Lời nói đầu
Bước sang thời kỳ đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo- thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạngkhủng hoảng kinh tế, nền kinh tế từng bước có tích lũy. Nhưng để hội nhập, theo kịp các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới , các ngành, các tổ chức, các lĩnh vực phải chủ động phấn đấu với quyết tâm ca
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Kiểm toán Nhà nước với quản lý tài chính vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o. Muốn vậy, các cơ quan nhà nước phải được tổ chức đồng bộ, bộ máy mạnh, hoạt động có hiệu lực theo các chức năng cơ bản đồng thời thực hiện kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động. Như vậy, kiểm tra, kiểm soát là một chức năng cực kỳ quan trọng trong chức năng quản lý vi mô và vĩ mô. Lênin nói: không có kiểm tra, kiểm soát là không có quản lý. Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiêt ở các nước trên thế giơí và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta xác nhận vai trò cực kì quan trọng và khách quan của kiểm tra, kiểm soát. Sự ra đời và phát triển ngày càng mạnh của hệ thống kiểm toán trên thế giới khẳng định sự cần thiết, vai trò quan trọng của nó đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội. Kiểm toán nhà nước Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới, là công cụ quan trọng của nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội.
Trên đây là toàn bộ lí do em chọn đề tài “Hoạt động Kiểm toán Nhà nước với quản lý tài chính vĩ mô”. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo_ Thạc sĩ Nguyễn Hồng Thuý đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Dưới đây là toàn bộ nội dung của đề án của em.
Phần 1: Khái quát chung về
Kiểm toán nhà nước
1.1. Khái quát chung về Kiểm toán nhà nước.
1.1.1. Khái niệm kiểm toán.
Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính.Trong chức năng xác minh của kiểm toán, một vấn đề đặt ra rất sôi động hiện nay là phát hiện gian lận và vi phạm trong tài chính.
Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Nếu kết luận về chất lượng thông tin có quá trình phát triển lâu dài từ chỗ chỉ có từ “ xác nhận” đến hình thành báo cáo theo chuẩn mực thì kết luận về pháp lý hoặc tư vấn cũng có quá trình phát triển lâu dài .
1.1.2. Kiểm toán Nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của nhà nước thực hiện kiểm toán về ngân sách và tài sản công. Thời kỳ trung đại, Kiểm toán Nhà nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua quá trình phát triển cho đến nay Kiểm toán Nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng.
Đặc trưng của kinh tế thị trường là nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh và cạnh tranh dưới sự quản lý can thiệp của Nhà nước theo định hướng phát triển quốc gia. Trong những năm gần đây, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã bộc lộ mặt trái của nó, đòi hỏi chúng ta phải có những nguyên tắc, hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, quản lý và hạn chế những mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường vốn phức tạp nhằm tăng cường sự kiểm soát của nhà nước trong việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và tàI sản quốc gia, Nhà nước cần có những cơ quan chức năng đảm nhận những công việc xem xét, đánh giá, xác nhận số liệu kế toán, báo cáo quyết toán và việc chấp hành các chính sách, chế độ tàI chính kế toán ở các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế, đoàn thể, xã hội… từ đó có các biện pháp sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính kế toán cần thiết, do đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 tạo lập cơ sở pháp lý cho Kiểm toán Nhà nước ra đời, có tác dụng đặc biệt trong việc giữ gìn kỉ cương pháp luật, xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật về các vụ việc vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế tài chính. Việc ra đời Kiểm toán Nhà nước là tất yếu, là sản phẩm của quá trình đổi mới.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước.
1.2.1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán Nhà nước có chức năng chủ yếu là thực hiện kiểm toán ngân sách nhà nước, kiểm toán các nghiệp vụ bảo vệ, quản lý sử dụng tài sản của nhà nước.
Với lịch sử phát triển hàng trăm năm trên thế giới, Kiểm toán Nhà nước được khẳng định như một bộ phặn không thể thiếu được của hệ thống quyền lực nhà nước hiện đại. Sự ra đời của Kiểm toán Nhà nước xuất phát từ yêu cầu của kiểm tra kiểm soát chi tiêu công quỹ quốc gia, đảm bảo sử dụng hợp lý, đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả của các nguồn lực tài chính của các cơ quan công quyền. Trên thực tế, Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của NSNN. Đồng thời, Kiểm toán Nhà nước còn thực hiện các cuộc kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá và góp phần nâng cao tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả trong các tổ chức công quyền, các đơn vị có sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước. Như vậy, Kiểm toán Nhà nước còn được coi là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất, đảm bảo tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong quá trình quản lý, sử dụng NSNN và công quỹ quốc gia; giữ vững trật tự kỉ cương trong quản lý kinh tế- tài chính, góp phần đấu tranh chống gian lận và tham nhũng.
Kiểm toán Nhà nước ở nước ta giúp Thủ tướng chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tàI liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng NSNN. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước khi trình Hội đồng nhân dân và Tổng quyết toán NSNN hàng năm của Chính phủ trước khi trình Quốc hội.
1.2.2. Nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước
Trong một nhà nước pháp quyền hiện đại, hoạt động của cơ quan kiểm toán với tư cách là một cơ quan kiểm tra phảI thực hiện 4 nhiệm vụ quan trọng sau:
a. Kiểm toán Nhà nước cần phải báo cáo và tư vấn cho quốc hội trong các quyết định của Quốc hội, không những ở chừng mực Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà cả trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình với tư cách là cơ quan ban hành luật ngân sách và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
b. Kiểm toán Nhà nước cần phải báo cáo và tư vấn cho Chính phủ, cụ thể là không những cho cấp quản lý hành chính nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ của mình mà còn cả cho các cấp lãnh đạo trong công tác lãnh đạo cơ quan hành chính Nhà nước, cũng như về tác động hành chính của các biện pháp đề ra.
c. Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng phòng ngừa răn đe đối với bộ máy hành chính nhà nước chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng các phương tiện tài chính nhà nước.
d. Kiểm toán Nhà nước thông báo cho công luận về việc sử dụng cac phương tiện tài chính nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
Hoàn thành những chức năng này là biểu thị cho sự hoạt động thành công của một cơ quan Kiểm toán Nhà nước với cương vị là cơ quan kiểm tra trong một nhà nước pháp quyền.
1.3. Đặc điểm hoạt động của Kiểm toán nhà nước
Lĩnh vực kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là thực hiện kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính. Việc thực hiện Kiểm toán Nhà nước được thực hiện với tất cả các doanh nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước và tiến hành kiểm toán không thu phí. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc thực hiện kiểm toán nay hoàn toàn bắt buộc và được tiến hành định kỳ .
Nhìn chung, cơ quan Kiểm toán Nhà nước của hầu hết các nước trên thế giới được đặt ở vị trí độc lập với cơ quan hành pháp. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nước chỉ tuân thủ pháp luật và được pháp luật bảo vệ để tránh khỏi sự chi phối và tác động của các can thiệp từ bên ngoàI. Khi cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoặc Tổng thống thì ít nhiều có sự hạn chế tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện chức năng của nó, vì người kiểm tra và người bị kiểm soát của một chủ thể .
ở Việt Nam, kiểm toán là một lĩnh vực mới, một công cụ quản lý mới được sử dụng và nó đã khẳng định tính hiệu quả trong thực tiễn, góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh và ngăn ngừa tham nhũng, gian lận và lãng phí tiền bạc, tài sản nhà nước. Tuy nhiên, Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam được thành lập và hoạt động dựa trên Nghị định 70/CP có tính pháp lý chưa cao, chưa có tính ổn định và quyền hạn còn hạn chế chưa phù hợp với tính chất đặc biệt của hoạt động Kiểm toán Nhà nước .
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước được quy định tại Nghị định 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 : cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do chính phủ thành lập để giúp chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do NSNN cấp. Ngoài các chức năng trên, Luật NSNN năm 1996 có những quy định thuộc về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước tại các điều 69, 70, 73, 74. Đồng thời Luật Ngân hàng năm 1997 có quy định trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước: “ Hàng năm phải báo cáo quyết toán Ngân hàng Nhà nước”.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta thấy rằng, cơ quan Kiểm toán Nhà nước có đầy đủ tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất mà vị trí và tác dụng của nó không thể có một cơ quan chuyên môn nào thay thế được; đồng thời, nó đã được xã hội thừa nhận và tôn trọng. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước là một cơ quan công quyền, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng có hiệu lực, hiệu quả các nguồn tài sản và tài chính công, giúp Quốc hội thực hiện chức năng kiểm soát và giám sát quá trình điều hành và quản lý NSNN trên các nội dung cơ bản sau:
+ Thông qua hoạt động kiểm toán có tính chuyên môn cao và độc lập khách quan, cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm tra và xác nhận tính hợp pháp, hợp lệ trong các hoạt động kinh tế- tài chính, làm lành mạnh hóa các quan hệ đó ngay trong khi kiểm toán bắt buộc với các đơn vị thụ hưởng NSNN; việc thực hiện kiểm tra thu chi NSNN và thực hiện kế hoạch NSNN được xem là một nhiệm vụ chủ yếu, xuyên suốt toàn bộ hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước .
Về nguyên tắc ở đâu có sử dụng tài chính công thì ở đó có sự kiểm tra của Kiểm toán Nhà nước, do đó ngoài việc kiểm toán các cơ quan, đơn vị sự nghiệp thì Kiểm toán Nhà nước còn thực hiện kiểm toán với Báo cáo tài chính các doanh nghiệp, thực hiện việc kiểm toán báo cáo quyết toán các công trình đầu tư XDCB…Tính hiệu lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước được xác định cho từng cuộc kiểm toán cụ thể: Kiểm toán báo cáo tài chính, Kiểm toán tuân thủ, và kiểm toán hoạt động. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh chức năng kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá toàn diện tính hiệu lực và hiệu quả, tính kinh tế và tiết kiệm các nguồn lực tài chính công. Đó cũng chính là những thông tin dữ liệu đảm bảo độ tin cậy cao mà quốc hội cần nắm bắt để kịp thời điều chỉnh hệ thống pháp luật chuyên ngành kinh tế- tài chính sao cho sát hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, thực trạng của nền kinh tế và xu hướng phát triển tất yếu của nó.
+ Thông qua hoạt động kiểm toán “ cơ quan Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
+ Thông qua hoạt động kiểm toán, cơ quan kiểm toán độc lập có quyền đưa ra các kiến nghị mang tính chất tư vấn; đồng thời, dựa trên những kiến nghị đó, các cơ quan quyền lực Nhà nước sẽ nghiên cứu, xem xét để đưa ra các quyết định nhằm đảm bảo tính hiệu lực cao.
Với vị trí pháp lý thuộc hệ thống hành pháp của Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng giúp Chính phủ kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo quyết toán…Đây là vị trí pháp lý tương đối độc lập của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam so với vị trí độc lập của Kiểm toán Nhà nước các nước trên thế giới ( được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật). Thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công của nhà nước, Kiểm toán Nhà nước thực sự có vai trò quan trọng, góp phần giúp Chính phủ và Quốc hội thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đối vĩ mô nền kinh tế.
Như vậy chức năng và vai trò quan trọng của Kiểm toán Nhà nước xác định vị thế pháp lý của Kiểm toán Nhà nước, khẳng định tính hiệu lực và hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho Kiểm toán Nhà nước thực hiện đầy đủ chức năng và nhịêm vụ, địa vị pháp lý của mình, cần được xác định một văn bản pháp lý cao hơn giống như các nước hiện nay.
Kiểm toán Nhà nước được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Pháp lệnh Kiểm toán Nhà nước. Ban soạn thảo đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo và xin ý kiến các Bộ, ngành cho dự thảo Pháp lệnh. Những vấn đề đặt ra gồm có:
- Xác định vị trí pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
- Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước
- Xác định tổ chức bộ máy hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, quy trình kiểm toán,
- Xác định phạm vi và đối tượng kiểm toán
- Xác định trách nhiệm của các đơn vị được kiểm toán.
1.4. Yêu cầu quản lý tài chính vĩ mô
1.4.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở các nguồn lực đã xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều pha (giai đoạn): ở giai đoạn định cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch…Sau khi các chương trình, kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hòa các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động…
Trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì vấn đề quản lý tài chính vĩ mô là vô cùng quan trọng. Hoạt động tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân phối, về thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi mối quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tàI chính với lợi ích con người. Các cơ quan nhà nước cần có thông tin trung thực điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính sách kinh tế nói chung của mình với mọi thành phần kinh tế, với mọi hoạt động xã hội. Đặc biệt, các khoản thu chi của NSNN, các khoản vốn liếng và kinh phí nhà nước đầu tư cho các đơn vị kinh doanh hoặc sự nghiệp và tài sản, tài nguyên quốc gia… càng cần được giám sát chặt chẽ theo hướng đúng pháp luật và có hiệu quả. Chính vì thế cần phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước phối hợp với các cơ quan chức năng khác.
1.4.2. Quan điểm của Nhà nước về quản lý tài chính vĩ mô.
Quản lý nhà nước về tài chính là quản lý vĩ mô.Quản lý về tài chính được thể hiện như sau:
Nhà nước định hướng cho hoạt động và phát triển tài chính thông qua hoạch định chính sách tài chính quốc gia và chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhà nước sử dụng pháp luật và các chính sách tài chính đối với từng khâu của hệ thống tài chính như: luật ngân sách, luật ngân hàng, luật tổ chức tín dụng, các luật thuế, luật kế toán, luật kế toán, luật kiểm toán…và các chính sách về ngân sách, về đầu tư vốn, về chi tiêu dùng, về tích lũy, tiết kiệm, tiền lương, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xã hội, trợ cấp, chuyển giao tài chính, chính sách vay nợ, trả nợ , hỗ trợ các nỗ lực đổi mới công nghệ, phát triển ngành nghề, phát triển các khu vực và các chương trình quốc gia…
Nhà nước tổ chức bộ máy tài chính, chỉ đạo, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan tài chính, ngân hàng, giữa các cơ quan tài chính các cấp, ngân hàng các cấp, giữa cơ quan tài chính ngân hàngvới các bộ , ngành, các địa phương.
Nhà nước thực hiện sự phân phối và điều tiết các nguồn lực tài chính của đất nước thông qua chính sách tích tụ, tập trung vốn, chính sách thuế, chính sách tiết kiệm, chính sách vay nợ, phân bổ các nguồn tài chínhvào đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, cấp tín dụng, phân phối lại dưới hình thức chuyển giao tài chính và hình thành các loại dự trữ thông qua các kế hoạch- Nhà nước thực hiện sự kiểm tra tài chính: nhà nước sử dụng các cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp, hệ thống cơ quan tài chính , ngân hàng, cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ các cơ quan, doanh nghiệp.
Qua đó thấy rõ kiểm tra tài chính là một bộ phận cấu thành của hoạt động quản lý nhà nước, hơn thế nữa, kiểm tra tài chính không phải là khâu cuối cùng mà là khâu gắn liền hữu cơ với tất cả các hoạt động quản lý quá trình hoạt động tài chính.
1.5. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính vĩ mô.
Kiểm toán là một bộ phận của hệ thống kiểm tra tài chính, nhưng là bộ phận quan trọng nhất trong kiểm tra tài chính, bởi vì nó là hoạt động kiểm tra tài chính độc lập và chuyên trách, từ bên ngoài không liên quan đến các hoạt động tài chính của bất cứ cơ quan doanh nghiệp nào; đồng thời với các hình thức khác nhau, nó là một sự kiểm tra toàn diện cả về mặt tuân thủ của các định hướng, chính sách, pháp luật quyết định của nhà nước và cả về mặt hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên trách về kiểm toán nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy của cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan Kiểm toán ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều được coi là cơ quan cao nhất, hoạt động thường xuyên trong hệ thống các cơ quan, tổ chức kiểm tra tài chính Nhà nước và trong luật kiểm toán của cá nước đó đều gọi cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan Kiểm toán tối cao hay cơ quan có thẩm quyền cao nhất về kiểm tra tài chính công.
Là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là cơ quan Kiểm toán tối cao của một nước, hoạt động của cơ quan này có vai trò quan trọng trong quản lý tài chính vĩ mô của nhà nước, góp phần không nhỏ vào hoạt động quản lý tài chính công là minh bạch tài chính_ một yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động của cơ quan điều hành, hoạt động lập pháp và công chúng. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời ngày 11/7/1994 giúp thủ tướng chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; đánh gía sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm toán. Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu,báo cáo quyết toán ngân sách của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân , tổng quyết toán NSNN trước khi trình ra Quốc hội, báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn vị tiêu thụ hưởng ngân sách, các chương trình , dự án , công trình đầu tư của nhà nước, các DNNN cần phải được Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán và xác nhận.
Trong quá trình hoạt động, vai trò của Kiểm toán Nhà nước không ngừng được củng cố và tăng cường, đáp ứng một phần yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn trong việc quản lý, điều hành đất nước, thể hịên trên một số mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, góp phần kiểm tra việc chấp hành về nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. Kiểm toán Nhà nước góp phần làm lành mạnh hóa tình hình ngân sách Nhà nước, tạo môi trường tài chính vĩ mô ổn định có lợi cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Trong những năm qua cùng với quá trình cải cách bước hai hệ thống thuế, công tác tổ chức và quản lý thu NSNN có nhiều chuyển biến rõ rệt ; Thông qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho NSNN nhiều tỷ đồng, số thu NSNN qua từng năm đều tăng, đáp ứng phần lớn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên tình trạng thất thu thuế, ẩn lậu thuế ở nhiều đơn vị, địa phương khá phổ biến, việc chấp hành các quy định của Nhà nước về nộp NSNN không nghiêm. Điều này không chỉ làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước mà còn làm vẩn đục môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Qua kết quả kiểm toán ở các đơn vị, địa phương cho thấy, một số DNNN đã được kiểm toán thì số thuế phải nộp NSNN đều tăng so với số báo cáo nộp thuế của đơn vị; còn ở khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh thì tình trạng thất thu về hộ và doanh thu tính thuế khá lớn, cá biệt có nơi thất thu tới 30- 40%… Với sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị truy thu cho NSNN hàng ngàn tỷ đồng
Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng NSNN, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Quốc hội giám sát chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện quyết toán NSNN. Điều này đã được Hiến pháp và luật NS nhà nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới quy định. Trong việc giám sát này, Quốc hội các nước sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước để cung cấp cho mình những thông tin xác thực, khách quan từ kết quả của các cuộc kiểm toán hoặc qua các công việc thẩm định mà cơ quan này đã tiến hành. Quốc hội sử dụng cơ quan Kiểm toán tối cao để cung cấp cho mình những thông tin cần thiết để phán quyết về dự toán NSNN và quyết toán NSNN do Chính phủ trình ra Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước phục vụ Quốc hội giám sát NSNN từ khâu dự toán đến việc thực hiện NSNN và các quyết toán NSNN đồng thời tư vấn cho Quốc hội.
+ Đối với dự toán NSNN: Kiểm toán Nhà nước có thể và cần phải giúp Quốc hội trong việc quyết định dự toán NSNN trên hai phương diện:
Giúp quốc hội thẩm định dự toán NSNN và đưa ra các kiến nghị về dự toán NSNN để Quốc hội xem xét.
Làm phản biện theo yêu cầu của Quốc hội về các dự án, chương trình quốc gia, các dự án đầu tư các công trình quy mô lớn. Phải nói rằng, lâu nay việc chuẩn bị các dự án, chương trình quốc gia có nhiều tiến bộ hơn trước, tuy nhiên trên thực tế vẫn chỉ ra là còn nhiều tính toán trong các dự án, chương trình do chưa có căn cứ vững chắc. Do vậy, kinh phí ngân sách bỏ ra lớn, nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao. Từ lâu nay vẫn thiếu đi một người phản biện có khả năng đưa ra những ý kiến và thông tin xác thực hơn, khách quan hơn, từ thực tiễn kiểm toán mang lại để bổ sung và hoàn thiện các dự án, chương trình quốc gia mà quốc hội quyết định.
+ Đối với tình hình thực hiện NSNN: Quốc hội và các đại biểu Quốc hội có chức năng giám sát việc chấp hành NSNN của Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp. Việc giám sát chấp hành NSNN là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Nhưng vấn đề là làm sao khi phát hiện vấn đề có thể giúp chính phủ, các Bộ, UBND khắc phục sớm mà không chờ đến lúc thảo luận, phê chuẩn quyết toán hoặc đến kỳ họp Quốc hội mới nêu ra. Về mặt này, Quốc hội có thể và cần thiết sử dụng cơ quan Kiểm toán Nhà nước để tiến hành kiểm tra ngay và báo cáo kịp thời cho Quốc hội để Quốc hội ra các quyết định cần thiết: Chấp hành NSNN là quá trình thực hiện các đường lối, chính sách, pháp luật trên tất cả các lĩnh vực và là quá trình huy động và sử dụng vốn nhà nước. Do đó, việc giám sát phải có các thông tin đưa ra và thông tin phản hồi về kết quả giám sát. Có thể có rất nhiều những cơ quan khác nhau đưa ra thông tin nhưng không thể thiếu được thông tin vô tư, khách quan của cơ quan Kiểm toán Nhà nước .
+ Đối với quyết toán NSNN: Quốc hội là cơ quan cao nhất của Nhà nước có quyền phê chuẩn quyết toán NSNN hoặc bác bỏ quyết toán NSNN do Chính phủ trình. Nhưng phê chuẩn, sửa đổi hay bác bỏ đều phải có thông tin xác thực, khách quan làm căn cứ. Một trong những lí do chủ yếu để thiết lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan này phải kiểm toán quyết toán NSNN, cung cấp cho Quốc hội và Chính phủ những thông tin chính xác, khách quan về thu, chi NSNN để Quốc hội phán quyết quyết toán và Chính phủ phải có căn cứ để đưa ra các quyết định về quản lý NSNN.Do đó, Quốc hội hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan Kiểm toán Nhà nước phục vụ mình trong kiểm toán nội dung quyết toán NSNN, báo cáo lên Quốc hội kết quả kiểm toán và đưa ra các kiến nghị về quyết toán NSNN để Quốc hội xem xét.
Trong điều kiện nhu cầu chi ngân sách quá lớn, khả năng đáp ứng những nhu cầu này còn hết sức hạn hẹp thì việc tăng cường quản lý NSNN, hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã được hoạch định. Mặt khác, việc sử dụng NSNN phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục, trình tự ; thực hiện chi đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng định mức theo dự toán được duyệt.
Qua hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ngoài việc phát hiện và xuất toán, bồi hoàn NSNN hàng ngàn tỷ đồng do chi sai chế độ, lập quỹ trái phép…đã phát hiện và xử lý những sai phạm về quản lý kinh tế – tài chính góp phần tăng cường kỉ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn và tài sản của nhà nước. Cụ thể như việc bố trí vốn đầu tư xây dựng cơ bản dàn trải, dẫn đến tình trạng thi công kéo dài, phát sinh nhiều khoản chi phí gây lãng phí, thất thoát lớn ; tình trạng làm vượt kế hoạch vốn hàng năm, vượt dự toán, triển khai thực hiện không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đầu tư làm gia tăng tình trạng nợ thanh toán trong xây dựng cơ bản ngày càng lớn ; việc sử dụng NSNN trong xây dựng trụ sở làm việc, mua ô tô con, chi quản lý có nơi vượt tử 3- 4 lần so với dự toán đã được duyệt. Nhiều sai phạm trong việc quản lý chi, điều hành, quyết toán NSNN ; Các vi phạm về chế độ hạch toán vốn, tài sản, kết quả sản xuất kinh doanh và các sai phạm trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản…làm thất thoát tiền của nhà nước cũng khá phổ biến. Nếu tính về hiệu quả kinh tế thì chỉ riêng số phát hiện kiến nghị truy thu về thuế các loại cho NSNN cũng đã gấp vài chục lần chi phí mà nhà nước chi cho hoạt động kiểm toán. Nhưng quan trọng hơn cả là những phát hiện và kiến nghị của đoàn Kiểm toán Nhà nước đã giúp các đơn vị được kiểm toán thấy được những yếu kém, sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, chỉ ra việc quản lý sử dụng các nguồn lực NSNN trong từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực và các yếu tố tiêu cực cản trở tính kinh tế, tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế, đặc biệt là đã uốn nắn giúp đỡ sửa chữa và kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục chúng.
Thứ ba, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp những thông tin, cơ sở dữ liệu để thực hiện việc quyết định và quản lý NSNN sát thực và có hiệu quả hơn. Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của việc sử dụng NSNN và công quỹ quốc gia trong việc quản lý, điều tiết nền kinh tế là dự toán NSNN phải dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn; phải cụ thể, chi tiết, mang tính chất pháp lý và tính khả thi cao. Trong những năm qua, nhiều chi tiêu thu chi NSNN đối với một số ngành, lĩnh vực, địa phương chưa thật phù hợp, gây khó khăn cho việc thực hiện dự toán NSNN và ảnh hưởng đến tính chủ động, tích cực trong việc quản lý và điều hành NSNN.
Thông qua việc kiểm tra tài chính, Kiểm toán Nhà nước đã chỉ ra những điểm bất hợp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, nhiệm vụ chi NSNN, góp phần tạo lập cơ sở, căn cứ để xây dựng dự toán NSNN cho những năm sau nhằm thu đúng, thu đủ, chống thất thu cho NSNN ; đồng thời tiến hành việc phân bổ NSNN cho các ngành, các lĩnh vực, địa phương một cách hợp lý, thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước đã góp phần đánh giá một cách sát thực tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước, làm căn cứ cho việc cải tiến quản lý doanh nghiệp, điều chỉnh các chính sách kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cùng với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong quá trình kinh doanh, các nhà quản lý doanh nghiệp phần thì bận rộn trong công việc phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường ; phần thì thiếu thông tin về các tác nghiệp tài chính, kế toán nên họ không thể kiểm soát chặt chẽ hàng nghìn, hàng vạn các nghiệp vụ tài chính kế toán phát sinh hàng ngày, hàng giờ tại đơn vị. Song các nhà quản lý doanh nghiệp buộc phải có quyết định hợp lý, kịp thời cho những công việc phát sinh sao cho đạt kết quả mong muốn theo ý chủ quan. Điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua và dựa trên những thông tin do những người có chuyên môn trong lĩnh vực kế toán tài chính cung cấp. Cơ quan kiểm toán , kiểm tra xác nhận tính trung thực, chính xác và hợp pháp của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính là hết sức cần thiết và đáp ứng đúng đòi hỏi nhu cầu của doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán DNNN, xét từng doanh nghiệp là vấn đề tàI chính vĩ mô, nhưng bằng kết quả kiểm toán của nhiều doanh nghiệp dể đánh giá chính xác tình hình tài chính các doanh nghiệp, rút ra những chỗ mạnh, chỗ yếu và những ách trong quản lý tài chính và vận động tài chính để có những căn cứ đưa ra các chính sách, các giải pháp nhằm thúc ép và hỗ trợ, giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn lại là những vấn đề tài chính vĩ mô.
Thứ tư, thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế – tài chính. Những tồn tại trong quản lý kinh tế – tài chính và NSNN ở các cơ quan đơn vị trung ương và địa phương vừa do nguyên nhân chủ quan, vừa do cơ chế, chính sách chưa thật phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua hoạt động của mình, nhiều đề xuất, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước như trong việc thiết lập cơ chế quản lý, cấp phát và thanh quyết toán đối với ngân sách địa phương, đối với các khoản hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn; trong việc cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các định mức kinh tế – tài chính và định mức chi tiêu NSNN; trong công tác hạch toán kế toán, tăng cường kỉ luật trong quản lý NSNN, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm… Những đề xuất và kiến nghị đó chẳng những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn góp phần đóng góp tích cực trong việc tổ chức thực hiện NSNN và quản lý tài sản của Nhà nước.
Trong các báo cáo của mình , Kiểm toán Nhà nước._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35622.doc