn có yếu tố rất cao về tính thẩm mỹ, độc đáo trong kiểu dáng và mẫu mã. Trong khi đó, do phần lớn hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất tại nông thôn, sản phẩm hết sức đơn điệu, chất lượng kém và không đồng đều. Nguyên liệu còn chưa được xử lý tốt, thường biến dạng khi có thay đổi về thời tiết, thậm chí phát sinh mối mọt ngay trên đường vận chuyển. Sản xuất phân tán cũng làm cho sản phẩm tốt, xấu lẫn lộn. Vì vậy muốn đảm bảo được uy tín đối với khách hàng, công ty Artexport cần chú trọng đa dạng hoá mẫu mã, đề tài và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần nghiên cứu việc thuê chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là việt kiều thiết kế mẫu mã. Tiền thiết kế sẽ được tính vào tiền bán sản phẩm theo tỷ lệ phần trăm, nếu bán được nhà sản xuất sẽ trích tỷ lệ % trả cho nhà thiết kế. Do nắm bắt được thị hiếu của từng năm, từng quý của thị trường, nhà thiết kế sẽ giúp ích không nhỏ cho nhà sản xuất. Nhà sản xuất cũng không thiệt vì chỉ phải trả tiền thiết kế khi bán được sản phẩm. Tuy nhiên vì do thuê chuyên gia thiết kế sẽ mất đi một khoản chi phí đáng kể, do đó chỉ thuê chuyên gia khi đó là những sản phẩm có giá trị cao, khối lượng lớn và thị trường ổn định.
2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh
Vốn là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,nó góp phần chiến thắng trong cạnh tranh và mạng lại lợi nhuận lớn cho công ty. Hiện nay nguồn vốn chủ yếu của công ty là vốn do ngân sách Nhà nước cấp và vốn tự bổ sung. Việc sử dụng vốn của công ty Artexport trong những năm qua là khá hiệu quả. Song trong cơ chế thị trường hiện nay công ty không thể trông chờ vào ngân sách Nhà nước, do đó công ty cần phải có biện pháp huy động nguồn vốn từ mọi khả năng có thể có và điều quan trọng là công ty phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho ngày càng có hiệu quả cao hơn.
Muốn sử dụng vốn có hiệu quả thì ngoài việc công ty phải biết tiết kiệm chi tiêu, phí hành chính, phí kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm thì công ty phải giải quyết tốt các công việc: Thu hồi công nợ, giải phóng hàng tồn kho, hạn chế sự phát sinh công nợ mới và hàng tồn kho mới. Khi đầu tư cần phải có trọng điểm và chiều sâu nhằm đem lại những sản phẩm có chất lượng cao, đẩy nhanh khâu tiêu thụ hàng hoá, để tránh hàng tồn và góp phần củng cố uy tín của công ty trên thị trường thế giới.
2.4. Nâng cao trình độ nhiệp vụ kinh doanh, không ngừng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên
Con người là chủ thể của mọi hoạt động, là yếu tố quyết định đến hiệu quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn nhân lực là nguyên nhân chính dẫn đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Vì vậy giải quyết vấn đề con người là tạo động lực cho sự phát triển của công ty. Đặc biệt trong cơ chế thị trường công tác cán bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lại càng quan trọng bởi đối tác có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm hơn hẳn ta. Do đó, công ty cần có giải pháp đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với công viêc được giao.
Mục tiêu của bất kỳ tổ chức nào cũng là sử dụng một cách có hiệu quả nguồn nhân lực, chúng ta có thể nói rằng: “Chiến lược về con người là chiến lược của tất cả các chiến lược, giải quyết vấn đề con người thực chất là tạo động lực cho sự phát triển”. Như vậy cái quý nhất của bất kỳ một doanh nghiệp nào, một đơn vị kinh tế nào cũng đều là nhân tố con người.
Hiện nay công ty có tỷ lệ lớn là lực lượng lao động gián tiếp và có một đội ngũ cán bộ quản lý của công ty khá cồng kềnh chưa thích nghi với tính năng động của nền kinh tế thị trường gây trì trệ cho quá trình kinh doanh vủa doanh nghiệp ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả kinh doanh. Đây là một trong những tồn tại còn xót của cơ chế cũ đang xảy ra ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác. Tuy đội ngũ cán bộ của công ty hầu hết đã có trình độ kinh tế và ngoại ngữ nhưng do thời gian và cơ hội va chạm trực tiếp trên thương trường chưa dài và nhiều, đặc biệt là ttị trường quốc tế. Mặc dù tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm nhưng để đối phó các đối tác nhiều khi còn bị động nên bị đối phương lấn át làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh đặc biệt là khi quan hệ làm ăn với các nước lớn như Mỹ, Nhật, ... nhiều kinh nghiệm trên thương trường quốc tế.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, thành công chỉ đến với doanh nghiệp khi có đủ khả năng, kinh nghiệm, trình độ ngiệp vụ đặc biệt là phải năng động. Cho nên công ty phải không ngừng quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện các vấn đề sau:
- Không ngừng nâng cao trình độ, sự hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại và đào tạo bổ sung cũng như bồi dưỡng lực lượng công tác nghiệp vụ, công việc đào tạo phải được tiến hành một cách từng bước thận trọng phù hợp với tình hình của công ty. Công việc đào tạo phải đem lại chất lượng và sử dụng đúng với khả năng của họ, bố trí cho họ vào những vị trí mà họ có tiềm năng nhất để đem lại sự say mê cho công việc, có như vậy mới đem lại hiệu quả cho hoạt động của công ty.
- Công ty phải có chế độ ưu đãi, thưởng phạt phân minh phải quan tâm đến đội ngũ trẻ vì đây là lực lương có vai trò quan trọng đối với những hoạt động kinh doanh có hay không có hiệu quả của công ty. Công ty cần phải có những biện pháp để khuyến khích tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa công ty với thành viên để tạo sự đoàn kết làm cho họ toàn tâm toàn lực với công việc chung. Đây là việc làm hết sức cần thiết và phải tiến hành kịp thời, công ty có thể tiến hành các hình thức như biểu dương, khen thưởng, khuyến khích bằng vật chất, có chế độ thưởng phạt phân minh đối với công sức của mỗi người cần có chế độ ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên lâu năm, cần tạo điều kiện cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty có cơ hội hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau.
Thực tế, trong những năm qua công ty đã giải quyết tốt mối quan hệ nội bộ tạo bầu không khí gần gũi, hiểu biết lẫn nhau trong toàn công ty cũng như sử dụng hài hoà giữu hai thế hệ. Điều này góp phần tạo nên sức mạnh đưa công ty từng bước đi lên.
5. Tổ chức sản xuất hiệu quả gắn với sản xuất xuất khẩu
Để kim ngạch xuất khẩu nâng cao công ty nên kết hợp sản xuất với xuất khẩu nhưng thông qua việc hình thành các xí nghiệp, các xưởng sản xuất. Sự kết hợp này cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh vì công ty có thể thu lợi từ hai phía: sản xuất –xuất khẩu vì:
Đáp ứng tốt, kịp thời nhu cầu của thị trường: qua hoạt động xuất khẩu, công ty có thể nắm được nhu cầu thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng để từ đó đưa ra quyết định chính xác khi sản xuất hàng gì.
Chủ động về mặt hàng, số lượng và giá cả.
Tạo được nguồn hàng chất lượng, ổn định, mẫu mã hợp lý.
Giải quyết được việc làm cho người lao động.
Khi quyết định hình thành xưởng sản xuất cần phải xác định rõ các yếu tố sau:
Chi phí đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị, chi phí đào tạo nghề không quá cao.
Phải nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều mẫu hàng mới.
Quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm
Đồng thời khi xây dựng xưởng sản xuất phải đảm bảo được công tác sau:
Nghiên cứu, sáng chế để thử chế ra các sản phẩm mẫu mã đạt chất lương cao.
Tổ chức thu gom, đóng gói và giao hàng phải tuân thủ mọi qui chế quản lý kinh tế của Nhà nước, qui định của công ty và xưởng sản xuất phải chịu trách nhiệm về sản xuất, chất lượng hàng hoá sau khi đã thu gom.
Như vậy kết hợp giữa sản xuất và xuất khẩu là điều quan trọng đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và nó vừa tạo được nguồn hàng cho xuất khẩu, vừa tìm được thị trường cho hàng hoá tiêu thụ dẫn đến tăng lợi nhuận cho công ty.
6. Hoàn thiện hơn công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu và bộ máy tổ chức của công ty
Việc xây dựng lại hệ thống tổ chức quản lý, phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận đã được công ty thực hiện, nhưng công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa để khai thác triệt để năng lực của cán bộ công nhân viên nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty.
Phân công hợp lý, đúng người, đúng công việc phù hợp với trình độ và khả năng chuyên môn của mỗi người.
Ban lãnh đạo phải thực hiện nghiêm túc những việc đề ra. Vì quản lý là phải nghệ thuật và có khoa học điều đầu tiên trong hoạt động này là Ban lãnh đạo phải giữ chữ tín trong hoạt động, vì điều đó làm cho các nhân viên tự giác nhận thức được nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong hoạt động chung của công ty, làm cho các bộ phận hoạt động có hiệu quả hơn. Mặt khác công ty càng phải quan tâm hơn nữa tới việc phân bổ các chức năng, nhiệm vụ cho các phòng ban một cách hợp lý hơn tránh chồng chéo không cần thiết trong viềc điều hành.
Bộ phận lãnh đạo là khâu nối giữa các cá nhân, yếu tố của sản xuất và các thông tin thị trường bên ngoài thành một khối. Họ phải lường trước tình thế có thể xảy ra cho hệ thống họ phải có trách nhiệm dẫn dắt đưa hệ thống tới các mục tiêu thea thứ tự đặt ra trong suốt nhiệm kỳ mà họ đảm nhận trách nhiệm.
Trong thời gian tới công ty cần phải tinh giảm gọn nhẹ bộ máy tạo điều kiện tập trung quản lý về một mối.
Công ty thực hiện triệt để cơ chế khoán quản để các phòng ban có mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Đồng thời có cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng thành viên qua đó có chế độ thưởng phạt, đảm bảo chế độ bình đẳng công bằng giữa các bộ phận, cá nhân nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong hoạt động kinh doanh của công ty .
III. Một số kiến nghị với lãnh đạo Bộ Thương Mại và Nhà Nước
Việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu là điều tất yếu khách quan và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước nói chung công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport nói riêng. Nó là con đường đi lên công nhgiệp hoá và hiện đại hoá đất nước một cách nhanh nhất.
Trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh, việc kinh doanh trong nước vốn rấ khó khăn thì việc kinh doanh xuất nhập khẩu lại càng khó khăn hơn do mớ quan hệ kinh tế giữa các quốc gia là khác nhau do vậy để làm tốt công tác xuất nhập khẩu, ngoài sự nỗ lực của công ty thì sự phát triển còn phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống quản lý vĩ mô của Nhà nước như các chính sách, luật pháp, tỷ giá hối đoái. Với các chính sách, cơ chế, biện pháp hợp lý của Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho công ty có cơ hội để phát triển, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy trước khi ban hành một chính sách nào Nhà nước cần quan tâm hơn đến các đối tượng bị tác động, các vấn đề khó khăn, nổi cộm của các đối tượng đó.
Để tăng nhanh hơn nữa hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, đạt được mục tiêu đề ra năm 2005 và 2010, công ty đề nghị các cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sau:
1. Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
Với hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện hành thì trong sản xuất kinh doanh nội địa, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống được ưu đãi ở mức cao hơn các mặt hàng khác thuộc ngành nghề truyền thống. Nhưng trong trường hợp xuất khẩu thì mức ưu đãi không có gì khác biệt giữa hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống so với các hàng hoá xuất khẩu khác.
Vì vậy đề nghị Nhà nước là: hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề tryuền thống có quy định (thuộc diện khuyến khích, ưu đãi trong danh mục A) tức đạt hai nội dung được ưu đãi quy định trong danh mục A thì hưởng mức ưu đãi cao hơn.
Ví dụ: Dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống (thuộc danh mục A) có sử dụng nhiều lao động, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 30% cho 4 năm tiếp theo. Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% thì được hưởng ưu đãi, miễn 3 năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 30% cho 5 năm tiếp theo.
2. Nhà nước phải có chính sách ưu đãi đối với các làng nghề, các nghệ nhân
Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam được duy trì và phát triển chủ yếu ở các làng nghề. Trong quá trình phát triển những làng nghề có điều kiện cơ hội phát triển nhanh đều gặp một số khó khăn như thiếu vốn hoạt động, cơ sở hạ tầng yếu kém, ô nhiễm môi trường và hiện nay có nơi vấn đề cơ sở hạ tầng, môi trường đặt ra gay gắt, bức xúc như làng gốm Bát Tràng, làng nghề mây tre đan ở Hà Tây...
Phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ sẽ giải quyết được vấn đề xã hội cho đất nước như việc làm cho người lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân, hạn chế các tệ nạn xẩy ra, duy trì nét đẹp văn hoá truyền thống... Nhà nước cần thực hiện rõ vai trò của các làng nghề đối với đất nước mà đưa ra chính sách phát triển hợp lý để qua đó người dân tập trung sản xuất phát triển làng nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút khách hàng nước ngoài vào đầu tư. Các làng nghề yên tâm sản xuất tạo ra một nguồn hàng xuất khẩu dồi dào, phong phú về mẫu mã, kích thước tạo điều kiện dễ dàng trong khâu thu mua hàng hoá của công ty.
Ngoài chính sách đối với các làng nghề ra thì Nhà nước cũng cần có chính sách đối với các nghệ nhân, thợ thủ công vì họ có vai trò rất lớn đối với nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói nếu không có nghệ nhân thì không có làng nghề hoặc ít nhất cũng không thể có làng nghề nổi danh, họ có vai trò rất tích cực trong việc bảo tồn và phát triển ngành nghề cũng như làng nghề. Vì vậy, muốn duy trì và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống Nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ hỗ trợ khuyến khích họ phát huy tài năng phát triển nghề phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền dậy nghề cho con cháu, đào tạo nghề cho lao động sản xuất. Chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi được thực hiện tốt là một đảm bảo duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, góp phần bảp tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc.
3. Nhà nước cần chú trọng việc cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ khắc phục một số khó khăn hiện nay trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu khai thác ở trong nước. Đề nghị Nhà nước áp dụng một số biện pháp sau:
Đối với các loại nguyên liệu như song, mây, tre lá, ... các đơn vị khai thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho xuất khẩu.
Đối với gỗ khai thác từ rừng tự nhiên, đề nghị ưu tiên giao cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ. Các đơn vị này phải duyệt quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hợp đồng đó để được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao.
Nhà nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung ứng cho cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên liệu gỗ, nguyên liệu cho các ngành sản xuất gốm sứ...Vì các cơ sở này thường không có khả năng đủ vốn và kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp này, nguyên liệu được khai thác xử lý đúng quy trình công nghệ vừa đảm bảo tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào do đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của ta trên thị trường thế giới.
4. Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các nghị định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãi
Hiện nay, vốn luôn là vấn đề nóng hổi, bức xúc đối với các doanh nghiệp. Song theo nghị định 43/1999 NĐ/CP ngày 29/6/1999 của Chính Phủ, quỹ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thì những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn mới được vay từ quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước.
Vì vậy đề nghị Chính Phủ mở rộng thêm việc cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” theo quy định tại nghị định 43 hoặc được quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư. Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu có thể được quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu.
Thực trạng hiện nay là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn, không vay được vốn hoặc không dủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất và kinh doanh. Vì vậy để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có tăng nguồn hàng cho xuất khẩu thì đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn có hiệu quả, ký kết được nhiều hợp đồng có giá trị cao (lớn hơn 50000 USD) đề nghị Chính Phủ cho hưởng các mức ưu đãi về vốn kinh doanh như:
Được Ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất kinh doanh theo hợp đồng đã ký.
Sau khi thực hiện hợp đồng quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo lãi suất quy định tại nghị định 43 nêu trên (tức hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn đã vay thực tế tại Ngân hàng).
5. Giảm nhẹ tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng, cửa khẩu đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ
Vì hàng thủ công mỹ nghệ thường là các loại hàng cồng kềnh, giá trị không cao nên Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ ưu đãi cụ thể như sau:
Hàng thủ công mỹ nghệ vận chuyển từ nơi sản xuất tới cảng, khẩu để giao hàng xuất khẩu. Trên tất cả các phương tiện vận chuyển đều được giảm 30% hoặc 50% cước vận chuyển theo biểu giá cước hiện hành. Nhà nước hỗ trợ thông qua việc nhận giảm thu trong hạch toán thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp hàng năm.
Giảm 50% (theo giá hiện hành) tất cả các chi phí hoặc lệ phí thu tại cảng, khẩu có liên quan đến việc giao hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Giảm 50% tiền cước phí, bưu phí gửi hàng mẫu là hàng thủ công mỹ nghệ cho khách hàng nước ngoài hoặc gửi hàng mẫu tham dự các hội chợ triển lãm ở nước ngoài.
Bên cạnh những kiến nghị trên thì các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần có cơ chế khuyến khích xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại chỗ, sửa đổi một số điểm trong luật thuế giá trị gia tăng, bỏ thuế xuất khẩu đối với một số chủng loại hàng hoá thủ công mỹ nghệ, sửa đổi tiêu chuẩn xuất khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ.
Ngoài những kiến nghị chủ yếu nói trên, còn có nhiều yếu tố và điều kiện khác nhưng trong thời gian ngắn chưa thể giải quyết hết được. Công tác xuất nhập khẩu trước mắt và nhiều năm tới có nhiều thuận lợi nhưng khó khăn còn rất lớn, nhất là sau khi Việt Nam ra nhập ASEAN về thuế quan và đàm phán ra nhập WTO nên sự chỉ đạo quan tâm của Bộ Thưong Mại, Nhà nước và sự ủng hộ của các cấp các ngành sẽ là nguồn động lực lớn để công tác xuất nhập khẩu của công ty có sự khởi sắc và ổn định.
Kết luận
Trong thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport vừa qua đã đem lại cho em những kiến thức bổ ích và hiểu biết được về tình hình thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Đây là loại thị trường vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết, do đó việc phát triển thị trường và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này đang đươc công ty đặt lên hàng đầu trong những vấn đề mà công ty quan tâm.
Hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã và đang là hoạt động có đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù vẫn còn gặp nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường xuất khẩu... nhưng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vẫn sôi động và đầy triển vọng. Với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, sản phẩm thủ công mỹ nghệ ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn. Vì vậy qua sự kết hợp lí luận và thực tế em mong muốn được góp sức nhỏ bé của mình để phát triển thị trường mỹ nghệ của công ty và mong muốn công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport sẽ vững bước đi lên cùng sự phát triển của đất nước.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn tới T.S Phan Kim Chiến đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thiện bài viết này. Em cũng xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Artexport, đặc biệt là phòng kinh doanh mỹ nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình thực tập và viết luận văn này.
Mục lục
Tài liệu tham khảo………………………………………………………….86
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0472.doc