Tài liệu Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam- Thực trạng và giải pháp: LỜI NÓI ĐẦU
Điều không thể đảo ngược đó là xu hướng quốc tế hoá ngày càng trở nên mạnh mẽ. Sự hội nhập quốc tế của Việt Nam thông qua cơ chế kinh tế thị trường mở là nhu cầu khách quan có tính quy luật. Với vai trò như chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới thì việc hình thành và phát triển thị trường hối đoái một cách toàn diện và hiện đại theo trình độ quốc tế là rất cần thiết. Thông qua các nghiệp vụ trên thị trường hối đoái mà hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư quốc tế, dự t... Ebook Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam- Thực trạng và giải pháp
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rữ ngoại hối …trở nên linh hoạt và hiệu quả.
Trong những năm gần đây, thị trường hối đoái Việt Nam đã hình thành và từng bước phát triển. Trước hết, đó là chính sách ngoại hối đang dần được hoàn thiện phù hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở, những nhân tố thị trường ngày càng trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái, bước đầu đã đưa ra một số các giao dịch kinh doanh ngoại tệ như: giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, và thử nghiệm giao dịch theo hợp đồng quyền chọn….Mặc dù với những bước đi đầu tiên nhưng thị trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra môi trường kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM và cung cấp những công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
Sở giao dịch I NHĐT&PTVN là một đơn vị kinh doanh ngoại tệ lớn. Với vai trò là một ngân hàng thương mại cung cấp phần lớn nguồn vốn cho hoạt động kinh tế, đầu tư và phát triển của nền kinh tế xã hội. Do đó, việc cung cấp một lượng vốn bằng ngoại tệ là rất cần thiết cho nền kinh tế hội nhập ngày nay. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng đem lại lợi nhuận rất lớn cho Sở giao dịch đồng thời đảm bảo trạng thái ngoại tệ của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh ngoai tệ tại Sở giao dịch I vẫn còn một số hạn chế do các nhân tố nội tại của bản thân Sở và các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh cũng như luật pháp còn kìm hãm sự phát triển hoạt động kinh doanh này.
Vì vậy, biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển mạnh và đem lại lợi ích cao cho nền kinh tế và bản thân Sở là rất cần thiết, đây cũng là vấn đề đang được đặt ra với toàn bộ ngành ngân hàng..Từ tính cấp thiết và hữu dụng của vấn đề, em mong muốn được góp một phần rất nhỏ vào việc tìm ra những giải pháp thúc đẩy nhằm cải thiện thực trạng còn yếu kém trong kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu tại Sở giao dịch I NHĐT&PTVN và kiến thức đã học được, em xin được nghiên cứu đề tài: ” Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I – NHĐT&PTVN- thực trạng và giải pháp.”.
Kết cấu khoá luận này gồm:
A. Lời nói đầu.
B. Nội dung.
Chương I: Tổng quan về thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại (NHTM).
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN)
Chương III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
C. Kết luận.
Hà nội, ngày 15 tháng 12 năm 2003.
Sinh viên thực hiện
Mai Thị Phương Thảo.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA CÁC NHTM.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI.
1. Khái niệm về thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về ngoại hối, trong đó chủ yếu là các giao dịch về ngoại tệ, thông qua các nghiệp vụ mua - bán ngoại tệ và vay, cho vay vốn ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia.
Hiện nay, do quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phát triển, việc chuyển đổi đồng tiền sang nước khác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhà kinh doanh ngoại tệ nhận thức được rằng lợi nhuận mà họ mong muốn thu được không chỉ thông qua việc buôn bán hàng hoá đơn thuần mà còn thông qua việc trao đổi mua bán các đồng tiền với nhau để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu (đối với nhà nhập khẩu) hoặc để trang trải các chi phí (đối với các nhà xuất khẩu). Tuy nhiên, một điều dễ dàng nhận thấy và không thể tránh khỏi là việc mua bán ngoại tệ sẽ gặp rất nhiều rủi ro do sự biến động thường xuyên của tỷ giá hối đoái.
Để hạn chế phần nào khó khăn nói trên và để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu trong việc mua bán ngoại tệ thì việc phát triển một thị trường ngoại hối là hết sức cần thiết và quan trọng đối với không chỉ các NHTM mà đối với tất của cả một quốc gia.
Các nghiệp vụ mua-bán ngoại tệ và vay-cho vay vốn ngoại tệ có những tính chất, đặc điểm khác nhau và được tiến hành theo những quy tắc, kỹ thuật giao dịch khác nhau. Do đó, chúng được tiến hành trên những bộ phận thị trường riêng biệt. Cụ thể là:
- Các giao dịch mua-bán ngoại tệ được tiến hành tại hai bộ phận thị trường được gọi là Thị trường ngoại hối Giao ngay và Thị trường ngoại hối Kỳ hạn. Điều kiện giao dịch bao gồm:
+ Về giá cả: biểu hiện thông qua tỷ giá hối đoái.
+ Về thời hạn giao tiền: hai ngày làm việc kể từ ngày giao dịch kết thúc.
- Các giao dịch vay-cho vay vốn ngoại tệ được tiến hành tại bộ phận thị trường được gọi là Thị trường tiền gửi. Điều kiện giao dịch bao gồm:
+ Về giá cả: biểu hiện thông qua lãi suất.
+ Về thời hạn giao vốn: hai ngày làm việc kể từ ngày giao dịch kết thúc.
2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối.
2.1. Thị trường ngoại hối mang tính chất quốc tế cao.
Thị trường ngoại hối của mỗi quốc gia ngày càng biểu hiện màu sắc quốc tế một cách rõ rệt:
+ Việc niêm yết giá cả trên thị trường được quốc tế hoá. Do trình độ khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin ngày càng phát triển, việc thông tin liên lạc (Internet, điện thoại, telex, fax…) giữa các thị trường ngoại hối quốc gia trên thế giới hết sức nhanh chóng, thông suốt, kịp thời và thường xuyên liên tục. Điều này không những tạo tiền đề khách quan mà còn tạo ra nhu cầu bức xúc phải tiến hành điều chỉnh giá trên thị trường một cách thường xuyên liên tục. Từ đó dẫn đến hiện tượng quốc tế hoá hoạt động niêm yết giá cả (tỷ giá, lãi suất) trên thị trường ngoại hối. Kết quả là tạo nên “mặt bằng giá “ có tính chất quốc tế.
+ Thị trưòng ngoại hối là một cơ chế tài chính rất nhạy cảm. Thật vậy, với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị quân sự, ngoại giao … trên thế giới đều có thể dẫn đến những biến động nhất định về giá cả trên thị trường ngoại hối.
2.2. Thị trường ngoại hối (TTNH) hoạt động không ngừng.
Do có sự chênh lệch các múi giờ giữa các nước nên trên thế giới, vào bất kỳ điểm nào trong ngày luôn có những thị trường ngoại hối đang mở cửa. Sự mở cửa giao dịch kế tiếp nhau thường xuyên liên tục của các TTNH quốc gia đã tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh ngoại hối thực hiện ý đồ của mình vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày.
- Ngoại tệ được kinh doanh trên thị trường ngoại hối chủ yếu là các ngoại tệ tự do chuyển đổi như: USD, JPY, DEM, FRF, GBP, CHF….Đa số trên thị trường ngoại hối các nước người ta quan tâm tới tỷ giá USD trên nội tệ.
- Việc xây dựng một thị trường ngoại hối giúp cho chính phủ và ngân hàng nhà nước thực hiện được chính sách quản lý ngoại hối một cách chặt chẽ nhưng tuân theo quy luật của thị trường.
- Thị trường ngoại hối còn là nơi mà các ngân hàng có thể tin tưởng giao dịch mua bán hay cho vay các loại ngoại tệ với nhau, nhằm giải quyết tình trạng có ngân hàng thừa ngoại tệ nằm trên tài khoản nước ngoài mà không dùng làm gì, trong khi đó ngân hàng thiếu ngoại tệ lại phải đi vay ngoại tệ của ngân hàng nước ngoài với lãi suất cao hơn.
- Quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối tác động mạnh mẽ và là cơ sở để hình thành tỷ giá hối đoái.
3. Thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối.
3.1. Những nhà tạo giá sơ cấp.
Những nhà tạo giá trên thị trường sơ cấp hay còn gọi là những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, những nhà tạo thị trường, tạo giá cho nhau trên cơ sở yết giá hai chiều. Khi được yêu cầu, họ sẽ yết đồng thời cả gía mua và giá bán ra. Và sẵn sàng mua vào bán ra với số lượng hợp lý theo giá đã được yết. Những nhà tạo giá sơ cấp bao gồm:
+ Các ngân hàng thương mại chính.
+ Các nhà kinh doanh đầu tư lớn.
+ Một số công ty lớn.
Xét về góc độ lịch sử thì các ngân hàng là người đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo giá trên thị trường. Các ngân hàng cung cấp một số lượng lớn các dịch vụ tài chính cho đội ngũ khách hàng rộng lớn của mình. Các hoạt động thị trường ngoại hối là một bộ phận khăng khít không thể tách rời các dịch vụ tài chính. Do đó, điều này đã cho phép các ngân hàng duy trì và phát triển vị trí trụ cột của mình trên thị trường ngoại hối. Song cuộc cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt từ phía các nhà kinh doanh đầu tư, các công ty đa quốc gia và các nhà quản lý tài chính đã dần dần giảm bớt vai trò chủ đạo của các ngân hàng. Với tư cách kinh doanh cho khách hàng và cho chính mình, mục đích các NHTM tham gia vào thị trường hối đoái nhằm:
+ Cung cấp dịch vụ mua bán ngoại tệ một cách tốt nhất cho khách hàng để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Quản lý và duy trì trạng thái ngoại hối ở vị thế chủ động nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trong quá trình thực hiện hai mục đích trên, ngân hàng đã tạo thêm phần lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận của ngân hàng thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ.
+ Ngoài ra, các NHTM còn huy động và cho vay ngoại tệ dựa trên lãi suất do NHTW quy định hay dựa trên cung cầu về ngoại tệ trên thị trường tiền gửi.
3.2. Những nhà tạo giá thứ cấp.
Những nhà tạo giá thứ cấp bao gồm những thành viên tham gia tạo giá ngoại hối nhưng không dựa trên cơ sở yết giá hai chiều. Ví dụ, rất nhiều các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khách sạn, nhà hàng thường chấp nhận ngoại tệ trong thanh toán. Một số công ty có thể chuyên mua bán lẻ ngoại hối cho công chúng. Họ thường yết tỷ giá sao cho chênh lệch giữa tỷ giá mua vào và bán ra là rất lớn. Khi có nhu cầu ngoại hối bổ sung hoặc khi có dư thừa ngoaị hối tạm thời họ giao dịch với những nhà tạo thị trường sơ cấp.
3.3. Những nhà chấp nhận giá.
Những nhà chấp nhận giá chấp nhận giá mà các nhà tạo thị trường sơ cấp và thứ cấp đưa ra và tiến hành giao dịch phục vụ cho mục đích của riêng mình, bao gồm: các công ty, chính phủ, các ngân hàng nhỏ, các cá nhân và các tầng lớp xã hội khác.
3.4. Những nhà cung cấp dịch vụ tư vấn.
Thời điểm quyết định mua vào hay bán ra có tính chất quyết định đến việc thành bại trong kinh doanh ngoại hối; có nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới hoạt động nhằm mục đích tư vấn cho khách hàng về việc mua đồng tiền nào, bán đồng tiền nào và vào thời điểm nào, tư vấn chiến lược cho khách hàng. Trên cơ sở cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng, các tổ chức dịch vụ thường thu một khoản phí. Tuy nhiên, trong một số trường hợp phí dịch vụ được ăn chia theo tỷ lệ lãi đã thoả thuận với khách hàng. Các hình thức cung cấp dịch vụ tư vấn:
+ Cung cấp các thông tin cập nhật, thường xuyên trên mạng Reuters, Telerte, hoặc Knight-Ridder.
+ Gửi các thông tin tổng hợp hàng ngày đến khách hàng bằng các bản Fax hay Telex.
+ Gửi tới khách hàng các bản tin định kỳ bao gồm các thông tin tổng hợp của thị trường và những phân tích thị trường cũng như các nhận xét và các lời khuyên.
+ Chỉ gửi tới khách hàng với những lời khuyên quả quyết rằng nên mua hay nên bán đồng tiền nào…
Hầu hết các ngân hàng lớn và các nhà kinh doanh chính cũng cung cấp các dịch vụ tư vấn ngoại hối cho khách hàng của mình. Nếu không thu phí trực tiếp thì ngân hàng cũng thu phí gián tiếp thông qua các dịch vụ sinh lời khác mà khách hàng đã sử dụng từ ngân hàng, đó là một cách xây dựng quan hệ tốt với khách hàng nhằm tăng thị phần của ngân hàng.
3.5. Những nhà môi giới hưởng hoa hồng.
3.6. Những nhà đầu cơ.
3.7. Ngân hàng trung ương.
4. Hàng hoá của thị trường ngoại hối.
- Tiền nước ngoài như : tiền giấy, tiền kim loại;
- Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi bưu điện và các công cụ thanh toán khác;
- Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
- Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung Châu âu, các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực;
- Vàng tiêu chuẩn quốc tế;
- Đồng tiền đang lưu hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế.
5. Các nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của thị trường ngoại hối
5.1. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối giao ngay.
Kinh doanh ngoại hối giao ngay là giao dịch mua bán một số lượng ngoại tệ giữa hai bên theo tỷ giá thời điểm giao dịch và kết thúc việc thanh toán trong 2 ngày làm việc tiếp theo kể từ thời điểm giao dịch đã được thoả thuận giữa hai bên.
Giao dịch giao ngay là loại hình giao dịch quan trọng và phổ biến trên thị trường ngoại hối, 58% trong tổng số các giao dịch mua bán ngoại tệ trên Thế giới và làm cơ sở cho các giao dịch khác. Còn ở Việt Nam hiện nay, giao dịch này chiếm trên 90% khối lượng giao dịch hối đoái.
Nghiệp vụ hối đoái giao ngay được ngân hàng thực hiện khi:
- Có nhu cầu của khách hàng: thông thường nghiệp vụ giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng.
- Ngân hàng thực hiện đầu cơ: giả sử ngân hàng dự đoán tỷ giá của một đồng tiền sẽ tăng trong thời gian tới, ngân hàng sẽ mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay của một ngân hàng khác. Khi tỷ giá thay đổi theo đúng dự đoán, ngân hàng có thể bán giao ngay số tiền đầu cơ đó để thu chênh lệch. Ngoài ra, nghiệp vụ giao ngay được sử dụng kết hợp với các nghiệp vụ khác trong hoạt động đầu cơ chênh lệch lãi suất.
* Giao dịch ngoại tệ tiền mặt.
Thị trường ngoại tệ tiền mặt, bao gồm: ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch và thẻ tín dụng, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên thị trường ngoại hối nói chung, nhưng ngoại tệ tiền mặt ngoại tệ tiền mặt lại là dạng ngoại hối quen thuộc nhất của dân chúng.
* Giao dịch chuyển khoản giao ngay.
Giao dịch ngoại hối chuyển khoản giao ngay bao gồm việc trao đổi hai đồng tiền trên các tài khoản khác nhau tại ngân hàng, và với doanh số giao dịch lớn hơn gấp nhiều lần so với giao dịch ngoại tệ tiền mặt. Tỷ giá giao ngay được xác định trên thị trường ngoại hối giao ngay biểu diễn số lượng của một đồng tiền này trên một đơn vị đồng tiền khác và cả hai đồng tiền này đều ở dạng tiền gửi ngân hàng (trên tài khoản). Tiền gửi được chuyển từ tài khoản người bán sang tài khoản tiền gửi của người mua thông qua các lệnh chuyển tiền bằng điện tín, hối phiếu…Ngày giá trị trong giao dịch giao ngay là sau hai ngày làm việc kể từ ngày ký kết hợp đồng.
Tỷ giá giao ngay được xác định theo quy luật của các đồng tiền tham gia giao dịch trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng toàn cầu.
Thị trường giao ngay được biết đến như là thị trường rất sôi động, giao dịch với khối lượng tiền cực lớn và với tốc độ giao dịch nhanh như chớp nhằm tận dụng những cơ hội chênh lệch về tỷ giá dù là cực nhỏ.
5.2. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Acbit (Arbitrage).
Nghiệp vụ Acbit là một dạng biến tướng của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ giao ngay. Theo ý nghĩa nguyên thuỷ, nghiệp vụ Acbit là việc lợi dụng chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua hoạt động mua bán.
Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm việc mua một lượng ngoại tệ nhất định tại một thị trường hối đoái rẻ nhất hoặc bán một lượng ngoại tệ ở thị trường đắt nhất vào một thời điểm nhất định.Việc mua với tỷ giá thấp và bán với tỷ giá cao gọi là Acbit chênh lệch hay Acbit không gian. Mục đích của việc kinh doanh ngoại tệ chênh lệch là để bảo toàn vốn và kiếm lời nhờ chênh lệch giá tại các thị trường khác nhau.
* Nghiệp vụ Acbít cân bằng: là việc mua một lượng ngoại tệ tại một thị trường rẻ nhất và bán ở một thị trường đắt nhất vào một thời điểm.
* Nghiệp vụ Acbit chênh lệch: là việc mua ngoại tệ ở đồng thời ba thị trường khác nhau. Nghiệp vụ này thực hiện khi có sự khác biệt tỷ giá chéo giữa hai thị trường và theo nguyên tắc mua ở nơi rẻ nhất và bán ở nơi đắt nhất.
* Nghiệp vụ Acbit lãi suất: là sự lợi dụng về chênh lệch lãi suất của các đồng tiền khác nhau ở các thị trường hối đoái khác nhau để kiếm lời thông qua hoạt động đi vay và cho vay, gồm: Acbit lãi suất không được bù đắp rủi ro và Acbit lãi suất bù đắp rủi ro.
Trong những năm 60, nghiệp vụ Acbit rất phát triển (chiếm tới 40% tổng lợi nhuận kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng) do tình trạng thiếu các phương tiện thông tin giữa các trung tâm kinh doanh ngoại hối. Ngày nay, do ảnh hưởng của các cuộc cách mạng công nghệ, các phương tiện thông tin hiện đại đã làm cho các hoạt động trên thị trường ngoại hối trở nên thông suốt hơn trên phạm vi toàn thế giới. Khái niệm Acbit chỉ kéo dài trong vòng vài phút và có thể chỉ trong vòng vài giây do yếu tố cung cầu đến bất ngờ trong từng thời điểm của thị trường. Nếu không tận dụng thời cơ đó thì nghiệp vụ Acbit không thể thực hiện được. Do vậy, nghiệp vụ Acbít không còn ý nghĩa lớn trong việc kinh doanh ngoại tệ nữa.
Khái niệm Acbit ngày nay được hiểu là việc mua bán ngoại tệ nhằm thu ngoại tệ từ sự chênh lệch tỷ giá mua bán, nhưng hai nghiệp vụ đối ứng này không phát sinh cùng một thời điểm mà thông thường liên quan đến những phát sinh khi cân đối ngoại tệ .
Điều kiện để thực hiện Acbit là:
Trước hết, ngân hàng phải là thành viên của hệ thống thông tin điện tử. Ở đó, ngân hàng có thể đưa ra tỷ giá chào mua, chào bán của mình và theo dõi sự biến động tỷ giá ở các thị trường khác nhau.
Thứ hai, cán bộ kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng phải có trình độ phản ứng linh hoạt với thị trường, phải nắm bắt rõ tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, phải dự đoán được phản ứng của thị trường và đưa ra được tỷ giá cho ngân hàng của mình.
5.3. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối kỳ hạn (Forward).
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là nghiệp vụ kinh doanh, trong đó, các yếu tố của giao dịch (tỷ giá, số tiền, ngày giao dịch) được xác định ở thời điểm hiện tại, còn việc thực hiện chúng thì ở một thời điểm trong tương lai. Hay nói cách khác, đó là việc mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận sẽ tiến hành sau một thời gian nhất định, theo một tỷ giá thoả thuận lúc ký kết hợp đồng.
Tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá được thoả thuận nay hôm nay (ngày ký kết hợp đồng-J) để làm cơ sở cho việc trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định trong tương lai (J+N). Còn hợp đồng kỳ hạn được coi như một công cụ để mua hoặc để bán một lượng ngoại tệ nhất định, với một tỷ giá nhất định, tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Khác với nghiệp vụ mua bán giao ngay là kinh doanh chênh lệch giá để kiếm lời, nghiệp vụ mua bán kỳ hạn chủ yếu là để phòng ngừa rủi ro do biến động của tỷ giá tại thời điểm chuyển đổi quyền sở hữu về tài sản hữu hình của các chủ thể trong nước và nước ngoài với tỷ giá tại thời điểm thanh toán giao dịch trong tương lai.
Với tư cách là một công cụ phòng chống rủi ro, hợp đồng kỳ hạn được sử dụng để cố định khoản thu nhập hay chi trả theo một tỷ giá cố định đã biết trước, bất kể sự biến động của tỷ giá trên thị trường. Có nghĩa là, khi nhà nhập khẩu có nhu cầu chi trả một khoản tiền trong tương lai mà họ dự đoán được tương lai tỷ giá sẽ tăng thì ngay bây giờ họ sẽ mua ngoại tệ có kỳ hạn, dùng đồng bản tệ mua trước một khoản ngoại tệ mà họ chưa cần giao ngay. Ngược lại, họ bán ngoại tệ có kỳ hạn sẽ giúp cho các nhà xuất khẩu bán trước một khoản ngoại tệ mà họ sẽ nhận được trong tương lai, nhằm loại trừ rủi ro xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ có thể giảm giữa thời điểm ký hợp đồng và thời điểm nhận tiền thực sự.
Bên cạnh việc phòng chống rủi ro, việc mua bán ngoại tệ có kỳ hạn còn nhằm mục đích sinh lời dựa vào sự biến động của tỷ giá. Trong trường hợp đó, người mua và người bán cũng sẵn sàng chấp nhận rủi ro hối đoái: người mua ngoại tệ có hy vọng rằng họ có thể bán lại bằng nghiệp vụ giao ngay để liếm lời tại thời điểm họ nhận được ngoại tệ, người bán cũng hy vọng mua lại số ngoại tệ đó bằng nghiệp vụ giao ngay với giá rẻ hơn tại thời điểm kết thúc giao dịch có kỳ hạn mà họ vừa bán ngoại tệ.
Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ kỳ hạn là :
- Có các quy định của pháp luật về xác định tỷ giá kỳ hạn, phí hợp đồng….
- Khách hàng biết đến nghiệp vụ này của ngân hàng và có các yêu cầu thực hiện nó nhằm tránh rủi ro do những biến động bất thường của tỷ giá ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng.
- Khả năng của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nếu ngân hàng chỉ thực hiện một nghiệp vụ đơn lẻ, ngân hàng có thể phải gánh chịu một rủi ro hối đoái thay cho khách hàng của mình. Với mối quan hệ của ngân hàng với các khách hàng và với ngân hàng là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ đối ứng loại trừ rủi ro.
Gọi: F = Tỷ giá kỳ hạn.
S = Tỷ giá giao ngay;
= Mức lãi suất của đồng tiền định giá (Terms Currency);
= Mức lãi suất của đồng tiền yết giá (Commodity Currenrcy);
t = Thời hạn của hợp đồng kỳ hạn.
Công thức tổng quát xác định tỷ giá kỳ hạn như sau:
5.4. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng tương lai.
Hợp đồng tương lai là một thoả thuận về việc bán một tài sản trong tương lai tại một mức giá cố định. Giá cả được thoả thuận hôm nay nhưng việc giao nhận tài sản và thanh toán xảy ra sau này.
Các hợp đồng tương lai được sử dụng để phòng ngừa rủi ro và đầu cơ. Đây là loại hợp đồng đã được tiêu chuẩn hoá và được thực hiện trên sàn giao dịch của Sở giao dịch tiền tệ tương lai. Các công ty, các cá nhân và cả các ngân hàng tạo thị trường gửi các lệnh đặt mua hay đặt bán một số lượng cố định ngoại hối cho các nhà môi giới hay các thành viên của sở giao dịch tiền tệ tương lai và các lệnh này được đối chiếu với nhau. Tại sở giao dịch, các lệnh đặt mua hay còn gọi là trạng thái trường được đối chiếu với các lệnh đặt bán hay còn gọi là trạng thái đoản. Một công ty thanh toán bù trừ của sở giao dịch đảm bảo cho cả hai bên mua và bán rằng các lệnh mua và ban khi đã được đối chiếu và khớp với nhau sẽ chắc chắn được thực hiện. Cung cầu về các hợp đồng tương lai được thể hiện thông qua việc các đối tác sẵn sàng mua hay bán các hợp đồng, điều này làm cho giá cả hợp đồng biến động theo giá của các lệnh đặt mua hay bán. Mặt khác, giá cả biến động làm cho các hợp đồng mua và bán được khớp với nhau.
Điều bắt buộc trong giao dịch tương lai là cả người mua và bán đều phải có một khoản ký quỹ và phải trả các phí giao dịch. Khoản ký quỹ ban đầu thông thường có giá trị bằng 4% giá trị của hợp đồng và được chấp nhận bằng tiền mặt và các trái phiếu chính phủ. Khoản ký quỹ được duy trì trên tài khoản mở tại nhà môi giới và nhà môi giới lại phải ký quỹ tại nhà thanh toán bù trừ của Sở giao dịch.
Hợp đồng tương lai có các đặc điểm sau:
- Các hoạt động trên thị trường hối đoái tương lai không được tất toán trực tiếp giữa người mua và người bán. Những hợp đồng được duy trì cho đến ngày đáo hạn sẽ được thanh toán như các hợp đồng kỳ hạn.
- Hợp đồng giao sau như một công cụ thực hiện đầu cơ, đồng thời cũng là một cách phòng chống rủi ro tín dụng và rủi ro hối đoái. Do giá cả được xác định ngay tại thời điểm hiện tại nên hạn chế được rủi ro hối đoái, còn rủi ro tín dụng được phòng ngừa bằng các biện pháp ký quỹ, tài khoản ký quỹ được điều chỉnh hàng ngày theo mức độ lãi lỗ của hợp đồng.
5.5. Nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi tiền tệ (Swap).
Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ là một nghiệp vụ đặc biệt kết hợp giữa việc mua trao ngay và bán theo thể thức các kỹ thuật cổ truyền khi kết thúc các giao dịch có kỳ hạn nhằm bảo toàn vốn, lợi dụng những thay đổi hiện tại và sự đoán chênh lệch lãi suất để tránh rủi ro và kiếm lời. Đây là hình thức, cùng một lúc, ngân hàng đồng thời thực hiện hai nghiệp vụ: một giao dịch giao ngay theo tỷ giá giao ngay và một giao dịch kỳ hạn theo hướng ngược lại được thực hiện cùng với một tài khoản đối ứng với cùng một bạn hàng. Phí tổn của giao dịch phụ thuộc vào chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền tính theo số ngày trên cơ sở tỷ giá giao ngay.
Đặc điểm:
- Hợp đồng mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định được ký kết tại đồng thời tại ngày hôm nay;
- Số lượng mua vào và bán ra của đồng tiền này là bằng nhau;
- Ngày giá trị của hợp đồng mua vào và ngày giá trị của hợp đồng bán ra là khác nhau.
Qua đặc điểm trên ta thấy:
+ Giao dịch hoán đổi tiền tệ không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng, nhưng lại tạo ra độ lệch về mặt thời gian (sự không cân xứng) về các luồng tiền xảy ra.
+ Giao dịch hoán đổi tiền tệ bao gồm hai loại:
A/ Một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn (Spot-Forward Swap).Ví dụ:
Mua (bán) USD giao ngay Bán (mua)USD kỳ hạn.
B/ Cả hai giao dịch đều là giao dịch kỳ hạn được ký kết đồng thời tại ngày hôm nay, nhưng có ngày giá trị khác nhau (Forward- Forward Swap).Ví dụ:
Ký kết Mua (bán) USD Bán (mua)
hợp đồng kỳ hạn có kỳ hạn
Hôm nay Hợp đồng F1 Hợp đồng F2
Khác với nghiệp với giao ngay và nghiệp vụ kinh doanh có kỳ hạn, ngân hàng mới chỉ hoạt động một chiều để phục vụ khách hàng của mình, nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay hay tỷ giá kỳ hạn mà không đồng thời thoả thuận với khách hàng một nghiệp vụ đối ứng bán hoặc mua lại. Do đó, ngân hàng không chắc chắn có thể cân bằng trạng thái ngoại hối của mình ngay sau thời điểm giao dịch đó, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên do số lượng tiền mua và bán luôn bằng nhau.
Các giao dịch Swap cũng được các ngân hàng sử dụng tích cực trong việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Bởi vì , với vai trò là nhà tạo thị trường, ngân hàng thường sở hữu rất nhiều hợp đồng có các ngày giá trị khác nhau với các đồng tiền khác nhau. Tại một số ngày giá trị và với một số đồng tiền nhất định, ngân hàng có thể ở trạng thái trường, tức là ngân hàng đã cam kết mua vào nhiều hơn là bán ra. Tại những ngày giá trị khác và với các đồng tiền khác, ngân hàng lại ở trạng thái đoản, tức là ngân hàng đã cam kết bán ra nhiều hơn mua vào. Các giao dịch hoán đổi giúp ngân hàng giảm được rủi ro tỷ giá. Ngoài ra các ngân hàng có thể sử dụng giao dịch hoán đổi tuần hoàn (rollover swaps) nhằm hoán đổi trạng thái dư thừa và thiếu hụt đối với từng loại ngoại tệ.
Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ Swap cũng tương tự như nghiệp vụ kỳ hạn, tuy nhiên có nhiều ưu điểm hơn so với nghiệp vụ kỳ hạn với một số đặc điểm sau:
- Một doanh nghiệp vừa hoạt động xuất khẩu vừa hoạt động nhập khẩu. Doanh nghiệp này vừa nhận một khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu. Họ muốn đổi nội tệ để chi trả trong nước. Tuy nhiên, họ laị có nhu cầu ngoại tệ để chi trả trong tháng tới cho hàng nhập khẩu. Thay vì ký hợp đồng bán ngoại tệ giao ngay và hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn, doanh nghiệp này sẽ sử dụng giao dịch Swap, như vậy doanh nghiệp sẽ tránh được rủi ro hối đoái vừa giảm được chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng.
- Đối với NHTM, Swap là công cụ hữu hiệu tạo ra trạng thái vốn của hai đồng tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại hối. Vì vậy, giao dịch này trong thực tế thường được các ngân hàng thực hiện với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không phải đi vay trên thị trường. Nghiệp vụ Swap còn giúp cho các ngân hàng cân bằng được sự cân đối về hối đoái trong các nghiệp vụ tiền gửi và tiền vay.
5.6. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng quyền chọn (Option).
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ cho phép người mua hợp đồng có quyền (không phải nghĩa vụ) mua hoặc bán tiền tệ tại một mức tỷ giá đã thoả thuận trước (gọi là tỷ giá quyền chọn) trong tương lai.
Do quyền chọn là một tài sản chính nên nó có giá trị, vì thế trong hợp đồng này, người mua phải trả cho người bán một khoản đảm bảo, thông qua đó, người mua được quyền mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó. Mặt khác họ có thể chối bỏ quyền lựa chọn của mình nếu thấy bất lợi. Nếu huỷ hợp đồng, họ sẽ mất tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng nhưng số tiền mất này nhỏ hơn nhiều so với việc thực hiện giá trị hợp đồng. Ngược lại, đối với người bán hợp đồng quyền chọn không có bất kỳ sự lựa chọn nào khác ngoài việc sẵn sàng giao dịch khi người mua muốn, họ phải chịu rủi ro không hạn mức khi tỷ giá biến đổi không thuận lợi cho anh ta.
Như vậy, hợp đồng quyền chọn là một công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho các nhà đầu tư, nhà nhập khẩu, tham gia vào thị trường quyền chọn ngoài các ngân hàng, các nhà nhập khẩu còn có các tổ chức kinh tế có ngoại tệ trên tài khoản. Trong mỗi hợp đồng quyền chọn đều có hai đối tác tham gia đó là: người bán hợp đồng và người mua hợp đồng. Người bán hợp đồng là người bán quyền chọn bán hoặc bán quyền chọn mua, ngược lại, người mua hợp đồng là người mua quyền chọn mua hoặc mua quyền chọn bán.
- Quyền chọn mua (Call option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người mua có quyền nhưng không bắt buộc mua một số lượng ngoại tệ (đồng tiền yết giá) ở một mức giá và trong thời gian xác định, nó tương đương với hợp đồng quyền chọn bán đồng tiền định giá.
- Quyền chọn bán (Put option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền nhưng không bắt buộc được bán một số lượng ngoại tệ (đồng tiền yết giá) ở một mức giá và trong thời hạn xác định trước, nó tương đương với hợp đồng quyền chọn mua đồng tiền định giá.
Nghiệp vụ kinh doanh quyền chọn vừa là công cụ phòng chống rủi ro do sự biến động bất lợi của tỷ giá mà còn là công cụ dùng để đầu cơ tạo khả năng kiếm lợi rất ưa chuộng, là sự kết hợp nhiều nên khắc phục được nhược điểm của các công cụ khác như Swap, kinh doanh theo kỳ hạn.
Tuy nhiên, để có thể sử dụng hiệu có hiệu quả loại công cụ này đòi hỏi thị trường phải phát triển hoàn chỉnh, cập nhật thông tin, các chủ thể tham gia thị trường phải có khả năng và điều kiện để phân tích thị trường, dự đoán biến động của thị trường. Hiện nay, do thị trường hối đoái trong nước còn hạn chế, phát triển chưa đồng bộ, thiếu thông tin cập nhật nên NHTW mới chọn một số ngân hàngthương mại quốc doanh để thí điểm nghiệp vụ kinh doanh này.
II. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM).
1. Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1. Khái niệm về NHTM.
Theo điều 20 luật NHTM và các tổ chức tín dụng ngày 12/11/1997: NHTM là một loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM .
Trong nền kinh tế thị trường NHTM thực hiện các hoạt động cơ bản:
+ Huy động vốn (nghiệp vụ nợ)
+ Cho vay và đầu tư (nghiệp vụ có)
+ Nghiệp vụ trung gian.
Để có thể tiến hành được các nghiệp vụ kinh doanh của mình thì ngoài phần vốn ban đầu các NHTM phải tiến hành các nghiệp vụ huy động vốn bằng cả nội tệ và ngoại tệ từ tất cả các thành phân kinh tế không phân biệt nguồn gốc. Đây là nghiệp vụ cơ ._.bản đầu tiên tạo tiền đề để thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Các NHTM tiến hành huy động vốn để thực hiên nghiệp vụ tín dụng từ đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng thông qua chênh lệ lãi suất. Lợi nhuận của ngân hàng còn được hình thành từ nghiệp vụ kinh doanh khác như: trung gian thanh toán, trung gian bảo lãnh, đầu tư, môi giới... bên cạnh đó ngân hàng thương mại còn là trung gian tài chính lớn nhất của nền kinh tế. Có vai trò không thể thiếu được trong sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, cung cấp tất cả các dịch vụ đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
2. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
2.1. Khái niệm.
Kinh doanh ngoại tệ theo nghĩa rộng bao gồm việc mua bán ngoại tệ, đảm bảo ổn dịnh số dư tài khoản kinh doanh ngoại tệ tại nước ngoài và tìm cách thu lời thông qua chênh lệ tỉ giá và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau. Theo nghĩa hẹp, kinh doanh ngoại tệ chỉ đơn giản là việc mua bán số dư trên tài khoản bằng ngoại tệ. Kinh doanh ngoại tệ bao gồm kinh doanh ngoại tệ tiền mặt và kinh doanh ngoại tệ chuyển khoản.
+ Kinh doanh ngoại tệ tiền mặt: (đồng tiền của một quốc gia khác hoặc đồng tiền chung của nhiều quốc gia dưới dạng ngoại tệ bằng kim loại, tiền giấy, hoặc séc du lịch và các công cụ thanh toán khác) chủ yếu liên quan đến hoạt động du lịch và có doanh số giao dịch rất nhỏ so với kinh doanh ngoại tệ chuyển khoản.
+ Kinh doanh ngoại tệ chuyển khoản được thực hiện nhờ vào các lệnh chuyển qua mạng thông tin thanh toán. Những lệnh này chỉ định việc ghi Có vào tài khoản của một đồng tiền nước này và ghi Nợ vào tài khoản của một đồng tiền nước khác. Tiền gửi được chuyển từ tài khoản của người bán sang tài khoản của người mua thông qua các lệnh chuyển tiền bằng điện tín, hối phiếu ...
Trên thực tế, kinh doanh ngoại tệ tiền mặt và kinh doanh ngoại tệ chuyển khoản có quan hệ chặt chẽ với nhau vì ngân hàng có thể chuyển ngoại tệ tiền mặt sang ngoại tệ chuyển khoản và ngược lại.
2.2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
- Kinh doanh ngoại tệ là kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro. Các loại rủi ro thường gặp trong kinh doanh ngoại tệ là: rủi ro về tỷ giá và rủi ro về lãi suất.
+ Rủi ro về tỷ giá: Là loại rủi ro đặc trưng trong kinh doanh ngoại tệ. Nó sẽ xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái ngoại tệ nào đó thừa hoặc thiếu. Khi ngoại tệ này lên giá thì trạng thái thừa sẽ có lợi, còn trạng thái ngoại tệ thiếu sẽ bất lợi và ngược lại. Trong quá trình kinh doanh mua bán hàng ngày, trạng thái ngoại tệ luôn biến động nên ngân hàng luôn có khả năng gặp rủi ro do sự biến động của tỷ giá.
+ Rủi ro về lãi suất: So với rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lãi suất ít có ý nghĩa hơn nhưng với khối lượng tín dụng lớn thì cũng gây ra những thiệt hại đáng quan tâm. Do các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM nước ta còn đơn giản (chủ yếu là nghiệp vụ giao ngay, nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi ít sử dụng, nghiệp vụ quyền chọn hầu như không có) nên ảnh hưởng chưa rõ nét.
- Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động phức tạp, là hoạt động đặc trưng trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, để thực hiện việc kinh doanh ngoại tệ thì yêu cầu phải có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại .
- Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động có mức rủi ro cao, một lĩnh vực kinh doanh rất khắt khe, đòi hỏi nhà kinh doanh phải có đủ chuyên môn về nhiều lĩnh vực, có kỹ năng giao dịch, có trình độ quản lí và khả năng nắm bắt thị trường một cách linh hoạt. Nhà kinh doanh phải có trí tuệ cao cùng với những nỗ lực thường xuyên để xác định những gì xảy ra trên thị trường và dự đoán những gì xảy ra trong tương lai.
Với những diễn biến của thị trường, sự thay đổi tỷ giá liên tục đòi hỏi nhà kinh doanh ngoại tệ phải có tâm lý vững vàng, trí tuệ tốt và tự tin. Những năng lực về kỹ thuật, công nghệ thông tin, chuyên môn, kinh nghiệm luôn được xem là những nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh trên thị trường hối đoái.
2.3. Các rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ mà NHTM gặp phải.
Trong hoạt động ngoại hối, do sự khác biệt về tiền tệ dẫn đến sự khác biệt về tỷ giá, lãi suất và cung cầu ngoại tệ trên thị trường cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới trạng thái ngoại tệ của một NHTM. Bất cứ một thành viên nào tham gia vào thị trường hối đoái cũng phải gánh chịu một số rủi ro. Giữa rủi ro và lợi nhuận luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu được càng lớn và ngược lại.
Trạng thái ngoại hối của một ngân hàng phản ánh bốn hoạt động của ngân hàng trên thị trường ngoại hối là:
* Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán các hợp đồng ngoại thương;
* Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm mục đích thực hiện đầu tư nước ngoài trực tiếp hay gián tiếp;
* Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng tiền đó để giảm rủi ro ngoại hối;
* Mua và bán ngoại tệ mhằm mục đích đầu cơ trong việc dự tính sự biến động của tỷ giá.
Hai hoạt động đầu, ngân hàng thường thực hiện cho khách hàng để thu phí, và do đó, rủi ro ngoại hối ngân hàng không phải gánh chịu. Hoạt động thứ 3, ngân hàng tiến hành nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, tức là làm giảm rủi ro. Như vậy, rủi ro ngoại hối thực chất chỉ liên quan đến trạng thái ngoại hối mở (open position) đối với những hoạt động mua bán mang tính đầu cơ (unhedged position), tức là hoạt động 4. Trạng thái ngoại hối mở thường được thực hiện trong các giao dịch giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường ngoại hối và đặc biệt là đối với những NHTM và NH đầu tư lớn là những ngân hàng tạo thị trường bằng cách yết tỷ giá mua bán hai chiều (Bid-Ask) đối với các ngoại tệ giao dịch.
Những rủi ro mà NHTM gặp phải trong kinh doanh ngoại tệ là:
2.3.1. Rủi ro do biến động tỷ giá:
Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế quốc tế, đặc trưng bởi sự thả nổi của các đồng ngoại tệ và luôn có sự biến động lớn về tỷ giá hối đoái thì việc quản lý, kiểm soát rủi ro hối đoái càng trở nên cần thiết hơn. Sự quản lý này có mục đích hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra khi biến động tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến nguồn thu nhập bằng ngoại tệ của doanh nghiệp. Trong quá trình giao dịch hối đoái rủi ro tỷ giá xuất hiện dưới hai dạng:
+ Trong trạng thái hối đoái thực: xảy ra khi duy trì trạng thái hối đoái thực của một đồng tiền nhất định. Nếu như trạng thái hối đoái thực là dư thừa đồng tiền đó hay mua vào nhiều bán ra mà đồng tiền đó bị giảm giá thì chắc chắn bị rủi ro thua lỗ. Mặt khác nếu đồng tiền đó lên giá, sẽ thu được lợi nhuận bằng cánh chuyển đổi tỷ giá.
Trạng thái ngoại hối ròng của một ngoại tệ được tính như sau:
Trạng thái ngoại hối ròng = (tài sản có ngoại tệ i – tài sản nợ ngoại tệ i) + (doanh số mua vào i - doanh số bán ra i) = (trạng thái ngoại hối tài sản có ròng i + trạng thái ngoại hối mua vào ròng i).
Trong đó: i là thứ tự ngoại tệ.
Do vậy, rủi ro ngoại hối còn phụ thuộc vào hướng và mức độ biến động của tỷ giá hối đoái, tức là:
Lãi/lỗ đối với ngoại tệ i = (trạng thái ngoại hối ròng của ngoại tệ i) x (mức biến động của tỷ giá ngoại tệ i).
Nếu ngân hàng duy trì một trạng thái ngoại hối ròng với bất kỳ ngoại tệ nào thì khi tỷ giá của nó biến động càng lớn thì khả năng thu được lợi nhuận (hay lỗ) cũng càng lớn.
Từ công thức trên ta thấy, đối với một ngân hàng, để tránh được rủi ro ngoại hối có thể làm bằng cách cân xứng giữa doanh số mua vào và doanh số bán ra đối với từng loại ngoại tệ. Hoặc là, làm đảm cho trạng thái ngoại hối ròng của tài sản có và trạng thái ngoại hối ròng của ngoại tệ mua vào có dấu ngược nhau đối với từng loại ngoại tệ. Các tỷ giá và các lãi suất giữa các quốc gia (giữa các đồng tiền) có mối tương quan không chặt chẽ với nhau, do vậy, ngân hàng có thể tận dụng đặc điểm này bằng cách đa dạng hoá cơ cấu tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ nhằm giảm rủi ro ngoại hối.
+ Trong trạng thái Swap hoặc các kỳ hạn không tương ứng: rủi ro xảy ra khi có sự mất cân đối về kỳ hạn. Vì lãi suất dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn nên người ta thường vay ngắn hạn để cho vay dài hạn nhằm tìm lãi chênh lệch. Tuy nhiên, khi có sự khủng hoảng về tiền gửi của khách hàng hay các khoản vay ngắn hạn đồng loạt đến hạn trả thì ngân hàng không có đủ nguồn để đảm bảo.
2.3.2. Rủi ro tín dụng.
Rủi ro đầu tiên là rủi ro phát sinh khi các bên tham gia gặp khó khăn về tài chính, sự thua lỗ của các bên đối tác có thể xảy ra trong thời hạn hợp đồng ít nguy hiểm hơn là rủi ro xảy ra vào ngày tới hạn. Rủi ro tín dụng nghiêm trọng hơn là trong trường hợp bên tham gia hợp đồng cũng là ngân hàng phá sản vào ngày thanh toán và sau khi các bước giao dịch đầu tiên kết thúc.
Rủi ro này sẽ được hạn chế khi tìm hiểu kỹ khả năng tài chính của từng khách hàng bằng cách thiết lập các điều khoản huỷ bỏ hợp đồng, cũng như đòi hỏi một khoản tiền bảo hiểm theo một tỷ lệ phần trăm nhất định tuỳ theo mức độ tín nhiệm.
2.3.3. Rủi ro thanh toán.
Các NHTM thường gặp phải rủi ro này khi đến hạn thanh toán các hợp đồng mà các bên đối tác không có khả năng hoặc mất khả năng thanh toán.
Thực tiễn cho thấy, công tác quản lý rủi ro hối đoái đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM. Tăng cường quản lý rủi ro hối đoái sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động của ngân hàng trên thị trường hối đoái có hiệu quả hơn, kinh doanh có lãi, bảo toàn vốn và giảm thiểu rủi ro.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
Kinh doanh ngoại tệ của NHTM là một hoạt động rất khó khăn và phức tạp, gắn bó chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, vì thế nó chịu tác động của nhiều nhân tố như:
3.1. Những nhân tố từ nội tại bản thân ngân hàng:
Mỗi ngân hàng đều có khả năng kiểm soát được những nhân tố thuộc về chủ quan ngân hàng đó, đó là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Các nhân tố đó là cơ sở vật chất, trình độ của cán bộ, nhân viên ngân hàng, chiến lược kinh doanh, mục tiêu phát triển, uy tín của ngân hàng, mạng lưới khách hàng và khả năng của ban lãnh đạo….
Để tiến hành kinh doanh ngoại tệ được thì đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có hệ thống mạng xử lý thông tin giao dịch. Nhờ vào hệ thống này mà các nhân viên kinh doanh ngoại tệ có thể nắm bắt được thông tin, tình hình diễn biến trên thị trường, theo dõi sự thay đổi liên tục của tỷ giá trên các thị trường quốc tế….Bên cạnh đó, yếu tố về nguồn nhân lực cũng không kém phần quan trọng, đòi hỏi phải có những cán bộ có kinh nghiệm vừa có nghiệp vụ chuyên môn cao, khả năng nắm bắt thị trường kinh hoạt, nhạy bén đồng thời phải có nhân viên giao dịch có khả năng tư vấn cho khách hàng…bởi lẽ các quyết định của họ có thể làm lợi rất lớn cũng như gây thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, ngân hàng càng đáp ứng nhu cầu thì ngân hàng càng thu hút nhiều khách hàng đến giao dịch và uy tín cùng vị thế của ngân hàng càng được nâng cao. Mặt khác, một ngân hàng mà có nhiều khách hàng có nhu cầu thanh toán quốc tế thì ngân hàng đó càng có điều kiện để phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ, khả năng tiếp cận với ngân hàng nước ngoài rất lớn… Vì vậy, xây dựng một chiến lược khách hàng đúng đắn và hợp lý là công tác không thể thiếu đối với bất kỳ một ngân hàng nào.
3.2. Chính sách quản lý ngoại hối quốc gia.
Chính sách quản lý ngoại hối quốc gia là những quy định pháp lý, những thể lệ của Nhà nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, vàng bạc, đã quý và các giấy tờ có giá trị ghi bằng ngoại tệ trong việc trao đổi, sử dụng, mua bán trên thị trường nội địa và quan hệ thanh toán tín dụng với nước ngoài.
Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát các luồng vận động ngoại hối từ nước ngoài vào trong nước là ngược lại. Đồng thời chính sách quản lý ngoại hối cũng kiểm soát sự lưu thông và sử dụng ngoại tệ trong phạm vi mỗi quôc gia. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quôc gia mà quốc gia đó quản lý ngoại hối của nước mình theo một chính sách riêng. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu và quản lý sắp xếp chính sách quản lý ngoại hối theo các loại:
+ Chính sách Nhà nước độc quyền quản lý ngoại thương, ngoại hối: Với chính sách này, toàn bộ quan hệ kinh tế đối ngoại do Nhà nước nắm giữ. Việc xuất nhập khẩu hàng hoá hay vay mượn nước ngoài đều tập trung trong tay Nhà nước và được thống nhất quản lý. Việc chuyển đổi ngoại tệ ra nội tệ do xuất khẩu đều được thực hiện qua tỷ giá do Nhà nước ấn định mang tính chất áp đặt chủ quan. Trong xã hội, nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, kinh doanh, tàng trữ ngoại hối.
+ Chính sách thắt chặt quản lý ngoại thương, ngoại hối: đặc trưng của chính sách này là Nhà nước không nắm giữ độc quyền trong kinh tế đối ngoại, song Nhà nước quản lý gắt gao đối với toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như xuất nhập khẩu tư bản, thực hiện việc xây dựng hàng rào thuế quan, quản lý chặt chẽ các luồng vận động ngoại hối.
Trong cơ chế này, toàn bộ ngoại hối của bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân có được từ bất kể nguồn nào đều phải bán cho Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng. Các tổ chức, cá nhân được phép mở tài khoản ngoại tệ ngân hàng phải chịu sự quản lý giám sát của ngân hàng. Khi tổ chức, cá nhân cần sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá hay thanh toán cho nước ngoài phải được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền. Nếu cần chi tiêu trong lãnh thổ thì tổ chức, cá nhân phải rút nội tệ ra.
+ Chính sách nới lỏng quản lý ngoại thương, ngoại hối: chính sách này không quản lý chặt chẽ việc đầu tư tư bản cũng như quan hệ thương mại xuất nhập khẩu hàng hoá, đồng thời cho phép mở rộng các mặt hàng xuất nhập khẩu đối với các thành phần kinh tế.
Trong cơ chế này, các tổ chức, cá nhân có ngoại tệ từ bất kể hình thức nào đều có quyền binh đẳng và được tự do mở tài khoản tại ngân hàng. Khi cần thu hút ngoại tệ, Chính phủ mua lại ngoại tệ của các chủ tài khoản thông qua các công cụ về tỷ giá, lãi suất…
+ Chính sách tự do quản lý ngoại thương, ngoại hối: nội dung của chính sách này là thực hiện tự do hoá ngoại thương, ngoại hối với cơ chế thị trường. Vai trò của Chính phủ là điều tiết, quản lý ở tầm vĩ mô, không hạn chế hay quản lý gắt gao ngoại hối cũng như ngoại thương, hoàn toàn xoá bỏ hàng rào thương mại. Với cơ chế này, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM có cơ hội để phát triển với tốc độ cao mở rộng cả về quy mô và số lượng, loại hình. Tuy nhiên sự đa dạng và bình đẳng của các NHTM tham gia vào thị trường hối đoái đã gây sức ép, tăng cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
Như vậy, chính sách quản lý ngoại hối có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Việc áp dụng chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ đến mức nào phụ thuộc vào điều kiện của từng nước. Một số chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn và phù hợp trong từng thời kỳ sẽ đóng vai trò là đòn bẩy khuyến khích ngoại thương phát triển, hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy hoạt doanh ngoại tệ của NHTM phát triển. Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối cứng nhắc, không hợp lý sẽ gây nhiều trở ngại, kìm hãm hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cản trở sự phát triển của thị trường ngoại hối.
3.3. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là biến số rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái lại chịu tác động của nhiều nhân tố như: sức mua của đơn vị tiền tệ và mức độ lạm phát của các nước liên quan, chênh lệch lãi suất của các đồng tiền, cung cầu ngoại tệ… Hoạt động kinh doanh ngoại tệ lại gắn liền với sự biến động của tỷ giá, các thành viên tham gia vào thị trường luôn theo dõi sự biến động của tỷ giá để đưa ra các quyết định kinh doanh. Dự báo tỷ giá là chiến lược, dự báo ngắn hạn là cơ sở cho các quyết định về nghiệp vụ.
Trên thị trường, khi tỷ giá biến động mạnh ảnh hưởng rất lớn đến kinh doanh ngoại tệ và đến nền kinh tế, ngược lại, nếu tỷ giá cố định thì kinh doanh ngoại tệ cũng không phát triển phong phú. Do đó, có một số chính sách phù hợp và linh hoạt là rất khó khăn. Nhà nước luôn phải tìm và đưa ra các biện pháp đảm bảo ổn định tỷ giá sao cho có lợi nhất. Một chính sách có hiệu quả phải đảm bảo ổn định tỷ giá trên mối quan hệ cung cầu, khuyến khích được xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng dự trữ quốc gia về ngoại tệ.
Tại những nước phát triển, chế độ điều hành tỷ giá đã trở nên kinh hoạt hơn, điều này khuyến khích sự phát triển của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
3.4. Sự phát triển của thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Thị trường ngoại hối tác động mạnh mẽ đến sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doanh ngoại tệ thông qua tỷ giá hối đoái và lãi suất. Tuy nhiên, mức độ tác động vào việc thực hiện các chức năng trên thị trường lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường. Đối với thị trường ngoại hối chưa phát triển thì hoạt động kinh doanh chỉ mang tính sơ khai, có ít nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Do đó thị trường ngoại hối càng phát triển thì càng thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM.
3.5. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội.
Thực tế cho thấy, các nước có nền kinh tế phát triển thì kinh doanh ngoại tệ cũng phát triển. Sự phát triển này ban đầu đáp ứng được nhu cầu thương mại quốc tế và đến một trình độ nào đó thì các ngân hàng kinh doanh cho chính mình để kiếm lời và bảo hiểm rủi ro. Còn ở các nước đang phát triển thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn đơn giản, nhu cầu giao dịch ngoại tệ không lớn, trình độ các thành viên tham gia thị trường cũng hạn chế.
Một quốc gia có tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, vững mạnh sẽ là một môi trường tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, là một yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế cùng với các hoạt động tài chính tiền tệ. Trên cơ sở đó, đồng bản tệ của quốc gia này sẽ có giá trị ổn định trên thị trường, giành được một tỷ giá hối đoái thuận lợi trong trao đổi kinh doanh ngoại tệ với nước ngoài. Hoạt động ngoại thương phát triển dẫn đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển vì buôn bán với nước ngoài là một bộ phận lớn trong cung cầu ngoại tệ.
Ngược lại, một quốc gia có nền kinh tế phát triển không ổn định, tình hình chính trị, xã hộ rối ren có nhiều mâu thuẫn xung đột, nội chiến đảng phái, sắc tộc… chẳng những sẽ kìm hãm tốc độ mà còn làm giảm sút hiệu quả của việc buôn bán và hợp tác quốc tế. Trong điều kiện như vậy, mọi yếu tố như cung cầu ngoại tệ, sự biến động của tỷ giá và sự tồn tại của thị trường ngoại hối sẽ không còn ý nghĩa.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, việc phát triển nền kinh tế thị trường, đổi mới các chính sách ngoại thương, ngoại hối, từ bỏ chế độ tỷ giá cố định là xu hướng tất yếu khi nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ, từ đó nâng cao hiệu quả của các nghiệp vụ này trong các NHTM.
Những yếu tố cơ bản trên đây có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen nhau và cùng tác động tổng thể nhiều chiều tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM. Do đó, các NHTM cần tiến hành nghiên cứu tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng trên cũng như phải biết vận dụng cơ chế của Nhà nước, chủ động nắm bắt sự biến động của cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái, nghiên cứu thực trạng của thị trường tài chính, ngoại hối trước khi ra quyết định thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh để vừa phục vụ được khách hàng vừa đảm bảo có lãi trong kinh doanh.
4. Các cơ sở đánh giá hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM.
Kinh doanh ngoại tệ của NHTM là một hoạt động kinh doanh lớn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Do nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ chịu tác động của nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, tỷ giá ... nên đánh giá hoạt động kinh doanh ngoại tệ không chỉ dựa trên trên số lợi nhuận do hoạt động mang lại mà nó còn được thể hiện trên tất cả các hoạt động có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Kinh doanh ngoại tệ không chỉ mang lại hiệu quả cho chính bản thân các ngân hàng mà nó còn góp phần rất lớn tạo sự phát triển nền kinh tế toàn xã hội. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM:
4.1. Đối với bản thân ngân hàng .
Chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh ngoại tệ được xem xét trên các khía cạnh sau :
4.1.1. Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng :
Trước hết, kinh doanh ngoại tệ là hoạt động dịch vụ đảm bảo chắc chắn việc thực hiện thanh toán các hợp đồng ngoại thương cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ kịp thời cho khách hàng với khả năng cao nhất .
Nhu cầu đó bao gồm: Thanh toán cho xuất nhập khẩu đầu tư bằng vốn ngoại tệ, dự trữ hàng hoá, có thể mua ngoại tệ với mục đích kiếm lời ... các thông tin mà ngân hàng đó mang lại. Do đó, ở điểm này, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng được xem xét liệu ngân hàng có khả năng cung cấp đầy đủ lượng ngoại tệ khi khách hàng có nhu cầu mua hợp lí và khả năng mua hết số ngoại tệ khi khách hàng có nhu cầu bán. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tạo điều kiện để các ngân hàng có điều kiện mở rộng mạng lưới hoạt động đa dạng hoá khách hàng và có khả năng nâng cao uy tín cũng như vị thế của mình trên thị trường.
4.1.2. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ là công cụ để các ngân hàng phòng ngừa rủi ro hối đoái .
Rủi ro về hối đoái có thể sẽ đem lại cho ngân hàng một thiệt hại đáng kể nếu như có sự biến động lớn về tỷ giá. Bằng việc sử dụng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối nên các ngân hàng luôn tìm cách hạn chế một cách thấp nhất rủi ro do sự biến động của tỷ giá, mang lại đem lại hiệu quả trong kinh doanh và an toàn đồng vốn cũng như đảm bảo trạng thái ngoại tệ. Đồng thời với việc đẩy mạnh hoạt động mua bán ngoại tệ, tận dụng cơ hội kiếm lời, cập nhật thông tin thị trường quốc tế và trong nước thì càng hạn chế được nhiều rủi ro thì hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng sẽ càng lớn. Các phương pháp phòng ngừa rủi ro hối đoái chỉ thực hiện khi nào có một thị trường tiền tệ phát triển và NHTM có thể sử dụng một trong số các biện pháp :
+ Sử dụng hợp đồng kỳ hạn: Với mục đích là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, khi tham gia vào hợp đồng này các đơn vị, công ty cố định tỷ giá mua hay tỷ giá bán ngoại tệ với ngân hàng từ đó cố định trước khoản thu nhập hay chi trả mà không liên quan đến sự biến động của tỷ giá.
+ Sử dụng hợp đồng quyền chọn: Thông qua hợp đồng này, một mặt khách hàng thoả mãn nhu cầu ngoại tệ của mình, mặt khác khác hàng sẽ có quyền không thực hiện hợp đồng nếu thấy bất lợi cho hoạt động kinh doanh của mình.
+ Sử dụng hợp đồng hoán đổi ngoại tệ: Khi sử dụng hợp đồng này, khách hàng được thoả mãn nhu cầu ngoại tệ của mình, đồng thời có sự cam kết của ngân hàng về số ngoại tệ sẽ nhận được trong tương lai theo một tỷ giá biết trước.
Ngoài ra, nếu việc phân tích rủi ro ngoại hối được tiến hành đối với từng loại ngoại tệ riêng lẻ, tức là tiến hành xem xét trạng thái mở đối với từng loại ngoại tệ độc lập thì rủi ro ngoại hối tổng thể đối với một ngân hàng có thể bị cường điệu hoá lên rất nhiều. Nhìn chung, rủi ro ngoại hối của một danh mục ngoại tệ (bao gồm một số ngoại tệ khác nhau) là nhỏ hơn tổng các rủi ro của từng ngoại tệ riêng lẻ. Bởi vì, sự thay đổi các tỷ giá giữa các đồng tiền này với nhau có mối tương quan nghịch, do đó lợi nhuận thu được từ việc duy trì trạng thái ngoại hối mở đối với đồng tiền này có thể bù đắp cho sự thua lỗ do việc duy trì trạng thái ngoại hối mở đối với một đồng tiền khác.
4.1.3. Thúc đẩy hoạt động cho vay ngoại tệ.
Nếu hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng đạt kết quả cao, ngân hàng sẽ có trạng thái ngoại hối dư thừa do lợi nhuận đem lại. Lúc này ngân hàng tiến hành cho vay ngoại tệ với những khách hàng có nhu cầu xin vay. Thêm nữa, khi các doanh nghiệp có nhu cầu về ngoại tệ để trả nợ vay thì hầu hết các doanh nghiệp phải mua của ngân hàng mà ít khi thu được qua hoạt động xuất khẩu. Vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn được đánh giá qua hoạt động cho vay, thu nợ bằng ngoại tệ một cách thuận lợi, an toàn, đúng hạn, qua đó thúc đẩy hoạt động tín dụng của bản thân ngân hàng đạt hiệu quả cao.
4.1.4. Thúc đẩy công tác thanh toán quốc tế.
Nhờ hoạt động kinh doanh ngoại tệ mà công tác thanh toán quốc tế được thuận lợi nhanh chóng. Qua đó, giúp khách hàng thực hiện nhanh chóng các khoản thanh toán với nước ngoài và giúp ngân hàng tăng nguồn thu từ phí dịch vụ. Để thực hiện được thanh toán quốc tế thì phải có ngoại tệ, ngân hàng phải đáp ứng đủ số lượng và chủng loại ngoại tệ đa dạng mà khách hàng cần, muốn vậy thì ngân hàng phải thực hiện mua bán ngoại tệ để có đủ các loại ngoại tệ (cả số lượng và chủng loại).
Vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ không chỉ đánh giá qua chỉ tiêu lãi do nghiệp vụ này mang lại mà nó còn được thể hiện qua các nghiệp vụ phòng chống rủi ro về tỷ giá hối đoái, trong đó mối quan hệ tổng thể với các nghiệp vụ khác như tín dụng, thanh toán quốc tế ... và mối quan hệ với khách hàng và ngân hàng khác. Có thể việc mua bán ngoại tệ không mang lại lợi nhuận nhưng lại cung cấp đủ số ngoại tệ cho phòng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Để thấy được hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các NHTM thì chúng ta phải xem xét trên tất cả các khía cạnh mà nó tác động tới.
4.2. Đối với nền kinh tế.
Kinh doanh ngoại tệ ra đời theo sát sự đòi hỏi phát triển của thương mại quốc tế. Ngân hàng là đơn vị duy nhất đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp ngay cả trong lúc thị trường sẵn ngoại tệ cũng như khi thị trường khan hiếm để doanh nghiệp có thể thanh toán đúng hạn với đối tác của mình. Qua đó hoạt động xuất nhập khẩu của các chủ thể trong nền kinh tế được thực hiện một cách trôi chảy, thuận lợi, rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn, nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế, làm ổn định các hoạt động trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển và nền kinh tế vận hành hợp lí. Đặc biệt đối với một quốc gia đang trên đường hội nhập và tăng trưởng mạnh như Việt Nam hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ góp phần thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, dần khẳng định và năng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là cơ sở tạo tiền đề cho hội nhập quốc tế trong thời gian tới, hoạt động này phát triển sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển theo kịp tốc độ phát triển của thế giới. Kinh doanh ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế có tác động trực tiếp và ảnh hưởng qua lại với nhau. Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện vị thế tiềm lực của quốc gia. Sự phát triển kinh tế xã hội và sức mạnh của đất nước có ngày càng lớn mạnh thì việc kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng mới có hiệu quả và ngược lại.
Tóm lại, NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ nhằm mục đích kinh doanh kiếm lợi nhuận cho chính bản thân ngân hàng và đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội đặc biệt là kinh tế đối ngoại, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NHTM.
5. Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ đối với NHTM.
Ngày nay, việc trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia làm nảy sinh nhu cầu thanh toán giữa quốc gia này với quốc gia khác trong quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế. Thanh toán quốc tế thường gắn với việc trao đổi giữa đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác. Nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, đầu tư vốn bằng nhiều loại tiền khác nhau, các NHTM đã tiến một bước dài vượt ra khỏi những hoạt động kinh doanh truyền thống để thực hiện các hoạt động gửi vay, mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Khi đó kinh doanh ngoại tệ càng thể hiện vai trò quan trọng không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với cả nền kinh tế.
5.1. Đối với bản thân ngân hàng.
+ Kinh doanh ngoại tệ góp phần đảm bảo trạng thái ngoại tệ để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khác hàng, từ đó đảm bảo uy tín và tăng quy mô của ngân hàng. Đồng thời kinh doanh ngoại tệ còn là hình thức đa dạng hoá các nghiệp vụ của ngân hàng như: Tài trợ hoạt động xuất nhập khẩu, cho vay, đầu tư bằng ngoại tệ.
+ Thông qua các nghiệp vụ mua bán, đầu cơ trên thị trường hối đoái đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, tăng cường sức mạnh phòng chống rủi ro, khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
+ Việc kinh doanh ngoại tệ còn tạo cho các ngân hàng khả năng tận dụng sự chênh lệch về tỷ giá giữa các đồng tiền khác nhau, giữa các thị trường khác nhau để kiếm lời. Từ đó góp phần điều hoà cho các thị trường ngoại hối trên toàn thế giới hoạt động hiệu quả hơn.
5.2. Đối với nền kinh tế.
+ Tham gia vào thị trường ngoại hối trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Khách hàng cần đến vai trò trung gian của ngân hàng vì ngân hàng là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế, là trung gian tài chính có mối quan hệ rộng khắp với các chủ thể kinh tế nên có khả năng kết nối người cần mua với người cần bán ngoại tệ. Ngân hàng cung cấp dịch vụ một cách tốt nhất cho khách hàng bằng cách tạo ra khả năng tiếp cận hoàn hảo nhờ các phương tiện thông tin đại chúng, cung cấp tỷ giá cạnh tranh, thực hiện giao dịch nhanh chóng, chính xác, tư vấn cho khách hàng, thậm chí đưa ra lời khuyên cho khách hàng ngay cả khi giao dịch có biến động trên thị trường ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.
+ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tính toán hiệu quả kinh tế trong hoạt động trao đổi kinh tế đối ngoại thông qua đồng bản tệ.
+ Thông qua việc kinh doanh ngoại tệ của các NHTM làm cho hoạt động trao đổi lưu thông hàng hoá được nhanh chóng thuận tiện hơn tiết kiệm kinh phí lưu thông...
+ Kinh doanh ngoại tệ ra đời và phát triển theo sát sự đòi hỏi của hoạt động thương mại quốc tế. Ngân hàng cung cấp vốn ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu hàng hoá, mở rộng thị trường. Ngân hàng cũng sẽ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho doanh nghiệp ngay cả khi thị trường sẵn ngoại tệ hoặc khan hiếm để doanh nghiệp có thể thanh toán đúng hạn với đối t._.h và mối quan hệ với thị trường có nhiều phức tạp). Hơn nữa, kinh doanh ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc tế rất đa dạng phức tạp, đòi hỏi phải theo sát biến động của tỷ giá trên thị trường, kết hợp phân tích, đánh giá các yếu tố khác như kinh tế, chính trị, xã hội tâm lý…của mỗi nước, mỗi thành viên giao dịch. Do vậy, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm giao dịch và trình độ Anh ngữ của cán bộ kinh doanh ngoại tệ phải rất cao mới đảm nhận được hoạt động này. Ngoài ra, cán bộ kinh doanh ngoại hối phải biết dự báo thị trường, xem xét xu hướng biến động của tỷ giá trong thời gian trước mắt, trung và dài hạn. Trong khi đó, cán bộ SGD đa số đều là cán bộ trẻ, có trình độ song còn thiếu kinh nghiệm nên chưa thích ứng ngay được với cơ chế thị trường, ít được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và cập nhật thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp còn hạn chế, đặc biệt số cán bộ có trình độ tổng hợp, hoặc biết tổng quát về hoạt động của ngân hàng còn chưa nhiều.
Nhận thức được điều đó, Sở giao dịch I cần có những chính sách phát triển nguồn nhân lực một cách tốt nhất để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong hoạt động kinh doanh của mình.
5.1. Nâng cao trình độ quản lý.
Để theo dõi, chỉ đạo việc kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả và đề ra được phương hướng chiến lược mở rộng kinh doanh thì trước hết, ban lãnh đạo của Sở giao dịch cần nắm bắt được sự thay đổi của các văn bản, quan điểm chỉ đạo điều hành của Chính phủ, thường xuyên theo dõi tình hình biến động của thị trường, có cái nhìn toàn diện, bao quát kết hợp với đầu óc phân tích tổng hợp, linh hoạt sáng tạo, đưa ra các quyết định kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh hoặc hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất, hình thành dựa trên cơ sở thực tế và tư duy chiến lược của mình.
Để có được phẩm chất này đòi hỏi người lãnh đạo phải dày dặn kinh nghiệm và tích luỹ nghề nghiệp vững vàng, ham hiểu biết… Ban lãnh đạo phải thường xuyên lập ra kế hoạch kinh doanh, thực hiện kiểm tra kiểm soát đầy đủ chặt chẽ để xử lý kịp thời những vướng mức và khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ được thông suốt và nhanh chóng. Có chiến lược kinh doanh đúng đắn và giải pháp kịp thời sẽ góp phần thực hiện công việc một cách có kế hoạch, hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
5.2. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn.
Kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ mới, hoạt động của nó gắn liền với những diễn biến của thị trường. Vì vậy, đòi hỏi nhân viên phụ trách phải có trình độ, am hiểu và biết phân tích, đánh giá để có phương án kinh doanh tối ưu, biết tận dụng thời cơ, cơ hội trong kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh liên quan đến thị trường ngoại tệ. Mặt khác, hoạt động trên thị trường ngoại hối là hoạt động đặc thù, các giao dịch cam kết mua bán của NHTM mang tính bắt buộc. Do vậy, uy tín của ngân hàng ảnh hưởng lớn đối tới hoạt động của ngân hàng đó trên thị trường ngoại hối, tác động trực tiếp vào khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Trình độ xử lý nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp nhất tới uy tín của ngân hàng. Hiểu được tầm quan trọng này, Sở giao dịch I phải thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, đưa cán bộ đi học tập, tu nghiệp cả ở trong nước và nước ngoài.
Thực hiện đào tạo và phát triển nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên phụ trách lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, mà hiện nay, Sở giao dịch I có 3 nhân viên trẻ thực hiện nghiệp vụ này. Đây là một lợi thế cho Sở giao dịch trong việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ, đáp ứng cho tương lai, nhưng cũng là hạn chế vì họ còn thiếu kinh nghiệm. Cán bộ làm nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ không chỉ tinh thông nghề nghiệp mà còn phải giỏi ngoai ngữ, am hiểu pháp luật và các thông lệ quốc tế, sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại phục vụ công việc, có sức khoẻ tốt là một điều kiện rất quan trọng cho một “dealer” giỏi. Hơn nữa, họ cần có khả năng thu thập thông tin, phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội… sự nhạy cảm nghề nghiệp để xử lý tình huống giao dịch một cách linh hoạt.
SGD I còn nhiều khó khăn như vốn, công nghệ nhưng chưa cấp bách bằng nguồn nhân lực, vì vậy Sở cần phải đầu tư cho đào tạo và có chế độ đãi ngộ thoả đáng khuyến khích các nhân viên tự học hỏi, nâng cao trình độ và sự nhạy bén nghề nghiệp của họ.
6. Thực hiện tốt một số nguyên tắc trong kinh doanh ngoại tệ.
Hoạt động kinh doanh ngoai tệ là hoạt động chứa nhiều rủi ro, trong đó rủi ro về tỷ giá và rủi ro về lãi suất là những rủi ro đặc trưng. Về cơ bản ngân hàng không thể kiểm soát được rủi ro mà chỉ có thể dùng các biện pháp nhằm hạn chế thiệt hại do chúng gây ra. Để có biện pháp hữu hiệu thì ngân hàng cần thực hiện tốt một số nguyên tắc trong kinh doanh ngoại tệ.
6.1. Ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc mua đủ bán hết.
Rủi ro về tỷ giá xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái một loại ngoại tệ nào đó dư thừa hoặc thiếu hụt. Khi ngoại tệ đó lên giá thì trạng thái dư thừa sẽ có lợi còn nếu trạng thái âm thì sẽ bị lỗ. Trong quá trình mua bán hàng ngày, trạng thái ngoại tệ này luôn thay đổi nên ngân hàng luôn có khả năng gặp phải rủi ro do sự biến động của tỷ giá. Vì vậy, để hạn chế rủi ro do tỷ giá gây ra, ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc mua đủ bán hết. Mặt khác Sở giao dịch cần điều chỉnh mức trạng thái ngoại tệ tối ưu, ít rủi ro nhất nhưng phải có hiệu quả bởi nếu duy trì trạng thái ngoại tệ ở mức cân bằng thì sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh khi không có đủ ngoại tệ cho nhu cầu bất ngờ của khách hàng.
6.2. Nguyên tắc tìm đường thoát trước khi tạo ra trạng thái ngoại tệ.
Sở giao dịch I cũng cần đẩy mạnh đột phá trong việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái (nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…) hoặc thoả thuận với khách hàng nếu tỷ giá biến động vượt quá một phạm vi giới hạn cho phép thì ngân hàng và khách hàng sẽ cùng chia sẻ thiệt hại hoặc cùng hưởng lợi. Đây là nguyên tắc thứ hai cho ngân hàng.
Rủi ro lãi suất chủ yếu xảy ra với các nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ quyền chọn. So với rủi ro tỷ giá hối đoái thì rủi ro hối đoái ít có ý nghĩa hơn nhưng với khối lượng giao dịch lớn thì nó cũng gây ra thiệt hại đáng kể. Để hạn chế rủi ro, SGD I cần phải phân tích rủi ro phát sinh từ những nghiệp vụ này. Việc này cần phải thực hiện theo nguyên tắc kết hợp phân tích cơ bản với phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản để xác định thị trường, phân tích kỹ thuật xác định thời điểm.
Bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào thì lợi nhuận bao giờ cũng đi kèm với rủi ro. Rủi ro càng lớn thì lợi nhuận càng cao. Để thu được lợi nhuận lớn thì đòi hỏi mỗi đơn vị kinh doanh phải nắm lấy cơ hội, tận dụng thời cơ và biết tổng hợp tất cả các nghiệp vụ kinh doanh. Riêng đối với Sở giao dịch I, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ thì việc tổng hợp tất cả các nghiệp vụ, am hiểu thị trường và đặc biệt cần có sự nhạy cảm, linh hoạt, khả năng nắm bắt thị trường nhanh để từ đó đưa ra các biện pháp, công cụ phòng ngừa rủi ro mà vẫn thu được lợi nhuận cao.
7. Mở rộng và phát triển các hoạt động có liên quan đến kinh doanh ngoại tệ.
Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng đều có liên quan trực tiếp, tác động lẫn nhau. Hoạt động này phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động khác cùng phát triển. Trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tại Sở giao dịch I thì việc kinh doanh ngoại tệ không chỉ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế và cho vay ngoại tệ phát triển.
7.1. Hoạt động thanh toán quốc tế.
Muốn đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ thì phải làm tốt công tác thanh toán quốc tế. Công tác thanh toán quốc tế tại SGD I cần đảm bảo sự tin cậy, tốc độ thanh toán nhanh, có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng, tạo thuận lợi cho khách hàng ở nhiều thị trường khác nhau thì khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng nhiều hơn. Để thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế thì đòi hỏi SGD I phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Chính sách thu hút khách hàng: Sở cần có các mức ký quỹ phù hợp với từng doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài với Sở, khách hàng có khối lượng giao dịch lớn. Tư vấn cho khách hàng về phương thức giao dịch có lợi cho khách hàng. Tổ chức thực hiện nghiệp vụ đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác, kịp thời, an toàn về vốn…
- Để tăng sức cạnh tranh, SGD I nên giảm bớt thời gian làm thủ tục mở, thanh toán L/C đến mức gọn nhất có thể được bằng cách đơn giản hoá các thủ tục trong các lần giao dịch sau với khách hàng thường xuyên. Các đơn xin mở L/C, chứng từ hàng xuất nên được kiểm tra ngay khi xuất trình hoặc nhân viên ngân hàng sửa chữa những sai sót chứng từ ngay giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian không phải đi lại nhiều lần.
- Mở rộng quan hệ với các ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài để tận dụng tối đa sự trợ giúp về nghiệp vụ, chuyên môn và khai thác thông tin kinh tế.
- Tổ chức thực hiện tốt quy trình thanh toán quốc tế mới, phát triển và sử dụng mạng thanh toán quốc tế SWIFT với hiệu quả cao nhất để nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế.
- Trong cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế, các thanh toán viên với năng lực chuyên môn và phong cách ứng xử của họ đóng vai trò quan trọng hàng đầu vì chính họ là hình ảnh của Sở trong lòng khách hàng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng, thanh toán viên cần có trình độ chuyên môn giỏi, chiều sâu kinh nghiệm, kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến nghiệp vụ ngoại thương để có thể xử lý chúng nhanh chóng, chính xác và đặc biệt nhận biết được các tình huống lừa đảo, giả mạo chứng từ. Do đó, cần chú trọng công tác đào tạo cả về nghiệp vụ và Anh ngữ chuyên sâu cũng như xây dựng, hoàn thiện văn hoá ứng xử, luôn có thái độ mềm mỏng ân cần, tạo sự gần gũi và tin cậy cho khách hàng.
7.2. Hoạt động cho vay ngoại tệ.
Hiện nay, Sở chỉ cho vay ngoại tệ đối với một số công ty và tổng công ty có doanh số hoạt động lớn nhưng số lượng các doanh nghiệp này không nhiều, do đó, để mở rộng cho vay ngoại tệ thì Sở cần:
- Tiếp tục tăng khơi nguồn ngoại tệ trung và dài hạn.
- Thực hiện tốt cho vay tài trợ xuất nhập khẩu để giúp các doanh nghiệp có vốn làm hàng xuất khẩu. Thực hiện cho vay ứng trước bộ chứng từ hàng xuất để tạo điều kiện cung cấp ngoại tệ cho doanh nghiệp và có điều kiện mở rộng thị trường ngoại tệ có kỳ hạn.
- Nâng cao trình độ cán bộ thẩm định tín dụng để xem xét không chỉ khả năng trả nợ của khách hàng mà còn tư vấn cho họ phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
1. Đối với Chính phủ.
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh ngoại tệ.
Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động đặc thù, vì hàng hoá trong thị trường này có tính hấp dẫn cao và rủi ro trong thị trường này cũng rất lớn. Là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh trên thị trường mà đặc biệt là thị trường quốc tế, tạo tiền đề cho mở cửa và cho hội nhập nhưng cho đến nay vẫn chưa có một bộ luật cụ thể về quản lý ngoại hối. Để chuẩn bị cho bộ luật mới ra đời thì trước mắt yêu cầu tất cả các ngân hàng thực hiện tốt các quy định, nghị định, thông tư… đang có.
Quản lý ngoại hối là một công việc liên quan đến chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy, việc ban hành các văn bản quản lý, các thông tư hướng dẫn phù hợp, sát với thực tế là hết sức quan trọng.
Hiện nay, nhiều điều khoản quy định còn gây khó khăn, chưa sát với thực tế như: quy định về tỷ giá, lượng ngoại tệ mua bán và việc mua bán ngoại tệ với người cư trú là tổ chức, điều này gây khó khăn cho các NHTM và doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ.
Theo quy định hiện hành của NNHVN – QĐ101/ 1999 ngày 26/3/1999 mỗi giao dịch phải có giá trị ít nhất là 50.000 USD. Như vậy đối với các doanh nghiệp có quy mô hoạt động kinh doanh nhỏ, đa phần là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giá trị ngoại tệ cho mỗi lần giao dịch là không lớn, quy định trên gây khó khăn trong việc thu hút ngoại tệ quy mô nhỏ và các doanh nghiệp là khách hàng nhỏ đến với ngân hàng. Nên chăng các NHTM cần đề nghị với NHNN giảm giá trị tối thiểu phù hợp với quy mô nhỏ của các NHTM. Việc này ngoài đáp ứng nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn giúp cho các doanh nghiệp tự bảo hiểm các khoản thu, chi ngoại tệ có giá trị lớn khỏi rủi ro ngoại hối.
Gần đây việc triển khai nghị định 61/2001/ NĐ - CP ngày 25/4/2001 của Chính phủ là điều hành tỷ lệ kết hối của các khoản thu ngoại tệ vãng lai của các tổ chức kinh tế xã hội từ mức 50% xuống còn 40%, và bây giờ quyết định của Thủ tướng Chính phủ 46/2003/QĐ-TTg ngày 2/4/2003 là tỷ lệ kết hối đối với nguồn thu ngoại tệ vãng lai là 0% đã làm cho nguồn ngoại tệ của ngân hàng giảm sút, ảnh hưởng đến mức cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế quốc dân trong thời gian qua. Việc quản lý ngoại hối còn bộc lộ nhiều yếu kém và sơ hở làm cho nguồn ngoại tệ vãng lai trôi nổi trên thị trường ngày một gia tăng và chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, nên chưa thể hội đủ điều kiện để chấm dứt tình trạng “ đô la hoá nền kinh tế”.
Việc ban hành các văn bản sát với thực tế đã khó nhưng việc thực hiện của các NHTM còn khó khăn hơn nhiều, nhất là trong lĩnh vực ngoại hối, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Do đó, phải tăng cường công tác đào tạo, tuyên truyền, tập huấn nâng cao trình độ nhận thức các văn bản của cán bộ, nhân viên các NHTM. Với những câu hỏi, kiến nghị về việc khó khăn trong quá trình thực hiện, NHNN cần sớm nghiên cứu trả lời hoặc có thể tập hợp các trường hợp để nghiên cứu ban hành cẩm nang cho hoạt động này như phòng Thương mại quốc tế vẫn làm hàng năm.
1.2. Cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự điều chỉnh của Nhà nước.
Trong hai năm 1999 đến 2000 đã có hàng loạt các văn bản về tỷ giá hối đoái ra đời. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đến thị trường ngoại hối. Cơ chế tỷ giá và điều hành tỷ giá của nước ta đã thay đổi cơ bản, vai trò kiểm soát của Nhà nước về tỷ giá chặt chẽ hơn. Tỷ giá do Nhà nước công bố đã phần nào đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của các NHTM và sát với tỷ giá trên thị trường. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá này vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Năm 2002 tỷ giá tăng 2%, thấp nhất trong nhiều năm qua, cho đến ngày 31/12/ 2002 tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố chỉ tăng 1,97% so với cuối năm 2001. Tỷ giá USD/VND chỉ tăng 0,1-0,3%. Tính chung cả năm tỷ giá USD tăng 2,1% thấp hơn hai năm liền kề trước đó (năm 2000 tăng 3,4%, năm 2001 tăng 3.9%). Từ thực tế ấy có thể nhận xét giá trị đối ngoại của VND cũng không giữ được thế chủ động khi nền kinh tế thế giới vẫn chao đảo và giá vàng tăng đột biến: năm 2001 tăng 5%, năm 2002 tăng 19,4% so với năm 2000 (âm 1,7%). Từ phân tích trên, để cơ chế điều hành tỷ giá phát huy hơn nữa, NHNN cần tập trung vào hoàn thiện các vấn đề:
- Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng một cách căn bản để phát triển thị trường ngoại hối ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đưa các nghiệp vụ mới vào hoạt động.
- Nâng cao dự trữ ngoại tệ của Nhà nước tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu và khối lượng ngoại tệ đang có trên thị trường nước ta. Có như vây, NHNN mới đảm bảo là người mua cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, giúp các NHTM yên tâm hơn trong kinh doanh ngoại tệ.
- Trong thời gian tới, việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong giao dịch sẽ được mở rộng, đặc biệt áp dụng đồng EUR vào trong thanh toán. Do đó, NHNN nên đưa ra một cơ chế tỷ giá linh hoạt, thích hợp, để tạo điều kiện cạnh tranh giữa các loại ngoại tệ, tạo khả năng thu hút nhiều loại ngoại tệ khác nhau cho hoạt động của các NHTM.
- Trong việc ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ có kỳ hạn trong các giao dịch kỳ hạn chưa phù hợp với điều hành tỷ giá. Hiện nay, mức gia tăng tỷ giá đã giảm từ 0,58% xuống 0,2% ngay từ kỳ hạn giao dịch đầu tiên trong khi tỷ giá công bố của Nhà nước có tháng điều chỉnh tăng liên tục và tăng trưởng khoảng 1%/tháng. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp và NHTM trong việc mua bán kỳ hạn. Mặt khác, việc quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn bằng cách khống chế mức tối đa được phép dựa trên tỷ giá giao ngay cộng với tỷ lệ % nào đó tuỳ theo từng kỳ hạn là hết sức cứng nhắc, không linh hoạt và không phản ánh đứng bản chất của tỷ giá kỳ hạn. Tuy nhiên, tỷ giá kỳ hạn thực chất được tính dựa trên chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền và tỷ giá giữa chúng tại thời điểm ký hợp đồng. Vì vậy, để hoàn thiện cơ chế tính tỷ giá kỳ hạn thì NHNN nên dựa vào chênh lệch lãi suất thay vì cách tính hành chính hiện nay.
Tỷ giá do NHNN công bố đôi khi chưa đánh giá đúng bản chất cung cầu USD trên thị trường, nó gần như một hình thức ép giá đối với các NHTM, gây khó khăn cho các NHTM khi thu hút nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường.
Để trong thời gian tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM trên thị trường ngoại hối phát triển và có hiệu quả hơn thì đòi hỏi NHNN phải xem xét và đưa ra những văn bản pháp luật mới, hoàn chỉnh hơn về tỷ giá dựa trên sự đánh giá thực tế diễn biến của thị trường ngoại tệ và những thay đổi của đồng tiền diễn ra liên tục. Việc đưa ra những văn bản mới, hoàn thiện là rất quan trọng trong việc hoàn thiện thị trường ngoại hối của nước ta và tạo điều kiện để thị trường ngoại hối của nước ta hoà nhập với thị trường ngoại hối quốc tế.
1.3. Hình thành và vận hành tốt thị trường ngoại hối.
Tuy đã đi vào hoạt động, nhưng thị trường ngoại hối ở nước ta vẫn còn đang ở ở thời kỳ sơ khai, các nghiệp vụ giao dịch còn đơn giản, loại ngoại tệ không nhiều và số thành viên tham gia là không lớn. Do quy định chặt chẽ của Nhà nước về thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối nên hiện nay, chỉ có các NHTM mới được tham gia vào thị trường này. Để thị trường ngoại hối vận hành theo đúng nghĩa của nó thì Nhà nước cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Xây dựng một cơ chế tỷ giá linh hoạt, nhạy bén, phản ánh được thường xuyên liên tục sự biến động của tỷ giá trên thị trường quốc tế.
- Trang bị hệ thống thông tin hiện đại để tiếp nhận tỷ giá, các nguồn thông tin đa chiều, chính xác, nhanh chóng, thường xuyên đổi mới thông tin và cung cấp cho các NHTM.
- Mở rộng thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối là các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
- Hiện nay, thị trường ngoại hối của nước ta vẫn là một lĩnh vực còn mới đối với người dân. Bởi vậy, muốn mở rộng hoạt động của thị trường này trong thời gian tới thì cần trang bị những kiến thức cơ bản cho dân chúng về thị trường ngoại hối, đặc biệt là các Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu lớn, các đơn vị kinh tế có tiềm năng lớn trong tương lai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo…
1.4. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ có thể phát triển được khi bản thân nền kinh tế có những quan hệ kinh tế đối ngoại liên quan đến nhu cầu chuyển đổi tiền tệ. Do vậy, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến giải pháp về cán cân thanh toán quốc tế đối với hoạt động này. Sự thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ở nước ta luôn được nhắc tới và luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Quan hệ thương mại quốc tế phát triển thì nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường càng lớn và ngược lại.
Năm 2002, kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động bất lợi tới nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sự phục hồi chậm của nền kinh tế Mỹ và một số nền kinh tế lớn, sự bất ổn của kinh tế chính trị thế giới do tác động của cuộc khủng bố, nguy cơ chiến tranh ở Irắc, sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trên thị trường tài chính thế giới, lãi suất đồng USD giảm mạnh cũng tác động đến huy động tiền gửi ngoại tệ của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu cho phát triển nền kinh tế quốc dân, cho CNH-HĐH đất nước vẫn là những đòi hỏi cấp thiết, kết quả là cán cân thanh toán quốc tế của nước ta vẫn chưa được cải thiện. Đây là yếu tố gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ và làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
Do vậy, để cải thiện cán cân thanh toán, Chính phủ cần tập trung vào thực hiện:
- Tiếp tục hạn chế nhập siêu các mặt hàng tiêu dùng bằng cách yêu cầu các NHTM không bán ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán này (kể cả những đơn vị kết hối ngoại tệ cho ngân hàng cũng không được mua lại ngoại tệ), quy định ngân hàng không cho vay ngoại tệ để nhập hàng tiêu dùng, cắt hẳn hoặc giảm hạn ngạch nhập khẩu các mặt hàng mà trong tương lai có thể sản xuất được.
- Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác đầu tư nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm thu hút lượng ngoại tệ lớn vào trong hệ thống NHTM và cải thiện các cán cân thanh toán quốc tế.
Vai trò của Chính phủ đối với quản lý ngân hàng là rất quan trọng. Nó tác động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các NHTM và tới sự vận động của thị trường ngoại hối. Do đó, để đưa ra những quyết định đúng đắn thì đòi hỏi Chính phủ phải xem xét trên tất cả các mặt của nền kinh tế, chính trị, xã hội…
2. Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN).
2.1. Về quy trình mua bán ngoại tệ giữa Hội sở chính và các chi nhánh.
Quy trình mua bán ngoại tệ giữa Hội sở chính và các chi nhánh còn nhiều phức tạp, các thủ tục rườm rà gây mất thời gian và lãng phí đối với các chi nhánh.
Khi các chi nhánh mua bán ngoại tệ với Hội sở chính thì phải nộp đơn xin mua, trong đó nêu số ngoại tệ cần mua, cho ai, mục đích, ngày hiệu lực, tỷ giá… nên chăng vấn đề này nên để cho Giám đốc của các chi nhánh được phép kinh doanh ngoại tệ chủ động quyết định cho phù hợp với cơ chế quản lý ngoại hối.
Số 1090/NHĐT-KDTT có quy định về việc mua bán ngoại tệ trong hệ thống có ghi: thực hiện mua bán ngoại tệ thông qua NHĐT&PTVN mà không thực hiện mua bán ngoại tệ giữa các chi nhánh. Điều này gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng và hạn chế khả năng chủ động nguồn ngoại tệ của các chi nhánh. Chi nhánh chỉ được bán ngoại tệ khi đã có đủ nguồn ngoại tệ, không được ứng bán trước trừ trường hợp được Tổng giám đốc cho phép. Đối với mua bán ngoại tệ kỳ hạn, chi nhánh chỉ được bán ngoại tệ kỳ hạn khi đã xác định rõ có hợp đồng chắc chắn, mua được ngoại tệ kỳ hạn. Đối với giao dịch mua bán ngoại tệ khác USD, các chi nhánh chỉ mua theo đề nghị của khách hàng, không được mua bán để giữ trạng thái chờ giá biến động nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Vẫn biết trong mua bán hàng ngày, các chi nhánh cần theo dõi sát tình hình biến động tỷ giá để có quyết định mua bán kịp thời không để rủi ro do tỷ giá biến động ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh, nhưng những quy định đó làm hạn chế khả năng chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các Chi nhánh, dễ bỏ lỡ cơ hội mua bán khi biến động tỷ giá có lợi cho ngân hàng, điều đó cũng làm giảm sự phát huy tối ưu hiệu quả kinh doanh ngoại tệ.
Để tạo điều kiện cho các chi nhánh chủ động trong việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ khi có nhu cầu của khách hàng thì NHĐT&PTVN nên để cho các chi nhánh tự mua bán ngoại tệ với nhau sao cho chấp hành đúng quy định của quản lý ngoại hối.
Quy trình mua bán ngoại tệ của các chi nhánh thì quá cũ, không còn phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay khi nghị định quản lý ngoại hối của Chính phủ ban hành và các quy định của ngành chức năng có liên quan về xuất nhập khẩu đã thay đổi quá nhiều. Ngoài ra, quy trình còn nhiều phiền hà cho khách hàng khi mua bán ngoại tệ. Để tạo điều kiện cho các nghiệp vụ kinh doanh mới ra đời và đi vào hoạt động thì NHĐT&PTVN nên thường xuyên hỗ trợ các chi nhánh mua bán các loại ngoại tệ trên thị trường quốc tế với giá cạnh tranh và thời gian thực hiện nhanh, giúp các chi nhánh thực hiện tốt mục tiêu chủ động trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Đó cũng là trọng tâm tập trung của hệ thống trong việc tạo sức mạnh tổng hợp để phát triển và cạnh tranh.
2.2. Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản của Chính phủ, của ngành về quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ.
Hoạt động như một chi nhánh của NHĐT&PTVN, Sở giao dịch I chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hội sở chính. NHĐT&PTVN là nơi trực tiếp tiếp nhận các văn bản của Chính phủ, của NHNNVN, của các ngành, các bộ…sau khi nghiên cứu sẽ đưa ra các văn bản hướng dẫn các chi nhánh thực hiện. Tuy nhiên, việc đưa ra các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ, đặc biệt về quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ rất chậm hoặc không hướng dẫn cụ thể, thiếu đồng bộ và không kịp thời với sự đổi mới văn bản của các ngành, các bộ…làm ảnh hưởng tới việc thực hiện của các chi nhánh. Vấn đề đặt ra là NHĐT&PTVN cần triển khai thực hiện kịp thời các văn bản hướng dẫn một cách cụ thể để hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các chi nhánh được thuận lợi hơn, tránh nhầm lẫn và quan trọng hơn là hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các chi nhánh từng bước được nâng cao.
Mặt khác, đề nghị NHĐT&PTVN cho các chi nhánh được phép kinh doanh ngoại tệ không chỉ phục vụ khách hàng mà còn kinh doanh kiếm lợi cho chính bản thân ngân mình do chênh lệch tỷ giá, được quyền mua bán ngoại tệ với các ngân hàng ngoài hệ thống để từ đó mở rộng mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
NHĐT&PTVN cần thiết lập hệ thống thông tin về tình hình diễn biến của thị trường, những thay đổi trong chính sách quản lý tiền tệ của Chính phủ gửi xuống các chi nhánh nhanh nhất để nắm bắt được và áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình sao cho có hiệu quả nhất, tránh rủi ro.
2.3. Thực hiện chương trình kiểm tra, kiểm sát và nâng cao trình độ nghiệp vụ.
NHĐT&PTVN cần tăng cường công tác kiểm tra với các chi nhánh chặt chẽ hơn nữa để từ đó giúp các chi nhánh giải quyết những khó khăn, vướng mắc một cách kịp thời và chấp hành quy định của Chính phủ, NHNN.
Đề nghị NHĐT &PTVN thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cả về lý thuyết lẫn thực tế hoạt động kinh doanh ngoại tệ cho cán bộ chi nhánh trực tiếp làm nghiệp vụ này. NHĐT &PT cần thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận, tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cung cấp các thông tin cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và trên thế giới cho các chi nhánh, đồng thời giải quyết những thắc mắc của các chi nhánh hoạt động kinh doanh ngoại tệ một cách kịp thời và đầy đủ.
KẾT LUẬN.
Trong thời gian tới NHĐT&PTVN có rất nhiều cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội này xuất phát từ việc tháo gỡ, cởi mở khó khăn của Chính phủ Việt Nam, quyết tâm của NHĐT&PTVN trong việc tiếp tục cơ cấu lại toàn bộ hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Giai đoạn phát triển tiếp theo của NHTMVN có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển nền tài chính nước nhà, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế trên thị trường quốc tế.
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại và là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả và phát triển mạnh sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đạt được mục tiêu về lợi nhuận, khách hàng…. Ngoài ra, hoạt động này còn góp phần thúc đẩy các hoạt động khác cùng phát triển, đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập.
Mặc dù đã có những thành công, đóng góp lớn nhưng bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Để phát triển trong thời gian tới, việc đưa ra các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu dần dần, có thời gian để rút kinh nghiệm.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I cùng với những kiến thức đã học, tình hình thực tế, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Nguyễn Thị Quy em đã hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Trong giới hạn bài viết của mình, em chỉ đưa ra được môt đóng góp rất nhỏ trong việc nghiên cứu tìm giải pháp khả thi trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với kiến thức và thời gian hạn chế nên em không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mang nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, các thầy cô trong khoa KTNT, các anh chị Phòng nguồn vốn kinh doanh tại Sở giao dịch I NHĐT&PTVN đã giúp đã em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. VĂN BẢN PHÁP LUẬT.
1. Nghị định của Chính phủ dố 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối.
2. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức.
3. Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN ngày 25/2/1999 về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ.
4. Thông tư số 08/1998/TT NHNN ngày 30/9/1998 hướng dẫn thi hành Quyết định số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ.
II. SÁCH, GIÁO TRÌNH VÀ TẠP CHÍ.
1. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương – Nhà xuất bản giáo dục Trường đại học Ngoại thương Hà Nội 2000.
2. Ngân hàng thương mại và quản trị nghiệp vụ. Chủ biên TS Phan Thu Hà - TS Nguyễn Thị Thu Thảo, Khoa ngân hàng tài chính – Trường ĐHKTQD.
3. Nghiệp vụ hối đoái và thanh toán quốc tế. Nhà xuất bản thống kê.
4. Tỷ giá tiền tệ và vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhà xuất bản thống kê.
5. Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính – MISHKIN. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật.
6. Tạp chí Ngân hàng số 9/2003, số 3/2003; số 4/2003; số 4/02, số 1/01.
7. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 2/03, số 8/03, số 6/01, số 12/01, số 12/02.
8. Tạp chí kinh tế phát triển số 122/01; số 125/01; số 130/02.
III. TÀI LIỆU CỦA CÔNG TY.
1. Quy trình mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch I.
2. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I năm 2000, 2001, 2002 và 9 tháng đầu năm 2003.
3. Các văn bản quản lý ngoại hối hiện hành 9 tháng 6 – 2003).
4. Báo cáo tổng kết về quản lý ngoại tệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
._.