Mở đầu
Giao nhận và vận tải hàng hóa là yêu cầu tất yếu của trao đổi, mua bán hàng hóa, nó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình lưu thông, nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong kinh doanh ngoại thương, giao nhận và vận tải hàng hóa càng có vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới phạm vi mặt hàng, khối lượng và kim nghạch buôn bán của các quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp. Trước kia, giao nhận có thể do người kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà vận tải tiến hành. K
105 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá quốc tế tại chi nhánh Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên XNK và đầu tư Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hi vận tải và buôn bán quốc tế phát triển, đòi hỏi sự phân công lao động và chuyên môn hóa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vận tải, giao nhận. Kết quả là giao nhận tách khỏi xuất nhập khẩu và vận tải, sinh ra các tổ chức giao nhận chuyên nghiệp, phục vụ vận tải và buôn bán quốc tế. Các tổ chức này hình thành dưới dạng các hãng, công ty.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, việc phát triển các hoạt động giao nhận vận tải quốc tế có một ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần làm cho kinh tế đất nước phát triển nhanh mạnh hòa nhịp cùng xu thế phát triển của thời đại.
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải, , Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội đã có mặt trên thị trường này từ khi nó còn là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam. Qua một thời kỳ trưởng thành và phát triển, Chi nhánh Công ty đã khẳng định được vị thế của mình. Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh Công ty , nhận thấy vai trò của hoạt động giao nhận hàng hóa là đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngoại thương nên em quyết định chọn đề tài: "Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội : thực trạng và giải pháp phát triển". Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội giai đoạn 2002 - 2004, với mục đích đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho Chi nhánh.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên sự tổng hợp, phân tích và đánh giá các số liệu về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về giao nhận hàng hóa quốc tế
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận về giao nhận hàng hóa quốc tế
I. Khái niệm chung về giao nhận hàng hóa quốc tế
1. Khái niệm chung về dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
1.1. Khái niệm về dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Đặc điểm của buôn bán quốc tế là người mua và người bán ở những nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán thực hiện việc giao hàng, tức là hàng hóa được vận chuyển từ người bán sang người mua. Để cho quá trình vận chuyển đó được bắt đầu - tiếp tục - kết thúc, tức là hàng hóa đến tay người mua, cần phải thực hiện hàng loạt các công việc khác liên quan đến quá trình chuyên chở như bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải hàng hóa đến cảng đích, dỡ hàng ra khỏi tàu và giao cho người nhận hàng… Những công việc đó được gọi là giao nhận vận tải hàng hóa.
Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận (FIATA) về dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Luật Thương mại Việt Nam "Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là các khách hàng)".
Tóm lại, giao nhận hàng hóa là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng.
1.2. Phạm vi của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Trừ phi chính người gửi hàng (Shipper) hoặc người nhận hàng (Consignee) muốn trực tiếp tham gia vào bất cứ khâu thủ tục hoặc chứng từ nào, còn thông thường người giao nhận thay mặt chủ hàng lo liệu quá trình vận chuyển qua các giai đoạn khác nhau. Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba khác. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế bao gồm bốn loại thông dụng trên thế giới hiện nay là:
1.2.1. Loại dịch vụ thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu)
Theo những chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp.
Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
Nhận hàng và cung cấp những chứng từ thích hợp như: giấy chứng nhận hàng của người giao nhận, giấy chứng nhận chuyên chở của người giao nhận…
Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư và tất cả những luật lệ của Chính phủ áp dụng vào việc giao hàng ở nước xuất khẩu, nước nhập khẩu cũng như ở bất kỳ nước quá cảnh nào, và chuẩn bị tất cả những chứng từ cần thiết.
Đóng gói hàng hóa (trừ phi việc này do người gửi hàng làm trước khi giao hàng cho người giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất của hàng hóa và những luật lệ áp dụng nếu có ở nước xuất khẩu, nước quá cảnh và nước gửi hàng đến.
Lo liệu việc lưu kho hàng hóa nếu cần.
Cân, đo hàng hóa.
Mua bảo hiểm cho hàng hóa nếu người gửi hàng yêu cầu.
Vận tải hàng hóa đến cảng, thực hiện việc khai báo hải quan, các thủ tục chứng từ liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.
Thực hiện việc giao dịch ngoại hối, nếu có.
Thanh toán phí và những chi phí khác bao gồm cả tiền cước.
Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần thiết.
Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận hàng thông qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lý của người giao nhận ở nước ngoài.
Ghi nhận những tổn thất của hàng hóa, nếu có.
Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên chở về tổn thất hàng hóa, nếu có.
1.2.2. Loại dịch vụ thay mặt người nhận hàng (người nhập khẩu)
Theo những chỉ dẫn giao hàng của khách hàng, người giao nhận sẽ:
Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận tải hàng hóa khi người nhận hàng lo liệu vận tải hàng hóa.
Nhận và kiểm tra tất cả những chứng từ liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa…
Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh toán cước.
Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những phí khác cho Hải quan và những cơ quan khác.
Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng.
Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người chuyên chở về tổn thất hàng hóa nếu cần.
Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối nếu cần.
1.2.3. Dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt
Người giao nhận thường thực hiện việc giao nhận hàng bách hóa bao gồm nhiều loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế và những hàng hóa khác giao lưu trong buôn bán quốc tế. Ngoài ra tùy theo yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác có liên quan đến các loại dịch vụ hàng hóa đặc biệt như:
Vận chuyển hàng công trình
Việc này chủ yếu là vận chuyển máy móc nặng, thiết bị... để xây dựng những công trình lớn như sân bay, nhà máy hóa chất, nhà máy thủy điện, cơ sở lọc dầu... từ nơi sản xuất đến công trường xây dựng. Việc di chuyển những hàng hóa này cần phải có kế hoạch cẩn thận để đảm bảo giao hàng đúng thời hạn và có thể cần phải sử dụng cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ, tàu chở hàng loại đặc biệt... Đây là một lĩnh vực chuyên môn hóa của người giao nhận.
Dịch vụ về vận chuyển quần áo treo trên mắc
Những quần áo may mặc được chuyên chở bằng những chiếc mắc áo treo trên giá trong những container đặc biệt, và ở nơi đến được chuyển trực tiếp từ container vào cửa hàng để bày bán. Cách này loại bỏ được việc phải chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong container và đồng thời tránh được ẩm ướt, bụi bẩn…
Triển lãm ở nước ngoài
Người giao nhận thường được người tổ chức triển lãm giao cho việc chuyên chở hàng đến nơi triển lãm ở nước ngoài. Người giao nhận phải tuân thủ những chỉ dẫn đặc biệt của người tổ chức triển lãm về phương thức chuyên chở được sử dụng, về nơi cụ thể làm thủ tục hải quan ở nước đến khi giao hàng triển lãm, về những chứng từ cần lập…
1.2.4. Dịch vụ khác
Ngoài những dịch vụ nêu trên, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác phát sinh trong quá trình chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng, có liên quan đến hàng công trình, các dự án chìa khóa trao tay…
Người giao nhận cũng có thể thông báo cho khách hàng của mình về nhu cầu tiêu dùng, những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại thương và nói chung là tất cả những vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh của khách hàng.
1.3. Cơ sở pháp lý của hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế
1.3.1. Các cơ quan tổ chức liên quan
Ngoài mối liên hệ với người gửi hàng và người nhận hàng, người giao nhận cần phải liên hệ với rất nhiều các cơ quan tổ chức khác nhau trong suốt giai đoạn làm dịch vụ cho khách, như:
Cơ quan quản lý Nhà nước:
Các Bộ chủ quản. Cơ quan Hải quan để khai hải quan. Cơ quan Cảng để làm thủ tục thông qua cảng. Ngân hàng trung ương để được phép kiểm tra hối đoái. Bộ Y tế để xin giấy phép y tế. Viên chức lãnh sự để xin giấy chứng nhận xuất xứ. Các cơ quan kiểm soát mậu dịch xuất nhập khẩu. Các cơ quan cấp giấy phép vận tải.
Các tổ chức vận tải
Các công ty (hãng) kinh doanh vận tải đường biển, đường hàng không, đường thủy, đường sắt, đường bộ…
Các tổ chức dịch vụ có liên quan:
Đại lý hãng tàu. Các công ty giao nhận, kiểm kiện… Dịch vụ xếp/dỡ. Kho hàng ga, cảng… Người giữ kho để lưu kho hàng hóa. Tổ chức đóng gói để đóng gói hàng. Công ty bảo hiểm để bảo hiểm hàng hóa. Ngân hàng thương mại để thực hiện tín dụng chứng từ…
1.3.2. Cơ sở pháp lý
Các văn bản của Nhà nước
Nhà nước Việt Nam đã ban hành khá nhiều các văn bản, quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm giao nhận hàng hóa của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhằm điều chỉnh mối quan hệ phát sinh từ các hợp đồng mua bán, vận tải, bảo hiểm, giao nhận, xếp dỡ... như:
Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 1990.
Quyết định 2073/QĐVT ngày 6 tháng 10 năm 1991 của Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành thể lệ bốc dỡ, giao nhận và bảo quản hàng hóa tại cảng biển Việt Nam.
Pháp lệnh Hải quan ngày 20 tháng 2 năm 1990.
Nghị định 114/HĐBT ngày 27 tháng 5 năm 1991 của Hội đồng bộ trưởng ban hành quy định cụ thể thủ tục hải quan và lệ phí hải quan.
Bộ luật Hàng không dân dụng Việt Nam ngày 26 tháng 12 năm 1991.
…
Các luật lệ quốc tế (International Law)
Các công ước (Conventions), Các định ước (Act), Các hiệp ước (Treaties), Các hiệp định (Agreements), Các nghị định thư (Protocol), Các quy chế (Status)… về buôn bán, vận tải, bảo hiểm… mà việc giao nhận bắt buộc phải phù hợp mới bảo vệ được quyền lợi của chủ hàng.
Các loại hợp đồng.
Các tập quán thương mại, hàng hải và luật tập tục của mỗi nước.
2. Khái luận chung về người giao nhận hàng hóa quốc tế
2.1. Khái niệm về người giao nhận hàng hóa quốc tế
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là "Người giao nhận - Freight Forwader". Người giao nhận có thể là:
Chủ hàng.
Chủ tàu.
Công ty xếp dỡ hay kho hàng.
Người giao nhận chuyên nghiệp.
Bất kỳ một người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Theo Luật thương mại Việt Nam thì đó là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất được quốc tế chấp nhận về thuật ngữ "Người giao nhận". ở nhiều nước khác nhau người kinh doanh giao nhận được gọi tên khác nhau như: Đại lý hải quan (Custom Agent), Môi giới hải quan (Custom Broker), Đại lý thanh toán (Clearing Agent), Đại lý gửi hàng và giao nhận (Shipping and Forwarding Agent), Người chuyên chở chính (Principal Carrier)... Nhưng tất cả đều mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là "Người giao nhận hàng hóa quốc tế" (International Freight Forwarder) mà nhiệm vụ chủ yếu của người giao nhận là bán dịch vụ giao nhận.
Đặc biệt trong những năm gần đây, người giao nhận thường cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức, đóng vai trò là người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO) và phát hành cả vận đơn vận tải.
Doanh nghiệp giao nhận là doanh nghiệp kinh doanh các loại dịch vụ giao nhận hàng hóa trong xã hội. Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ trong giao nhận mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trò người giao nhận.
2.2. Những dịch vụ của người giao nhận
Phạm vi của dịch vụ giao nhận thể hiện phạm vi hoạt động của người giao nhận. Người giao nhận cung cấp các dịch vụ sau:
Tư vấn về:
Đóng gói: lựa chọn loại nguyên liệu để sử dụng.
Tuyến đường: chọn hành trình và phương tiện vận chuyển.
Bảo hiểm: loại bảo hiểm cần cho hàng hóa.
Thủ tục hải quan: khai báo hàng xuất nhập khẩu.
Chứng từ vận tải: những chứng từ đi kèm.
Những quy định của L/C: yêu cầu của ngân hàng.
Người tổ chức về:
Vận tải những lô hàng xuất nhập khẩu và quá cảnh. Gom hàng. Vận tải hàng nặng và đặc biệt - hàng công trình.
Đối với hàng nhập khẩu: Dỡ hàng khỏi phương tiện của người vận tải. Tháo dỡ hàng thu gom. Khai báo hải quan.
Đối với hàng xuất khẩu: Nhận hàng. Đóng gói và đánh ký mã hiệu. Lưu cước, lưu khoang với người chuyên chở. Cấp chứng từ vận tải - chứng từ cước phí đi kèm. Giám sát giao hàng. Thông báo giao hàng cho khách. Khai báo hải quan.
Đối với hàng quá cảnh: Lấy mẫu. Đóng gói lại. Lưu kho hải quan (dưới sự kiểm soát của Hải quan). Vận chuyển tiếp.
2.3. Vai trò của người giao nhận hàng hóa trong buôn bán quốc tế
Trước đây, người giao nhận chỉ làm đại lý thực hiện một số công việc do các nhà xuất nhập khẩu ủy thác như xếp dỡ, lưu kho hàng hóa, làm thủ tục giấy tờ, lo liệu vận tải nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng... Song cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải mà dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn. Ngày nay người giao nhận đóng vai trò rất quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp các dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải, phân phối hàng hóa và đóng vai trò như một bên chính - Người chuyên chở. Vai trò này thể hiện qua các chức năng sau đây:
2.3.1. Môi giới hải quan (Custom Broker)/ Người giao nhận tại biên giới (Frontier Forwareder)
Thuở ban đầu, người giao nhận chỉ hoạt động ở trong nước với nhiệm vụ là làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu. Sau đó, mở rộng hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu và dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự ủy thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tùy thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán. Trên cơ sở được Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người xuất khẩu, người nhập khẩu để khai báo, làm thủ tục hải quan hay môi giới hải quan.
2.3.2. Làm đại lý (Agent)
Trước đây, người giao nhận không đảm nhận trách nhiệm của người chuyên chở, mà chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người chuyên chở như một đại lý của người chuyên chở hoặc của người gửi hàng. Người giao nhận nhận ủy thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực hiện các công việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho… trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
Người giao nhận khi là đại lý:
Nhận ủy thác từ người chủ hàng để lo những công việc giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, làm việc để bảo vệ lợi ích của chủ hàng, làm trung gian giữa người gửi hàng với người vận tải, người vận tải với người nhận hàng, người bán với người mua.
Hưởng hoa hồng và không chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa, chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình chứ không chịu trách nhiệm về hành vi của người làm thuê cho mình hoặc cho chủ hàng.
2.3.3. Lo liệu chuyển tải và tiếp gửi hàng hóa (Transhipment an on-carriage)
Khi hàng hóa phải chuyển tải hoặc quá cảnh qua nước thứ ba, người giao nhận sẽ lo liệu thủ tục quá cảnh hoặc tổ chức chuyển tải hàng hóa từ phương tiện vận tải này sang phương tiện vận tải khác, hoặc giao hàng đến tay người nhận.
2.3.4. Lưu kho hàng hóa (Warehousing)
Trong trường hợp phải lưu kho hàng hóa trước khi xuất khẩu hoặc sau khi nhập khẩu, người giao nhận sẽ lo liệu việc đó bằng phương tiện của mình hoặc thuê người khác và phân phối hàng hóa nếu có yêu cầu.
2.3.5. Người gom hàng (Cargo Consolidator)
Dịch vụ này đã xuất hiện rất sớm ở châu âu chủ yếu phục vụ cho vận tải đường sắt. Đặc biệt trong vận tải hàng hóa bằng container, dịch vụ gom hàng là không thể thiếu nhằm biến hàng lẻ (LCL) thành hàng nguyên container (FCL) để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. Khi là người gom hàng, người giao nhận có thể đóng vai trò là người chuyên chở hoặc chỉ là đại lý.
2.3.6. Người chuyên chở (Carrier)
Trong nhiều trường hợp, người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng. Người giao nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier) nếu anh ta ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở. Nếu người giao nhận trực tiếp chuyên chở thì anh ta là người chuyên chở thực tế (Performing Carrier). Dù là người chuyên chở gì thì vẫn chịu trách nhiệm về hàng hóa. Trong trường hợp này, người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hàng hóa trong suốt hành trình không những về hành vi lỗi lầm của mình mà cả những người anh ta sử dụng và có thể phát hành vận đơn.
2.3.7. Người kinh doanh vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Operator - MTO)
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hay còn gọi là "Vận tải từ cửa đến cửa" thì người giao nhận đã đóng vai trò là người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO/CTO). MTO thực chất là người chuyên chở, thường là chuyên chở theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa.
Với nhiều chức năng như vậy, người giao nhận thường được coi là "Kiến trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất.
2.4. Địa vị pháp lý của người giao nhận hàng hóa quốc tế
Do thiếu luật lệ quốc tế về lĩnh vực giao nhận, địa vị pháp lý của người giao nhận ở từng nước có khác nhau, tùy theo luật pháp ở nước đó.
2.4.1. Đối với các nước theo luật tập quán (Common Law)
Đối với các nước theo luật tập quán - là luật không thành văn như Anh, úc, Canada, NewZealand thì địa vị pháp lý của người giao nhận được căn cứ trên khái niệm về đại lý. Người giao nhận lấy danh nghĩa của người ủy thác (tức người gửi hàng hay người nhận hàng) để giao dịch cho công việc của người ủy thác.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc truyền thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nghĩa vụ của mình, phải trung thực với người ủy thác và phải tuân theo các chỉ dẫn hợp lý của người ủy thác. Bên cạnh đó người giao nhận được hưởng những quyền bảo vệ và các giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhiệm vai trò của người ủy thác (người ủy thác là người cho phép và chỉ đạo một người khác - người đại lý - hành động cho lợi ích của mình, chịu sự chỉ đạo và kiểm soát của mình) tự mình ký kết hợp đồng sử dụng cho người chuyên chở và các đại lý, thì không được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên, mà phải chịu trách nhiệm cho cả quá trình vận tải hàng hóa kể cả khi hàng nằm trong tay những người chuyên chở và các đại lý mà anh ta sử dụng. Tuy nhiên trong thực tế, thường có sự khác biệt tùy theo loại dịch vụ mà người giao nhận đảm nhiệm. Chẳng hạn như khi người giao nhận đảm nhận trách nhiệm lo liệu vận tải đường bộ, tự mình vận chuyển hàng hóa, đó là đảm nhận vai trò của người ủy thác; nhưng nếu như người ủy thác có một đại lý phụ mà khách hàng của người giao nhận biết và đồng ý chỉ định thì người giao nhận giữ nguyên địa vị đại lý của mình. Nhưng khi người giao nhận làm dịch vụ gom hàng và cấp vận đơn riêng của mình thì người giao nhận trở thành người ủy thác.
2.4.2. Đối với các nước theo luật dân sự (Civil Law)
ở những nước có luật dân sự thì địa vị pháp lý, quyền lợi và nghĩa vụ của những người giao nhận giữa các nước có khác nhau. Thông thường người giao nhận ở những nước đó lấy danh nghĩa của mình giao dịch cho công việc của người ủy thác, họ vừa là người ủy thác, vừa là đại lý. Đối với người ủy thác (người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi là đại lý của người ủy thác, và đối với người chuyên chở thì họ lại là người ủy thác.
Tuy nhiên, thể chế mỗi nước có những điểm khác nhau. Ví dụ, Pháp là một nước có luật dân sự, ngoài trách nhiệm về các hoạt động giao nhận của mình, người giao nhận còn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện đúng đắn hợp đồng vận tải đã ký. Về phương diện này, người giao nhận thường được coi như người chuyên chở. Khi có trách nhiệm nảy sinh trong việc thực hiện vận tải thực sự, luật của Pháp cho phép chủ hàng có quyền kiện người giao nhận hoặc người chuyên chở. Song Đức cũng là một nước có luật dân sự thì địa vị pháp lý của người giao nhận lại khác. Người giao nhận không chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng vận tải trừ phi bản thân anh ta trực tiếp thực hiện vận tải.
Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận (FIATA) đã soạn thảo một bản mẫu "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" để các nước tham khảo xây dựng các điều kiện cho nghành giao nhận của mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người giao nhận. Nhiều Hiệp hội coi "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" là một trong những phương tiện chủ yếu nhằm duy trì và nâng cao tiêu chuẩn nghề nghiệp của nghành giao nhận và đã thông qua "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" cho hội viên của mình làm căn cứ hợp đồng hoặc đính kèm hợp đồng ký với khách hàng. Những điều kiện này thường được hình thành phù hợp với tập quán thương mại hay thể chế pháp lý hiện hành ở từng nước. Những nước chưa có điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn thì hợp đồng giữa người giao nhận và khách hàng quy định những quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm mỗi bên.
2.5. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận hàng hoá quốc tế
Từ những cơ sở pháp lý nói trên, có thể phân biệt quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận khi đóng vai trò đại lý và khi đóng vai trò người ủy thác. ở địa vị nào, người giao nhận cũng phải chăm sóc chu đáo hàng hóa được ủy thác, thực hiện đúng những chỉ dẫn của khách hàng về những vấn đề có liên quan đến vận tải hàng hóa.
Khi người giao nhận là đại lý
Người giao nhận phải chịu trách nhiệm về những lỗi lầm, sai sót của bản thân mình khi thực hiện dịch vụ. Lỗi lầm sai sót đó có thể là: giao hàng trái chỉ dẫn, giao hàng sai địa chỉ, quên mua bảo hiểm hoặc sai sót trong việc bảo hiểm cho hàng hóa mặc dù đã có chỉ dẫn, lỗi lầm khi làm thủ tục hải quan, lập chứng từ nhầm lẫn, tái xuất không theo những thủ tục cần thiết hoặc không hoàn lại thuế, quên thông báo khiến hàng phải lưu kho tốn kém…
Người giao nhận không chịu trách nhiệm về tổn thất do lỗi lầm, sai sót của bên thứ ba (người chuyên chở, người ký hợp đồng phụ, nhận lại dịch vụ…) miễn là người giao nhận đã biểu hiện sự cần mẫn thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Khi là đại lý thì người giao nhận phải tuân thủ "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" của mình.
Khi người giao nhận đóng vai trò người ủy thác, với tư cách là một bên ký hợp đồng độc lập đảm nhận trách nhiệm với danh nghĩa của mình thực hiện các dịch vụ do khách hàng yêu cầu, thì ngoài những trách nhiệm của đại lý nói trên, người giao nhận còn chịu trách nhiệm về cả những hành vi và sơ suất của bên thứ ba mà người giao nhận sử dụng để thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này người giao nhận thường thương lượng với khách hàng giá dịch vụ (giá khoán, giá cả gói), chứ không chỉ nhận hoa hồng như đại lý.
Người giao nhận thường đóng vai trò người ủy thác khi thu gom hàng lẻ, khi kinh doanh vận tải đa phương thức, khi đảm nhận tự vận chuyển hàng hóa hay nhận bảo quản hàng hóa trong kho của mình.
Khi đóng vai trò là người chuyên chở thì các "Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn" thường không áp dụng mà áp dụng các công ước quốc tế hoặc các quy tắc do Phòng thương mại quốc tế ban hành.
Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận được quy định cụ thể trong Luật Thương mại Việt Nam như sau:
Điều 167 - Luật Thương mại Việt Nam quy định, người giao nhận hàng hóa có những quyền và nghĩa vụ sau:
Được hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp lý khác.
Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
Sau khi ký hợp đồng, nếu xảy ra các trường hợp có thể dẫn đến việc không thực hiện được toàn bộ hay một phần những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông báo ngay cho khách hàng biết để xin chỉ dẫn thêm.
Trong trường hợp hợp đồng không có thỏa thuận về thời hạn cụ thể thực hiện nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn hợp lý.
Điều 169 - Luật thương mại Việt Nam quy định, các trường hợp miễn trách nhiệm cho người giao nhận:
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không phải chịu trách nhiệm về những mất mát, hư hỏng phát sinh trong những trường hợp sau đây:
Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy quyền.
Đã làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy quyền.
Khách hàng đóng gói và ký mã hiệu không phù hợp.
Do khách hàng hoặc người được khách hàng ủy quyền thực hiện việc xếp/dỡ hàng hóa.
Do khuyết tật của hàng hóa.
Do có đình công.
Các trường hợp bất khả kháng.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ khách hàng được hưởng, về sự chậm trễ hoặc giao hàng sai địa chỉ mà không phải do lỗi của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Điều 170 - Luật Thương mại Việt Nam quy định, giới hạn trách nhiệm của người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa:
Trách nhiệm của người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa trong mọi trường hợp không vượt quá giá trị hàng hóa, trừ khi các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không được miễn trách nhiệm nếu không chứng minh được việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng không phải do lỗi của mình gây ra.
Tiền bồi thường được tính trên cơ sở giá trị hàng hóa ghi trên hóa đơn và các khoản tiền khác có chứng từ hợp lệ. Nếu trong hóa đơn không ghi giá trị hàng hóa thì tiền bồi thường được tính theo giá trị của loại hàng hóa đó tại nơi và thời điểm mà hàng được giao cho khách hàng theo giá thị trường; nếu không có giá thị trường thì tính theo giá thông thường của hàng cùng loại và cùng chất lượng.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không phải chịu trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày giao hàng (không tính ngày chủ nhật, ngày lễ).
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa không nhận được thông báo bằng văn bản về việc bị kiện tại trọng tài hoặc tòa án trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày giao hàng.
3. Các tổ chức giao nhận quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam
3.1. Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận - FIATA
Ngay từ năm 1552, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện ở Badiley, Thụy Sĩ, với tên gọi E. Vansai. Hãng này kinh doanh cả vận tải, giao nhận và thu phí giao nhận rất cao, khoảng 1/3 giá trị của hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được tách khỏi vận tải và buôn bán, dần trở thành một nghành kinh doanh độc lập. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự ra đời các Hiệp hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nước. Trên phạm vi quốc tế hình thành các Liên đoàn giao nhận như: Liên đoàn những người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ… đặc biệt là "Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận", gọi tắt là FIATA.
Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận (FIATA), thành lập năm 1926 là một tổ chức giao nhận, vận tải lớn nhất thế giới. FIATA là một tổ chức phi chính trị, tự nguyện, là đại diện của 35.000 công ty giao nhận ở 130 quốc gia trên thế giới. Thành viên của FIATA là các hội viên chính thức và hội viên hợp tác. Hội viên chính thức là Liên đoàn giao nhận của các nước, còn Hội viên hợp tác là các công ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc như: Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), ủy ban châu âu của Liên hợp quốc (ECE) và ESCAP…
FIATA cũng được các tổ chức liên quan đến buôn bán và vận tải như: Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (IATA), các tổ chức của người chuyên chở và chủ hàng thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, liên kết nghề nghiệp, tuyên truyền dịch vụ giao nhận vận tải, xúc tiến quá trình đơn giản hóa và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến chất lượng dịch vụ của hội viên, đào tạo nghiệp vụ ở trình độ quốc tế, tăng cường các quan hệ phối hợp giữa các tổ chức giao nhận với chủ hàng và người chuyên chở. Phạm vi hoạt động của ._.FIATA rất rộng, thông qua hoạt động của hàng loạt Tiểu ban:
Tiểu ban về các quan hệ xã hội.
Tiểu ban nghiên cứu về kỹ thuật vận chuyển đường ô tô, đường sắt, đường hàng không…
ủy ban về vận chuyển đường biển và vận tải đa phương thức.
Tiểu ban luật pháp, chứng từ và bảo hiểm.
Tiểu ban về đào tạo nghề nghiệp.
ủy ban về đơn giản hóa thủ tục buôn bán.
Tiểu ban về hải quan.
Hiện nay nhiều công ty giao nhận của Việt Nam đã trở thành hội viên hợp tác của FIATA.
3.2. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam - VIFFAS
Những năm 60 thế kỷ XX, các tổ chức giao nhận quốc tế ở Việt Nam mang tính chất phân tán. Các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việc tổ chức chuyên chở hàng hóa của mình, vì vậy các công ty xuất nhập khẩu đã thành lập riêng phòng kho vận, chi nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở các cảng, ga đường sắt liên vận.
.
Những năm gần đây, kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu không còn do Vietrans độc quyền nữa mà do nhiều cơ quan, tổ chức khác tham gia, trong đó nhiều chủ hàng ngoại thương lại tự đảm nhận công tác giao nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường giao nhận Việt Nam, để bảo vệ quyền lợi của các nhà giao nhận, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành hội viên chính thức của FIATA trong năm đó. Cho đến nay, VIFFAS đã có 76 thành viên. Ngoài ra, đến đầu năm 2005 đã có hơn 30 công ty giao nhận - vận tải của Việt Nam được công nhận là hội viên hợp tác của FIATA.
4. Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Việt Nam
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, các hoạt động giao nhận vận tải ngày một tăng trưởng mạnh, góp phần tích lũy ngoại tệ, đẩy mạnh giao lưu kinh tế, nối liền các hoạt động kinh tế giữa các khu vực trong nước, giữa trong nước với nước ngoài làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhịp nhàng, cân đối.
Người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa được coi là "nhà tổ chức - kiến trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình chuyên chở một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất. Họ phải lựa chọn phương tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả kinh tế nhất và đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá trình vận tải của toàn chặng với nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như tàu thủy, máy bay, ô tô… vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ hàng. Vì vậy chủ hàng chỉ cần gõ môt cửa, ký một hợp đồng vận tải với người giao nhận nhưng hàng hóa được vận chuyển kịp thời, an toàn với giá cước hợp lý từ cửa kho nhà xuất khẩu tới cửa kho nhà nhập khẩu, tiết kiệm được thời gian, giảm chi phí vận chuyển và nâng cao được tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Sự phát triển của dịch vụ giao nhận hàng hóa ở một nước gắn liền với sự phát triển vận tải ở nước đó.
Phát triển kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế ở nước ta có một ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ giao lưu hàng hóa xuất nhập khẩu với các nước trên thế giới, tạo điều kiện đơn giản hóa chứng từ, thủ tục thương mại, hải quan và các thủ tục pháp lý khác, hấp dẫn các bạn hàng nước ngoài có quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp trong nước, làm cho sức cạnh tranh hàng hóa ở nước ta trên thị trường quốc tế tăng lên đáng kể, và tạo điều kiện cho đất nước có thêm nguồn thu ngoại tệ, cải thiện môt phần cán cân tài chính của đất nước. Có thể nói việc phát triển dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế gắn liền với sự phát triển kinh tế của nước đó.
II. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế của doanh nghiệp
1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Gồm những yếu tố, những mối quan hệ nằm ngoài khả năng kiểm soát của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có một cách duy nhất là tự điều chỉnh bản thân để phù hợp với các yếu tố này.
1.1. Môi trường pháp lý
Đó là luật quốc gia, luật quốc tế, các tập quán quốc tế… về hoạt động giao nhận và các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động giao nhận như xuất nhập khẩu, bảo hiểm, hải quan… ở đó địa vị pháp lý, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận được quy định. Môi trường pháp lý làm nền cho hoạt động giao nhận được diễn ra và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động giữa người giao nhận và các bên liên quan khi thực hiện hợp đồng.
Hệ thống luật pháp rõ ràng, nhất quán, đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho hoạt động giao nhận diễn ra thuận lợi, tiết kiệm được thời gian và chi phí do sự chồng chéo của các quy định pháp luật.
1.2. Môi trường kinh tế
Các yếu tố kinh tế bao gồm GNP bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất và tiêu dùng, yếu tố lạm phát, yếu tố lãi suất… đều tác động một cách trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế.
Tình hình kinh tế quốc gia cũng như kinh tế thế giới đều ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế. Ví dụ như năm 2004 do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, rào cản về thuế của một số nước lớn áp đặt với sản phẩm thuỷ sản đã làm khó khăn đến xuất khẩu. Mặt khác giá một số vật tư thiết yếu tăng cao như sắt thép, xăng dầu, phân bón, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 9,5% đã làm giảm phần nào tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
1.3. Môi trường cạnh tranh
Một trong những thách thức lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp là phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hiện nay, tại Việt Nam có trên 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kho vận giao nhận vận tải thuộc đủ mọi thành phần kinh tế: tư nhân, nhà nước, liên doanh…đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với tiềm lực tài chính, sự hỗ trợ từ công ty mẹ, khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại… là những đối thủ nặng ký trên thị trường. Đặc biệt đây là một lĩnh vực kinh doanh rất hấp dẫn bởi không cần nhiều vốn đầu tư như kinh doanh các ngành khác mà lợi nhuận thu được rất cao, do đó có ngày càng nhiều các doanh nghiệp tham gia vào thị trường này.
Với một môi trường cạnh tranh gay gắt như vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình hướng đi đúng phù hợp với năng lực bản thân, tận dụng lợi thế cạnh tranh để đứng vững và khẳng định vị thế của mình.
1.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật
Lịch sử đã chứng minh rằng, các cuộc cách mạng khoa học lớn đã diễn ra trong đời sống xã hội con người đều được phản ánh trong ngành vận tải. Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, trong các phương thức vận tải bắt đầu áp dụng khá phổ biến phương pháp chuyên chở bằng container. Container hàng hóa trong chuyên chở hàng hóa đã trực tiếp làm thay đổi sâu sắc về nhiều mặt không chỉ trong ngành vận tải mà trong các ngành kinh tế khác, mà trực tiếp là ngành giao nhận.
Cuộc cách mạng container đã tạo điều kiện cho dịch vụ gom hàng lẻ có cơ hội phát triển mạnh và tạo ra một dịch vụ kinh doanh mới - cho thuê kho bãi để container. Nhưng đồng thời làm giảm hiệu quả kinh doanh kho vận do hàng hóa để trong cotainer có độ an toàn cao nên chỉ cần có bãi thích hợp là được bốc thẳng từ tàu xuống ô tô về nơi nhận hàng mà không cần gửi ở cảng (khi hàng hóa đã hoàn tất thủ tục nhập khẩu) thì việc kinh doanh kho vận cũng không còn phát triển như trước nữa.
2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Tất cả các yếu bên trong doanh nghiệp như cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ cán bộ công nhân viên… và đặc biệt là chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và mục tiêu mà doanh nghiệp đang theo đuổi là những yếu tố tác động mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động có mục tiêu của doanh nghiệp trong một thời gian dài. Nó định ra được các mục tiêu lớn, theo đó cần phải huy động hợp lý các nguồn lực cả trước mắt và lâu dài. Nó bảo đảm cho các kế hoạch không lạc hướng. Chiến lược kinh doanh được xây dựng tốt giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận, có chỗ đứng vững chắc và an toàn trong kinh doanh, chủ động thích ứng với môi trường. Để chiến lược kinh doanh có tính khả thi khi xây dựng phải dựa trên các căn cứ sau:
Khách hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nghiên cứu khách hàng của mình trên thị trường để xác định những nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu nhu cầu để dự báo được thay đổi trong nhu cầu, khả năng thanh toán. Điều quan trọng trong nghiên cứu khách hàng là phát hiện nhu cầu thành sức mua và định hướng nhu cầu.
Môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các chủ thể kinh doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác động chi phối mọi hành vi hoạt động của họ. Hoạt động kinh doanh được thực hiện trong những môi trường cụ thể, mức sinh lời phụ thuộc trước hết vào khả năng phân tích và sự am hiểu môi trường kinh doanh của các chủ doanh nghhiệp, từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh và thực hiện chiến lược kinh doanh một cách nhất quán, năng động linh hoạt, không thụ động trước những rủi ro.
Tiềm năng của doanh nghiệp :
Đó là khả năng về vốn, lao động, quản lý, tài sản, cơ sở vật chất - kỹ thuật. Đây là những tài sản hữu hình. Các tiềm năng vô hình của doanh nghiệp cũng cần phải được khai thác. Đó là niềm tin của khách hàng, uy tín của doanh nghiệp, khả năng chiếm giữ thông tin, trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ, kỹ năng quản trị … tất cả các yếu tố trên đây tạo ra sức mạnh, tiềm lực của doanh nghiệp. Dựa trên những căn cứ đó, bảo đảm chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tính khoa học, khả thi cao, đồng thời không bỏ qua các tiềm năng.
III. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của doanh nghiệp
Bất kỳ một tổ chức dịch vụ nào cũng đều hình thành một hệ thống sản xuất và cung ứng dịch vụ của mình. Hệ thống này liên quan chặt chẽ với sự thiết kế dịch vụ, chất lượng và mức độ dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nói chung và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế nói riêng thì hệ thống cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố vật chất và con người, được tổ chức chặt chẽ theo một hệ thống phối hợp hướng tới khách hàng nhằm bảo đảm thực hiện quá trình cung ứng và tiêu dùng dịch vụ một cách có hiệu quả. Sự phát triển của các yếu tố trong hệ thống thể hiện sự phát triển trong hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa của doanh nghiệp.
Hình 1.1Hệ thống cung ứng dịnh vụ của doanh nghiệp dịch vụ.
Tổ chức nội
bộ
Cơ sở
vật chất
Nhân viên tiếp xúc
Khách hàng
Dịch vụ
(Nguồn: Giáo trình "Marketing trong kinh doanh dịch vụ")
1. Khách hàng
Khách hàng chính là người tiếp cận tiêu dùng dịch vụ. Không có khách hàng thì không có dịch vụ bởi đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ là quá trình cung ứng đồng thời với quá trình tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường thì khách hàng có toàn quyền lựa chọn người cung cấp dịch vụ cho mình. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp nâng cao sức cạnh tranh, thu hút khách hàng. Số lượng khách hàng đến với doanh nghiệp ngày càng tăng thể hiện sự thành công của doanh nghiệp trong việc lôi kéo và hấp dẫn khách hàng, chứng tỏ sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Cơ sở vật chất
Là các phương tiện cần thiết cho quá trình giao nhận. Đó là các trang thiết bị văn phòng, kho bãi, xe cộ, cẩu, máy nâng container, pallet... Cơ sở vật chất có đầy đủ, hiện đại và đồng bộ mới tạo điều kiện để quá trình giao nhận diễn ra thuận lợi với thời gian và chi phí hợp lý. Năng lực cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp có thể được đánh giá thông qua cơ sở vật chất của doanh nghiệp đó. Do đó để nâng cao chất lượng giao nhận thì điều tất yếu quan trọng là phải hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật.
3. Nhân viên tiếp xúc
Là người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ, tiếp xúc với khách hàng. Họ là mối nối giữa doanh nghiệp với khách hàng. Nghiệp vụ giao nhận hàng hóa quốc tế là một quá trình phức tạp, đòi hỏi người thực hiện phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực như xuất nhập khẩu, vận tải quốc tế, pháp luật quốc gia và quốc tế về lĩnh vực giao nhận vận tải… Do đó, đội ngũ nhân viên nhất thiết phải được đào tạo qua các trường lớp và tích lũy kinh nghiệm qua thực tế công việc. Bên cạnh đó, các nhân viên cần được đào tạo để có thái độ, hành vi và năng lực phù hợp với công việc, các kỹ năng cá nhân cần có trong quá trình tiếp xúc với khách hàng như kỹ năng giao tiếp qua điện thoại và kỹ năng xử lý trực diện các tình huống khó khăn với khách hàng.
Doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có trình độ, giàu kinh nghiệm và có tính chuyên nghiệp cao là ưu thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh và có khả năng phát triển mạnh mẽ hoạt động kinh doanh của mình.
4. Hệ thống tổ chức nội bộ trong doanh nghiệp
Cơ sở vật chất và nhân viên tiếp xúc chỉ là bộ phận hữu hình của doanh nghiệp. Hai yếu tố này bị chi phối bởi tổ chức nội bộ của doanh nghiệp, tức là mục tiêu mà doanh nghiệp đang theo đuổi, cơ cấu quản lý áp dụng, các hoạt động của doanh nghiệp, tóm lại là sự quản lý của doanh nghiệp. Hệ thống tổ chức được quyết định bởi cơ quan đầu não của doanh nghiệp là giám đốc và ban giám đốc trên cơ sở sử dụng các công cụ chức năng như tài chính, công nghệ, lao động và marketing… Một doanh nghiệp có chiến lược, phương hướng hoạt động rõ ràng phù hợp với năng lực, với môi trường kinh doanh; mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các bộ phận chức năng với nhau chặt chẽ, có sự phối hợp nhịp nhàng, có sự phân cấp phân quyền hợp lý sẽ có một hệ thống cung ứng dịch vụ có hiệu quả.
5. Dịch vụ
Dịch vụ là mục tiêu của hệ thống và cũng là kết quả của hệ thống. Sự phát triển của dịch vụ thể hiện ở chính bản thân của dịch vụ, đó là chất lượng của dịch vụ, giá thành của dịch vụ và đặc biệt là 2 chỉ tiêu sau:
Mức độ đáp ứng nhu cầu cho khách hàng (Kd)
Kd=
Trong đó: Q0: Khối lượng dịch vụ mà doanh nghiệp thực hiện trong năm.
N0: Số lượng khách hàng được thực hiện dịch vụ.
QN: Khối lượng dịch vụ toàn nghành thực hiện trong năm.
NN: Nhu cầu hàng năm về dịch vụ.
Giá trị thực hiện dịch vụ (Cd)
Cd = SQ * N
Trong đó: Q: Khối lượng dịch vụ.
G: Giá trị dịch vụ.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa thể hiện thông qua Kd hay Cd cao hay thấp. Nếu các chỉ số đó cao thể hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp phát triển cả về khối lượng lẫn chất lượng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Chương II
Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ
giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh
Công ty tnhh nhà nước một thành viên
xuất nhập khẩu và đầu tư hà nội-trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà nội
I. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh công ty tnhh nhà nước một thành viên xuất khẩu và đầu tư hà nội-trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp hà nội
1. Quá trình hình thành và phát triển
Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội.
Tên giao dich là : GENEXIM
đặt trụ sở tại : 102 Thái Thịnh-Đống Đa-Hà Nội
Số điện thoại : 84.4534237
Số fax : 84.4534237
Các ngành nghề kinh doanh :
Vận tải hành hoá
Dịch vụ kho vận
Dịch vụ làm thủ tục hải quan
Dịch vụ khai thuế hải quan
Đại lý vận tải
Dịch vụ mua bán ,ký gửi hàng hoá
Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính
Chi nhánh của công ty Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội được thành lập vào ngày 17 tháng 02 năm 2006 căn cứ vào Quyết định số 106A/QĐ-CT-CTTB của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuất nhập khẩu và Đầu tư Hà Nội. Đây là vốn của Công ty mẹ của Chi nhánh của Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội có trụ sở tại 71 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội. Công ty này được chuyển đổi từ Công ty Xuất nhập khẩu và Đầu tư Hà Nội theo quyết định số 152/2005/QĐ-UB của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội.
Sau đó, tới năm 2006 Công ty này quyết định thành lập Chi nhánh của Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội. Vốn là Công ty Thương mại và Thảm may Hà Nội ra đời từ năm 1987 đã sát nhập vào Công ty Xuất nhập khẩu và Đầu tư Hà Nội. Quá trình sát nhập và thay đổi liên tục của các Công ty Nhà nước diễn ra là phù hợp với hoàn cảnh sau khi Việt Nam thay đổi cơ chế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì cơ chế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có lãi nên sự tồn tại và phát triển của các Công ty Nhà nước phải có sự thay đổi trong quản lý.
Buổi đầu thành lập, Chi nhánh Công ty còn nhiều khó khăn vì sau một loạt những thay đổi liên tục trong cơ cấu quản lý và nhân sự khiến cho nhiều nhân viên có kinh nghiệm và khả năng đã ra đi. Và Công ty gặp nhiều khó khăn về nhân sự và nghiệp vụ cũng như tìm kiếm khách hàng. Sự bổ sung nhân sự trong Công ty dường như cũng đã mang lại thành công hơn mong đợi sau những thời gian khó khăn ban đầu. Toàn bộ cán bộ công nhân viên đã làm việc tận tình, khoa học để có thể tìm kiếm khách hàng, cạnh tranh với các Công ty khác trong ngành. Với sự nỗ lực đó, Chi nhánh Công ty đã không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng. Để có thể tồn tại và đứng vững trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, Chi nhánh của Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội đã tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu tất cả các lĩnh vực và đặc biệt là lĩnh vực thép, Chi nhánh Công ty đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều khách hàng hơn. Đặc biệt là các khách hàng là các Công ty Nhật Bản tại Việt Nam. Kết thúc năm hoạt động đầu tiên, mức doanh thu của Công ty đạt khoảng 15 tỷ đồng. Đây là một con số đáng khích lệ với một Công ty nhỏ, mới thành lập như Chi nhánh của Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội. Quy mô của doanh nghiệp càng ngày càng được mở rộng. Hiện nay, số lượng nhân viên của Chi nhánh Công ty đã tăng lên là 30 người, làm việc trong một môi trường khá chuyên nghiệp tại văn phòng giao dịch tại 102 Thái Thịnh - Đống Đa - Hà Nội, lợi nhuận hàng năm lên tới trên 6 tỷ đồng. Chi nhánh của Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội đã trở thành một tấm gương cho các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ mở cửa.
2. Chức năng, nhiệm vụ và nội dung hoạt động
2.1. Chức năng
Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội là đơn vị trực thuộc Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội có chức năng quan hệ với khách hàng, các cơ quan chức năng để nắm bắt thông tin, tạo nguồn hàng, phát triển các dịch vụ đại lý giao nhận vận tải quốc tế và đại lý vận tải hàng hóa trong nước tại khu vực miền Bắc, khai thác khả năng phương tiện, kho tàng và nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên nhằm phục vụ tốt công tác xuất nhập khẩu, phân phối hàng hóa trong nước, góp phần phát triển kinh tế, tích lũy cho ngân sách và Công ty.
2.2. Nội dung hoạt động
Khai thác các nguồn hàng xuất nhập khẩu trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, liên hệ thỏa thuận giá cả và ký hợp đồng cung cấp dịch vụ với các đơn vị xuất nhập khẩu.
Xử lý kịp thời các thông tin nhận được trực tiếp từ hệ thống đại lý của Công ty ở nước ngoài theo sự hướng dẫn của đại lý, thông lệ quốc tế và phù hợp với luật pháp Việt Nam nhằm giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến giao nhận vận tải quốc tế.
Chủ động liên hệ với các hãng vận tải để thương lượng giá cả, phương tiện vận tải, đặt chỗ, lịch trình.
Thực hiện việc khai thuê hải quan, giao nhận vận chuyển vật tư, thiết bị, hàng hóa cho khách hàng.
2.3. Nhiệm vụ
Thực hiện tốt nội dung hoạt động của Chi nhánh.
Chấp hành đúng các chế độ, chính sách pháp luật của Nhà nước và tập quán quốc tế về các lĩnh vực liên quan đến công tác giao nhận vận tải.
Quản lý toàn diện cán bộ công nhân viên của Chi nhánh theo chính sách hiện hành của Nhà nước và sự phân cấp của Công ty. Có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ công nhân viên để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các biện pháp để cải tiến, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chi nhánh nhằm đem lại hiệu quả cao.
3. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
3.1. Cơ cấu tổ chức và Bộ máy quản lý
Bộ máy của Công ty bao gồm:
- Giám đốc
- Các Phó Giám đốc
- Phòng KD 1
- Phòng KD 3
- Phòng KD 5
- Phòng KD 7
- Phòng Tổ chức hành chính
- Phòng Kế toán tài vụ
- Ban quản lý dự án
- Các phòng ban khác
* Giám đốc
Giám đốc do Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách nhiệm trước Tổng Công ty và pháp luật về việc quản lý và điều hành hoạt động của Chi nhánh Công ty. Công việc chính của Giám đốc là điều hành Công ty hoạt động theo hướng chỉ đạo của Tổng Công ty. Giám đốc Chi nhánh Công ty quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, tổ chức nhân sự, tài chính của Công ty và chế độ hiện hành của Nhà nước.
Ngoài ra Giám đốc còn có những nhiệm vụ sau:
- Đại diện của Chi nhánh Công ty trong quan hệ bên ngoài
- Tất cả các hoạt động phải trình Giám đốc
- Uỷ quyền cho Phó Giám đốc với HĐ ngoại có giá trị 200.000USD và HĐ kinh tế giá trị 3 tỷ.
- Uỷ quyền cho trưởng phòng KD với HĐ ngoại có giá trị 50.000USD và HĐ kinh tế giá trị 500 triệu đồng.
- Giám đốc phân công và uỷ quyền cho các Phó Giám đốc và các trưởng phòng và các phụ trách xí nghiệp trực thuộc những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể và trách nhiệm cụ thể.
- Giám đốc chịu trách nhiệm cụ thể trước pháp luật và toàn bộ nhân viên về chủ trương, quyết định, hiệu lực điều hành và hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Công ty.
- Tổ chức hoạt động kinh doanh cho phù hợp với điều kiện trong và ngoài Chi nhánh Công ty.
- Đại diện cho Chi nhánh Công ty khởi kiện, công chứng, giải quyết tranh chấp, tham gia tố tụng, thi hành án trước cơ quan pháp luật.
- Có trách nhiệm triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Chi nhánh Công ty.
- Giữ vai trò chủ chốt trong giám sát, đôn đốc, kiểm tra và điều hành các nghị quyết trong Chi nhánh Công ty.
- Quy định nội quy lao động, tác phong làm việc, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động trong phạm vi được uỷ quyền.
- Thực hiện vịêc ký hợp đồng lao động, bổ nhiệm, luân chuyển, miễn nhiệm cán bộ trong Chi nhánh Công ty.
- Thực hiện nhiệm vụ của mình theo sự uỷ quyền của Tổng Giám đốc về các công việc kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động trong Chi nhánh Công ty.
- Quy định nội quy lao động, tác phong làm việc, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền lợi của người lao động trong phạm vi được uỷ quyền.
- Thực hiện nhiệm vụ của mình theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc về các công việc kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Chi nhánh Công ty.
- Thay mặt Công ty ký kết hợp đồng giao dịch với khách hàng, ký hợp đồng tín dụng và các hợp đồng khác.
- Báo cáo quyết toán từng năm và thời kỳ của doanh nghiệp
* Phó Giám đốc
Phó Giám đốc do Tổng Công ty đề cử và được sự nhất trí của các thành viên. Phó Giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc, chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Giám đốc về công việc của mình:
- Thay mặt Giám đốc điều hành hoạt động của Chi nhánh khi Giám đốc đi vắng và báo cáo lại kết quả hoạt động khi Giám đốc có mặt.
- Là người giúp giám đốc trong việc điều hành hoạt động của Công ty.
- Tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ của mình.
- Thay mặt doanh nghiệp ký kết các hợp đồng kinh doanh.
- Chịu uỷ thác trong hợp đồng kinh tế cụ thể.
- Điều hành một số chức năng, bộ phận công tác do Giám đốc phân công.
- Thừa uỷ quyền của Giám đốc trong giao dịch đàm phán các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
* Phòng Tài chính tài vụ
Công việc của Phòng Tài chính tài vụ là phân loại chứng từ, kiểm tra chứng từ, lập các bảng kê, định khoản kế toán và ghi sổ. Phòng tài chính tài vụ được chia làm 2 chức năng riêng: kế toán tổng hợp và kế toán thanh toán.
Kế toán thanh toán có các nhiệm vụ sau:
- Báo cáo tài chính 3 tháng một lần
- Bảo quản tài liệu và chứng từ đúng tiến độ
- Thống kê, vào sổ các khoản chi phí trong ngày
- Thanh toán các khoản phải chi, tạm ứng tiền công tác cho cán bộ công nhân viên.
- Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và hạch toán theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và tài sản của Chi nhánh Công ty.
- Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính.
- Tổng hợp, phân tích, thống kê các khoản thu chi trong Chi nhánh Công ty, các khoản phải thu, các khoản phải nộp, kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Công ty.
- Giám sát việc sử dụng nguồn vốn và tài sản của Chi nhánh Công ty. Báo cáo kịp thời khi phát hiện những báo động trong tỷ lệ vốn cố định và vốn lưu động.
- Phát hiện và báo cáo với cấp trên về các hành vi tham ô, tham nhũng, lãng phí.
- Cung cấp tài liệu, số liệu cần thiết cho hoạt động của các phòng ban khác, giúp Giám đốc trong công tác lập kế hoạch và theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong Chi nhánh của Công ty.
- Có quyền yêu cầu các phòng ban khác cung cấp số liệu và giấy tờ phục vụ cho việc lập kế hoạch.
- Có quyền báo cáo với cơ quan pháp luật về những sai phạm trong tài chính, kế toán của Chi nhánh Công ty.
- Phòng Tài chính tài vụ phối hợp với phòng Kinh doanh trong việc lập kế hoạch cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, phối hợp với phòng Hành chính nhân sự trong công tác tổ chức lao động và công tác quản trị hành chính.
* Phòng Hành chính nhân sự
Phòng Hành chính nhân sự có các nhiệm vụ sau:
- Quản lý con dấu, thực hiện công tác hành chính, văn phòng, phương tiện giao thông, y tế, lễ tân của Chi nhánh Công ty.
- Thực hiện các công việc giao tiếp với khách hàng, quan tâm đến đời sống của cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh Công ty, thăm hỏi ốm đau, hiếu hỉ các nhân viên.
- Xây dựng các văn bản về tổ chức lao động, tuyển dụng, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, kỷ luật, nội quy lao động trong Chi nhánh Công ty.
- Quản lý hồ sơ cán bộ, thực hiện quản lý nhân sự trên máy vi tính, kịp thời phát hiện những sai phạm của cán bộ công nhân viên để đưa ra các hình thức kỷ luật kịp thời.
- Thực hiện công tác quản trị hành chính.
- Phối hợp với phòng Tài chính tài vụ để thanh quyết toán các chi phí văn phòng.
- Phối hợp với phòng Kinh doanh trong công tác kế hoạch và luân chuyển chứng từ giao nhận hàng hoá và xuất nhập khẩu.
* Phòng Kinh doanh
Do quy mô cho nên phòng Kinh doanh của Chi nhánh Công ty kiêm luôn cả nhiệm vụ Marketing.
Phòng Kinh doanh trong Chi nhánh Công ty có các nhiệm vụ sau:
- Tìm kiếm khách hàng, tìm hiểu thị trường, giá cả, khai thác và xử lý thông tin để có những quyết định đúng đắn.
- Tổ chức việc kinh doanh để đảm bảo doanh thu cho Chi nhánh Công ty.
- Xây dựng và triển khai công tác kinh doanh của Chi nhánh Công ty trước mắt và lâu dài.
- Lập ra các phương án quản lý và thu hồi công nợ.
- Xây dựng các chiến lược mở rộng thị trường, mở rộng đối tượng khách hàng, triển khai công tác Marketing có hiệu quả, nâng cao hình ảnh của Chi nhánh Công ty.
- Công việc chính của phòng Kinh doanh là tìm kiếm khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ giao nhận hàng hoá và XNK hàng hoá cho các hợp đồng của khách hàng. Việc thực hiện giao nhận này trong Công ty do một bộ phận thuộc phòng Kinh doanh đảm nhận.
- Bộ phận Marketing có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tạo mối quan hệ lâu dài và thu hút khách hàng tiềm năng khác.
- Sau khi bộ phận Marketing tìm kiếm được khách hàng thì bộ phận nghiệp vụ có nhiệm vụ thực hiện hợp đồng đối với khách hàng. Bộ phận nhgiệp vụ này lại được phân công làm hai đội nhỏ, một đội chuyên thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và một đội thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu.
Tổng Công ty
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng Tài chính Tài vụ
Phòng Tổ chức Hành chính
Phòng Kinh doanh 1
Phòng Kinh doanh 3
Phòng Kinh doanh 5
Phòng Kinh doanh 7
Một số phòng ban khác
Hình 1. 2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội
3.2. Đặc điểm về nguồn vốn
Là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại, là một đơn vị trực thuộc của bộ thương mại được thành lập theo Quyết định số 106A/QĐ-CT-CTTB của Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội, do vậy nguồn vốn ban đầu của Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội là do Công ty cấp khi mới thành lập.
Tổng nguồn vốn kinh doanh hiện nay của Chi nhánh là:
10.000 triệu đồng.
Trong đó: Vốn cố định: 3.000 triệu đồng.
Vốn lưu động: 7.000 triệu đồng.
Chi nhánh phải tự tạo, tự bảo toàn và phát triển, quản lý khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh. Chủ yếu vốn kinh doanh của Chi nhánh được bổ sung từ hai nguồn là tích lũy nội bộ và vay ngân hàng. Bên cạnh đó hàng năm Chi nhánh đều thực hiện việc nâng cấp trang thiết bị cơ sở vật chất để đáp ứng kịp thời nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ.
3.3. Đặc điểm về lao động
Sau hơn 5 năm hoạt động, tổ chức nhân sự của Chi nhánh đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng với trình độ chuyên môn được đào tạo qua các trường đại học, qua các lớp nghiệp vụ ngoại thương, với sự năng động nhiệt tình của tuổi trẻ và sự gắn kết của tập thể, tổ chức nhân sự của Chi nhánh đang dần ổn định.
Quy mô lao động của Chi nhánh được mở rộng qua từng năm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc, phục vụ mục tiêu mở rộng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Năm 2003, Chi nhánh có 23 thành viên, đã tiếp nhận vào làm việc ._.n khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam né tránh và nhường lại quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho khách hàng nước ngoài; mặt khác mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các công ty giao nhận vận tải và công ty bảo hiểm cũng chưa được thiết lập một cách bền vững để lựa chọn người vận tải - bảo hiểm chắc chắn cho hàng hóa xuất nhập khẩu của mình.
Nhìn chung đội tàu Việt Nam còn trong tình trạng lạc hậu, tỉ lệ tự động hóa và chuyên dụng hóa của tàu biển Việt Nam còn rất thấp, tuổi tàu già so với mức bình quân của thế giới (12 - 14 năm). Trang thiết bị vận chuyển lạc hậu nên chi phí vận chuyển và yếu tố rủi ro quá cao chưa kể đến yếu tố không đảm bảo tiêu chuẩn hàng hải. Cước phí vận tải của các đội tàu nước ngoài thường thấp hơn cước phí vận tải của Việt Nam vì năng lực chuyên chở của một tàu nước ngoài lớn hơn tàu của Việt Nam rất nhiều, hơn nữa những tàu nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hầu hết đã được khấu hao xong. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng khiến cho các hãng tàu của Việt Nam không thể cạnh tranh được với các hãng tàu nước ngoài, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam thường nhường quyền vận tải cho các đối tác nước ngoài vì đội tàu của họ có khả năng chuyên chở lớn hơn và an toàn hơn cho dù giá cước có cao hơn.
Việc lựa chọn các điều kiện thương mại như vậy khi mua bán ngoại thương của các doanh nghiệp Việt Nam không có lợi ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.
ở tầm vĩ mô:
Thất thu ngoại tệ do xuất khẩu với giá rẻ, nhập khẩu với giá cao.
Không tạo điều kiện thuận lợi để gia tăng doanh số dịch vụ cho các hãng giao nhận vận tải và hãng bảo hiểm của Việt Nam.
ở tầm vi mô:
Giảm khả năng tự cân đối ngoại tệ do xuất khẩu với giá rẻ, nhập khẩu phải chi phí ngoại tệ nhiều vì khi thuê phương tiện vận tải doanh nghiệp có thể trả bằng nội tệ.
Doanh nghiệp bị động với phương tiện vận tải, hậu quả có thể phải trả thêm những chi phí phát sinh như chi phí lưu kho, trả lãi suất…
Bị mất đi các khoản hoa hồng của các hãng vận tải và bảo hiểm trả cho người thuê dịch vụ của họ.
Gặp khó khăn khiếu nại đòi bồi thường nếu có tranh chấp xảy ra giữa doanh nghiệp nhập khẩu với các hãng tàu nước ngoài…
Vì những bất lợi trên nên khuyến cáo các doanh nghiệp Việt Nam thay đổi khi xuất khẩu nên chọn điều kiện nhóm C, khi nhập khẩu nên chọn điều kiện của nhóm F. Muốn làm được điều này thì bản thân doanh nghiệp phải chuẩn bị các điều kiện:
Nâng cao trình độ ngoại ngữ và nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, trong đó có nghiệp vụ thuê tàu và mua bảo hiểm.
Học và hiểu đúng về Incoterm
Nâng cao thế và lực trong kinh doanh để giành được chủ động trong lựa chọn điều kiện thương mại có lợi.
Về phía Nhà nước thiết nghĩ cũng cần phải có những biện pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu "giành quyền vận tải" bằng cách phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vận tải biển, đặc biệt tập trung vào phát triển đội tàu buôn và phát triển cảng biển của Việt Nam theo hướng:
Tăng nhanh đội tàu buôn: đội tàu buôn sẽ bao gồm các loại tàu hiện đại, trọng tải trung bình lớn. Phát triển nghành công nghiệp đóng tàu, tiến tới tự đóng được các loại tàu có trọng tải lớn phục vụ cho nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu.
Cải tạo và hiện đại hóa hệ thống các cảng biển hiện có, xây dựng một số cảng mới hiện đại, nhất là cảng nước sâu để tiếp nhận các tàu có trọng tàu lớn.
Nhìn chung Việt Nam có tiềm năng xây dựng được những cầu cảng, cầu tàu tầm cỡ quốc tế vì dọc theo bờ biển Việt Nam có thể xây dựng được những cầu tàu nhô ra ngoài khơi, và những cảng tiếp nhận được tàu 50.000 tấn đến 500.000 tấn. Đó là hệ thống cảng và cầu tàu nằm trên tuyến đường hàng hải chính của các nước Nhật, Nga, Hàn Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc… giao lưu với các nước trong khu vực Đông Nam á, ấn Độ, các nước châu Âu.
ủy ban kinh tế khu vực châu á Thái Bình Dương của Liên Hợp quốc đã dự báo khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng container hàng năm sẽ tăng 7,1%. Đây sẽ là cơ hội tốt cho những nước có lợi thế về xây dựng và phát triển cảng biển như Việt Nam.
Theo một nhà phân tích của Công ty môi giới vận tải biển của Na Uy (MBI - Maritime Broker and Investors): "Việt Nam chỉ cần lập chợ trên biển với các thủ tục đơn giản, phí hoa chi vừa phải để điều phối hàng hóa đi các nơi trên thế giới là đủ giàu". (Như kinh nghiệm của Singapore - một nước có hệ thống cảng trung chuyển đứng đầu thế giới, mỗi năm chuyển tải từ 300 - 400 triệu tấn hàng hóa).
Nếu chúng ta xây dựng được hệ thống các cảng chuyên dùng có tầm cỡ quốc tế, đủ khả năng tiếp nhận những tàu có trọng tải nặng thì lượng phí trung chuyển thu được có thể ngang với lượng kim ngạch xuất khẩu gạo và dầu thô - hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Đây là cơ hội tăng doanh số cho các hãng giao nhận vận tải biển của Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Giao thông vận tải hiện nay tỉ lệ hàng xuất khẩu của Việt Nam đi nước ngoài bằng đội tàu trong nước chỉ chiếm 15%, tỉ lệ hàng nhập khẩu vận chuyển bằng đội tàu trong nước là 14%, một con số khá khiêm tốn. điều này cho thấy khả năng cạnh tranh của đội tàu trong nước quá yếu, thị trường vận tải ngoại thương do các công ty tàu biển nước ngoài thao túng. Trong cơ cấu giá CIF, các doanh nghiệp ngoại thương chỉ thu được phần C (cost), phần F (freight) chỉ thu được khoảng 10 - 15% còn lại là nước ngoài hưởng trọn. Nếu quyền vận tải thuộc về các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thì tình hình trên chắc chắn sẽ đảo ngược theo hướng có lợi cho phía Việt Nam.
Thị trường giao nhận vận tải của Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng và thị trường tiềm năng này còn mở rộng hơn nữa nếu như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam giành được quyền vận tải trong ngoại thương. Giao nhận - vận tải - ngoại thương gắn bó chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ hữu cơ. Sự phát triển của ngoại thương đem lại doanh số cho nghành giao nhận vận tải và sự phát triển của giao nhận vận tải hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ngày nay rất hiếm các hãng nào chỉ kinh doanh hoặc giao nhận hoặc vận tải một cách riêng lẻ mà thường kiêm luôn cả hai nghiệp vụ. Các công ty sở hữu tàu và các phương tiện chuyên chở cũng mở rộng lĩnh vực kinh doanh kiêm luôn cả dịch vụ giao nhận. Các hãng không sở hữu các phương tiện chuyên chở với thế mạnh là giao nhận thì vẫn kinh doanh chuyên chở dù chỉ là người chuyên chở theo hợp đồng (thầu chuyên chở) trong một quy trình khép kín "từ cửa tới cửa" đưa hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi giao hàng, và nếu được yêu cầu người giao nhận có thể tiến hành phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng.
1.5. Phát huy hơn nữa vai trò của VIFFAS
Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) là một tổ chức tự nguyện liên kết nghề nghiệp của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao hàng nhận hàng kho hàng và tổ chức chuyên chở hàng xuất nhập khẩu, không phân biệt thành phần kinh tế tự nguyện thành lập để cùng hợp tác liên kết, hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong công việc phát triển nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên trong các hoạt động thuộc lĩnh vực giao nhận kho vận hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, trên cơ sở đó hội nhập với các hoạt động cùng loại của các đồng nghiệp trên thế giới.
Hiệp hội đại diện cho quyền lợi của cộng đồng các doanh nghiệp về các lĩnh vực giao nhận kho vận trong các quan hệ kinh doanh và hợp tác quốc tế. Hiệp hội tận dụng mọi điều kiện, phương tiện, tổ chức để bảo vệ và giúp hội viên nâng cao và cải tiến chất lượng hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận nhằm đáp ứng kịp thời cá yêu cầu ngày càng tăng trong lĩnh vực này của các khách hàng trong và ngoài nước. Hiệp hội giúp đỡ hội viên trong quá trình đào tạo, bổ túc, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các nhân viên, chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận để đáp ứng các yêu cầu về nghiệp vụ của các đồng nghiệp trên thế giới.
VIFFAS đóng vai trò thật sự quan trọng đối với hoạt động giao nhận kho vận của Việt Nam. Hiệp hội ra đời làm cho tiếng nói của hoạt động giao nhận kho vận Việt Nam có trọng lượng hơn bằng việc trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận. Để phát triển hoạt động giao nhận của Việt Nam rất cần tới vai trò của VIFFAS. Để phát huy hơn nữa vai trò của mình trong thực tiễn Hiệp hội có thể tổ chức các hoạt đông của mình theo hướng:
Kiến nghị với Nhà nước, các ngành hữu quan và các địa phương về các chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển, cải tiến nâng cao chất lượng hoạt động giao nhận kho vận phục vụ đẩy mạnh trao đổi hàng hóa với nước ngoài góp phần tăng nhanh kim nghạch xuất nhập khẩu, đẩy mạnh đầu tư và chuyển giao cộng nghệ tiên tiến.
Kiến nghị với các cơ quan chức năng của Nhà nước ban hành các văn bản, pháp luật về hoạt động giao nhận kho vận ở Việt Nam.
Tư vấn cho các cơ quan Nhà nước trong việc phê chuẩn, gia nhập hoặc ký kết các Công ước quốc tế có liên quan tới hoạt động giao nhận kho vận do các tổ chức quốc tế dự thảo...
Tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề về các chủ đề pháp lý, kỹ thuật nghiệp vụ giao nhận kho vận để các bên Việt Nam và nước ngoài liên quan trao đổi ý kiến và quan điểm về những vấn đề cần quan tâm.
Tạo điều kiện phát huy sức mạnh của hội viên, bổ sung và hoàn thiện các điều kiện cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ các nghiệp vụ trong lĩnh vực này.
Thu thập và cung cấp cho hội viên các thông tin đầy đủ của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế liên quan, kịp thời thông báo các khuyến nghị, thông tin, mẫu biểu chứng từ, hợp đồng và các công ước quốc tế đã được phổ biến và lưu hành rộng rãi trên thế giới, đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
Giúp đỡ các hội viên tiếp cận, gia nhập, tham gia các hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế liên quan cũng như thiết lập và phát triển quan hệ với các bạn hàng trong và ngoài nước và trao đổi thông tin nghề nghiệp với các đồng nghiệp ở các nước trên thế giới.
Hướng dẫn tư vấn cho các hội viên về những vấn đề thương mại, pháp lý và nghiệp vụ giao nhận kho vận trong quá trình chuẩn bị các hoạt động kinh doanh, hoạt động nghề nghiệp hợp tác liên doanh ở Việt Nam cũng như nước ngoài.
2. Giải pháp từ phía Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội
2.1. Đầu tư thêm các thiết bị phục vụ công tác giao nhận vận tải dưới sự hỗ trợ kinh phí của văn phòng Công ty
Cơ sở vật chất cần cho quá trình giao nhận thì rất nhiều song không thể một lúc mà có thể đầu tư hết được bởi đầu tư ban đầu thì cần một lượng vốn rất lớn. Chi nhánh nên có biện pháp tích lũy dần cơ sở vật chất qua từng năm hoạt động, đầu tư theo nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi, và có thể yêu cầu sự hỗ trợ của văn phòng Công ty nếu cần thiết. Cơ sở vật chất càng hiện đại thì công việc diễn ra càng nhanh và càng đạt hiệu quả cao.
2.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ nhân viên toàn Chi nhánh
Đặc thù của hoạt động giao nhận vận tải là tính phức tạp rất cao cho nên một lỗi sai sót nhỏ về nghiệp vụ cũng có thể dẫn đến những tổn thất rất lớn không chỉ là thiệt hại về của mà còn cả uy tín của Chi nhánh. Do đó đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho họ là một giải pháp cần thiết. Chi nhánh có thể sử dụng các biện pháp như:
Khuyến khích nhân viên đi học các khóa học về nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, pháp luật về giao nhận vận tải cũng như các luật lệ có liên quan.
Thường xuyên cập nhật các kiến thức mới về lĩnh vực hoạt động của Chi nhánh.
Cử cán bộ đi học nghiệp vụ qua các liên doanh, các hiệp hội mà Chi nhánh tham gia để học hỏi nghiệp vụ cũng như khả năng quản lý. Đây cũng là cơ hội để cán bộ công nhân viên có cơ hội có xát với thực tế, tìm kiếm nguồn hàng, mở rộng mối quan hệ. Cùng với kinh nghiệm qua hoạt động thực tế chắc chắn trình độ của cán bộ công nhân viên sẽ được nâng cao.
Có chính sách thưởng phạt rõ ràng, hàng năm tổ chức các cuộc sát hạch để loại bỏ các cán bộ làm việc không hiệu quả, thiếu trách nhiệm, nắm bắt trình độ nghiệp vụ của nhân viên để kịp thời tìm hướng khắc phục.
Trong mọi trường hợp nhân viên Chi nhánh đều phải thực hiện tốt mọi nhiệm vụ thuộc về trách nhiệm của mình. Song trong trường hợp không thuộc trách nhiệm của mình thì mọi sai sót và nguy cơ đe dọa đến quyền lợi của khách hàng nhân viên cũng cần có những hành động cần thiết để ngăn chặn và kịp thời thông báo cho khách hàng nhanh nhất có thể. Có như vậy thì mới tạo được niềm tin nơi khách hàng.
2.3. Tổ chức tốt công tác Sales - Marketing
Với thực trạng về công tác sales - marketing như hiện nay thì một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho Chi nhánh là cần tổ chức lại công tác sales - marketing. Những biện pháp có thể thực hiện là: tăng ngân sách cho hoạt động sales - marketing, gửi nhân viên Chi nhánh học kinh nghiệm sales - marketing của các nhân viên Xí nghiệp… Điều quan trọng trong công tác sales - marketing là phải hiểu được nhu cầu của khách hàng, họ mong muốn gì khi ký hợp đồng với Chi nhánh, họ hiểu đến đâu về công tác giao nhận vận tải, nghĩa vụ trách nhiệm của hai bên và các bên liên quan khi thực hiện hợp đồng… Những nhân viên nghiệp vụ trực tiếp là mối nối quan trọng đưa khách hàng đến với Chi nhánh, sự thành công của nghiệp vụ sales - marketing phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ nhân viên này. Hiện nay tại Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội nghiệp vụ sales - marketing là thế mạnh của phòng Nghiệp vụ kinh doanh và mỗi phòng kinh doanh đều có nhân viên sales - marketing của riêng mình, song đối với Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội mỗi nhân viên Chi nhánh đều là nhân viên marketing. Chính cách giao tiếp ứng xử, cách giải quyết những tình huống khó khăn trong quá trình thực hiện công việc, tính chuyên nghiệp của nhân viên, ấn tượng mà nhân viên Chi nhánh đem lại cho khách hàng chính là phương pháp marketing hiệu quả nhất.
2.4. Phát triển mở rộng thị trường
Mở rộng thị trường để khai thác những thị trường tiềm năng mới, đa dạng hóa thị trường, mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh luôn là mục tiêu hoạt động của Chi nhánh, và có thể tránh những tác động xấu khi thị trường truyền thống có biến động tiêu cực.
Mở rộng thị trường có thể diễn ra theo hai hướng: mở rộng theo chiều rộng theo chiều rộng và mở rộng theo chiều sâu.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng là mở rộng thị trường theo phạm vi địa lý.
Hiện nay hoạt động của Chi nhánh đã vươn ra nhiều châu lục tuy nhiên vẫn còn một số thị trường mà Chi nhánh vẫn chưa khai thác được tiềm năng của nó như: châu Phi, Nam Mỹ. Đặc biệt châu Phi được đánh giá là thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam. Thị trường châu Phi có nhu cầu phù hợp với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, châu Phi nhập khẩu từ Việt Nam rất khá về các mặt hàng như dệt may, lương thực và hàng tiêu dùng. Lượng gạo châu Phi nhập khẩu của Việt Nam lớn thứ hai chỉ sau thị trường châu á. Các thị trường lớn ở đây là Senegal, Bờ Biển Ngà, Ghana, Tanzania, Angola, Nam Phi. Đây là thị trường tiềm năng mà Chi nhánh cần phải xem xét.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu là vẫn trong môi trường địa lý đó nhưng đa dạng hóa phạm vi dịch vụ của Chi nhánh để thu hút khách hàng, tăng doanh thu, thị phần và khai thác triệt để thị trường hiện có, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh. Ví dụ: chú trọng hơn nữa vào dịch vụ gom hàng lẻ, gắn giao nhận hàng hóa quốc tế với giao nhận vận tải nội địa, chú trọng vào dịch vụ giao nhận (từ cửa tới cửa)...
2.5. Hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của tính thời vụ, tạo thế chủ động trong kinh doanh.
Tính thời vụ là một đặc điểm không thể tránh khỏi của hoạt động giao nhận vận tải, đặc tính này ảnh hưởng bởi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam. Do đó không thể tránh mà chỉ có thể hạn chế tác động của nó mà thôi. Để hạn chế ảnh hưởng của tính thời vụ Chi nhánh có thể áp dụng các biện pháp như:
Giảm giá trong thời điểm ít hàng
áp dụng biện pháp này phải thật thận trọng bởi có thể gây nên phản ứng tiêu cực từ các doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Nếu các doanh nghiệp khác cũng hạ giá dịch vụ thì biện pháp này không còn hiệu quả như mong đợi, ngược lại có thể gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh không những các doanh nghiệp không được lợi mà còn lỗ, mất tinh thần đoàn kết hợp tác cùng có lợi giữa các thành viên trong Hiệp hội.
Cung cấp cho khách hàng những dịch vụ miễn phí kèm theo hợp đồng
Biện pháp này mang tính khả thi nhiều hơn, ưu điểm của nó là không ảnh hưởng đến cơ cấu giá cả. Những dịch vụ kèm theo có thể là tư vấn cho khách hàng về những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, tư vấn cho khách hàng những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng ngoại thương… các dịch vụ kèm theo này đem lại mối lợi cho khách hàng nhưng đối với Chi nhánh phải dễ thực hiện và ít tốn kém.
2.6. Xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để thực hiện khai hải quan qua mạng
Trong tương lai gần Nhà nước và cơ quan Hải quan sẽ áp dụng phổ biến hình thức khai báo hải quan qua mạng và áp dụng bắt buộc đối với quy trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu. Điều đó là cần thiết bởi khai báo hải quan qua mạng đem lại lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia và đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ngay từ bây giờ Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội phải xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để có thể thực hiện khai báo hải quan qua mạng. Chi nhánh có thể áp dụng các biện pháp:
Đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị máy móc, máy chủ, đường truyền số liệu… để đảm bảo thông tin, dữ liệu được liên lạc một cách nhanh nhất.
Đào tạo cán bộ có đủ trình độ về tin học, ngoại ngữ, nắm được chủ trương của Hải quan và cách thức để thực hiện.
Nếu các biện pháp trên sớm được thực hiện sẽ góp phần giảm được thời gian và chi phí, đơn giản hóa thủ tục hải quan, nâng cao hiệu quả khai thác hàng hóa trong giao nhận vận tải hàng hóa.
2.7. Xây dựng nghiệp vụ Logistics tại miền Bắc
Logistic là một hình thức cao của dịch vụ giao nhận vận tải. Người kinh doanh dịch vụ Logistics sẽ đảm nhận mọi dịch vụ để hàng hóa có thể được chuyển từ người gửi tới tay người nhận từ: đóng gói, dán nhãn, kiểm kiện, kiểm định, lưu kho, lập chứng từ, bảo hiểm, vận tải, khai thuê hải quan, phân phối hàng hóa giao hàng đến tận các điểm bán lẻ… Tóm lại là mọi nghiệp vụ cần thiết để đưa hàng hóa đến tay người nhận theo một quy trình khép kín "từ cửa đến cửa". Để làm được điều này đối với Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội hiện nay phải cần thực hiện dần dần và vững chắc từng bước một với một loạt các biện pháp như: nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư mở rộng diện tích kho bãi, nâng cao trình độ cho lực lượng lao động từ nhà quản lý đến nhân viên nghiệp vụ trực tiếp… và có thể yêu cầu sự hỗ trợ của Công ty nếu cần thiết.
2.8. Đầu tư vào lĩnh vực kho bãi tạo hướng kinh doanh mới
Trong công tác giao nhận thì việc lưu kho hàng hóa để chờ làm các thủ tục chứng từ cần thiết là điều tất yếu. Với tình trạng kho bãi như của Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội hiện nay thì đầu tư vào mở rộng diện tích kho bãi chứa hàng tiến tới kinh doanh kho bãi là hướng đi đúng đắn cho Chi nhánh, đặc biệt là kinh doanh kho ngoại quan.
Kho ngoại quan là kho lưu giữ hàng hóa sau đây:
Hàng hóa đã làm thủ tục hải quan được gửi để chờ xuất khẩu
Hàng hóa từ nước ngoài đưa vào gửi để chờ xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Hàng hóa xuất nhập khẩu phải lưu kho ngoại quan để làm những thủ tục cần thiết như:
Tập kết hàng hóa xuất nhập khẩu thành lô, chuyến theo hợp đồng xuất nhập khẩu.
Lưu kho, lưu bãi để chờ xuất hoặc nhập khẩu.
Thực hiện kiểm tra, kiểm soát hàng hóa (kiểm hóa) của Hải quan.
Kiểm định chất lượng hàng hóa.
Kiểm tra y tế.
Làm đồng bộ, bao gói, phân loại.
Môi giới bán hàng.
Kho ngoại quan được thiết lập trên lãnh thổ Việt Nam và được thành lập theo quy định, được ngăn cách với khu vực xung quanh để tạm thời lưu giữ, bảo quản hàng hóa chờ xuất khẩu ra ngoài Việt Nam hoặc chờ nhập khẩu vào Việt Nam. Hàng hóa được vận chuyển ra, vào, lưu giữ trong kho ngoại quan đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát và quản lý về mặt Nhà nước của Hải quan. Trên cơ sở hợp đồng giữa chủ kho và chủ hàng, hoặc người đại diện của chủ hàng, chủ kho ngoại quan có thể làm một loạt dịch vụ như: lưu giữ, bảo quản hàng hóa hoặc vận chuyển, môi giới tiêu thụ hàng hóa gửi trong kho, hoặc làm dịch vụ khác như khai báo hải quan, giám định, bảo hiểm, tái chế và gia cố hàng hóa trước khi xuất hoặc nhập khẩu hàng hóa.
Với chức năng là lưu giữ, bảo quản hàng hóa, kho ngoại quan phải có thiết kế, trang thiết bị phù hợp với đặc điểm bảo quản của từng loại hàng hóa, nhằm bảo đảm giữ nguyên chất lượng, trạng thái ban đầu của hàng hóa hoặc hạn chế những thiệt hại do việc vận chuyển xếp dỡ hàng hóa gây ra.
Ngày nay, khối lượng trao đổi, buôn bán hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam với nước ngoài ngày càng tăng nhanh, đòi hỏi phải có sự mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng phục vụ của kho ngoại quan là một yêu cầu cấp bách, nhằm nâng cao năng lực xếp dỡ lưu chuyển hàng hóa của các cảng. Muốn vậy, Chi nhánh phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ kinh doanh kho vận, giao nhận, kiểm tra hàng hóa, nghiệp vụ về giao dịch ngoại thương, có sự hiểu biết về luật pháp trong nước và quốc tế. Đồng thời, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; thiết kế xây dựng đường sá, kho bãi… với những trang bị, phương tiện xếp dỡ, phân loại, đóng gói, bảo quản hiện đại phù hợp với đặc điểm của từng mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng. Mặt khác phải xây dựng nội quy kho khoa học theo hướng kinh doanh và phục vụ tốt khách hàng. Đặc biệt kho ngoại quan là nơi diễn ra sự kiểm tra và quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hóa, Chi nhánh phải phối hợp với các cơ quan hữu trách thực hiện tốt quy định của Nhà nước.
Kết luận
Giao nhận vận tải là một lĩnh vực kinh doanh còn rất mới ở Việt Nam, thị trường này chỉ thật sự phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây song đây là một thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn bởi kinh doanh loại hình dịch vụ này đưa lại nguồn lợi cao mà không cần đầu tư nhiều vốn như kinh doanh các lĩnh vực khác, do đó có ngày càng nhiều các doanh nghiệp tham gia làm cho tính cạnh tranh của thị trường càng trở nên khốc liệt. Thêm vào đó hoạt động giao nhận vận tải chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố đặc biệt là sự tác động của hoạt động xuất nhập khẩu. Kinh doanh trong một môi trường phức tạp như vậy thì những khó khăn và vướng mắc là không thể tránh khỏi đòi hỏi Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội phải tự mình có những biện pháp để tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, vươn lên và trụ vững khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Bên cạnh đó rất cần sự phối hợp, trợ giúp của Nhà nước và các cơ quan hữu quan. Tuy nhiên Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội luôn tâm niệm rằng nội lực là chính ngoại lực là quan trọng.
Mặc dù Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh như khối lượng cơ sở vật chất chưa đầy đủ, hệ thống kho bãi còn hạn chế, chưa có đội xe hùng hậu, còn chịu nhiều ảnh hưởng của tính thời vụ… Giai đoạn 2000 - 2004 là giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam và thế giới chịu nhiều ảnh hưởng bởi hậu quả của cuộc khủng bố 11 tháng 9, của dịch cúm gia cầm và dịch SARS. Với rất nhiều những khó khăn cản trở như vậy song với phương hướng phát triển đúng đắn thể hiện ở những kết quả đạt được là rất đáng khích lệ. Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội luôn tin tưởng rằng cùng với thời gian hoạt động Chi nhánh sẽ còn phát triển hơn nữa, những khó khăn sẽ dần được khắc phục và tháo gỡ. Chi nhánh sẽ tạo điều kiện cho thương hiệu Chi nhánh cắm rễ sâu trên thị trường . Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội luôn vững tin như vậy bởi bên cạnh Chi nhánh luôn có sự ủng hộ và hỗ trợ nhiệt tình của Công ty và Xí nghiệp.
Trên đây là những kiến nghị và giải pháp được đề xuất với mong muốn phát triển hơn nữa hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội nói riêng và của các doanh nghiệp hoạt động cùng lĩnh vực nói chung. Do trình độ còn hạn chế bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được những nhận xét, đánh giá của các thầy cô và cơ sở thực tập để em có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu.
Danh mục tài liệu tham khảo
i. sách
1. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Thị Hường/ "Kinh doanh quốc tế" - tập 1, tập 2/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2001.
2. Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Thị Hường/ "Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI" - tập 2/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2004.
3. Phạm Mạnh Hiền/ "Nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế"
Khoa Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu - năm 2003.
4. Chủ biên: GS.TS. Võ Thanh Thu/ "Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu"/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2002.
5. Dương Hữu Hạnh/ "Vận tải - giao nhận quốc tế và bảo hiểm hàng hải"/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2004.
6. Chủ biên: PGS. TS. Đinh Ngọc Viện/ "Giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế"/ Nhà xuất bản Giao thông vận tải - năm 2002.
7. Chủ biên: PGS. TS. Đặng Đình Đào/ "Kinh tế các nghành thương mại - dịch vụ"/ Nhà xuất bản Thống kê - năm 2003.
8. TS. Lưu Văn Nghiêm/ "Marketing trong kinh doanh dịch vụ"
Nhà xuất bản Thống kê - năm 2001.
II. Báo & Tạp chí
9. Tạp chí Giao thông vận tải 11/2006
"Một số kiến nghị về việc sử dụng khai điện tử trong quy trình hải quan đối với hàng hóa vận tải đa phương thức" - ThS. Nguyễn Hồng Vân.
10. Tạp chí Visaba số 42 (tháng 11/2004)
"Tác dụng của quan hệ bán hàng giữa Logistics service provieders & người gửi hàng" - Châu Giang.
11. Tạp chí Nghiên cứu Châu âu số 4(58)/ 2006
"Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh Châu Âu: Hiện trạng và triển vọng" - TS. Nguyễn Quang Thuấn/ Viện Nghiên cứu châu Âu.
12. Thời báo Kinh tế Việt Nam/ Kinh tế 2005 - 2006
"Xuất khẩu tăng trưởng bất ngờ và ngoạn mục - 9 điểm vượt trội của xuất khẩu năm 2004" - Huy Hoàng.
III. Tài liệu về Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội
13. Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo tổng kết hoạt động, Báo cáo kế toán giai đoạn 2002 - 2006 của Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội.
14. Bảng tổng kết chỉ tiêu đánh giá thành tích hoạt động SXKD năm 2005.
15. Báo cáo tại Đại hội công nhân viên chức năm 2006 của Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội.
16. Điều lệ hoạt động và tổ chức Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội.
17. Hồ sơ lưu trữ về hợp đồng, về lao động.
18. www.Chi nhánh.com.vn.
19. www.viffas.org.vn.
LờI CảM ƠN
Để hoàn thành bài viết này em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ giáo viên hướng dẫn và cơ sở thực tập. Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Huy Nhượng Giảng viên Chuyên ngành Quản trị kinh doanh quốc tế Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế Trường Đại học Kinh tế quốc dân, chân thành cảm ơn Giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội cùng toàn thể anh chị cán bộ công nhân viên Chi nhánh đã tạo mọi điều kiện để em có thể hoàn thành tốt kỳ thực tập tốt nghiệp của mình.
Sinh viên
Lê Huy Vũ
LờI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này là do chính em viết nên dựa trên những thông tin thu thập được từ sách báo tạp chí và những tài liệu nội bộ của cơ sở thực tập, không sao chép luận văn, đề án của bất cứ ai. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Sinh viên
Lê Huy Vũ
Mục lục
Danh mục bảng và hình
Danh mục bảng và hình
Danh mục bảng
STT
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Tình hình nhân sự của Chi nhánh
34
Bảng 2.2
Kết quả kinh doanh giai đoạn 2000 - 2004
36
Bảng 2.3
Thu nhập bình quân của CBCNV giai đoạn 2000 - 2004
38
Bảng 2.4
Khối lượng hàng hóa được giao nhận giai đoạn 2000 - 2004
39
Bảng 2.5
Tình hình giao nhận theo cơ cấu mặt hàng
41
Bảng 2.6
Khối lượng hàng hóa giao nhận theo phương thức vận tải
43
Bảng 2.7
Kết quả giao nhận theo từng phương thức vận tải
44
Bảng 2.8
Kết quả giao nhận với vai trò đại lý
48
Bảng 2.9
Số lượng hãng giao nhận quốc tế ký hợp đồng đại lý với Chi nhánh Công ty TNHH Nhà Nước một thành viên xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội-Trung tâm thưng mại và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội
49
Bảng 2.10
Khối lượng hàng hóa giao nhận với vai trò là người gom hàng
51
Bảng 2.11
Kết quả kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
57
Bảng 3.1
Các chỉ tiêu dự toán ngành giao nhận vận tải quốc tế của Việt Nam
66
danh mục hình
STT
Tên hình
Trang
Hình 1.1
Hệ thống cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp dịch vụ
24
Hình 2.1
Sơ đồ Bộ máy quản lý
32
Hình 2.2
Khối lượng hàng hóa được XK &NK giai đoạn 2000 - 2004
40
Hình 2.3
Khối lượng hàng hóa giao nhận của phương thức hàng không
45
Hình 2.4
Kết quả giao nhận VTĐPT
46
Hình 2.5
Doanh thu hoạt động giao nhận với vai trò đại lý
48
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32013.doc