Tài liệu Hoạt động kinh doanh Nhập khẩu tại Công ty TNHH thương mại tổng hợp Nam Việt (NVC) thực trạng và giải pháp: ... Ebook Hoạt động kinh doanh Nhập khẩu tại Công ty TNHH thương mại tổng hợp Nam Việt (NVC) thực trạng và giải pháp
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2219 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoạt động kinh doanh Nhập khẩu tại Công ty TNHH thương mại tổng hợp Nam Việt (NVC) thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một đất nước đang trong giai đoạn phát triển, đi lên từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém do phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Việc tự mình tạo ra máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nhằm đáp đứng nhu cầu trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chính sách và bước đi phù hợp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà cụ thể là cho phép hay chỉ định một số doanh nghiệp trong nước nhập khẩu các thiết bị máy móc, vật tư từ nước ngoài về để phát triển nền sản xuất yếu kém trong nước.
Việc Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó có hoạt động nhập khẩu thiết bị, vật tư ,đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho họ có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, thị trường thế giới với với tính năng động vốn có của nó đã tạo ra môi trường cạnh tranh hết sức khốc liệt với đầy rẫy những khó khăn thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải hết sức nhạy bén trong mọi vấn đề của sản xuất kinh doanh, phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh thông qua việc đảm bảo chi phí cá biệt ở mức thấp nhất, có như vậy doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước cũng như sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nên em đã chọn đề tài: “Hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty TNHH TM Tổng Hợp Nam Việt (NVC) Thực trạng và giải pháp”.
Do trình độ, thời gian còn hạn chế, nguồn tài liệu và thông tin còn hạn hẹp nên bài viết này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý chân thành của các thày cô giáo, các bạn sinh viên để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Nhân đây, em xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới thầy giáo, TS Phạm Thái Hưng, người đã trực tiếp hướng dẫn em tận tình trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện bài chuyên đề tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Quý Công ty TNHH TM Tổng Hợp Nam Việt tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập để em có được những thông tin phục vụ cho bài viết này.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU.
I,Khái niệm về kinh doanh nhập khẩu
1, Khái niệm.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm kinh doanh nhập khẩu ta cần phải tìm hiểu khái niệm về kinh doanh, về nhập khẩu hàng hóa. Trước hết, kinh doanh là một hoạt động được một cá nhân hoặc một nhóm người thực hiện với mục đích sáng tạo ra lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh có nghĩa là sản xuất hoặc mua bán hàng hóa và dịch vụ để bán cho khách hàng. Trong hoạt động kinh doanh có hai loại lưu thông: lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ
Theo luật Thương mại “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”
Vì vậy, ta có thể hiểu: Kinh doanh nhập khẩu là dùng tiền của, công sức, tài năng…vào việc mua hàng hóa từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam ( được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật) để bán nhằm mục đích kiếm lợi.
Kinh doanh nhập khẩu là trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức có mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới.
2.Vai trò của kinh doanh nhập khẩu hàng hóa
Kinh doanh nhập khẩu hàng hóa có vai trò to lớn, tiếp thu nguồn lực từ bên ngoài, là điều kiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quốc gia cũng như các cá nhân không thể sống một cách tách biệt riêng rẽ mà đầy đủ mọi thứ hàng hóa. Kinh doanh nhập khẩu mở ra khả năng tiêu dùng của một nước cho phép nước này tiêu dùng những mặt hàng mà nước đó không sản xuất được, hoặc sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Kinh doanh nhập khẩu là khâu trung gian giữa một bên là sản xuất, phân phối, một bên là tiêu dùng. ( Sản xuất sáng tạo ra sản phẩm thích hợp với nhu cầu, phân phối là phân chia các sản phẩm theo các quy luật xã hội; trao đổi một lần nữa lại phân phối hàng hóa theo các nhu cầu riêng và tiêu dùng sản phẩm đưa lại cho sản phẩm một sự hoàn thiện cuối cùng). Đối với lĩnh vực sản xuất vật chất, kinh doanh nhập khẩu cung ứng vật tư hàng hóa cần thiết cho sản xuất một cách đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng, chính xỏc với quy mô ngày càng mở rộng. Đối với lĩnh vực tiêu dùng, các cá nhân có thể dễ dàng thỏa mãn nhu cầu về hàng hóa tiêu dùng trên thị trường một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi và văn minh
Kinh doanh nhập khẩu đặc biệt kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị có tác dụng to lớn thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ bởi nhập khẩu máy móc thiết bị sẽ cải tiến các ngành công nghiệp còn non yếu trong nước nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả lao động thông qua việc khai thác những tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng thành công ở các nước công nghiệp phát triển khác.
Đối với công ty (NVC) nói riêng, kinh doanh nhập khẩu giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của công ty. Kinh doanh nhập khẩu tạo ra lợi nhuận giúp việc duy trì sự tồn tại và phát triển của công ty. Kinh doanh nhập khẩu đáp ứng nhu cầu về các loại thép, máy móc thiết bị của các doanh nghiệp trong nước mà nước ta không đáp ứng đủ.
Mặt khác, đối với công ty (NVC) kinh doanh nhập khẩu không những có quan hệ với nhà sản xuất nước ngoài mà còn liên quan chăt chẽ với các doanh nghiệp trong nước. Nếu đẩy mạnh hoạt động kinh doanh công ty có thể thu thập đầy đủ và chính xác các thông tin về cung cầu, giá cả lên xuống, những nhân tố khách quan tác động trực tiếp đến thị trường, khách hàng của công ty.
3.Các hình thức kinh doanh nhập khẩu
3.1.Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động kinh doanh mà các nhà độc quyền sản xuất công nghiệp trực tiếp mua hàng của các nhà sản xuất và phải tự tổ chức các khâu của quá trình nhập khẩu không qua trung gian. Hình thức này có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí trung gian nhưng mức độ rủi ro lại cao nếu như không tìm hiểu kỹ về mặt hàng cũng như quan hệ với các đối tác. Đối với hình thức này doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động, tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí về giao dịch, giao nhận lưu kho, quảng cáo, chi phí tiêu thụ hàng hóa và thuế.
3.2.Nhập khẩu ủy thác
Nhập khẩu ủy thác là một hoạt động kinh doanh mà các doanh nghiệp muốn nhập khẩu một mặt hàng nào đó nhưng không có quyền tham gia hay không có khả năng tham gia, khi đó sẽ ủy nhiệm cho một doanh nghiệp khác giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận ủy thác sẽ nhận được một khoản thù lao gọi là phí ủy thác. Hình thức này có đặc điểm là:
-Bên nhận ủy thác không phải bỏ vốn cũng không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu thị trường do không phải tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên ủy thác để tìm và giao dịch với đối tác nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng, thay mặt bên ủy thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất hay vi phạm hợp đồng xảy ra
-Trong hình thức kinh doanh này, doanh nghiệp nhận ủy thác được nhận một phần thù lao gọi là chi phí ủy thác trị giá khoảng 0.5% đến 1.5% tổng giá trị hợp đồng và phải nộp thuế thu nhập trên nguồn thu này, không được tính doanh số và nộp thuế giá trị gia tăng
3.3.Nhập khẩu dưới hình thức liên doanh liên kết
Là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở hợp tác một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp tác một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp thế mạnh để cùng giao dịch nhập khẩu và cùng đề ra chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi cho cả hai bên. Trong đó các bên cùng chia lãi và cùng chịu lỗ.
Hình thức này có ưu điểm là chịu rủi ro ít hơn vì mỗi doanh nghiệp liên doanh, liên kết nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, cùng với đó là quyền hạn, trách nhiệm, chi phí, lỗ lãi …của hai bên cũng với số vốn góp này
Doanh nghiệp đứng ra nhận hàng nhập khẩu sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu nhưng đến khi tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỉ lệ vốn góp và chịu thuế giá trị gia tăng theo số vốn góp
-Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp sẽ phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng mua hàng với đối tác nước ngoài và một hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác.
3.4.Nhập khẩu tái xuất
Là hình thức nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào trong nước, không nhằm mục đích tiêu thụ mà nhằm mục đích tái xuất sang nước thứ ba để thu được lợi ích lớn hơn.
Nhập khẩu tái xuất có đặc điểm sau:
-Doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính chi phí ghép mối đối tác xuất và đối tác nhập, đảm bảo lợi nhuận, thu được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra.
-Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập 2 hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu và không phải chịu thuế suất nhập khẩu.
-Để đảm bảo thanh toán hợp đồng tái xuất thường được thanh toán bằng thư tín dụng giáp lưng
-Hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền hàng thì trả luôn cho người tái xuất. Số tiền này thu được từ nước nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu
3.5.Nhập khẩu theo hình thức hàng đổi hàng
Là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Trong đó người bán chính là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương.Ưu điểm của hình thức này là vừa bán được hàng, vừa mua được hàng, tiết kiệm được chi phí
Hình thức này có đặc điểm:
-Mang lại lợi ích cho cả hai bên bởi cùng một đồng mà vừa xuất khẩu được vừa nhập khẩu được hàng hóa mà không phải mất chi phí liên quan.
-Đối tác xuất khẩu cũng chính là đối tác nhập khẩu
-Hình thức này chỉ áp dụng đối với trường hợp có nhu cầu buôn vấn đối lưu đối với hai nước. Hàng hóa nhập khẩu tuơng đương nhau về giá trị và cân bằng về giá cả.
3.6.Nhập khẩu đấu thầu
Là hình thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua công bố trước các điều kiện giao hàng để người bán báo giá cả và các điều kiện khác. Sau đó người mua sẽ tiến hành lựa chọn để mua hàng của những người bán có báo giá và các điều kiện phù hợp nhất với những yêu cầu của người mua đặt ra. Đây là phương pháp được các nhà nhập khẩu sử dụng phổ biến. Ưu điểm của nó là chỉ có một người mua nhưng lại có rất nhiều người bán. Do vậy thông qua đấu thầu sẽ phát huy được tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp, nhờ đó người mua sẽ có lợi hơn và thỏa mãn được nhu cầu của mình dễ dàng hơn.
II,Nội dung,quy trình kinh doanh nhập khẩu:
1.Nghiên cứu thị trường và lập phương án kinh doanh
1.1.Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là việc đầu tiên mà mỗi doanh nghiệp phải làm khi muốn tham gia vào thị trường. Mục đích của hoạt động này nhằm xác định nhu cầu của thị trường và nhu cầu có khả năng thanh toán trên một địa bàn nhất định mà doanh nghiệp dự định sẽ kinh doanh trong tương lai. Nếu nghiên cứu thị trường đúng đắn và nghiêm túc sẽ đem lại cho doanh nghiệp những thông tin sát thực nhất về lượng cung, lượng cầu hiện tại cũng như tương lai của thị trường.
*Việc thực hiện nghiên cứu thị trường thông qua các tiêu thức sau:
Kế hoạch sản xuất hàng hóa của các doanh nghiệp
Công nghệ, công suất của máy móc mà các doanh nghiệp đang và sẽ sử dụng
Định mức sử dụng nguyên liệu của từng doanh nghiệp
Khả năng tự cung ứng và khả năng sử dụng các nguồn nguyên liệu thay thế khác.
Số lượng đối thủ cạnh tranh và khả năng cung ứng của các đối thủ.
Điểm mạnh và điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh.
1.2.Lập phương án kinh doanh.
Căn cứ vào kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường, tiến hành lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu một cách chi tiết về:
-Kế hoạch kinh doanh mặt hàng: cần phải xác định dựa vào nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường chứ không phải nhu cầu của thị trường
-Kế hoạch nhập khẩu hàng hóa:
-Kế hoạch bán hàng: Công ty cần phải tính thật kỹ về chi phí kinh doanh bỏ ra cho từng mặt hàng , lợi nhuận dự kiến trên từng đơn vị hàng hóa từ đó sẽ đưa ra mức giá bán dự kiến cho từng loại hàng, sau đó tính tổng doanh thu và tổng lợi nhuận có thể đạt được với từng mức giá và mức lợi nhuận dự kiến cho mỗi đơn vị hàng hóa. Tuy nhiên việc tính toán chi phí kinh doanh và lợi nhuận dự kiến vào giá bán phải dựa vào giá bán hiện tại của hàng hóa trên thị trường để đảm bảo sao cho khi hàng hóa bán ra thị trường có mức giá cạnh tranh nhất, hợp lý nhất.
2.Quy trình nhập khẩu hàng hóa
Sau khi đã hoàn tất việc nghiên cứu thị trường và lập được phương án kinh doanh hoàn chỉnh, khả thi bước tiếp theo thực hiên là tổ chức công tác nhập khẩu hàng hóa. Việc tổ chức nhập khẩu hàng hóa phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau như: Điều kiện cơ sở giao hàng, hình thức kinh doanh nhập khẩu của công ty, những chính sách của nhà nước đối với mặt hàng mà công ty dự định nhập khẩu. Việc tổ chức nhập khẩu của công ty bao gồm:
Đàm phán ký kết hợp đồng, trong bước này cần phải chú ý đến các điều khoản: tên hàng, số lượng, giá cả, chất lượng, chủng loại, phương thức giao nhận hàng, phương thức thanh toán…
Mở L/C
Thuê tàu ( nếu mua FOB), mua bảo hiểm cho hàng hóa ( nếu trong hợp đồng ký kết không quy định người bán phải mua bảo hiểm)
Tổ chức nhận hàng: kho bãi, phương tiện vận chuyển nội địa, phương thức bảo quản…
Làm thủ tục hải quan, tiếp nhận hàng và tiến hành kiểm tra hàng hóa
Làm thủ tục thanh toán
Khiếu nại về hàng hóa ( nếu hàng hóa có những hư hỏng hoặc sai lệch so với hợp đồng đã ký kết)
3.Tổ chức triển khai bán hàng nhập khẩu
Sau khi đã nhập được hàng về, công ty đã nhanh chóng tiến hành tổ chức bán hàng và giao hàng cho các đơn đặt hàng. Việc làm này tiến hành càng nhanh thì càng giúp cho công ty thu hồi vốn nhanh chóng, và tốc độ quay của vòng vốn càng nhanh. Điều đó có nghĩa là công ty sẽ giảm được chi phí về kho bãi, chi phí cơ hội, chi phí bán hàng và sẽ làm tăng lợi nhuận của công ty. Để phát triển thêm danh tiếng và thương hiệu của mình, công ty đã tham gia hội chợ triển lãm, tạo cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và thu thập thông tin trực tiếp từ khách mua hàng. Đồng thời cũng có thể thu thập được ngay những ý kiến phản hồi phía khách hàng về hàng hóa của công ty. Từ những thông tin thực tế thu thập được sẽ giúp công ty rút ra những điểm mạnh cũng như điểm yếu, những mặt còn hạn chế để kịp thời sửa đổi.
Khách hàng của công ty là khách hàng công nghiệp nên công ty đã tiến hành một kế hoạch phân phối phù hợp với tình hình thực tế và đã đạt được những kết quả cao trong việc góp phần đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Kênh phân phối trực tiếp tức là công ty sẽ trực tiếp tiến hành các hoạt động giao dịch, mua bán hàng với khách hàng mà không thông qua trung gian nào cả. Đây là kênh phân phối rất thích hợp vì nó giảm được chi phí hoa hồng qua khâu trung gian, hơn nữa tiếp cận trực tiếp với khách hàng sẽ nắm bắt được thị hiếu và những phản hồi của khách hàng một cách trung thực nhất. Tuy nhiên kênh phân phối này còn có hạn chế là hệ thống cửa hàng của công ty chỉ tập trung ở miền Bắc. Vì vậy mà việc mở rộng hệ thống cửa hàng ra các tỉnh xa, miền trung, miền nam của công ty là một việc khó vì đòi hỏi chi phí rất tốn kém.
Kênh phân phối gián tiếp đã khắc phục được nhược điểm của kênh phân phối trực tiếp. Kênh phân phối này giúp tiết kiệm chi phí bán hàng, tận dung được cơ sở vật chất sẵn có của các trung gian.
4.Đánh giá kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu.
Đánh giá kết quả kinh doanh là một hoạt động mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện . Đây là một hoạt động nhằm xem xét kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong một thời gian nhất định thường là quý, 6 tháng hoặc năm. Từ những đánh giá về các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, chi phí, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu…công ty sẽ rút ra được những điểm mạnh của mình đồng thời cũng thấy được mặt yếu của mình và từ đó cần phải có những biện pháp giải quyết nhằm hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. Khi đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu, công ty thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
4.1.Chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận
Doanh thu và lợi nhuận chính là thước đo phản ánh hiệu quả kinh doanh phổ biến nhất. Doanh thu bán hàng có thể được tính một cách đơn giản bằng công thức sau:
TR= P x Q
Trong đó:
TR: Tổng doanh thu bán hàng
P: Giá bán của mỗi đơn vị hàng hóa
Q: Số lượng hàng hóa bán ra trong kỳ
Tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu
TP= TR – TC
Trong đó: TP: tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu
TR: tổng doanh thu bán hàng
TC: Tổng chi phí kinh doanh hàng nhập khẩu bao gồm cả giá gốc hàng bán
4.2.Chỉ tiêu mức doanh lợi trên doanh số bán
P
P1=---------- x100
DS
Trong đó: P1’: Mức doanh lợi của doanh nghiệp trong kỳ
P: Lợi nhuận doanh nghiệp thực hiện được trong kỳ
DS: Doanh số bán thực hiện của doanh nghiệp trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biêt 1 đồng doanh số bán thực hiện mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp trong kỳ. Do đó nó có ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ ra cho doanh nghiệp thấy kinh doanh những mặt hàng nào, thị trường nào mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp
4.3.Chỉ tiêu mức doanh lợi trên vốn kinh doanh
P
P2’=--------- x100
VKD
Trong đó:
P2’: Mức doanh lợi của vốn kinh doanh trong kỳ(%)
VKD: Tổng vốn kinh doanh trong kỳ
Chỉ tiêu này cho thấy kết quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp
4.4.Mức doanh lợi trên chi phí kinh doanh
P
P3’=---------- x 100
Cfkd
P3’: Mức doanh lợi của chi phí kinh doanh trong kỳ( %)
Cfkd: Tổng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng chi phí của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng chi phí kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp
4.5.Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu
Tổng giá thành nhập khẩu( ngoại tệ)
Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu = ----------------------------------------------
Tổng thu nhập nhập khẩu( nội tệ)
Chỉ tiêu này cho biết công ty bỏ ra bao nhiêu đồng ngoại tệ thì thu được một đồng nội tệ. Người ta thường lấy chỉ tiêu này so sánh với tỷ giá trao đổi ngoại tệ tại thời điểm thực hiện hợp đồng để biết rằng nếu so với việc đổi trong nước việc kinh doanh của công ty lợi hơn bao nhiêu. Từ đó công ty đưa ra quyết định liệu có tiến hành kinh doanh hay không
(Nguồn: Sách kinh tế thương mại)
III, Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu:
Trên thực tế, việc xác định được chính xác và đầy đủ tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nào đó trong nền kinh tế sẽ tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc đem lại hiệu quả cho hoạt động đó. Tuy nhiên, việc xác định này phức tạp và chỉ thực hiện được bằng cách chọn lọc ra những nhân tố cơ bản để nghiên cứu. Trong phạm vi bài luận này, tôi cũng chỉ đưa ra một số những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu bộ như sau:
1, Hệ thống chính sách và khung pháp lý của Việt nam.
Hoàn cảnh đất nước trong từng giai đoạn cụ thể là yếu tố quyết định các chính sách phù hợp tương ứng về xây dựng phát triển kinh tế . Những chính sách này có thể có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, khi nền kinh tế Việt nam còn quá thiếu thốn, thường xuyên xảy ra tình trạng nhập khẩu ồ ạt và tràn lan, quá lạm dụng nguồn vốn vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại mà các nước bạn dành cho, để thực hiện cho mục tiêu xây dựng một nền công nghiệp nặng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nguồn vốn vay nước ngoài có thể đã đạt được tận dụng hiệu quả hơn nếu có chính sách nhập khẩu đúng đắn và phù hợp cùng với chính sách xây dựng phát triển kinh tế đúng hướng. Hậu quả là đã để lại cho công cuộc hiện đại hoá đất nước cho đến cả những năm sau này nhiều "vết thương", gây cản trở cho công cuộc đẩy mạnh phát triển kinh tế.
Kể từ sau khi tiến hành đổi mới và mở cửa, Chính Phủ Việt nam đã rất cố gắng đưa ra những chính sách vĩ mô có tác dụng tích cực trong định hướng và điều tiết nền kinh tế nói chung, cũng như xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với bối cảnh trong nước và thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế và đặc biệt là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Không thể phủ nhận những thành tựu của những chính sách này trong công cuộc cải tổ lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quan liêu bao cấp trước kia sang nền kinh tế với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, đưa Việt nam lên một vị thế mới trên trường quốc tế, được tôn trọng và được quan tâm hơn.
Việt nam đã tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn về thể chế như đã xảy ra ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu trước đây, điều này cho phép nền kinh tế Việt nam phản ứng nhanh hơn trước những biến đổi về chính sách được áp dụng vào cuối thập kỷ 1980 như loại bỏ kiểm soát giá cả, thực hiện khoán trong sản xuất nông nghiệp, củng cố lại nhiều xí nghiệp quốc doanh...Tuy nhiên, sự song song tồn tại của những chính sách theo hướng thị trường và những tổ chức thể chế kế hoạch hoá tập trung(các xí nghiệp quốc doanh) đã tạo khuôn khổ cho sự thiếu nhất quán về chính sách, dẫn đến tính khả thi thấp và chính sách hay thay đổi, kèm theo mất mát lớn về cơ hội. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu .
-Cơ chế chính sách nhập khẩu của chính phủ: Chính sách nhập khẩu là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến công tác nhập khẩu. Chính phủ quản lý hàng hóa nhập khẩu thông qua các công cụ như: chính sách thuế, hạn ngạch nhập khẩu, danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu, danh mục hàng hóa nhập khẩu có điều kiện, danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu…Đối với hàng hóa nhập khẩu có điều kiện thì doanh nghiệp nhập khẩu cần xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền. Đối với hàng hóa bị quản lý bằng hạn ngạch thì doanh nghiệp nhập khẩu phải xin hạn ngạch được cấp bởi Bộ Thương mại mới được phép nhập khẩu. Do vậy việc nhập khẩu càng trở nên khó khăn hơn, rất tốn kém thời gian tiền của và công sức. Ngày nay, hầu hết các nước đều bãi bỏ hạn ngạch mà chỉ quản lý hàng hóa bằng phương thức thu thuế quan. Đó là một điều kiện thuận lợi giúp cho công tác nhập khẩu được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi hơn.
2, Chính sách xuất khẩu của nước người bán.
Xu thế toàn cầu hoá tạo ra tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc, do đó hình thành sự đan xen lợi ích cũng như đan xen mâu thuẫn giữa các khu vực, các trung tâm kinh tế, các quốc gia, đan xen cạnh tranh với hợp tác theo xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt và hợp tác ngày càng sâu rộng hơn. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng thị trường bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ, lao động giữa các quốc gia với quy mô ngày càng lớn; hình thành vô số tổ chức kinh tế tài chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký kết hàng vạn Hiệp định song phương và đa phương...Những đặc điểm này không nhiều thì ít ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu .
Thật vậy, nếu Việt Nam có cơ hội và khả năng xuất khẩu nhiều mặt hàng với kim ngạch cao sang các nước bạn, sản phẩm của Việt nam được ưa chuộng trên thị trường thế giới, điều đó cũng đồng nghĩa với việc Việt nam có thể giải quyết được một phần vốn cho nhập khẩu để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước, tăng cường cho xuất khẩu. Việc xuất khẩu được nhiều hàng nhằm thu ngoại tệ để tạo vốn cho nhập khẩu, tất nhiên, không chỉ phụ thuộc vào chính sách của Việt nam mà còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách xuất nhập khẩu của các nước bạn, phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng trên thị trường thế giới.
Nếu xét đến mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và một trong những bạn hàng lớn nhất là Nhật Bản, có thể thấy rằng triển vọng tăng trưởng quan hệ xuất nhập khẩu giữa Nhật Bản và Việt nam phụ thuộc rất nhiều vào chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt nam và chính sách xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Điều này cũng sẽ quyết định lượng đầu tư của Nhật Bản vào Việt nam cũng như tạo điều kiện chuyển giao kỹ thuật, thu ngoại tệ, nhập khẩu máy móc thiết bị nhằm tiến hành nhanh quá trình công nghiệp hoá ở Việt nam.
3, Tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát:
Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới chi phí và kết quả hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, hàng hoá nhập khẩu trở nên đắt hơn vì người nhập khẩu phải dùng nhiều đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một số lượng hàng nhập khẩu. Điều này, kích thích sự tăng giá cả trong nước, làm hạn chế nhập khẩu hàng hoá hoặc kích thích sự phát triển sản xuất các hàng hoá thay thế nhập khẩu ở trong nước. Tỷ giá hối đoái giảm tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí đồng tiền dân tộc để mua hàng hoá từ nước ngoài các nhà nhập khẩu đã phải tăng chi phí sản xuất kinh doanh của mình. Đây là một nhân tố cơ bản làm giảm hiệu quả kinh doanh của hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí sẽ dẫn tới tăng giá thành sản xuất, do đó sẽ làm giảm cầu trên thị trường nội địa về sản phẩm nhập khẩu. Mặt khác do giá cả tăng lên người tiêu dùng nội địa sẽ sử dụng hàng hoá thay thế khác. Điều này, làm giảm kết quả của hoạt động nhập khẩu dẫn tới giảm hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu.
Như vậy, Nếu tỷ giá giảm sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu theo hai hướng tăng chi phí và giảm kết quả. Nhưng xét về hiệu quả kinh tế - xã hội khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, tăng tiềm năng sản xuất trong nước tạo việc làm và cải thiện cán cân thanh toán.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ tác động khuyến khích nhập khẩu vì hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả chung trong nước. Chi phí kinh doanh giảm xuống, làm cho kết quả kinh doanh tăng
Bảng 1: Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và
đồng đô la Mỹ từ năm 2005-2008
Năm
2005
2006
2007
2008
Tỷ giá VND/USD
15.863
15.964
16.090
16.850
Nguồn: Tác giả tự tìm trên internet
Qua số liệu thống kê trên ta thấy tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và đồng đô la Mỹ liên tục tăng. Mức tỷ giá này tăng đều qua các năm và mỗi năm tăng trung bình (từ năm 2005 đến năm 2007) khoảng 113 đồng . Đặc biệt có sự biến động mạnh mẽ vào năm 2008 tỷ giá tăng khoảng 790 đồng. Đây là con số tăng rất nhỏ đối với những giao dịch nhỏ nhưng lại là một con số khổng lồ đối với những giao dịch lớn . Nhận thấy từ năm 2005 đến năm 2007 tỷ giá hối đoái đã tăng 1,43% và tăng đến 4.91% vào năm 2008. Đây là con số đáng lo ngại đối với công ty vì tương ứng với nó là giá hàng hóa nhập khẩu cũng trở lên đắt tương đối với tỷ lệ tăng trên chưa kể chi phí bốc dỡ, chi phí vận chuyển…Đây là một giai đoạn khó khăn đối với công ty .
-Không chỉ sự biến động của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty mà sự biến động của tỷ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty TNHH TM Tổng Hợp Nam Việt (NVC).
Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát qua các năm 2005-2008
Năm
2005
2006
2007
2008
Tỷ lệ lạm phát
8.3%
7.5%
12.6%
18.9%
Nguồn: Tác giả tự tìm trên internet
Tỷ lệ lạm phát của các năm 2005-2008 tương đối cao đặc biệt là năm 2008. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới kinh doanh nhập khẩu của công ty. Tỷ lệ lạm phát tăng kéo theo tỷ số giá tiêu dùng tăng và hàng hóa trong nước đồng loạt tăng giá. Giá hàng hóa trong nước tăng là một điều đáng mừng đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu song vì giá hàng hóa nhập khẩu cũng tăng nên lợi nhuận kinh doanh của công ty cũng không tăng nhiều. Kèm theo sự gia tăng của lạm phát là chính sách của Chính Phủ nhằm hạn chế lạm phát và bình ổn giá cả. Đó là việc tăng lãi suất tiết kiệm của ngân hàng nhằm giảm bớt lượng tiền tệ trong lưu thông để hạn chế lạm phát. Điều này có nghĩa là các ngân hàng tăng lãi suất cho vay. Do đó chi phí kinh doanh nhập khấu của công ty tăng( vì một phần vốn để sử dụng kinh doanh hàng nhập khẩu của công ty được vay từ ngân hàng). Vì vậy tỷ lệ lạm phát biến động cũng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nhập khẩu của công ty.
-Môi trường chính trị là nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu. Môi trường chính trị trong nước ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong kinh doanh. Sự ổn định của chính trị là sự đảm bảo cho công ty khi tiến hành giao dịch, đàm phán với các đối tác nước ngoài. Đất nước có tình hình chính trị ổn định các đối tác yên tâm đẩu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam. Khi đã có vốn từ nước ngoài thì công việc kinh doanh của công ty sẽ tiến hành dễ dàng hơn, công ty có cơ hội mở rộng kinh doanh .
4, Nguồn nhân lực
Bên cạnh những nhân tố bên ngoài tác động ngoại cảnh đến hoạt động kinh doanh của Công ty thì các nhân tố bên trong sẽ góp phần quyết định trực tiếp tới sự thành công của Công ty.
-Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác nhập khẩu của Công ty. Bởi bất cứ một doanh nghiệp nào muốn công việc kinh doanh phát triển cần phải có đội ngũ cán bộ, công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, dày dặn kinh nghiệm, năng động, nhiệt tình và nhạy bén xử lý công việc. Chính vì vậy mà yếu tố con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất, nó quyết định sự thành công trong kinh doanh của công ty. Bởi con người chính là người đưa ra quyết định, lập chiến lược kinh doanh , kế hoạch kinh doanh và cũng chính con người là người thực hiện công việc kinh doanh. Vì vậy mà hoạt động của con người sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của công ty. Đối với công ty NVC, kinh doanh nhập khẩu thì lại càng phải có đội ngũ cán bộ làm công tác nhập khẩu có thể nắm vững các nghiệp vụ vì một quy trình nhập khẩu đòi hỏi rất nhiều giai đoạn, đòi hỏi người thực hiện phải linh hoạt xử lý tình huống. Một đội ngũ cán bộ có trình độ, năng động nhiệt tình sẽ giải quyết công việc một cách nhanh chóng và có thể sẽ tốn ít chi phí hơn do họ nắm vững nghiệp vụ.
Chương II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH TM TỔNG HỢP NAM VIỆT(NVC)
I, Quá trình hình thành và phát triển của công ty
1, Giới thiệu chung về Công ty
Tên doanh nghiệp: Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp Nam Việt
Tên giao dịch quốc tế: NAM VIET GENERAL TRADING COMPANY LIMITED
Tên viết tắt: NAM ._.VIET GT CO.,LTD
Trụ sở tại: Căn hộ 13.2, tầng 13, Toà nhà I-9, Khu I, Phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Hà Nội.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102022436 do Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp ngày 27 tháng 09 năm 2005
Vốn điều lệ: 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng Việt Nam)
Điện thoại: 84-4-2852330, Fax: 84-4-2852331
1.1, Quá trình hình thành và phát triển công ty.
Công ty TNHH Thương mại tổng hợp Nam Việt được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 2005. Là một công ty với tuổi đời còn rất trẻ, hơn nữa được thành lập trong thời buổi cơ chế thị trường đang diễn ra gay gắt, đối thủ cạnh tranh lại rất mạnh và dày dặn kinh nghiệm. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành, ngay từ những năm đầu gây dựng doanh nghiệp, Công ty đã hết sức chú trọng đầu tư vào con người, xây dựng một đội ngũ nhân viên kinh doanh được đào tạo bài bản và kinh nghiệm, hiểu biết về mặt hàng kinh doanh và nhu cầu thị trường.
Cũng chính do sức trẻ của công ty, nên chỉ trong hơn ba năm hoạt động kinh doanh công ty cũng đã và đang có chỗ đứng trong thị trường kinh doanh. Tình hình hoạt động kinh doanh ngày càng khả quan, doanh thu bán hàng ngày càng tăng mạnh.
Công ty chủ yếu hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại xuất nhập khẩu hàng hoá, mặt hàng chủ yếu và là thế mạnh của Công ty hiện nay là các mặt hàng linh kiện, phụ tùng, máy móc, nguyên vật liệu cơ khí.
Kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động, đến nay Công ty đã có một bước đột phá trong quá trình hoạt động kinh doanh và cũng được coi là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Công ty đó là: đã tìm kiếm nguồn cung ứng hàng hoá và tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng với các khách hàng nước ngoài, đẩy mạnh hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài.
Đây được coi là mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Công ty là vì: Như chúng ta đã biết, Việt Nam hiện vẫn là một trong những nước kém phát triển. Hàng hoá, đặc biệt hàng hoá về cơ khí (nguyên vật liệu, máy móc…) hiện nay chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài để sản xuất ra sản phẩm và bán lại trong nước. Với một Công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại thì việc có được các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài có thể coi là một bước đột phá trong quá trình kinh doanh và cho thấy được sự lớn mạnh và bền vững của Công ty trên thương trường.
Quy mô của Công ty hiện tại thuộc vào loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tổng số nhân viên hiện tại trong Công ty bao gồm 15 lao động, được phân phụ trách công việc tại 8 bộ phận của Công ty:
Ban Giám Đốc
Bộ phận Quản lý
Bộ phận kinh doanh S1
Bộ phận kinh doanh S2
Bộ phận kinh doanh S3
Bộ phận kế toán
Bộ phận hành chính
Bộ phận xuất nhập khẩu
1.2,Các lĩnh vực kinh doanh
Công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại hàng hoá xuất nhập khẩu, chủ yếu là các mặt hàng của ngành Cơ khí chế tạo.
Các mặt hàng nhập khẩu Công ty nhập khẩu về bán lại chủ yếu cho các công ty sản xuất trong nước.
Ngoài các mặt hàng nhập khẩu, Công ty cũng đã tìm cho mình các khách hàng nước ngoài để đẩy mạnh hàng hoá xuất khẩu.
1.3, Các loại sản phẩm, dịch vụ chủ yếu của doanh nghiệp
Các loại sản phẩm chủ yếu
Sản phẩm chủ yếu của Công ty hiện nay là các mặt hàng về Cơ khí chế tạo. Các sản phẩm này được công ty phân vào từng nhóm sản phẩm như:
Các chi tiết xe máy
Nguyên vật liệu
Thiết bị công nghiệp
Sản phẩm liên quan đến nhóm chi tiết máy bao gồm:
Mặt hàng nhập khẩu: Bi thép (sử dụng làm vòng bi cho xe máy)
Sản phẩm liên quan đến nhóm nguyên vật liệu như: Sắt, thép ống, thép thanh, thép cuộn, thép tấm, thép cán nguội dạng cuộn, đồng lá, đồng cuộn …
Thép ống Đồng cuộn Thép tấm
Sản phẩm liên quan đến nhóm thiết bị công nghiệp như:
Máy tiện CNC
Máy hút bụi công nghiệp
Máy gia công kim loại
Máy đo độ pH
Lưỡi cưa đĩa, cưa vòng
Các loại máy taro, máy khoan
Súng bắt vít
..v…v
Lưỡi cưa đĩa Máy đo độ pH Máy hút bụi công nghiệp
2, Tổ chức bộ máy của Công ty
2.1, Chức năng nhiệm vụ cơ bản bộ máy nhân viên của Công ty
2.1.1. Nhân viên kế toán:
- Nhân viên kế toán 1: phụ trách việc thanh toán, giao dịch và công nợ đối với các khách hàng nước ngoài. Tổng hợp các báo cáo về các giao dịch nước ngoài.
- Nhân viên kế toán 2: phụ trách việc thanh toán, giao dịch và công nợ đối với các khách hàng trong nước. Tổng hợp các báo cáo về các giao dịch trong nước.
2.1.2. Nhân viên kinh doanh: được phân phụ trách công việc trong từng bộ phận:
- Kinh doanh S1: phụ trách về các mặt hàng xuất nhập khẩu về chi tiết máy, quản lý giao nhận hàng, khách hàng, nhà cung cấp và phát triển khách hàng mới.
- Kinh doanh S2: phụ trách về các mặt hàng nguyên vật liệu, quản lý giao nhận hàng, khách hàng, nhà cung cấp và phát triển khách hàng mới.
- Kinh doanh S3: phụ trách về các mặt hàng thiết bị công nghiệp, quản lý giao nhận hàng, khách hàng, nhà cung cấp và phát triển khách hàng mới.
2.1.3. Phòng hành chính: phụ trách chung về các hoạt động trong văn phòng
2.1.4. Phòng xuất nhập khẩu : thực hiện các thủ tục làm thông quan hàng hoá xuất nhập khẩu, liên hệ với các hãng dịch vụ vận tải. Tổng hợp các chi phí xuất nhập khẩu hàng hoá và công nợ của các hãng dịch vụ vận tải.
2.2, Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty (Sơ đồ 3)
2.3. Đặc điểm về lao động
*Cơ cấu lao động của Công ty
Công ty với chức năng là kinh doanh thương mại hàng hoá xuất nhập khẩu cho các Công ty sản xuất trong và ngoài nước, đòi hỏi Công ty phải có một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc
Bảng 4: CƠ CẤU LAO ĐỘNG
Chỉ tiêu lao động
Năm 2006
Năm 2007
So sánh
Mức tăng
Tỷ lệ (%)
Tổng số lao động
12
15
3
25
Tổng số lãnh đạo
2
2
0
0
Tổng số nhân viên
10
13
3
25
Trong đó: - Đại học, trên đại học
10
13
3
30
- Cao đẳng, trung cấp
1
1
0
0
- Lao động phổ thông
1
1
0
0
Nguồn: Phòng tổ chức hành chính
Cơ cấu lao động phận theo hợp đồng năm 2007
- Số hợp đồng không xác định thời hạn: 05 người
- Số hợp đồng có thời hạn: 10 người
Từ bảng trên thấy, số lượng lao động của Công ty năm 2007 đã gia tăng 3 người so với năm 2006. Đó là do trong năm 2008 Công ty đẩy mạnh hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài và mở rộng thêm các khách hàng mới.
Tỷ lệ cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, trình độ đại học và trên đại học là 98%. Tỷ lệ này phù hợp với yêu cầu và đặc trưng công việc và là điều kiện để Công ty nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Với lực lượng lao động còn rất trẻ, độ tuổi trung bình < 30 tuổi chiếm tỷ lệ 95% trong tổng số lao động, năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc.
II, Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty TNHH TM Tổng Hợp Nam Việt (NVC).
1, Quy trình nhập khẩu tại Công ty NVC.
*Quy trình triển khai nhập khẩu hàng hoá (Sơ đồ 5)
Sơ đồ trên hướng dẫn quy trình thực hiện triển khai nhập khẩu hàng hoá. Trong bản quy trình phân công các bước để nhập khẩu một lô hàng và cách thức phối hợp công việc giữa bộ phận Kinh doanh và bộ phận xuất nhập khẩu .
Quy trình cũng hướng dẫn các bước công việc từ khâu chuẩn bị chứng từ hàng hoá đến khâu thông quan xong, nộp thuế cho Nhà nước và giao hàng cho khách hàng.
Quy trình này giúp cho nhân viên đảm nhiệm việc triển khai việc nhập khẩu hàng hoá hoàn thành công việc một cách nhanh chóng, chính xác đảm bảo tiến độ thông quan hàng hoá và giảm được rủi ro kê khai hàng hoá không chính xác, nộp chậm tiền thuế cho Nhà nước.
*Nhìn chung quy tr×nh nhËp khÈu cã nh÷ng bíc c¬ b¶n sau.
1.1, Nghiên cứu thị trường
Trên cơ sở những yêu cầu mà nhà đầu tư đặt ra, công ty tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu thị trường trong nước để biết được mức giá của mặt hàng cùng loại và những thông tin về mã số thuế, thuế suất và phụ thu của mặt hàng đó. Nghiên cứu thị trường nước ngoài để tìm hiểu tình hình sản xuất, giá cả, uy tín, chất lượng của nhà cung cấp cũng như điều kiện địa lý, tập quán thương mại, quan hệ thương mại của nước đó với Việt Nam. Đây là một khâu quan trọng giúp công ty có được danh sách những công ty thích hợp nhất, từ đó đưa ra quyết định quan trọng trong việc lựa chọn đối tác giao dịch.
1.2,Chào hàng
Sau khi nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, công ty phát thư gọi chào hàng về việc cung cấp sản phẩm cho các khách hàng đã tìm hiểu từ bước trên, trong đó nêu rõ các thông số kỹ thuật, tiêu chuẩn về sản phẩm , thời gian giao hàng, phương thức thanh toán....
1.3, Lựa chọn đối tác giao dịch
Kể từ khi nhận được chào hàng từ phía đối tác nước ngoài, công ty cùng với chủ đầu tư nghiên cứu, xem xét, lựa chọn đối tác tốt nhất đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của chủ đầu tư, đồng thời có thuận lợi cho phía Việt Nam nhất về kỹ thuật, công nghệ, giá cả, điều kiện thanh toán, giao hàng, bảo hành...
1.4,Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở kết quả thu thập được, các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu tiến hành lập phương án kinh doanh, trong đó bao gồm các nội dung như phân tích tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng, đánh giá những khó khăn cũng như thuận lợi và lên kế hoạch sử dụng vốn, tính toán các chi phí, đề ra các mục tiêu hành động cụ thể...
Sau khi phương án kinh doanh được lập xong và trình lên Tổng giám đốc phê duyệt, công ty tiến hành đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng.
1.5, Đàm phán và ký kết hợp đồng
- Lập dự thảo hợp đồng: Với những đối tác có quan hệ lần đầu, cả NVC và đối tác đều lập dự thảo hợp đồng rồi gửi cho nhau xem xét. Còn với những đối tác đã có quan hệ làm ăn lâu năm, việc làm này thường do công ty đảm nhiệm. Việc lập dự thảo hợp đồng càng chi tiết, đầy đủ và chính xác càng thuận lợi cho việc đàm phán và ký kết hợp đồng sau này.
- Đàm phán hợp đồng: Việc đàm phán ký kết hợp đồng tại NVC có thể được tiến hành qua thư,email, fax hay gặp gỡ trực tiếp. Nhưng cho dù bằng hình thức nào đi nữa thì nội dung đàm phán cũng liên quan đến các vấn đề cơ bản như: giá cả, vận chuyển, thanh toán, bảo hành....- Ký hợp đồng ngoại thương: Sau khi việc đàm phán được hoàn tất, NVC và phía đối tác nước ngoài tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng được ký kết phải quy định cụ thể các điều khoản: Tên hàng, quy cách phẩm chất, giá cả, giao hàng, thanh toán... Bên cạnh đó, hợp đồng còn quy định cụ thể từng phần công việc, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi bên trong quá trình chuyển giao.
1.6, Ký hợp đồng uỷ thác
Hợp đồng uỷ thác được ký kết giữa chủ đầu tư và NVC, trong đó quy định cụ thể các điều khoản liên quan đến hàng hoá và nghĩa vụ trách nhiệm của mỗi bên. Ngoài ra, trong hợp đồng còn nêu rõ mức phí uỷ thác thông thường khoảng 1% nhưng không được thấp hơn 150USD.
1.7,Thực hiện hợp đồng
Sau khi việc ký hợp đồng ngoại thương và hợp đồng uỷ thác được hoàn tất, công ty tiến hành ký quỹ mở L/C bằng tiền đặt cọc của chủ đầu tư, thường là 10% trị giá hợp đồng ngoại thương. Khi hàng hoá và chứng từ của người bán đã về, công ty tiến hành nhận chứng từ đi mở tờ khai hải quan, nộp thuế các loại rồi tiến hành nhận hàng và giao ngay cho chủ đầu tư kèm theo hoá đơn bán hàng.
Công ty tiến hành thanh lý hợp đồng với ngân hàng và chủ đầu tư sau khi khách hàng nội địa đã thanh toán tiền hàng. Cuối cùng, công ty hạch toán hợp đồng uỷ thác và lưu hồ sơ.
2, Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty NVC
2.1,Tổng quan về kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Bảng 6: Tình hình xuất nhập khẩu trong 3 năm 2006 – 2008
Đơn vị: triệu đồng
Các chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
năm 2008
Xuất khẩu
382
9.484
Nhập khẩu
7.598
39.448
80.453
Xuất nhập khẩu
7.598
39.830
89.937
Nguồn: Phòng Xuất nhập khẩu.
Trong cả 3 năm 2006, 2007, 2008 Công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, làm tròn nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước . Năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức 116.9% tăng 16.9% so với mức kế hoạch, Năm 2007 cho thấy đã công ty có cố gắng vươn ra thị trường thế giới đã có doanh thu về xuất khẩu tuy không cao điều đó cho thấy công ty sẽ còn phát triển mạnh trong tương lai chứng minh là năm 2008 xuất khẩu đã tăng lên rất nhiều lần so với năm 2007 cụ thể tăng lên với số tiền là 9.102 triệu đồng , kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007đạt 117% cũng vượt mức kế hoạch đề ra, tăng 17% , do vậy lợi nhuận cũng tăng tuy không tăng nhiều lần so với doanh thu. Đặc biệt là năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 128,5% tăng so với kế hoạch đặt ra 28,5% , tổng kim ngạch tăng do vậy lợi nhuận cũng tăng mạnh 358.5%. so với năm 2007.
Cũng qua những số liệu, có thể dễ dàng nhận ra sự chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn, vượt trội so với xuất khẩu trong tương quan xuất nhập khẩu của Công ty, chiếm 100%: 99%; 89.5% lần lượt các năm 2006, 2007, 2008 trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty. Trong đó chủ yếu là kết quả của hoạt động nhập khẩu uỷ thác cho thấy thế mạnh cũng như hoạt động chủ lực của Công ty. Tuy xuất khẩu có phần khiêm tốn hơn nhiều so với nhập khẩu, song kim ngạch xuất khẩu đang tăng lên một cách mạnh mẽ, điều này khẳng định phương hướng của Công ty trong tương lai là tăng cường hoạt động xuất khẩu theo hướng tích cực, mạnh mẽ hơn.Thể hiện sự phát triển ngoại giao với khách hàng nước ngoài.
Bảng 7: Kết quả hoạt động kinh doanh trong 3 năm gần đây.
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng tài sản
4.575
13.326
28.512
Tổng nợ phải trả
2.622
8.825
17.935
Doanh thu
12.305
60.488
80.968
Lợi nhuận trước thuế
83
184
261
Lợi nhuận sau thuế
23
51
85
Nguồn: Phòng kế toán
Theo bản tóm tắt tài sản có và tài sản nợ trên thì doanh thu trong 3 năm đều có sự thay đổi lớn theo đà năm sau cao hơn năm nhiều lần, năm 2007 tăng hơn so với năm 2006 gần 5 lần với số tiền là 48.183 triệu đồng nhưng lợi nhuận sau thuế lại tăng hơn 2 lần với số tiền là 101 triệu đồng. Đến năm 2008 thì doanh thu cao hơn so với năm 2007 là 1.3 tương ứng số tiền là 20.480 triệu đồng, đồng thời lợi nhuận cũng tăng hơn so với năm 2007 là 1.4 lần với số tiền là 34 triệu đồng.
2.2, Cơ cấu hàng hoá và thị trường nhập khẩu
Hiện nay, Công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc ngành cơ khí chế tạo (chủ yếu thuộc ngành sản xuất phụ tùng xe máy ôtô) các sản phẩm chính như: các loại thép (dạng ống, dạng tấm, dạng thanh, dạng cuộn …), lưỡi cưa đĩa, máy hút bụi công nghiệp, Bi thép ….
Ngoài ra, Công ty còn xuất khẩu một số hàng hoá sang các nước thuộc khu vực Châu Á như Philippines, Malaysia. Các sản phẩm xuất khẩu như: Trục bơm dầu, Bulông xuyên trục càng sau, Bạc ….
Trong những năm gần đây công tác tiêu thụ hàng hoá của Công ty cũng đạt được các bước tiến mới, chuyển biến tốt đẹp và đạt được kết quả nhất định
Sản phẩm maý móc thiết bị: máy tiện, máy phay, máy tiện CNC, băng tải truyền
Đây là mặt hàng kinh doanh thế mạnh và chủ lực của Công ty được nhập khẩu trực tiếp từ một số nước như: Đài Loan, Hàn Quốc .
Mặt hàng này cung cấp cho các xưởng, nhà máy gia công cơ khí chế tạo.
Sản phẩm Thép
Đây là mặt hàng kinh doanh thế mạnh và chủ lực chiếm 70% tổng kim ngạch nhập khẩu của Công ty được nhập khẩu trực tiếp từ một số nước như: Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc
Trong đó thị trường nhâp từ Đài Loan chiếm đến 60% mặt hàng thép vì Đài Loan nước công nghiệp phát triển họ nhiều sản phẩm chất lượng tốt mà trong nước chưa sản xuất được như các loại ống thép dạng kéo, ống thép vuông, thép cán nóng, nguội dạng thanh tấm thép không gỉ.
Mặt hàng này có các chỉ tiêu chất lượng: độ dày, độ nhẵn, các tiêu chuẩn về hàm lượng hoá học (cacbon, Silic, lưu huỳnh, chì…). Đây là một mặt hàng rất đa dạng về chủng loại và kích thước đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của khách hàng. Tuy nhiên trong năm 2008 thị trường thép có những biến động rất to lớn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Đầu năm giá thép lên cao khoảng 3 tháng sau đó giá thép lại xuống rất mạnh.
Lưỡi cưa đĩa:
Đây cũng là một trong những mặt hàng kinh doanh chính của Công ty.Mặt hàng này Công ty nhập khẩu về từ một số nước có uy tín như: Nhật Bản, Đức và hiện Công ty đang cung cấp mặt hàng này cho một số nhà sản xuất chính cho hãng Honda.
Bi thép
Mặt hàng này chủ yếu được Công ty nhập khẩu từ Trung Quốc và gia công thêm rồi mới giao cho khách hàng.
Bảng 8 cơ cấu hàng hoá và thị trường nhập khẩu năm 2008:
Nhóm hàng
tỷ trọng
Thị trường cung cấp
Thị trường
tỷ trọng
Sản phẩm máy móc thiết bị
10%
Đài Loan
70%
Hàn Quốc
30%
Sản phẩm thép
70%
Đài Loan
60%
Trung Quốc
30%
Hàn Quốc
10%
Lưỡi cưa đĩa
10%
Nhật Bản
80%
Đức
20%
Bi thép
5%
Trung Quốc
100%
Sản phẩm khác
5%
Nguồn: Phòng kinh doanh S2, S3.
Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng Công ty vẫn vấp phải những trở ngại, tồn tại một số những hạn chế.
- Mặt hàng chủ lực của Công ty là các mặt hàng về sắt thép. Các mặt hàng này có trị giá hàng lớn mà giá cả trên thị trường lại biến động rất đột ngột. Điều này, làm gây khó khăn trong việc chào giá đối với các khách hàng truyền thống và gây rủi ro về thua lỗ cho Công ty.
- Hàng hoá của Công ty chủ yếu là hàng nhập khẩu nên biến động về tỷ giá ngoại tệ cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu và chính sách giá của Công ty.
- Công ty chưa có một chiến lược cụ thể nhằm giới thiệu, quảng cáo, tạo được hình ảnh, uy tín trên thị trường.
2.3, Cơ cấu thị trường hàng bán ra:
Công ty hiện tại chủ yếu cung cấp các mặt hàng nhập khẩu cho các Công ty sản xuất về phụ tùng xe máy ôtô trong nước. Ngoài việc củng cố phát triển thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu truyền thống, Công ty còn đẩy mạnh tìm kiếm thị trường mới và tiềm năng.
- Tiếp tục triển khai mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như các mặt hàng có tính cạnh tranh cao của Công ty (Trục bơm dầu, bạc, Bulông xuyên trục càng sau…)
- Tiếp tục triển khai tiếp thị tìm kiếm các khách hàng mới trong nước và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm cơ khí chế tạo.
- Tiếp tục tìm kiếm nhà cung cấp mới có uy tín đặc biệt là có lợi về các chi phí vận chuyển thấp như: Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan ….
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào để tồn tại và phát triển luôn phải đối mặt với vấn đề làm thế nào để cạnh tranh trên thị trường. Có thể nói một nhược điểm và cũng là trở ngại khá lớn khi phải cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm trên thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam đó là vấn đề về chất lượng dịch vụ. Hiện tại, Công ty rất chú trọng đến chất lượng về dịch vụ trong quá trình hoạt động và kinh doanh của Công ty.
Các năm gần đây Công ty luôn chú trọng đào tạo đội ngũ kỹ thuật có trình độ cao để có thể tư vẫn miễn phí cho khách hàng lựa chọn sản phẩm phù hợp với các thông số kỹ thuật sản xuất và có chất lượng cao.
3, Những đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty TNHH TM Tổng Hợp Nam Việt (NVC)
3.1, những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty NVC
*Yếu tố chủ quan
-Nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Trong sản xuất, kinh doanh, nguồn nhân lực của doanh nghiệp có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sản xuất nhằm tạo ra nguồn tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính nguồn nhân lực sáng tạo, tìm hiểu, nhu cầu của khách hàng để từ đó tìm ra sản phẩm tốt nhất trên thị trường trong nước cũng như quốc tế để đáp ứng nhu cầu cũng như ý đồ sản xuất của khách hàng làm cho sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp có thể bán được, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nguồn nhân lực còn tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...) nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu từ khâu tìm kiếm khách hàng, đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng....cho đến khâu cuối cùng. Chính vì vậy, doanh nghiệp có đạt được hiệu quả trong kinh doanh hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp mình.
Ngày nay, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển làm cho hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm (dịch vụ) rất cao. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực ngày càng phải tinh nhuệ. Chính vì vậy, vai trò của nguồn nhân lực trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh tại doanh nghiệp ngày càng quan trọng.
-Trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Với khối lượng đồ sộ thiết bị máy móc, hàng hoá cơ khí đòi hỏi một số vốn tương ứng rất lớn.
Là một doanh nghiệp thương mại nên nguồn vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn kinh doanh của Công ty. Chính vì vậy, Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì sẽ nâng cao hiệu quả của Công ty.
Bên cạnh việc sử dụng nguồn vốn lưu động, Công ty còn phải phát huy hiệu quả nguồn vốn cố định. Trong Công ty, nguồn vốn cố định chiếm 20% trong nguồn vốn kinh doanh, một tỷ lệ hợp lý đối với một doanh nghiệp kinh doanh thương mại đơn thuần. Nguồn vốn cố định bao gồm giá trị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc, việc sử dụng hiệu quả tài sản cố định cũng là vấn đề đặt ra đối với công ty.
Không thể phủ nhận một điều rõ ràng là một phần nguồn vốn của nhập khẩu đó không từ đâu khác mà chính là từ lợi nhuận thu được từ xuất khẩu. Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Xuất khẩu để tạo vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu nhằm góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, hỗ trợ và đẩy mạnh cho xuất khẩu. Vì thế, nếu sản phẩm nhập khẩu về không đúng như yêu cầu của khách hàng chỉ một sai sót nhỏ gây tổn thất cho công ty kìm hãm sự phát triển và gây lãng phí cho nền kinh tế. Do vậy, việc có những chính sách đồng bộ và đúng đắn để giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực tới nhập khẩu.
Vốn là nhân tố quan trọng thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú trọng ngay từ khâu hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh để làm cơ sở cho việc lựa chọn các phương án sử dụng vốn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực hiện có, tổ chức chu chuyển, tái tạo và bảo toàn vốn. Đồng thời, khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp cũng cần phải chú trọng việc nghiên cứu biến động của thị trường tiền tệ đặc biệt là sự biến động của các ngoại tệ mạnh như USD, JPY, EURO...
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với môi trường kinh doanh có rất nhiều biến động. Chính vì vậy, nhân tố quản lý đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc quản lý tốt nguồn vốn của Công ty là rất cần thiết, góp phần quan trọng đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho Công ty. Hy vọng trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ không cần phải vay vốn nước ngoài cũng như trông chờ vào viện trợ nước ngoài để nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật để rồi sau đó Việt Nam sẽ là nước xuất khẩu máy móc thiết bị và công nghệ trên thị trường quốc tế.
*Yếu tố khách quan
- Môi trường chính trị pháp luật
Môi trường pháp lý bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Mọi quy định trong các văn bản này đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp cùng tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Chính vì vậy, việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là vô cùng quan trọng bởi nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình mà còn điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô khác.
Ngoài ra, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, đặc biệt là khi tham gia vào các hợp đồng ngoại thương đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật của quốc gia mình mà còn phải nắm chắc và tôn trọng luật pháp ở nước sở tại cũng như Tập quán và các Điều ước quốc tế khác. Việc làm này tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng nhân tố này trước khi tham gia ký kết để tránh những rủi ro không đáng có sau này.
Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước
Môi trường kinh tế là các nhân tố bên ngoài như các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ...có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách này có thể ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể; do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nằm trong ngành hay vùng kinh tế nhất định. Việc xử lý tốt các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính sách thuế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và đảm bảo tính công bằng, ... đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có liên quan.
Thủ tục nhập khẩu khó khăn do sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp quy cũng như những quy định chồng chéo về nhập khẩu riêng đối với sản phẩm sắt thép cơ khi liên tục có những thay đổi quy định vì còn phụ thuộc tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất sắt thép trong nước để tạo thuận lợi cho các doanh nghiêp trên mà những quy định ủng hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp trên vô hình chung đã đẩy mọi bất lợi đến các doanh nghiệp nhập khẩu gây đến thua lỗ vì những sản phẩm mà các doanh nghiệp trong nước sản xuất vẫn chưa đáp ứng về chất lượng mà các khách hàng yêu cầu, điều này đã kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp nhập khẩu.
Những vướng mắc về thuế
Việc áp thuế nhập khẩu hàng hoá luôn gặp khó khăn do các văn bản trong lĩnh vực này được ban hành liên tục và quá nhiều nên đã dẫn đến tình trạng chồng chéo gây khó khăn cho người nhập khẩu, chủ đầu tư và các bên có liên quan nên giữa doanh nghiệp và hải quan về chế độ áp dụng thuế đối với từng loại sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu. Những ách tắc như thế này trong quá trình làm thủ tục thông quan đã dẫn đến những khoản thuế phải nộp khi nhập lô hàng lên đến hàng tỷ đồng, mà nếu chủ đầu tư chưa kịp thu xếp nguồn vốn vay tạm thời để nộp thuế thì lại gây rắc rối cho hoạt động kinh doanh của người nhập khẩu, do người nhập khẩu đứng ra nhập uỷ thác và làm thủ tục thông quan cho hàng hóa nên nếu không hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, lô hàng đó sẽ bị cưỡng chế thuế, và toàn bộ hàng hóa của người nhập khẩu tại mọi cửa khẩu trên phạm vi toàn quốc sẽ không được phép tiếp tục làm thủ tục thông quan mà phải chờ giải quyết, khiến cho phát sinh thêm chi phí lưu kho bãi, tiền bồi thường do tàu không được giải phóng và hàng loạt tổn thất khác.
Thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) là khoản thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh nhằm tránh tình trạng đánh thuế chông lên thuế, tuy vậy, phương thức tính thuế GTGT cùng với những quy định về áp dụng luật thuế giá trị gia tăng tỏ ra thiếu chính xác và chưa toàn diện, gây trở ngại cho người nhập khẩu. Theo luật thuế giá trị gia tăng quy định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. Như vậy, có thể nhận thấy là thuế GTGT đã đánh chồng lên thuế nhập khẩu. Hàng nhập khẩu khi mới đến cửa khẩu thì chưa thể xuất hiện khoản giá trị gia tăng, khoản này chỉ có thể xuất hiện khi hàng hóa được luân chuyển, còn thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa không thể được coi là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa.
Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu
Thủ tục hải quan là những việc phải làm của người có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, có phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh hoặc của người được uỷ quyền (gọi tắt là người khai hải quan) theo quy định của luật Hải quan và các luật khác có liên quan.
Trình tự khai báo chung đối với hàng hóa xuất nhập khẩu là:
- Khai báo trên tờ khai hải quan.
- Nộp, xuất trình chứng từ, hồ sơ kèm theo tờ khai hải quan.
- Xuất trình hàng hóa, phương tiện vận tải để cơ quan hải quan kiểm tra.
- Thực hiện yêu cầu của các cơ quan chức năng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu (kiểm tra chất lượng, kiểm dich, phân tích, giám định hàng hoá…).
- Nộp thuế, lệ phí và các khoản phải thu khác.
- Tiếp nhận hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải sau khi thông quan.
Theo quy trình này thì việc quy định các doanh nghiệp khai báo hải quan tự phải chịu trách nhiệm kê khai, áp mã tính thuế đối với hàng hóa. Như vậy là hải quan đã dồn hết trách nhiệm sang doanh nghiệp, còn doanh nghiệp phải tiếp tục chịu trách nhiệm trong 5 năm. Rõ ràng rằng trách nhiệm của hải quan là kiểm tra tờ khai, nếu tờ khai được khai đúng thì không có lý do gì yêu cầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tờ khai đó trong 5 năm, điều này là quá nặng nề.
Bên cạnh đó, bên nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn khi hải quan yêu cầu giám định tràn lan đối với hàng hóa nhập khẩu mỗi khi họ cảm thấy kết quả giám định không phù hợp với thực tế hàng hóa. Đây là điều không hợp lý vì bản thân hải quan không phải là một tổ chức giám định, kết quả giám định thông thường không phải chỉ đơn thuần là những gì nhìn thấy mà đòi hỏi phải có hệ thống máy móc tiêu chuẩn kiểm tra... Do vậy hải quan không thể đưa ra lý do như vậy để từ chối kết quả giám định và yêu cầu tiến hành giám định tràn lan.
Thực tế Công ty NVC khi tiền hành làm thủ tục thông quan máy móc thiết bị, sản phẩm hàng hoá cơ khí đã gặp phải những vấn đề vướng mắc trên dẫn đến hàng hoá không giao cho khách hàng đúng thời gian quy ước dẫn đến mất uy tín, mất khách hàng ảnh hưởng đến doanh thu của công ty. Ngoài ra, công ty còn phải chịu những khoản phạt từ khách hàng do giao hàng chậm trễ, bên cạnh đó công ty lại còn phải chịu phí lưu container, kho hàng bến bãi.
- Các yếu tố khác
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, giá cả tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh và bao gồm các yếu tố: giá cả nhập khẩu, giá cả lưu thông và tỷ giá hối đoái:
- Giá hàng hoá nhập khẩu: Trong cơ cấu tổng chi phí kinh doanh nhập khẩu, giá vốn hàng hoá nhập khẩu chiếm tỷ trọng chủ yếu, do đó giá mua hàng hoá tác động mạnh đến giá trị tổng chi phí kinh doanh. Việc mua hàng với giá cao làm tăng chi phí dẫn đến lợi nhuận giảm, ngược lại mua hàng với giá thấp làm giảm chi phí kinh doanh từ đó cho phép tăng lợi nhuận.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1938.doc