Hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay và thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu

Lời nói đầu Việt Nam đang từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào các hoạt động thương mại ngày càng mạnh mẽ, trong đó xuất khẩu là một hoạt động khá sôi động hiện nay. Trong tình hình nguồn nguyên liệu trong nước chưa thực sự phong phú, đầy đủ, chất lượng chưa cao và phần nào cũng chưa đáp ứng được cho sản xuất phục vụ hàng xuất khẩu thì việc sản xuất hàng xuất khẩu với nguồn nguyê

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay và thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n liệu, vật tư đưa từ nước ngoài vào có lẽ là một giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này. Bên cạnh đó, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn chưa được trang bị dây chuyền máy móc hiện đại để sản xuất hàng hóa với chất lượng và năng suất cao phục vụ xuất khẩu. Trong khi đó, tại các nước phát triển, chi phí sản xuất rất cao (đặc biệt là chi phí nhân công và mặt bằng nhà xưởng) mà hàng hóa thì ngày càng cần có sức cạnh tranh cao hơn, chủ yếu là cạnh tranh về giá cả và chất lượng. Hoạt động gia công xuất khẩu đã đáp ứng được nhu cầu của cả hai phía doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài. Và phải thừa nhận rằng, trong tình hình kinh tế hiện nay của Việt Nam thì hoạt động gia công xuất khẩu mang lại một nguồn lợi khá lớn cho đất nước cả về mặt kinh tế và xã hội. Hiện nay, hoạt động gia công xuất khẩu ở nước ta diễn ra khá sôi động, đây cũng là một hoạt động kinh tế ngoại thương gồm nhiều công đoạn phức tạp đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước nhưng cũng phải tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển. Hải quan là cơ quan có nhiệm vụ quản lý và giám sát hoạt động gia công xuất khẩu cũng như làm thủ tục xuất nhập khẩu cho hàng gia công. Tất cả các khâu từ tiếp nhận hợp đồng gia công, nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài vào đến xuất khẩu thành phẩm đều đặt dưới sự quản lý nhà nước về Hải quan. Với kiến thức tích lũy sau quá trình học tập tại trường Đại học Ngoại thương, đặc biệt dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, Tiến sỹ Phạm Duy Liên - Phó trưởng khoa Kinh tế Ngoại thương trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, tôi viết khóa luận với đề tài “Hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay và thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu”. Mục đích của khóa luận này là phân tích những điểm đã đạt được cũng như còn tồn tại của thực trạng hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay cũng như công tác quản lý nhà nước về Hải quan, từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục. Khóa luận được chia làm 03 chương: Chương I : Khái quát chung về gia công xuất khẩu và hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam Chương II : Thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu Chương III : Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động gia công hàng xuất khẩu và hoàn thiện quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu Do hạn chế về trình độ cũng như về thời gian và nguồn tài liệu nên khóa luận không tránh khỏi sai sót và phiến diện. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng như của các bạn sinh viên để khóa luận này hoàn thiện và đầy đủ hơn. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại thương, bạn bè và đặc biệt của thầy giáo, Tiến sỹ Phạm Duy Liên - Phó trưởng khoa Kinh tế Ngoại thương trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản Khóa luận tốt nghiệp này. Chương I Khái quát chung về gia công xuất khẩu và hoạt động gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam I. Khái quát chung về gia công xuất khẩu 1. Khái niệm về gia công xuất khẩu 1.1. Khái niệm gia công Gia công, theo định nghĩa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam năm 2002, là một phương thức hợp tác sản xuất giữa các đơn vị kinh tế, theo đó bên nhận gia công nhận của bên đặt gia công những nguyên liệu, sản phẩm dở dang (nửa thành phẩm) hoặc có khi cả thiết bị máy móc, để sản xuất ra thành phẩm theo những tiêu chuẩn (có khi cả định mức) cụ thể do bên đặt hàng đề ra và giao lại những thành phẩm đó cho bên đặt gia công theo những điều kiện đã được thỏa thuận giữa hai bên. Theo Luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10/05/1997, Điều 128 quy định gia công trong thương mại là hành vi thương mại, theo đó bên nhận gia công thực hiện việc gia công hàng hóa theo yêu cầu, bằng nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng hóa đã gia công để kinh doanh thương mại và phải trả tiền gia công cho bên nhận gia công. Nội dung gia công trong thương mại gồm sản xuất, chế biến, chế tác, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hóa theo yêu cầu và bằng nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công. Theo quy định của Luật này, bên nhận gia công là bên nhận thực hiện việc gia công hàng hóa để hưởng tiền gia công còn bên đặt gia công là bên thuê gia công hàng hóa để kinh doanh thương mại. Chúng ta có thể thấy khái niệm gia công rất rộng, có thể thấy trong bất kỳ ngành, lĩnh vực sản xuất nào. Phương thức này được áp dụng phổ biến và chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và thủ công nghiệp. Phương thức gia công đã được áp dụng ngay từ thời kỳ công trường thủ công. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, thương nhân ra đời đảm đương nhiệm vụ làm cầu nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Do đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá nên thương nhân nắm được tình hình sản xuất cũng như nhu cầu tiêu thụ trên một thị trường nào đó: có nơi hàng hóa có thể tiêu thụ được nhưng lại không có khả năng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị. Để có hàng hoá đem bán trên thị trường, thương nhân cung cấp cho người sản xuất một số máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu thuê họ sản xuất ra cho mình loại hàng hóa đó rồi mang đi tiêu thụ và trả cho người sản xuất một khoản thù lao tương xứng với công sức mà họ đã bỏ ra. Hoạt động sản xuất của người được thuê chính là hoạt động gia công hàng hoá trong thương mại, hoạt động này gắn liền với việc tiêu thụ hàng hoá. Phương thức tổ chức sản xuất này có nhiều ưu điểm về mặt kinh tế xã hội: mở rộng quy mô và tập trung hóa được sản xuất mà không cần đầu tư cơ sở sản xuất mới; tận dụng được tiềm năng của công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp; tận dụng được khả năng lao động và thời gian lao động của mọi lực lượng lao động. 1.2. Khái niệm gia công với thương nhân nước ngoài Khi phân công lao động xã hội đã phát triển vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành nên thị trường quốc tế do nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước thì cùng với các hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu khác, phương thức kinh doanh gia công quốc tế cũng ra đời. Gia công với thương nhân nước ngoài hay còn gọi là gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để sản xuất, chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Theo Luật Thương mại năm 1997, Điều 132 quy định gia công với thương nhân nước ngoài là việc gia công thương mại, theo đó bên đặt gia công, bên nhận gia công là thương nhân có trụ sở chính hoặc nơi cư trú thường xuyên tại các nước khác nhau nhưng phải có một bên là thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam. Theo Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31 tháng 07 năm 1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài thì gia công hàng hóa với thương nhân nước ngoài là việc thương nhân Việt Nam, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhận gia công hàng hóa tại Việt Nam cho thương nhân nước ngoài hoặc đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài. Như vậy, trong hoạt động gia công với thương nhân nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam có thể đóng vai trò là bên đặt gia công (thuê thương nhân nước ngoài gia công tại nước ngoài) hoặc bên nhận gia công (gia công cho thương nhân nước ngoài tại Việt Nam). Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, hoạt động thuê thương nhân nước ngoài gia công rất ít, do đó ở Việt Nam gia công quốc tế thường được hiểu là thương nhân Việt Nam là bên nhận gia công cho thương nhân nước ngoài và hoạt động này còn được gọi là gia công xuất khẩu. Sự ra đời của loại hình gia công hàng hóa xuất khẩu chính là hệ quả của sự chênh lệch về trình độ kinh tế, công nghệ và kỹ thuật giữa các quốc gia và một phần do lợi thế các nguồn lực về tài nguyên, nhân công khác nhau của mỗi nước. Trên thực tế, phần lớn các hợp đồng gia công quốc tế được ký kết giữa một doanh nghiệp của một quốc gia có nền kinh tế kém phát triển nhưng lại có nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ với một doanh nghiệp của một quốc gia có nền kinh tế phát triển và trình độ kỹ thuật công nghệ cao. Trong quan hệ gia công cho nước ngoài, bên nhận gia công dựa vào cơ sở vật chất, kỹ thuật và lao động sẵn có để tiến hành công việc gia công, đôi khi bên nhận gia công còn nhận được sự trợ giúp về máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất và sự hỗ trợ, hướng dẫn, đào tạo về mặt kỹ thuật của các chuyên gia, kỹ thuật viên... do phía đặt gia công cung cấp. Việc tiến hành phương thức kinh doanh gia công quốc tế thực sự đã mang lại lợi ích về nhiều mặt cho các bên tham gia, trở thành phương thức khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều quốc gia. Bởi vì đó là loại hình kinh doanh rất phù hợp trong quá trình phát triển theo xu hướng chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng của nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế của mỗi quốc gia. 2. Đặc điểm của hoạt động gia công xuất khẩu Một doanh nghiệp kinh doanh gia công có thể sản xuất ra sản phẩm theo tiêu chuẩn kỹ thuật của người đặt hay theo tiêu chuẩn kỹ thuật của doanh nghiệp mình sau đó xuất khẩu mà không tiêu dùng trong nước. Nguyên phụ liệu có thể do bên đặt gia công cung cấp hoặc do doanh nghiệp nhận gia công tự cung ứng. Tuy nhiên, trong hoạt động gia công xuất khẩu thường có sự xuất hiện của nguyên vật liệu được nhập khẩu từ nước ngoài vì sản phẩm xuất khẩu là những mặt hàng có tiêu chuẩn chất lượng cao nên đòi hỏi nguồn nguyên liệu tốt mà nhiều khi thị trường trong nước không đáp ứng được, ngoài ra bên nhận gia công có thể nhập khẩu hay thuê, mượn máy móc, thiết bị, công nghệ của nước ngoài. Trong trường hợp gia công theo tiêu chuẩn kỹ thuật của bên đặt gia công, họ có thể cử kỹ thuật viên, chuyên gia sang kiểm tra, giám sát và giúp đỡ bên nhận gia công trong quá trình gia công. Thành phẩm sản xuất ra để xuất khẩu theo sự chỉ định của bên đặt gia công hoặc theo đơn hàng hay hợp đồng mà doanh nghiệp nhận gia công ký vơi nước ngoài. Hiện nay, trên thực tế trong một số trường hợp, bên đặt gia công bán thành phẩm ngay tại nước nhận gia công (hay còn gọi là hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ). Như vậy, trong gia công xuất khẩu thì nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, nhập khẩu để phục vụ cho xuất khẩu. Trong trường hợp gia công hàng hóa theo tiêu chuẩn kỹ thuật của bên đặt gia công, bên nhận gia công phải tuân theo yêu cầu của bên đặt gia công về chủng loại, số lượng, kiểu dáng, mẫu mã, kích thước, màu sắc, chất lượng sản phẩm một cách nghiêm ngặt. Lợi nhuận của hoạt động gia công xuất khẩu là tiền công sau khi trừ đi các chi phí gia công hoặc trong một số trường hợp là sản phẩm gia công. 3. Lợi ích của các bên khi tham gia vào hoạt động gia công xuất khẩu Cũng như các hoạt động thương mại khác, hoạt động gia công xuất khẩu mang lại lợi ích cho cả hai bên tham gia vào quan hệ gia công và ý nghĩa hơn nữa là nó mang lại những hiệu quả lớn về mặt kinh tế xã hội cho các quốc gia tham gia vào quan hệ gia công xuất khẩu. 3.1. Đối với bên đặt gia công - Tận dụng được nguồn lao động với chi phí nhân công thấp của nước nhận gia công, do đó giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Hơn nữa, nước đặt gia công còn tận dụng được nguồn chất xám của nước nhận gia công mà không mất chi phí đào tạo ra nguồn nhân lực này. Chẳng hạn ở Việt Nam đó là những cán bộ, kỹ sư, cử nhân được đào tạo tại các trưòng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, mỗi năm số lượng sinh viên tốt nghiệp khá lớn. - Tại các nước phát triển, ngoài chi phí nhân công rất cao thì giá thuê mặt bằng nhà xưởng cao cũng làm tăng đáng kể giá thành sản phẩm. Trong khi đó ở các nước đang phát triển thì giá thuê này thấp hơn cũng góp phần giảm giá thành sản phẩm. - Nước đặt gia công có thể tiêu thụ được một lượng lớn nguyên vật liệu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Với ưu thế về vốn, máy móc, trang thiết bị và công nghệ hiện đại, nước đặt gia công có khả năng sản xuất nguyên vật liệu với chất lượng cao. Việc xuất khẩu trực tiếp những nguyên vật liệu này thường không hiệu quả bằng đặt gia công ở các nước đang phát triển rồi thu thành phẩm và xuất khẩu. Hơn nữa, việc tiêu thụ thành phẩm dễ dàng hơn nhiều so với tiêu thụ nguyên vật liệu tại các nước phát triển. - Ngoài ra, sản xuất tại các nước nhận gia công nhận được nhiều ưu đãi từ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài mà một trong những ưu đãi rõ nhất là ưu đãi về thuế. - Trong một số trường hợp, nước đặt gia công có thể tiêu thụ cả thiết bị, máy móc để sản xuất hàng gia công. Trên thực tế, nhiều khi bên đặt gia công chuyển máy móc và thiết bị cho bên nhận gia công sau đó trừ vào tiền phí gia công. - Gia công xuất khẩu còn tạo điều kiện đưa sản phẩm thâm nhập vào các thị trường mới. 3.2. Đối với bên nhận gia công - Góp phần giải quyết việc làm cho một số lượng lao động đáng kể, đặc biệt là số lao động dư thừa chưa có việc làm. Hiện nay, các nước đang và kém phát triển thường có số dân trong độ tuổi lao động rất lớn không có việc làm. Trong khi đó, hoạt động gia công xuất khẩu thường tập trung ở các ngành cần nhiều lao động như may mặc, da giày,... nên hoạt động này đã góp phần giải quyết được tình trạng thất nghiệp, tạo thu nhập cho người lao động - Gia công xuất khẩu góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và tăng thu ngoại tệ - Tạo tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao tay nghề người lao động cũng như làm quen với các thị trường xuất khẩu để từng bước chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. - Một lợi ích rất lớn khi tham gia vào hoạt động gia công xuất khẩu đối với nước nhận gia công là họ có điều kiện tiếp cận dây chuyền máy móc, trang thiết bị và công nghệ hiện đại cũng như phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiên tiến. Đây là những yếu tố rất cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nhất là đối với các nước đang và kém phát triển. - Gia công xuất khẩu cũng khắc phục tình trạng thiếu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu vì hầu hết các nước nhận gia công chưa sản xuất được nguyên vật liệu có chất lượng cao. - Sản xuất hàng gia công xuất khẩu ít gặp rủi ro hơn vì khâu tiêu thụ hàng hóa được đảm bảo. - Sản phẩm gia công sau khi được xuất khẩu sẽ tạo uy tín tốt cho tay nghề ngưòi lao động Việt Nam cũng như nâng cao vị thế của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. 4. Quyền và nghĩa vụ mỗi bên Cũng như các loại hình hoạt động xuất nhập khẩu khác, hai bên ký kết hợp đồng gia công đều được hưởng quyền và phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động gia công là gồm nhiều công đoạn phức tạp nên Nghị định 57/1998/NĐ-CP quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của bên đặt gia công nước ngoài và bên nhận gia công Việt Nam tại Điều 15, cụ thể như sau: 4.1. Bên đặt gia công - Giao toàn bộ hoặc một phần nguyên liệu vật tư gia công theo thỏa thuận tại hợp đồng gia công; - Nhận và đưa ra khỏi Việt Nam toàn bộ sản phẩm gia công, máy móc thiết bị cho thuê hoặc mượn; nguyên liệu, phụ liệu, vật tư, phế liệu sau khi thanh lý hợp đồng gia công, trừ trường hợp được phép tiêu thụ, tiêu huỷ, tặng theo quy định tại Nghị định này; - Được cử chuyên gia đến Việt Nam để hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm gia công theo thoả thuận trong hợp đồng gia công; - Chịu trách nhiệm về quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá. Trường hợp nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hóa đã được đăng ký tại Việt Nam thì phải có giấy chứng nhận của Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam; - Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến hoạt động gia công và các điều khoản của hợp đồng gia công đã được ký kết. 4.2. Bên nhận gia công - Được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư tạm nhập khẩu theo định mức để thực hiện hợp đồng gia công; - Được thuê thương nhân khác gia công; - Được cung ứng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, phụ liệu, vật tư để gia công theo thỏa thuận trong hợp đồng gia công và phải nộp thuế xuất khẩu theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với phần nguyên, phụ liệu, vật tư mua trong nước; - Được nhận tiền thanh toán của bên đặt gia công bằng sản phẩm gia công, trừ sản phẩm thuộc Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu. Đối với sản phẩm thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền; - Phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động gia công xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất hàng hoá trong nước và các điều khoản của hợp đồng gia công đã được ký kết. 5. Phân loại quan hệ gia công xuất khẩu 5.1. Xét theo quyền sở hữu nguyên vật liệu 5.1.1. Gia công bị động Bên đặt gia công giao nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sau đó thu lại thành phẩm đồng thời thanh toán phí gia công. Trong thời gian sản xuất, chế tạo, quyền sở hữu nguyên vật liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công . Gia công theo hình thức này, bên nhận gia công hầu như không phải bỏ vốn cũng như không chịu rủi ro. Tuy nhiên, loại hình gia công này không khuyến khích tinh thần sáng tạo của bên nhận gia công và thường thì phí gia công thấp. 5.1.2. Gia công chủ động Bên đặt gia công bán đứt (xuất khẩu) nguyên vật liệu cho bên nhận gia công, sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại (nhập khẩu) thành phẩm. Như vậy quyền sở hữu nguyên vật liệu đã chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công. Theo hình thức này, bên nhận gia công thường được trả thù lao gia công cao hơn, có quyền chủ động hơn trong sản xuất đồng thời phần nào tạo dựng được uy tín trên thị trường nhưng cũng phải bỏ nhiều vốn hơn và chịu nhiều rủi ro hơn. Ngoài ra người ta còn áp dụng một hình thức kết hợp, theo đó bên đặt gia công chỉ cung cấp những nguyên vật liệu chính còn bên nhận gia công tự tìm nguyên vật liệu phụ. 5.2. Xét theo giá cả gia công 5.2.1. Hợp đồng thực chi thực thanh (cost plus contract) Bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế đã bỏ ra trong quá trình gia công cộng với tiền thù lao gia công. 5.2.2. Hợp đồng khoán Hai bên xác định một giá định mức (target price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Việc thanh toán giữa hai bên chỉ dựa trên giá định mức đó mà không tính tới chi phí thực tế bên nhận gia công đã bỏ ra. 5.3. Xét theo số bên tham gia vào quan hệ gia công 5.3.1. Gia công hai bên Trong loại hình gia công này, chỉ có hai bên tham gia quan hệ gia công là bên đặt gia công và bên nhận gia công. 5.3.2. Gia công chuyển tiếp Trong loại hình gia công này, có nhiều bên tham gia vào quan hệ gia công, sản phẩm gia công của hợp đồng gia công này được sử dụng làm nguyên vật liệu gia công cho hợp đồng gia công khác hay nói cách khác có nhiều bên nhận gia công và thành phẩm của một đơn vị này là bán thành phẩm hay nguyên vật liệu của một đơn vị khác. 6. Hợp đồng gia công và một số điều khoản cơ bản của hợp đồng gia công Điều 131 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 quy định hợp đồng gia công trong thương mại phải lập thành văn bản giữa bên nhận gia công và bên đặt gia công. Thông tư số 07/2000/TT-TCHQ của Tổng cục Hải quan quy định hợp đồng gia công có thể ký trực tiếp hoặc ký qua điện tín (fax, telex...). Hợp đồng gia công được lập bằng hai thứ tiếng là tiếng Việt và tiếng Anh hoặc một thứ tiếng nước ngoài khác do hai bên thoả thuận. Trường hợp hợp đồng được lập bằng tiếng nước ngoài thì doanh nghiệp phía Việt Nam phải có bản dịch chính thức ra tiếng Việt, doanh nghiệp Việt Nam phải ký và đóng dấu, chịu trách nhiệm về nội dung của bản dịch đó. Điều 12 Nghị định 57/1998/NĐ-CP và khoản 2 phần II Thông tư số 07/2000/TT-TCHQ của Tổng cục Hải quan ngày 02/11/2000 hướng dẫn thi hành Chương III Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thương mại và hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài quy định hợp đồng gia công phải được lập thành văn bản và bao gồm các điều khoản sau : - Tên, địa chỉ của các bên ký hợp đồng - Tên, số lượng sản phẩm gia công - Giá gia công - Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán. - Danh mục, số lượng, trị giá nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu và nguyên liệu, phụ liệu, vật tư sản xuất trong nước (nếu có) để gia công; định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư; định mức vật tư tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu trong gia công, trong đó: + Định mức sử dụng, định mức tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu, phụ liệu, vật tư do các bên thỏa thuận trong hợp đồng gia công. Giám đốc doanh nghiệp nhận gia công chịu trách nhiệm về việc sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu vào đúng mục đích gia công; trường hợp vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. + Định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư là lượng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. + Định mức vật tư tiêu hao là lượng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dùng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm nhưng không cấu thành trên sản phẩm hoặc không biểu hiện ra bên ngoài thành một bộ phận của sản phẩm. + Tỷ lệ hao hụt nguyên liệu, phụ liệu, vật tư là lượng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư hao hụt trong quá trình sản xuất. Tỷ lệ hao hụt này phụ thuộc vào chất lượng nguyên phụ liệu, vật tư, trình độ công nhân, sự cố máy móc, thiết bị và các nguyên nhân khác. - Danh mục và trị giá máy móc thiết bị cho thuê, cho mượn hoặc tặng cho để phục vụ gia công (nếu có). Máy móc, thiết bị mượn bao gồm máy móc thiết bị đồng bộ, máy móc, thiết bị lẻ và dụng cụ sản xuất (kể cả dụng cụ thay thế, bổ sung) do bên đặt gia công cung cấp dưới hình thức tạm nhập tái xuất. - Biện pháp xử lý phế liệu, phế thải và nguyên tắc xử lý máy móc, thiết bị thuê mượn, nguyên liệu, phụ liệu vật tư dư thừa sau khi kết thúc hợp đồng gia công. - Địa điểm và thời gian giao hàng - Nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa, theo Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995, là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau, nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc. Tên gọi xuất xứ hàng hóa, theo Điều 786 Bộ luật dân sự năm 1995, là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó. - Thời hạn hiệu lực của hợp đồng. II. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu trong những năm gần đây Trong xu thế hội nhập hiện nay, Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế của mình bằng sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đó sự đóng góp của hoạt động gia công xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu không phải là nhỏ thể hiện ở sự phát triển phong phú về phương thức, đa dạng về mặt hàng, tăng trưởng về kim ngạch và mở rộng thị trường. 1. Giai đoạn trước khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Có thể thấy rằng nền kinh tế Việt Nam trước khi thực hiện chính sách mở cửa hội nhập rất lạc hậu và kém phát triển. Trong thời kỳ này, hoạt động gia công xuất khẩu cũng không phát triển. Về mặt hàng gia công thì chủ yếu là hàng may mặc, thêu ren, dệt thảm và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ như sản xuất dụng cụ cầm tay... Chúng ta phần lớn nhận gia công cho Liên Xô và một số nước XHCN Đông Âu, chẳng hạn như gia công hàng may mặc cho Liên Xô, gia công hàng dệt kim cho Hungari, gia công áo len đan, dệt cho Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc,... Về chất lượng hàng gia công, Việt Nam hầu như chỉ nhận gia công những mặt hàng không đòi hỏi kỹ thuật và mỹ thuật cao. Nguyên nhân của tình trạng này là do Việt Nam vừa thoát ra hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ phải đối mặt với nền kinh tế kiệt quệ, cơ sở vật chất kỹ thuật bị tàn phá, trang thiết bị phục vụ sản xuất còn lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ, trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế. Hơn nữa, trong giai đoạn này nước ta chủ yếu chỉ đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Bởi vậy quy mô và năng lực sản xuất còn hạn chế, thị trường còn hạn hẹp. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, hoạt động gia công xuất khẩu cũng có điều kiện phát triển hơn, đặc biệt là các ngành gia công hàng may mặc, da giày,... Từ các thị trường truyền thống, hoạt động gia công xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới các nước khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Canada,... Tuy nhiên, nhìn chung trong thời kỳ này ta chủ yếu gia công theo phương thức bị động: nhận nguyên vật liệu, giao thành phẩm do đó không có sự chuyển giao quyền sở hữu nguyên vật liệu. Việc áp dụng phương thức gia công đó trong giai đoạn này là phù hợp và cần thiết, mặc dù ta chỉ nhận được phí gia công nhưng an toàn vì không phải bỏ vốn, không phải tìm nguồn cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ. Đồng thời trong quá trình sản xuất chúng ta học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý, trình độ tay nghề của công nhân được nâng cao. Nhưng trong phương thức gia công này, sự phụ thuộc của ta vào bên đặt gia công rất lớn, việc giao nguyên liệu của bên đặt gia công nhiều khi không đúng kế hoạch, ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất đồng thời thu nhập thực tế của công nhân rất thấp. Do vậy, nếu chúng ta tiếp tục duy trì hoạt động gia công theo phương thức này sẽ không nâng cao được hiệu quả kinh tế. 2. Giai đoạn sau khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, khuyến khích mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh chiến lược hướng về xuất khẩu. Nhờ vậy, hoạt động gia công thời kỳ này đã có sự phát triển mạnh mẽ về quy mô, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và mở rộng ngành hàng xuất khẩu. Bên cạnh những thành tựu mang ý nghĩa kinh tế đã đạt được, hoạt động gia công còn đem lại hiệu quả xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn với đất nước ta, đó là giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động. Tính đến thời điểm hiện nay, dân số nước ta đã vượt qua con số 80 triệu, trong đó số người trong độ tuổi lao động không có việc làm chiếm tỷ lệ lớn, cụ thể tỷ lệ thất nghiệp qua các năm trên địa bàn các vùng trên cả nước như sau (đơn vị %): Bảng 1: Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở một số khu vực trên cả nước Đơn vị tính: % Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Cả nước 5,88 6,01 6,85 7,40 6,44 6,13 Đồng bằng sông Hồng 7,57 7,56 8,25 9,34 7,34 6,93 Hà Nội 7,71 8,56 9,09 10,31 7,95 7,30 Đông Bắc 6,42 6,34 6,60 8,72 6,49 6,51 Tây Bắc 4,51 4,73 5,92 6,58 6,02 5,50 Bắc Trung Bộ 6,96 6,68 7,26 8,26 6,87 6,51 Duyên Hải Nam Trung Bộ 5,57 5,42 6,67 7,07 6,31 5,92 Đà Nẵng 5,53 5,42 6,35 6,64 5,95 5,38 Tây Nguyên 4,24 4,99 5,88 5,95 5,16 5,38 Đông Nam Bộ 5,43 5,89 6,44 6,52 6,20 5,82 TP. Hồ Chí Minh 5,68 6,13 6,76 7,04 6,48 5,94 Đồng bằng sông Cửu Long 4,73 4,72 6,35 6,53 6,15 5,93 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001. Có thể thấy một số vùng, khu vực chẳng hạn như Hà Nội hay đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ thất nghiệp rất cao, thường xuyên trên mức 7%, có năm thậm chí là trên 9%, 10% trong khi đó đây lại là những nơi tập trung rất nhiều các nhà máy xí nghiệp có nhu cầu lao động rất lớn. Bởi vậy, với tính chất có hàm lượng lao động cao, hoạt động gia công xuất khẩu thực sự là cứu cánh cho một số địa phương, ngành, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, giảm thiểu tệ nạn xã hội và phát huy được tính sáng tạo của các cá nhân, nhất là những lao động trẻ. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động gia công xuất khẩu, một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, có trình độ kỹ thuật và chuyên môn giỏi ở một số ngành nghề như may mặc, giày dép, điện tử, thêu ren... cũng đã hình thành, góp phần nâng cao chất lượng lao động trong thời kỳ mới. Như vậy so với giai đoạn trước, hoạt động gia công xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến dài cả về chiều rộng và chiều sâu. Sự phát triển này được thể hiện bằng những kết quả mà chúng ta đã đạt được cũng như những khó khăn còn tồn tại, cụ thể như sau: 2.1. Những kết quả đã đạt được Biểu hiện rõ rệt nhất trong sự phát triển của hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam chính là sự tăng lên không ngừng của kim ngạch xuất nhập khẩu hàng gia công. Hiện nay, mặt hàng gia công đang chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với sự tham gia kinh doanh của hàng chục nghìn doanh nghiệp. Qua số liệu về kim ngạch hàng nguyên liệu nhập để gia công và thành phẩm xuất khẩu tại Chi cục Hải quan Đầu tư - Gia công thuộc Cục Hải quan Hải phòng, chúng ta có thể thấy sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch hàng gia công xuất khẩu Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng gia công qua Chi cục Hải quan Đầu tư - Gia công thuộc Cục Hải quan Hải Phòng Đơn vị tính: USD Loại hình Năm 2000 Năm 2001 9 tháng đầu năm 2002 Nhập gia công 286.793.680,09 256.346.319,48 279.346.578,55 Xuất gia công 385.040.925,98 838.126.767,34 385.986.051,26 Nguồn: Chi cục Hải quan Đầu tư-Gia công thuộc Cục Hải quan Hải Phòng Có được kết quả trên là nhờ sự nỗ lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm nguồn hàng gia công, nhiều doanh nghiệp ký được hợp đồng gia công cho nước ngoài với giá trị lớn. Ngoài ra còn có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp nước ngoài có chức năng gia công hàng xuất khẩu. Những doanh nghiệp này cũng đã triển khai đi vào sản xuất và xuất khẩu hàng gia công. Xét về thị trường gia công, từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế với sự thông thoáng về cơ chế, chúng ta đã dần khắc phục được sự hạn hẹp của thị trường gia công cả về đối tượng đặt gia công và chủng loại hàng hóa gia công. Trước đây bạn hàng của Việt Nam chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước thuộc khối XHCN Đông Âu và một số nước gần chúng ta về mặt địa lý như Đài Loan, Hàn._. Quốc, Nhật Bản... Nhưng sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đứng trước thử thách của mở cửa và hội nhập, Việt Nam đã cố gắng duy trì những thị trường truyền thống và không ngừng mở rộng thị trường hướng sang những nước phát triển như Pháp, CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Malaysia, Canada,... trong đó điều đáng nói nhất là chúng ta đã thâm nhập được vào thị trường Mỹ - một thị trường nổi tiếng là khó tính và có nhiều rào cản thương mại, chính trị vào loại bậc nhất trên thế giới. Về chủng loại hàng gia công, những năm trước đây do hạn chế về mặt kỹ thuật nên mặt hàng gia công của nước ta còn nghèo nàn, kiểu dáng, mẫu mã không phong phú và chất lượng còn thấp. Đến thời kỳ này, tuy đã có nhiều cải tiến về mặt kỹ thuật nhưng trong cơ cấu hàng gia công thì hàng may mặc, giày dép, thêu ren, túi xách... vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Nhưng điều đáng ghi nhận hơn cả là chất lượng hàng gia công đã được nâng lên rõ rệt và tạo được uy tín trên thị trường. Nhờ vậy, một số doanh nghiệp nhận gia công đã thu hút được sự chú ý của các hãng nổi tiếng trên thế giới như Piere Cardin (hàng may mặc), Nike, Reebok (giày)... và gia công được những mặt hàng có chất lượng cao đảm bảo đúng những tiêu chuẩn kỹ thuật mà bên đặt gia công đưa ra như áo sơ mi cao cấp đạt giá trị 50USD/chiếc hoặc giày thể thao cao cấp đạt từ 18 đến 20 USD/đôi. Ngoài ra một số doanh nghiệp cũng đã mạnh dạn nhận gia công cho phía nước ngoài những mặt hàng đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao và công nghệ phức tạp như gia công mặt hàng linh kiện điện tử cho Nhật Bản, Hàn Quốc,... Điều đáng chú ý là một số doanh nghiệp Việt Nam đã mở ra con đường thâm nhập vào thị trường Mỹ thông qua việc ký kết một số hợp đồng gia công hàng may mặc cho Mỹ như Công ty may 10, Công ty may 3 Sài Gòn, xí nghiệp Fashion Garment Ltd,... Gần đây chúng ta cũng đã nhận gia công phần mềm, đây là mặt hàng gia công có hàm lượng công nghệ cao nhất. Nhìn chung đến giai đoạn này mặt hàng gia công của Việt Nam đã và đang lớn mạnh dần cả về số lượng và chất lượng, trong đó dệt may và da giày vẫn chiếm số lượng lớn và trong lĩnh vực này hàng gia công vẫn là sản phẩm chủ yếu (70% kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu là hàng gia công), cụ thể kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và da giày qua một số năm gần đây như sau: Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may và da giày Đơn vị tính: triệu USD Năm 1995 1998 1999 2000 2001 Xuất khẩu giày dép 296,4 1.031,0 1.387,1 1.471,7 1.559,5 Xuất khẩu dệt may 850,0 1.450,0 1.746,2 1.891,9 1.975,4 Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da 488,0 710,0 1.096,0 1.422,0 1.589,6 Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2001 Tóm lại, cùng với sự nỗ lực của Việt Nam trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay, sự gia nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như ASEAN, ASEM, APEC, WTO của Việt Nam và đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thì thị trường hàng gia công xuất khẩu của nước ta quả thực là được mở ra với nhiều triển vọng và hứa hẹn mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho Nhà nước cũng như các doanh nghiệp. Về phương thức gia công, trong một khoảng thời gian dài chúng ta đã nhận gia công theo hình thức nhập nguyên liệu, giao thành phẩm mà không hề có sự chuyển giao quyền sở hữu nguyên vật liệu. Trong thời gian đó thì hình thức này là có lợi nhưng xét về lâu dài thì hiệu quả kinh tế mà nó mang lại cho chúng ta sẽ không cao. Bởi vậy tới thời kỳ này, các doanh nghiệp không chỉ bỏ sức lao động ra để gia công mà còn đầu tư vốn để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cho sản phẩm gia công đồng thời tăng thu nhập bằng ngoại tệ. Thực tế cho thấy đây là hướng đi đúng đắn để giảm bớt sự phụ thuộc vào bên đặt gia công, nâng cao tính chủ động trong quá trình gia công cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời còn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay trong ngành gia công giày, các doanh nghiệp kinh doanh gia công đã tự cung cấp được phần lớn nguyên phụ liệu như đế giày, bồi vải... hoặc công cụ sản xuất như dao chặt để đảm bảo được cấp Form A khi xuất khẩu sang thị trường EU, Canada, Nauy... Do đó việc nhập nguyên phụ liệu đã giảm xuống còn 30 đến 35%, chủ yếu là nhập khẩu da, nhãn mác, vải... Còn trong ngành dệt may, nhiều doanh nghiệp dệt may như Dệt Thành Công, Dệt Thắng Lợi... đã tự cung cấp được phần lớn nguyên phụ liệu (chủ yếu là vải) và hiện nay đã chuyển hẳn sang phương thức "mua nguyên liệu, bán thành phẩm": gia công theo mẫu mã và kỹ thuật mà bên đặt gia công đưa ra. Do đó, kim ngạch gia công hàng dệt may ngày càng tăng nhanh. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc tự cung cấp một phần nguyên phụ liệu cho quá trình sản xuất để tăng phí gia công mà họ còn tiến hành nhập khẩu nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba theo đúng những tiêu chuẩn về mẫu mã, chất lượng mà bên đặt gia công yêu cầu rồi giao sản phẩm cho bên đặt gia công đúng 100% so với các quy định của hợp đồng sau khi quá trình gia công hoàn tất. Ngoài ra họ còn sử dụng phương thức gia công chuyển tiếp, nghĩa là sử dụng sản phẩm gia công của doanh nghiệp khác làm nguyên liệu gia công cho doanh nghiệp mình, ví dụ như sử dụng sợi làm hàng dệt may,... như vậy vừa đẩy nhanh được quy trình, vừa rút ngắn được thời gian gia công. 2.2. Những khó khăn vướng mắc cần khắc phục Những thành tựu mà hoạt động gia công nước ta đạt được trong những năm qua đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội to lớn cho đất nước. Tuy nhiên kể từ khi hình thành cho tới nay, khi mà hoạt động gia công nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ thì nó vẫn bộc lộ rất nhiều những hạn chế, khó khăn cần phải khắc phục. Những hạn chế này xuất phát từ bản thân phương thức gia công, từ thị trường và cả từ chính những cơ chế chính sách quản lý của chính chúng ta nữa. Một khó khăn khá rõ rệt mà chúng ta có thể nhận thấy đó là sự thiếu thống nhất giữa các văn bản pháp lý quản lý hoạt động gia công hàng hóa, bởi vậy dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp gia công trong nước cạnh tranh nhau, tranh thủ tìm kiếm đối tác để giải quyết vấn đề trước mắt là khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ mà chấp nhận giá gia công thấp. Tình trạng này trực tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp nhận gia công, sau đó là lợi ích của doanh nghiệp nhận gia công và lợi ích kinh tế chung của đất nước. Hiện nay người lao động trong ngành giày dép có mức lương trung bình từ 460.000 đến 500.000 đồng/người/tháng, còn trong ngành may mặc là 400.000 đến 600.000 đồng/người/tháng. So với những nước khác trên thế giới thì tiền công lao động trung bình ở Việt Nam thấp hơn nhiều: Bảng 4: Tiền công lao động trong ngành dệt may ở một số nước trên thế giới Nước Tiền công lao động (USD/giờ) Pháp 12,63 Nhật Bản 16,37 Mỹ 10,33 Thái Lan 0,87 Philippin 0,67 Trung Quốc 0,34 ấn Độ 0,54 Malaysia 0,95 Việt Nam 0,18 Nguồn: Nội san Những vấn đề kinh tế ngoại thương Số 2 năm 1998 Ngoài ra, hiệu quả còn thấp của hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam xuất phát từ phương thức gia công. Do thiếu vốn nên nhiều doanh nghiệp đã phải lựa chọn những phương thức gia công bất lợi mà thực chất là bán rẻ sức lao động, miễn sao có việc làm và vì thế hiệu quả kinh tế thu được là rất thấp. Lợi dụng tính thời vụ trong ngành may, các thương nhân nước ngoài còn ép giá gia công với mức rẻ hơn 20% hoặc thấp hơn nữa, chẳng hạn: 1 chiếc áo Jacket thông thường ký với giá 3 USD/áo nhưng có nơi cần việc làm đã phải ký với giá từ 1,3 đến 1,7 USD/áo; giá gia công giày thể thao với Đài Loan tính đồng loạt 0,7 USD/đôi không kể đến tính đơn giản hay phức tạp của mẫu mã. Vì vậy, không thể đánh giá rằng giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng gia công cao là đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước. Với đồng lương gia công rẻ mạt như vậy, mức sống của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhận gia công là rất thấp, sức lao động của họ bị bóc lột triệt để, nhất là trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Thu nhập của công nhân ngành may ở các doanh nghiệp làm ăn khá chỉ đạt 480USD/người/năm, tương đương với tiền lương một tháng của công nhân may ở Hàn Quốc hay Đài Loan trong khi tay nghề của người lao động Việt Nam không hề thua kém. Đến nay, Việt Nam vẫn chưa chú ý tới phương thức gia công “mua đứt bán đoạn” mà chủ yếu vẫn áp dụng phương thức gia công thông thường là bên đặt gia công giao nguyên liệu và thu thành phẩm. Trên thực tế, các doanh nghiệp kinh doanh gia công cũng muốn thoát ra khỏi tình trạng làm thuê cho nước ngoài với đồng lương rẻ mạt để giành được thế chủ động, phát huy tính sáng tạo của người lao động, tận dụng công suất máy móc thiết bị và nguồn nguyên phụ liệu trong nước, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, muốn chuyển đổi phương thức gia công không phải đơn giản vì phương thức “mua đứt bán đoạn” này đòi hỏi phải có nguồn vốn lưu động lớn và chịu nhiều rủi ro hơn trong khi hầu hết các doanh nghiệp gia công xuất khẩu của nước ta là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vậy cũng đã có một số doanh nghiệp đã thực hiện phương thức gia công này nhưng sau đó lại quay trở lại với phương thức gia công thông thường vì phải suy nghĩ, cân nhắc nhiều hơn. Mặt khác, đối tượng khách hàng tiêu thụ chính các mặt hàng gia công xuất khẩu của ta không phải là những người đặt gia công trực tiếp mà chủ yếu vẫn phải qua trung gian, do đó với tư cách là phía nhận gia công thì các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu rất nhiều thiệt thòi. Vì vậy yêu cầu chuyển đổi phương thức gia công để nâng cao hiệu quả kinh tế tiến tới chiếm lĩnh các thị trường tiêu thụ chủ yếu bằng cách xuất khẩu trực tiếp luôn được đặt ra một cách bức xúc đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh gia công hiện nay. Trong những năm qua, năng lực sản xuất hàng gia công xuất khẩu tăng lên đáng kể, đặc biệt là trong ngành giày da, may mặc. Tuy vậy năng lực cạnh tranh của sản phẩm thuộc những ngành này không cao do còn nhiều chi phí gián tiếp, chi phí trung gian làm tăng giá thành gia công mặc dù tiền công rẻ. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là dệt may và da giày ngày càng phải cạnh tranh gay gắt hơn trên thị trường xuất khẩu vì các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là EU, Nhật và thị trường tiềm năng là Mỹ cũng đồng thời là thị trường chính của các nước lân cận như Trung Quốc, Bangladesh, Thái Lan, Hàn Quốc... Do đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng gia công Việt Nam trên thị trường thế giới là vấn đề sống còn với các doanh nghiệp nhận gia công. Một hạn chế nữa là cho đến nay, các doanh nghiệp gia công nước ta vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu của nước ngoài mà chưa chú trọng đến công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu tại chỗ, chất lượng của một số nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng sản phẩm gia công. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chúng ta thiếu vốn để đầu tư trang thiết bị, công nghệ tiên tiến cho sản xuất nguyên phụ liệu, hơn nữa trình độ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, lại thêm sự thiếu thông tin nên đầu tư một cách chắp vá, không đồng bộ hoặc đầu tư ồ ạt một cách lãng phí mà không có sự tính toán kỹ lưỡng. Trong xu thế hiện nay thì tỷ trọng nguyên phụ liệu nhập khẩu quá cao trong sản phẩm gia công sẽ là không có lợi cho nước nhận gia công vì nó mang lại hiệu quả kinh tế thấp, lại không được hưởng ưu đãi tối huệ quốc khi xuất hàng vào các thị trường lớn như Mỹ và EU, vì vậy hàng hóa của ta sẽ phải chịu mức thuế nhập khẩu rất cao và mất dần khả năng cạnh tranh. Hiện nay, những yếu kém trong khâu quản lý cũng kìm hãm sự phát triển của hoạt động gia công xuất khẩu, trong đó một trong những lĩnh vực quản lý điển hình và quan trọng bậc nhất là quản lý Nhà nước về Hải quan. Thủ tục Hải quan vẫn còn rất mất thời gian, phức tạp gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp kinh doanh gia công do trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ của cán bộ, công chức Hải quan còn hạn chế, trình độ kỹ thuật công nghệ trong quản lý Hải quan chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế và chưa theo kịp trình độ thế giới. Chương II Thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu I. Quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu Vì quá trình thực hiện hợp đồng gia công gồm nhiều công đoạn phức tạp từ nhập khẩu nguyên phụ liệu cho đến xuất khẩu thành phẩm và thanh khoản hợp đồng gia công nên quy trình thủ tục Hải quan cũng được thực hiện từ khâu tiếp nhận hợp đồng gia công cho đến thanh khoản hợp đồng gia công. 1. Thủ tục tiếp nhận hợp đồng gia công Do đặc thù của hoạt động gia công nên hợp đồng gia công gồm rất nhiều điều khoản và phức tạp hơn hợp đồng ngoại thương thông thường. Vì thế đây là khâu nghiệp vụ rất quan trọng nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý Hải quan đối với hoạt động gia công xuất khẩu. 1.1. Nhiệm vụ của doanh nghiệp Trước khi làm thủ tục nhập khẩu lô hàng đầu tiên của hợp đồng gia công, doanh nghiệp phải nộp và xuất trình hồ sơ để cơ quan Hải quan làm thủ tục tiếp nhận hợp đồng. Các giấy tờ phải nộp và xuất trình bao gồm: - Hợp đồng gia công và các phụ kiện hợp đồng kèm theo (nếu có): 02 bản chính và 02 bản dịch (nếu hợp đồng lập bằng tiếng nước ngoài). Doanh nghiệp Việt Nam phải ký, đóng dấu và chịu trách nhiệm về nội dung của bản dịch hợp đồng gia công. - Bản định mức hợp đồng gia công (nếu bên đặt và bên nhận gia công đã thỏa thuận được định mức): 01 bản chính. - Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: 01 bản sao. - Giấy chứng nhận đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu: 01 bản sao. - Giấy phép của Bộ Thương mại, nếu mặt hàng gia công thuộc danh mục hàng hóa Nhà nước Việt Nam cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu; hoặc của Ngân hàng Nhà nước, nếu gia công mặt hàng vàng: nộp 01 bản sao, xuất trình bản chính. Nếu doanh nghiệp đã nối mạng khai Hải quan với cơ quan Hải quan thì có thể truyền số liệu trước, nộp hồ sơ sau. 1.2. Nhiệm vụ của Hải quan tiếp nhận hợp đồng gia công Khi tiếp nhận hợp đồng gia công mà doanh nghiệp đã nộp, xuất trình đầy đủ hồ sơ, công chức Hải quan phải hoàn thành việc tiếp nhận hồ sơ. Các công việc mà công chức Hải quan phải thực hiện gồm: - Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của hồ sơ theo qui định - Đối chiếu nội dung của hợp đồng gia công với qui định tại Điều 12, nghị định 57/1998/NĐ-CP. Ngoài ra, khoản 2 phần II Thông tư số 07/2000/TT-TCHQ của Tổng cục Hải quan ngày 02/11/2000 hướng dẫn thi hành Chương III Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định: + Về điều khoản phương thức thanh toán trong hợp đồng gia công: Hợp đồng gia công phải ghi rõ phương thức thanh toán bằng tiền hay bằng sản phẩm gia công. Nếu thanh toán tiền công bằng sản phẩm gia công thì phải ghi rõ loại sản phẩm, trị giá sản phẩm. + Về điều khoản nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa: Trong hợp đồng gia công, phụ kiện hợp đồng gia công phải ghi rõ nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa sẽ được gắn lên sản phẩm. Nếu trong hợp đồng gia công, phụ kiện hợp đồng, bên thuê gia công cam kết chịu trách nhiệm về việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa đó, thì sản phẩm gia công được gắn nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ thỏa thuận trong hợp đồng, phụ kiện hợp đồng. Trường hợp nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa đó trùng với nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa đã được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam thì phải có giấy chứng nhận của Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam. Người có nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hoá được cấp văn bằng bảo hộ tại Việt Nam muốn bảo vệ quyền lợi của mình trong lĩnh vực gia công hàng hóa cho nước ngoài, phải mang văn bằng này đến đăng ký với đơn vị Hải quan làm thủ tục hàng gia công. Nếu không đăng ký, cơ quan Hải quan không có trách nhiệm bảo vệ trong trường hợp có người khác sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hoá đó. Hợp đồng gia công đã được bên thuê và bên nhận gia công ký kết là căn cứ để cơ quan Hải quan làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu và theo dõi việc xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến hợp đồng gia công. Mọi sự thay đổi, bổ sung, điều chỉnh các điều khoản của hợp đồng gia công đều phải thông qua ký kết phụ kiện hợp đồng và phải nộp các phụ kiện bổ sung này cho cơ quan Hải quan. Thời hạn nộp các phụ kiện hợp đồng như sau: nếu phụ kiện thay đổi, bổ sung, điều chỉnh các điều khoản liên quan đến việc nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị thuê mượn thì doanh nghiệp phải nộp cho Hải quan trước hoặc cùng thời điểm làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa đó. Nếu phụ kiện thay đổi, bổ sung, điều chỉnh liên quan đến việc xuất khẩu sản phẩm thì doanh nghiệp phải nộp cho Hải quan trước hoặc cùng thời điểm làm thủ tục xuất khẩu sản phẩm đó. - Ghi ngày, tháng, năm tiếp nhận; ký, ghi rõ họ tên; đóng dấu của Chi cục Hải quan lên hợp đồng và các tài liệu khác kèm theo; vào sổ tiếp nhận hợp đồng gia công; - Trả cho chủ hàng 01 bản chính, 01 bản dịch hợp đồng gia công và phụ kiện hợp đồng kèm theo. Hải quan lưu 01 bản chính, 01 bản dịch hợp đồng gia công và phụ kiện hợp đồng kèm theo và bản sao các chứng từ khác để theo dõi; - Vào máy các thông số của hợp đồng/phụ kiện hợp đồng theo các tiêu chí có sẵn trên máy, định mức từng mã hàng (chỉ áp dụng đối với những Chi cục Hải quan quản lý hợp đồng gia công bằng máy vi tính). 2. Thủ tục nhập khẩu nguyên liệu phục vụ gia công Nhìn chung, quy trình thủ tục hải quan đối với lô hàng nhập khẩu cũng như lô hàng xuất khẩu thường bao gồm các bước: khai báo hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa, kiểm tra tính thuế, thông quan và kiểm tra sau thông quan. Đối với từng lô hàng cụ thể, quy trình này có thể được rút ngắn. 2.1. Thủ tục nhập khẩu nguyên liệu gia công theo hợp đồng gia công 2.1.1. Đối với trường hợp đăng ký tờ khai và kiểm tra thực tế hàng hóa do một Chi cục Hải quan thực hiện a. Tiếp nhận hồ sơ Hải quan - Giấy tờ phải nộp: + Tờ khai Hải quan hàng nhập khẩu: 02 bản chính + Vận tải đơn: 01 bản sao + Hóa đơn thương mại: 01 bản chính + Bản kê chi tiết hàng hóa (đối với nguyên liệu đóng gói không đồng nhất): 01 bản chính, 01 bản sao - Giấy tờ phải nộp thêm trong các trường hợp khác: + Giấy chứng nhận kiểm dịch do cơ quan kiểm dịch có thẩm quyền cấp (đối với hàng yêu cầu kiểm dịch): 01 bản chính + Giấy phép của Bộ Thương mại, nếu nguyên liệu nhập khẩu thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu, hàng nhập khẩu theo giấy phép Bộ Thương mại + Giấy phép của cơ quan quản lý chuyên ngành, nếu nguyên liệu nhập khẩu thuộc mặt hàng theo qui định riêng đối với hàng gia công phải có giấy phép của cơ quan quản lý chuyên ngành: 01 bản sao, 01 bản chính để Hải quan cấp phiếu theo dõi, trừ lùi (đối với trường hợp nhập khẩu lô hàng nguyên liệu đầu tiên của hợp đồng) - Giấy tờ phải xuất trình: Giấy phép của cơ quan quản lý chuyên ngành: 01 bản chính kèm phiếu theo dõi, trừ lùi (đối với trường hợp đã được Hải quan cấp phiếu theo dõi, trừ lùi) Các bản sao phải nộp trên đây chỉ cần đóng dấu và có chữ ký của Giám đốc doanh nghiệp hoặc Phó giám đốc doanh nghiệp. b. Kiểm tra hồ sơ Hải quan, tiếp nhận, đăng ký tờ khai Hải quan và quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa Khâu tiếp nhận, đăng ký tờ khai Hải quan cho 01 lô hàng do 01 công chức Hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm làm đầy đủ các công việc sau: + Kiểm tra danh sách doanh nghiệp phải cưỡng chế làm thủ tục Hải quan + Kiểm tra sự đồng bộ và đầy đủ của hồ sơ Hải quan theo quy định. Trường hợp không chấp nhận đăng ký hồ sơ Hải quan thì phải thông báo lý do cho người khai Hải quan biết. + Kiểm tra việc kê khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai Hải quan, chứng từ thuộc hồ sơ Hải quan, sự phù hợp của nội dung khai Hải quan với chứng từ thuộc hồ sơ Hải quan. + Đối chiếu chính sách quản lý nhập khẩu với lô hàng nhập khẩu. + Nhập dữ liệu của tờ khai Hải quan vào máy vi tính và đăng ký tờ khai Hải quan. + Chuyển hồ sơ cho Lãnh đạo Chi cục + Lập biên bản vi phạm (nếu có) và đề xuất xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng, hoặc hoàn chỉnh hồ sơ để Lãnh đạo Chi cục báo cáo cấp trên xử lý đối với trường hợp vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng. Do đặc thù của hàng gia công, khi đăng ký tờ khai Hải quan thì công chức Hải quan phải thống kê đầy đủ vào bảng thống kê tờ khai, mẫu bảng và cách thống kê theo mẫu 09/GC như sau: Mẫu 1: Bảng thống kê tờ khai nhập khẩu Bảng thống kê tờ khai Nhập khẩu Tờ số:....................... Mẫu: 09/GC, Khổ A4 Hợp đồng gia công số: ngày Thời hạn Phụ kiện hợp đồng gia công số: ngày Thời hạn Bên thuê:........................................... Địa chỉ: Bên nhận:...........................................Địa chỉ: Mặt hàng: Số lượng Đơn vị Hải quan làm thủ tục STT Số tờ khai Ngày tờ khai Cửa khẩu nhập Cán bộ HQ thống kê TK (ký, ghi rõ họ tên) Ghi chú 1 2 3 4 5 6 Cộng: Tổng số tờ khai: Ngày.......tháng......năm....... Đơn vị Hải quan làm thủ tục Mỗi hợp đồng gia công phải lập 01 bảng thống kê tờ khai nhập khẩu. Bảng này được lưu tại Hải quan để Hải quan thống kê số, ngày tờ khai; số, ngày phiếu chuyển tiếp sản phẩm gia công chuyển tiếp; số, ngày Phiếu chuyển tiếp nguyên liệu khi doanh nghiệp làm thủ tục nhập khẩu từng lô hàng. Khi thanh khoản hợp đồng gia công, phụ kiện hợp đồng gia công, công chức Hải quan làm nhiệm vụ thanh khoản đối chiếu Bảng thống kê này với thống kê tờ khai của doanh nghiệp trong hồ sơ thanh khoản. Việc thống kê vào Bảng thống kê do công chức Hải quan làm nhiệm vụ đăng ký tờ khai thực hiện tại thời điểm làm thủ tục đăng ký tờ khai (hoặc khi tiếp nhận Phiếu chuyển giao sản phẩm gia công chuyển tiếp/Phiếu chuyển giao nguyên liệu). Bảng thống kê tờ khai phải rõ ràng, chính xác, đầy đủ, tuyệt đối không thống kê sót tờ khai. Sau mỗi lần thống kê tờ khai, công chức Hải quan làm nhiệm vụ này phải ký và ghi rõ họ tên vào cột quy định trên bảng. Đối với những hợp đồng gia công lớn được thực hiện trong thời gian dài thống kê trên 01 tờ khai không đủ thì Bảng thống kê phải lập thành nhiều tờ, trong trường hợp này, trên mỗi tờ Bảng thống kê phải ghi rõ số thứ tự tờ (Tờ số....); cuối mỗi tờ phải ghi rõ “tiếp sang tờ số....”. Việc đánh số thứ tự tại cột (1) của Bảng thống kê phải liên tục từ đầu cho đến kết thúc hợp đồng. c. Kiểm tra thực tế hàng hóa Khâu kiểm tra thực tế hàng hóa do một Lãnh đạo Đội phụ trách. Căn cứ để quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là quá trình chấp hành luật pháp của chủ hàng; chính sách quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu của Nhà nước; tính chất, chủng loại, nguồn gốc hàng hóa xuất nhập khẩu; hồ sơ hải quan và các thông tin khác có liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu. Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu, Chi cục trưởng Hải quan địa điểm làm thủ tục Hải quan ngoài cửa khẩu quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa xuất nhập khẩu. Các hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa bao gồm miễn kiểm tra thực tế hàng hóa, kiểm tra xác suất thực tế hàng hóa không quá 10% và kiểm tra thực tế toàn bộ lô hàng. Việc kiểm tra hàng hóa phải do ít nhất 2 công chức Hải quan thực hiện và chịu trách nhiệm về các công việc sau: + Kiểm tra thực tế hàng hóa theo quy định và quyết định của Lãnh đạo Chi cục. Theo Điều 30 khoản 1b Luật Hải quan quy định, lô hàng là nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu và gia công xuất khẩu tiến hành kiểm tra xác suất thực tế không quá 10% + Xác nhận kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa vào tờ khai Hải quan + Đối với lô hàng phải lập biên bản vi phạm thì đề xuất xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng, hoặc hoàn chỉnh hồ sơ để Lãnh đạo Chi cục báo cáo cấp trên xử lý đối với trường hợp vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng. + Nhập dữ liệu về kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa vào máy vi tính. + Chuyển cho Lãnh đạo Đội trực tiếp điều hành khâu kiểm tra thực tế hàng hóa để xác nhận đã làm thủ tục Hải quan và thông quan cho hàng hóa, sau đó trả tờ khai Hải quan cho chủ hàng. Khi kiểm tra thực tế hàng hóa, kiểm hóa viên phải lấy mẫu dưới sự chứng kiến của chủ hàng hoặc đại diện của chủ hàng đối với nguyên liệu chính (trừ những trường hợp do tính chất mặt hàng không thể lấy mẫu, lưu mẫu được). Kiểm hóa viên phải ghi đầy đủ, chính xác các tiêu chí trên phiếu lấy mẫu (mẫu 08/GC) và phải niêm phong Hải quan mẫu lưu cùng với Phiếu lấy mẫu này; xác nhận đã lấy mẫu nguyên liệu vào tờ khai Hải quan. Mẫu lưu nguyên liệu giao cho doanh nghiệp bảo quản để xuất trình cho Hải quan khi kiểm tra sản phẩm gia công xuất khẩu hoặc trong một số trường hợp khác khi Hải quan yêu cầu, thời gian bảo quản mẫu là 05 năm. Mẫu 2: Phiếu lấy mẫu nguyên liệu gia công Phiếu lấy mẫu nguyên liệu gia công Mẫu: 08/GC, khổ 1/2A4 - Tên nguyên liệu:...........................Số lượng nhập:........................................... - Tờ khai số:..............ngày........tháng.........năm - Chi cục Hải quan đăng ký tờ khai: .................................. - Hình thức kiểm tra: .................................. - Chi cục Hải quan kiểm tra: .................................. - Người lấy mẫu: Số lượng mẫu:........... - Hợp đồng gia công số:.......ngày.....;Phụ kiện số.....ngày................................ - Bên thuê gia công: .................................. - Bên nhận gia công: .................................. Đại diện chủ hàng (Ký, ghi rõ họ tên) Kiểm hóa viên (Ký, ghi rõ họ tên) Đối với lô hàng được miễn kiểm tra Hải quan tại tiêu thức “Hình thức kiểm tra” ghi “Miễn kiểm tra”. Công chức Hải quan làm nhiệm vụ thông quan hàng hóa tiến hành lấy mẫu dưới sự chứng kiến của chủ hàng hoặc đại diện chủ hàng; ghi rõ họ tên vào tiêu thức “Người lấy mẫu” và ký vào tiêu thức “Kiểm hóa viên”. Chủ hàng hoặc đại diện của chủ hàng ký vào tiêu thức “Đại diện chủ hàng”. Đối với trường hợp lô hàng phải kiểm tra, kiểm hóa viên phải lấy mẫu khi kiểm hóa dưới sự chứng kiến của chủ hàng hoặc đại diện của chủ hàng; lập phiếu lấy mẫu và niêm phong Hải quan cùng với mẫu nguyên liệu. Tại tiêu thức “Người lấy mẫu” ghi tên kiểm hóa viên lấy mẫu. Kiểm hóa viên lấy mẫu ký vào tiêu thức “Kiểm hóa viên”. Chủ hàng hoặc đại diện của chủ hàng ký xác nhận kiểm hóa vào tiêu thức “Đại diện chủ hàng”. Qua thực tế làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu nói chung và hàng gia công nói riêng cho thấy các vụ buôn lậu, gian lận thương mại chủ yếu nằm ở khâu kiểm tra thực tế hàng hóa. Đối với hàng gia công, công tác kiểm hóa còn gặp khó khăn hơn nhiều vì hầu hết hàng nhập khẩu là nguyên phụ liệu nên rất khó xác định chính xác trong khi đội ngũ cán bộ, công chức Hải quan làm công tác kiểm hóa vừa thiếu lại vừa yếu về nghiệp vụ, ngoại ngữ,... Công tác kiểm hóa cần được thực hiện tốt để xác định chính xác tên, số lượng, xuất xứ của nguyên phụ liệu nhập khẩu nhằm phát hiện và xử lý những sai lệch hoặc gian lận. Thực tế cho thấy việc lấy mẫu nguyên phụ liệu nhập khẩu (đối với những mặt hàng có thể lấy mẫu được) hiệu quả không cao. Hơn nữa, mẫu nguyên liệu giao cho chủ hàng bảo quản, khi đó nhiều doanh nghiệp do công tác lưu trữ bảo quản kém làm mất mẫu dẫn đến khó khăn cho các khâu thủ tục tiếp theo. Do vậy đã có một số Cục Hải quan địa phương kiến nghị phải chăng nên bỏ lấy mẫu nguyên liệu nhập khẩu, giám đốc doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thành phẩm xuất khẩu được sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu. Tuy nhiên, thực hiện theo hướng giải quyết này cũng không phải đơn giản bởi vì nếu doanh nghiệp không trung thực thì hậu quả là rất lớn. 2.1.2. Đối với trường hợp đăng ký tờ khai tại Chi cục Hải quan quản lý hợp đồng gia công nhưng lô hàng được kiểm tra tại cửa khẩu nhập hoặc được miễn kiểm tra Trường hợp này nguyên liệu nhập khẩu làm thủ tục theo quy định về thủ tục Hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu chuyển cửa khẩu. Do đặc thù riêng của hàng gia công, công chức Hải quan và doanh nghiệp phải thực hiện thêm một số công việc như sau: - Chi cục Hải quan quản lý hợp đồng gia công thực hiện việc đăng ký tờ khai. Khi đăng ký tờ khai Hải quan thì công chức Hải quan phải thống kê đầy đủ vào bảng thống kê tờ khai, mẫu bảng và cách thống kê theo mẫu 09/GC. Chi cục Hải quan này phải quyết định nguyên liệu nào cần lấy mẫu. - Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập tiến hành lấy mẫu nguyên liệu theo quyết định của Chi cục Hải quan quản lý hợp đồng gia công. Kiểm hóa viên phải lấy mẫu dưới sự chứng kiến của chủ hàng đối với nguyên liệu chính (trừ những trường hợp do tính chất mặt hàng không thể lấy mẫu, lưu mẫu được). Kiểm hóa viên phải ghi đầy đủ, chính xác các tiêu chí trên phiếu lấy mẫu (mẫu 08/GC) và phải niêm phong Hải quan mẫu lưu cùng với Phiếu lấy mẫu này; xác nhận đã lấy mẫu nguyên liệu vào tờ khai Hải quan, mẫu lưu nguyên liệu giao cho doanh nghiệp bảo quản. - Doanh nghiệp bảo quản mẫu lưu nguyên liệu trong thời hạn 05 năm và xuất trình cho Hải quan khi kiểm tra sản phẩm gia công xuất khẩu hoặc trong một số trường hợp khác khi Hải quan yêu cầu. 2.2. Thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu do bên nhận gia công tự cung ứng cho hợp đồng gia công 2.2.1. Điều kiện nguyên phụ liệu, vật tư cung ứng - Phải thuộc danh mục nguyên phụ liệu, vật tư sử dụng để gia công thành phẩm nêu trong hợp đồng gia công. - Phải xây dựng thành định mức như đối với nguyên phụ liệu do bên thuê gia công cung cấp. - Phải được thỏa thuận trong hợp đồng, phụ kiện hợp đồng gia công về tên gọi, chủng loại, số lượng nguyên phụ liệu do bên nhận gia công cung ứng. 2.2.2. Phương thức cung ứng nguyên phụ liệu, vật tư - Doanh nghiệp nhận gia công mua nguyên phụ liệu, vật tư tại thị trường Việt Nam - Doanh nghiệp nhận gia công trực tiếp nhập khẩu nguyên phụ liệu, vật tư từ nước ngoài. 2.2.3. Thủ tục Hải quan đối với nguyên liệu do bên nhận gia công tự cung ứng để phục vụ hợp đồng gia công a. Đối với trường hợp nguyên liệu cung ứng do doanh nghiệp mua tại thị trường Việt Nam Trong trường hợp này thì số nguyên liệu mua tại thị trường Việt Nam phải được thỏa thuận trong hợp đồng hoặc phụ kiện hợp đồng về chủng loại, số lượng nguyên liệu cung ứng. Khi mua nguyên liệu để cung ứng, doanh nghiệp không phải ._. một vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quy trình quản lý Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu. Thanh khoản hợp đồng gia công thể hiện sự quản lý chặt chẽ của Hải quan đối với hàng gia công xuất nhập khẩu nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế,... của một số doanh nghiệp. Quy trình thanh khoản thì được quy định như vậy nhưng trên thực tế vấn đề thanh khoản hợp đồng gia công được thực hiện rất chậm trễ, rất nhiều hợp đồng còn tồn đọng từ những năm trước. Nguyên nhân của tình trạng này qua thực tế cho thấy là do lỗi của cả hai phía doanh nghiệp và Hải quan. Về phía doanh nghiệp, sau khi kết thúc hợp đồng, hầu hết các doanh nghiệp không chủ động thanh khoản hợp đồng mà phải đợi có sự thông báo của cơ quan Hải quan thì mới bắt đầu thực hiện. Thêm nữa, mỗi hợp đồng gia công bao gồm rất nhiều điều khoản, quy định phức tạp về mẫu mã, kích cỡ, chủng loại,... và ứng với mỗi điều khoản, quy định đó là một định mức khác nhau nên doanh nghiệp cần phải có rất nhiều thời gian để thống kê các số liệu xuất trình cơ quan Hải quan. Ngoài hai lý do trên, doanh nghiệp còn viện cớ vào một lý do khách quan, đó là thời điểm thanh khoản hợp đồng thường vào cuối năm nên các doanh nghiệp bị cuốn vào mùa vụ bận rộn nên không chú trọng đến việc thanh khoản hợp đồng gia công đúng hạn. Tuy nhiên những lý do mà doanh nghiệp đưa ra khó có thể chấp nhận được vì thời hạn mà cơ quan Hải quan dành cho việc thanh quản hợp đồng cũng không phải là ngắn. Thiết nghĩ các doanh nghiệp cũng cần phải xem xét lại ý thức chấp hành pháp luật của mình, tại sao lại cứ phải đợi Hải quan thông báo thì mới đến thanh khoản hợp đồng. Về phía cơ quan Hải quan, thời gian gần đây công tác thanh khoản hợp đồng gia công đã đi vào nề nếp và có hiệu quả hơn trước. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong thanh khoản hợp đồng vẫn chưa được cải thiện nhiều nguyên nhân là do các quy định về thanh khoản hợp đồng gia công còn chưa thống nhất, chồng chéo. Hơn nữa, việc thanh khoản hợp đồng gia công rất phức tạp đòi hỏi cán bộ, công chức Hải quan phải có trình độ nghiệp vụ vững chắc, có kiến thức tổng hợp đặc biệt là kiến thức thương phẩm học, thông thạo ngoại ngữ và sự cẩn thận cần thiết mới có thể thực hiện tốt được. Khó khăn chồng chất như vậy nhưng khâu thanh khoản hợp đồng là không thể thiếu trong quy trình quản lý Hải quan đối với hàng gia công xuất nhập khẩu, qua đó quản lý được đầu vào, đầu ra của quá trình gia công, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của phương thức kinh doanh này. Qua phân tích những điểm còn tồn tại trong công tác quản lý Hải quan đối với hoạt động gia công xuất khẩu có thể nhận thấy rằng: trong những năm qua hoạt động gia công ở nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc và bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những thiếu sót trong công tác quản lý Hải quan đối với hoạt động này nhưng nếu để tình trạng này kéo dài thì chúng ta sẽ phải trả giá đắt cho những lợi ích mà phương thức kinh doanh này mang lại. Bởi vậy vấn đề đặt ra là cần có một hệ thống văn bản pháp lý thống nhất, hợp lý quản lý hoạt động này và định hướng cho hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh gia công, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước và bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với các đối tác đặt gia công nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam phát triển có hiệu quả và ổn định. Chương III Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động gia công hàng xuất khẩu và hoàn thiện quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu I. Những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động gia công hàng xuất khẩu 1. Về chính sách và cơ chế quản lý Cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý quản lý hoạt động gia công xuất khẩu. Trên cơ sở Luật Thương mại, những văn bản pháp lý đã có như Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Thông tư 07/2000/TT-TCHQ, các ngành chức năng như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cần có các quy định thống nhất bảo đảm cho các doanh nghiệp các điều kiện thuận tiện trong thực hiện các hợp đồng gia công với nước ngoài đồng thời hướng các hoạt động gia công của các doanh nghiệp theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách và giải pháp trước mắt để khuyến khích đầu tư, không phân biệt các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp gia công có hiệu quả cần được ưu tiên vay vốn với lãi suất ưu đãi để mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, Nhà nước cần bổ sung luật đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài theo hướng khuyến khích đầu tư sản xuất những nguyên liệu đang phải nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu. Các ngành may mặc và giầy da ở các vùng có điều kiện lợi thế thì nên hạn chế cấp giấy phép đầu tư 100% vốn nước ngoài mà nên khuyến khích đầu tư trong nước để các khách hàng nước ngoài tự tìm đến ta mà không phải qua khâu trung gian là các dự án đầu tư nước ngoài. Về mặt chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp nhận gia công, cần thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động, đặc biệt là tại các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài vì đa phần các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực gia công hàng xuất khẩu đều cần nhiều lao động. Tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp nhận gia công cần phát huy hơn nữa vai trò của mình để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động tránh tình trạng vi phạm Luật lao động đang diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, có như vậy thì người lao động mới gắn bó lâu dài với doanh nghiệp được. Bên cạnh đó cần tăng cường cải cách hành chính và chống tham nhũng, gây phiền hà cho đầu tư, kinh doanh, gia công xuất nhập khẩu hàng hoá, thúc đẩy đầu tư trong các ngành như Hải quan, Ngân hàng, Thuế và các cán bộ trong các doanh nghiệp quốc doanh trực tiếp thực hiện các dự án đầu tư. Nội dung cải cách hành chính phải được thực hiện đồng bộ và ăn khớp với các cải cách về kinh tế. Cải cách hành chính phải vừa sắp xếp lại tổ chức, phải vừa đổi mới về quy chế và cách thực làm việc, bỏ bớt các đầu mối, các cửa trong việc làm thủ tục khai báo, xét duyệt đầu tư, cho vay đầu tư... nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý ở mọi ngành, mọi cấp. Trên đây là những giải pháp về mặt quản lý Nhà nước về hàng gia công xuất khẩu. Mặt khác, muốn thúc đẩy để gia công có hiệu quả thì cần phải đi sâu vào khả năng của nền kinh tế hay nói cách khác là phải có những kiến nghị với Nhà nước để cho các doanh nghiệp có điều kiện phát triển lĩnh vực này. Nhà nước và các ngành chủ quản cần phải xác định mục tiêu chiến lược của một số ngành then chốt trong việc gia công, từ đó có sự hỗ trợ, có chính sách hợp lý. 2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại Thực tế hoạt động kinh tế đối ngoại tại Việt Nam cho thấy, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong tìm kiếm bạn hàng nước ngoài hoặc bị khách hàng nước ngoài gian lận trong hợp tác, ép giá thì một trong những nguyên nhân chính là do công tác xúc tiến thương mại chưa được chú trọng. Đối với hoạt động gia công xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy quá trình tìm kiếm bạn hàng, hợp đồng thông qua các tham tán, đại diện thương mại nước ta tại nước ngoài thì việc thành lập hiệp hội các nhà sản xuất hàng gia công xuất khẩu nói chung và của từng mặt hàng nói riêng và phát huy hết vai trò của các hiệp hội này, qua đó sẽ đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại. Có thể thấy rằng việc ra đời của các tổ chức hiệp hội, cùng với các đại diện thương mại ở nước ngoài sẽ có sự trao đổi thông tin về thị trường và khách hàng, đảm bảo các điều kiện gia công làm tăng thêm sức cạnh tranh, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất gia công và xuất khẩu sản phẩm gia công ra thị trường nước ngoài. Các hiệp hội này còn có thể tạo điều kiện cho các thành viên liên kết với nhau tránh được tình trạng tranh giành thị trường, bạn hàng dẫn đến việc bị khách hàng nước ngoài ép giá làm giảm giá trị xuất khẩu, giá gia công xuất khẩu. Thông qua các tổ chức hiệp hội, hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, qua đó các doanh nghiệp nhận gia công có điều kiện nhận được thêm các đơn đặt hàng. 3. Sự quan tâm đầu tư của Nhà nước về vốn, cơ sở nguyên vật liệu Song song với nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp, Chính phủ cùng với Bộ thương mại, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất, nhằm hạn chế việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, dần dần thay thế bằng nguyên liệu do Việt Nam sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư cơ sở nguyên vật liệu cho các ngành phục vụ sản xuất hàng gia công như trồng bông, tơ tằm, sản xuất tơ hóa học, xây dựng các cơ sở cung cấp nguyên vật liệu ổn định lâu dài, đảm bảo chất lượng. 4. Nâng cấp hệ thống trang thiết bị, hiện đại hóa công nghệ trong sản xuất hàng gia công xuất khẩu Các đối tác nước ngoài (bên đặt gia công) cũng rất quan tâm đến dây chuyền máy móc, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp nhận gia công vì không phải lúc nào bên đặt gia công cũng có điều kiện chuyển giao dây chuyền máy móc cho bên nhận gia công. Vì vậy, các doanh nghiệp nhận gia công cần được trang bị mới hoặc nâng cấp dây chuyền sản xuất để đáp ứng được yêu cầu về sản phẩm của bên đặt gia công vì đó là nền tảng cơ bản để sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao với năng suất lao động cao. 5. Tăng cường công tác đào tạo Bên cạnh dây chuyền thiết bị, máy móc và công nghệ thì một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm gia công và hiệu quả của hoạt động gia công xuất khẩu là lực lượng lao động. Phát triển nguồn nhân lực cũng là một trong những nội dung chủ đạo của chiến lược công nghiệp hóa theo quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải trải qua quá trình đào tạo cơ bản, họ chính là những cử nhân, kỹ sư đã tốt nghiệp đại học. Việc thu hút số lao động dư thừa ở khu vực nông thôn vào hoạt động gia công hàng xuất khẩu cần phải tiến hành có hệ thống, lực lượng lao động trực tiếp cần được học qua các lớp dạy nghề để có thể thao tác sản xuất một cách thuần thục đạt năng suất cao. Ngày nay, phía đặt gia công nước ngoài ngày càng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng lao động chứ không dơn thuần là số lượng lao động. Trên đây là một số giải pháp vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có tác dụng lâu dài nhằm thúc đẩy hoạt động gia công ở Việt Nam phát triển một cách thuận lợi, phát huy tiềm năng kinh tế đất nước góp phần thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. II. Một số biện pháp cần thiết để hoàn thiện quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu Trong thời gian tới, hoạt động gia công xuất khẩu vẫn tiếp tục được chú trọng phát triển vì những lợi ích mà nó mang lại cho các bên tham gia. Để tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển, ngoài các giải pháp nêu trên thì công tác quản lý Nhà nước về Hải quan mà ở đây là quản lý Hải quan đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu cần được hoàn thiện hơn nữa. Với phương hướng, mục tiêu chung cho toàn ngành là xây dựng Hải quan thành lực lượng chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước, một số giải pháp mang tính định hướng được đưa ra để thực hiện mục tiêu này. 1. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý quản lý Hải quan hoạt động gia công xuất khẩu Trong thời gian qua, chúng ta đã ban hành và thông qua một số văn bản pháp quy quan trọng có tính chất định hướng cho các hoạt động thương mại nói chung cũng như cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu nói riêng. Ngày 10/05/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thương mại, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thương mại trên các vùng của đất nước, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài, góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân, góp phần tích luỹ nhằm thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luật Thương mại bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1998 quy định hoạt động thương mại tại Việt Nam. Đối với hành vi gia công trong thương mại (được quy định tại mục 7 Luật Thương mại), Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Tổng cục Hải quan đã ban hành Thông tư số 07/2000/TT-TCHQ hướng dẫn thi hành chương III Nghị định 57/1998/NĐ-CP và bên cạnh đó là hàng loạt công văn, thông báo quy định về việc thực hiện hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Ngày 29/06/2001, Luật Hải quan đã được Quốc hội khóa X nước ta thông qua tại kỳ họp thứ 9 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2002, đồng thời cũng từ thời điểm này Pháp lệnh Hải quan được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 20/02/1990 hết hiệu lực. Việc nâng Pháp lệnh Hải quan lên thành Luật Hải quan có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng do sự phát triển đa dạng của hoạt động kinh tế đối ngoại, Luật Hải quan ra đời đã góp phần bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, hợp tác và giao lưu quốc tế, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một văn bản nào được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật Hải quan trong lĩnh vực gia công xuất khẩu. Tổng cục Hải quan cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật trong vấn đề quản lý hàng gia công xuất khẩu. Đối với những văn bản có tính chất chỉ đạo chung trong thời gian dài, nếu quá trình thực hiện đã có nhiều vướng mắc và thực tế đã có những thay đổi cơ bản thì cần phải tiến hành sửa đổi hoặc thay bằng văn bản mới, hủy bỏ hoàn toàn hiệu lực của văn bản cũ. Trong việc ban hành, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật cần tránh tình trạng ra văn bản bổ sung liên tục, văn bản sau sửa đổi văn bản trước nhiều lần gây rất nhiều khó khăn lúng túng cho người thực hiện, đồng thời cần có thông báo rõ ràng, đầy đủ, rộng rãi và thường xuyên công bố danh sách những văn bản đã hết hiệu lực. Đối với những văn bản có tính chất tháo gỡ vướng mắc, để chỉ dẫn cho cấp dưới thực hiện theo đúng tinh thần của văn bản, Tổng cục Hải quan cũng cần dẫn chiếu đầy đủ số văn bản, cơ quan ban hành, ngày tháng có hiệu lực..., tránh hiện tượng phổ biến nêu chung chung “giải quyết theo chế độ hiện hành” gây lúng túng, khó khăn trong thực hiện. Trong thời gian tới, Tổng cục Hải quan (hiện nay đã thuộc Bộ Tài chính) cùng với các bộ, ngành liên quan như Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường cần thống nhất dứt điểm một số vấn đề để ban hành những văn bản pháp lý cần thiết, trên cơ sở đó Hải quan có thể thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước của mình, cụ thể đó là: - Tỷ lệ hao hụt đối với nguyên phụ liệu gia công đối với tất cả các mặt hàng mà các doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công - Thuế đối với phần hao hụt nguyên phụ liệu - Định mức thuế tiêu hao nguyên phụ liệu - Vấn đề duyệt hợp đồng gia công - Vấn đề nhãn mác hàng hóa gia công - Vấn đề xử lý phế phẩm, phế liệu dư thừa - Vấn đề thanh lý hợp đồng gia công và chế tài trong trường hợp chậm thanh lý hợp đồng gia công. Để giải quyết tốt, triệt để các vấn đề này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhận gia công cũng như thực hiện tốt các chức năng quản lý Nhà nước, cần xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng ngành tránh tình trạng có vấn đề thì quản lý chồng chéo còn có vấn đề thì không biết cơ quan nào chịu trách nhiệm chỉ đạo. 2. Đẩy mạnh quá trình cải tiến thủ tục Hải quan Nhìn chung, thời gian gần đây công tác cải cách thủ tục Hải quan được chú trọng hơn song trong từng khâu nghiệp vụ, từng khu vực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh đó, do hoạt động gia công xuất khẩu nói riêng cũng như hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung phát triển khá đa dạng, đòi hỏi ngành Hải quan cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục Hải quan gắn với quá trình thực hiện cải cách hành chính nói chung. Để đẩy mạnh quá trình cải cách thủ tục Hải quan, cần tập trung triển khai Đề án cải cách thủ tục Hải quan cả về chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt chú trọng đề ra các giải pháp sát với thực tiễn, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập, nhấn mạnh ở một số điểm sau: - Đề cao tính chủ động, khẳng định tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp - Thực hiện và nâng cao vai trò kiểm tra, giám sát của cơ quan Hải quan - Quy trình thủ tục Hải quan thống nhất, đơn giản, dễ thực hiện - Công khai hóa các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập khẩu, Hải quan - Phân công, phân cấp rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cán bộ, công chức Hải quan trong từng khâu nghiệp vụ 3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo Hải quan, tăng cường công tác đào tạo Hàng gia công xuất khẩu, cũng như các mặt hàng xuất nhập khẩu khác đều phải tuân thủ các quy trình thủ tục Hải quan. Tuy nhiên, do đặc thù của loại hình kinh doanh gia công gồm nhiều công đoạn phức tạp đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ nhưng cũng phải tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động của doanh nghiệp nhận gia công. Do đó có thể thấy việc tập trung nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, lãnh đạo Hải quan làm công tác quản lý hàng gia công xuất khẩu là rất cần thiết nhằm xây dựng một lực lượng cán bộ Hải quan vừa tinh thông nghiệp vụ Hải quan, có kiến thức sâu rộng về kinh tế, pháp luật, thông thạo ngoại ngữ, vừa có phẩm chất trong sáng vững vàng, tận tụy trong công việc. Cán bộ, công chức Hải quan cần nhận thức được rằng họ là công cụ quan trọng của Nhà nước trong khâu quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, họ cũng cần đứng ở phía doanh nghiệp để thấy rằng doanh nghiệp nhận gia công thực chất là người làm thuê cho doanh nghiệp đặt gia công nước ngoài nên phải tuân thủ nghiêm ngặt những điều khoản đã ký kết trong hợp đồng gia công. Vì vậy, cần tránh thói làm việc quan liêu, sách nhiễu gây thiệt hại không những về kinh tế mà bên cạnh đó là những hậu quả xã hội như do mất bạn hàng nên công nhân mất việc làm. Để nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức Hải quan, trước hết, ngành cần tập trung lãnh đạo và bố trí kinh phí thỏa đáng cho đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên đối với công chức, xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức ngành Hải quan theo các tiêu chuẩn ngạch công chức và tiêu chuẩn bổ nhiệm, sử dụng cán bộ, công chức Hải quan. Đồng thời cần tập trung hoàn thiện hệ thống giáo trình giảng dạy tại trường Cao đẳng Hải quan, hoàn thiện nội dung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Hải quan theo chuyên đề HS, GATT, KYOTO, sở hữu trí tuệ (TRIPS), xuất xứ hàng hóa (C/O), kiểm tra sau thông quan, kiểm soát chống buôn lậu, ngoại ngữ chuyên ngành Hải quan,v.v... Về phương thức đào tạo, cần nghiên cứu cải tiến để phù hợp với điều kiện thực tế của ngành, kết hợp giữa cử cán bộ đi đào tạo tại các trường lớp chính quy với việc rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ tại cơ sở, đơn vị công tác, coi trọng việc truyền đạt, hướng dẫn của cán bộ quản lý, cán bộ có kinh nghiệm lâu năm đối với cán bộ trẻ, mới vào ngành công tác. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức Hải quan, ngành chủ động có kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho các doanh nghiệp và các đối tượng liên quan khác đến làm thủ tục Hải quan về những nội dung cần thiết như danh mục hài hòa mô tả và mã hàng hóa (danh mục HS), về xác định trị giá Hải quan theo GATT, về công ước KYOTO,v.v... để các đối tượng này nắm vững và tuân thủ đúng quy định của pháp luật, tạo thuận lợi cho ngành Hải quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Công tác này cần được thực hiện thường xuyên để các doanh nghiệp làm thủ tục Hải quan nhanh chóng, đúng quy định, tránh gây ùn tắc làm thủ tục Hải quan. Đi đôi với công tác nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức Hải quan, ngành Hải quan cần tăng cường công tác chính trị, tư tưởng và quản lý cán bộ. Những công việc hàng ngày mà cán bộ, công chức Hải quan đảm nhiệm phải thường xuyên tiếp xúc với tiền, hàng trong khi đời sống của đại đa số cán bộ nhân viên Hải quan chưa cao. Do đó, trên thực tế cũng đã xảy ra một số trường hợp cán bộ Hải quan vụ lợi, bị lôi kéo nên đã thông đồng, tiếp tay cho doanh nghiệp trốn thuế, gian lận, gây thất thoát hàng ngàn tỷ đồng tiền thuế cho ngân sách Nhà nước và hậu quả nặng nề cho nền sản xuất trong nước. Công tác bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng của cán bộ Hải quan cần được đẩy mạnh hơn nữa, cụ thể như sau: Bồi dưỡng kiến thức quản lý cho cán bộ lãnh đạo các cấp, phân công, phân cấp rõ ràng, cụ thể giữa các cấp quản lý, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc Tổng cục, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy chế. Coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tính trung thực, ý thức tổ chức kỷ luật, danh dự và trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ, công chức Hải quan. Thường xuyên tổ chức phê bình và tự phê bình, bảo vệ chính trị nội bộ, có phương án phòng ngừa đối với các đơn vị, địa bàn, công việc trọng điểm. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra của Lãnh đạo các cấp trong ngành. Thực hiện quản lý cán bộ thông qua quản lý công việc, xử lý nghiêm khắc hơn đối với các trường hợp sai phạm, kịp thời khen thưởng, động viên những nhân tố tích cực, những việc làm tốt. Tiến hành rà soát, đánh giá đúng lực lượng, sắp xếp và điều chỉnh cán bộ cho hợp lý, đặc biệt ở các vị trí trọng yếu. Phát động và duy trì thường xuyên các phong trào thi đua yêu nước với phương thức và nội dung thiết thực, phù hợp với hoạt động thực tiễn của từng đơn vị. Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong việc giáo dục, động viên Đảng viên, Đoàn viên hưởng ứng, thực hiện các cam kết và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phát hiện và nhân rộng các tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến. 4. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa Hải quan Trong thời gian tới, ngành Hải quan sẽ xây dựng và cải tạo trung tâm nghiệp vụ Hải quan tại 80 cửa khẩu, sân bay, điểm thông quan, đội kiểm soát; 03 cơ sở đội tàu cao tốc; 03 Trung tâm kiểm định hàng hóa xuất nhập khẩu; trung tâm làm việc của 7 cục Hải quan địa phương, trường Cao đẳng Hải quan và trụ sở Tổng cục Hải quan tại địa điểm mới với kinh phí là 260 tỷ đồng. Ngành cũng sẽ xây dựng trung tâm tự động hóa có hệ thống trang thiết bị máy tính và các thiết bị phụ trợ với kinh phí 420 tỷ đồng có khả năng tiếp nhận và xử lý giao dịch điện tử phát sinh từ khâu tiếp nhận tờ khai, khai báo Hải quan, tính thuế, thu thuế, giải phóng hàng, giám sát cảng và kho, đảm bảo các điều kiện cần thiết để duy trì hoạt động ổn định của trung tâm, có cơ chế dự phòng sự cố, bảo mật dữ liệu, có biện pháp hữu hiệu chống xâm nhập trái phép. Xây dựng mạng diện rộng riêng của ngành Hải quan có khả năng chuyển tín hiệu dữ liệu, âm thanh, fax, hình ảnh kết nối giữa các đơn vị Hải quan trong ngành với Trung tâm tự động hóa, nghiên cứu để kết nối mạng diện rộng của Hải quan với Ngân hàng, kho bạc, hãng vận chuyển, hàng không, cảng vụ để thực hiện các giao dịch xác nhận việc nộp thuế, giám sát kho hàng... Để thực hiện chương trình phát triển công nghệ thông tin, hiện đại hoá quản lý Hải quan đạt kết quả đòi hỏi sự quyết tâm cao, chăm lo nâng cao trình độ sử dụng, vận hành và quản lý thiết bị, chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đảm bảo nguồn kinh phí đầu tư trong 5 năm là 1.145 tỷ đồng. Một trong những ứng dụng công nghệ thông tin quan trọng nhất và có hiệu quả nhất trong quản lý Hải quan là khai báo Hải quan qua mạng. Khai báo Hải quan điện tử đã được thí điểm thực hiện từ đầu tháng 6 năm 2002 với các doanh nghiệp thuộc khu vực làm hàng gia công, cụ thể là từ 01/07/2002 triển khai thí điểm bước đầu tại các doanh nghiệp có khối lượng hàng gia công lớn và có quá trình tuân thủ tốt quy định Hải quan tại các tỉnh, thành phố: Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp và Hải quan các cấp vẫn đang chờ văn bản hướng dẫn từ Tổng cục Hải quan để có thể bắt tay triển khai. Các chi cục Hải quan gia công đã chuẩn bị nhân sự và máy móc, hệ thống máy đã nối mạng đầy đủ nhưng vẫn chờ hướng dẫn từ Cục công nghệ thông tin và thống kê Hải quan để có thể chính thức đi vào vận hành. Hơn nữa, hiện cũng chưa có kế hoạch tập huấn để triển khai các nội dung quy trình cụ thể cho đến từng doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh gia công đều muốn chủ trương này đi vào thực hiện nhanh chóng, vừa đỡ lãng phí thời gian, vừa tiện lợi lại tiết kiệm nhân công. Chẳng hạn, mỗi ngày tại Chi cục Hải quan gia công thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 600-700 tờ khai Hải quan cần xử lý và phải cần tới 16 bàn tiếp nhận hồ sơ. Đối với tờ khai viết tay, nhân viên Hải quan phải đánh máy và nhập dữ liệu, mỗi tờ khai có 2 đến 3 mã hàng nên mất khoảng 15 phút, có những doanh nghiệp lớn mỗi ngày thực hiện 60 đến 70 tờ khai, mất rất nhiều thời gian và tốn công sức. Tuy nhiên, theo Cục công nghệ thông tin (CNTT) và thống kê Hải quan thuộc Tổng cục Hải quan thì khai báo Hải quan điện tử mới chỉ áp dụng đối với tờ khai Hải quan. Các chứng từ khác như hợp đồng thương mại, bản kê chi tiết hàng hóa... vẫn chưa áp dụng hình thức này. Khi khai báo, phần mềm khai báo của doanh nghiệp sẽ có mẫu khai báo giống của cơ quan Hải quan nên chỉ việc khai trên máy tại doanh nghiệp. Sau đó, doanh nghiệp sẽ dùng chương trình chuyển dữ liệu tới cơ quan Hải quan. Hải quan tiếp nhận và kiểm tra dữ liệu nhanh chóng rồi cho thông quan hàng hóa dựa vào tiêu chí chấp hành chính sách và xuất xứ của doanh nghiệp. Hàng nguyên liệu được thông quan xong sẽ đưa vào xí nghiệp sản xuất ngay cho kịp tiến độ gia công, đến khi thanh khoản mới nộp hồ sơ giấy cho Hải quan đối chiếu kiểm tra. Nếu doanh nghiệp chấp hành tốt, có quy mô sản xuất đủ tiêu chuẩn sẽ nộp hồ sơ giấy sau quá trình thông quan. Trình tự này đảm bảo thời gian làm thủ tục Hải quan và thanh khoản hợp đồng gia công của các doanh nghiệp giảm từ 3-4 ngày xuống chỉ còn nửa giờ. Tuy nhiên, để thực hiện được việc khai báo Hải quan qua mạng đòi hỏi các doanh nghiệp phài trang bị máy tính, có nối mạng và sử dụng thiết bị nối mạng tốt thì tốc độ đường truyền sẽ nhanh chóng và kịp thời, dữ liệu được truyền đi dưới dạng tập tin đến với Hải quan. Các doanh nghiệp sẽ phải đăng ký tên doanh nghiệp, có mã số bảo mật, có số điện thoại đường truyền và người truyền số liệu. Doanh nghiệp cần trang bị phần mềm máy tính quản lý công tác xuất nhập khẩu, có mục khai báo Hải quan, phần mềm này cần tương thích với mạng của Hải quan để có thể bên này gửi, bên kia nhận và đọc được bình thường. Ngoài ra, một vấn đề nữa cần quan tâm là cần có cơ sở pháp lý để xác nhận độ xác thực của khai báo điện tử và điều kiện đảm bảo an toàn của hệ thống trong vấn đề bảo mật, tránh việc mạng của Hải quan bị phá hoại, mất cắp dữ liệu... Nhà nước cần có thêm các quy định rõ ràng hơn về vấn đề này để có thể đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các thủ tục Hải quan qua mạng đối với hàng gia công xuất khẩu nói riêng cũng như hàng hóa xuất nhập khẩu nói chung. 5. Thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực Hải quan Hải quan Việt Nam cần tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau với tổ chức Hải quan các nước trên thế giới, trong đó đặc biệt tăng cường quan hệ với Hải quan các nước ASEAN, Hải quan các nước láng giềng như Trung Quốc, và Hải quan một số nước công nghiệp phát triển về kinh nghiệm quản lý Hải quan tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công chức Hải quan, chống ma túy và buôn lậu, tự động hóa và hiện đại hóa Hải quan v.v... Bên cạnh đó, cần chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cơ sở pháp lý, phương tiện kỹ thuật và cán bộ để tiếp cận nhanh quá trình thực hiện các Công ước trong hoạt động Hải quan, chủ động tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), ASEAN, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC), ASEM..., nâng cao vị thế của Hải quan Việt Nam trong khu vực và quốc tế. kết luận Từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế năm 1986, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ nhờ những chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Cùng với sự chuyển biến này, sự mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã tích cực thúc đẩy quá trình tham gia phân công lao động quốc tế đồng thời tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới. Những năm gần đây, hoạt động gia công xuất khẩu ngày càng được chú trọng nên đã phát triển nhanh chóng và đa dạng, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao cho đất nước. Tuy nhiên, hoạt động này cũng cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước mà ở đây là quản lý Nhà nước về Hải quan. Cơ quan Hải quan cần quản lý chặt chẽ hoạt động này góp phần bảo hộ sản xuất trong nước, chống buôn lậu và gian lận thương mại thông qua gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài. Bên cạnh đó, chế độ quản lý này cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu nói chung cũng như cho các doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công nói riêng. Thủ tục Hải quan đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công xuất khẩu, nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển hơn nữa cả về chiều rộng và chiều sâu. Qua việc đề cập đến quy trình thủ tục Hải quan đối với hàng gia công xuất khẩu, tác giả đã nhìn nhận lại những mặt đã đạt được và những điểm còn tồn tại trong hoạt động quản lý Hải quan, từ đó đưa ra những giải pháp cần thiết để hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động gia công xuất khẩu, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của hoạt động này ở nước ta trong thời gian tới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan .doc
  • docBia.doc
  • docMuc luc .doc
  • docPhu luc kho A3.doc
  • docPhu luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan