Tài liệu Hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia: ... Ebook Hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Khoa th¬ng m¹i
b & a
CHUY£n ®Ò tèt nghiÖp
§Ò tµi:
HO¹T §éng dù tr÷ mÆt hµng l¬ng thùc t¹i côc dù tr÷ quèc gia
Sinh viªn thùc hiÖn : nguyÔn thÞ l¬ng
Líp : QTKD TH¦¬NG M¹I 46B
Kho¸ : 46
HÖ : chÝnh quy
Gi¶ng viªn híng dÉn : gs.ts hoµng ®øc th©n
Hµ Néi - 2008
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTC : Bộ Tài Chính
BTP : Bộ Tư Pháp
CP : Chính Phủ
DTQG : Dự Trữ Quốc Gia
DTQGKV : Dự Trữ Quốc Gia khu vực
HĐBT : Hội Đồng Bộ Trưởng
NĐ : Nghị Định
QĐ : Quyết Định
TCN : Tiêu chuẩn ngành
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TT : Thông tư
TTg : Thủ tướng
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
Bảng 1.1 : Cơ cấu giá trị hàng hoá DTQG tại các Bộ, Ngành... 8
Bảng 1.2 : Tỷ trọng hàng hoá DTQG theo giá trị 10
Bảng 1.3 : Tiêu chuẩn cho thóc ……………. 12
Bảng 1.4 : Chỉ tiêu chất lượng gạo trắng 13
Bảng 2.1 : Tình hình nhập lương thực giai đoạn 2005 – 2007 35
Bảng 2.2 : Tình hình xuất lương thực DTQG từ năm 2005 – 2007 38
Bảng 2.3 : Giá mua, bán lương thực DTQG. 46
Bảng 2.4 : Phân bố kho DTQG chứa lương thực theo vùng 50
Bảng 2.5 : Thực trạng kho lương thực DTQG ở một số DTQGKV 51
Bảng 2.6 : Định mức hao hụt thóc DTQG 53
Bảng 2.7 : Định mức hao hụt gạo DTQG...........................................................54
Sơ đồ 1 : Sơ đồ khối công nghệ bảo quản thóc đổ rời thông thoáng tự nhiên 56
Sơ đồ 2 : Sơ đồ khối công nghệ bảo quản thóc đóng bao thông thoáng tự nhiên 58
Sơ đồ 3 : Sơ đồ khối công nghệ bảo quản thóc đổ dời phủ kín bằng trấu 61
Sơ đồ 4 : Sơ đồ khối công nghệ bảo quản thóc đổ rời áp suất thấp 63
Sơ đồ 5 : Sơ đồ khối công nghệ bảo quản gạo DTQG bằng CO2, N2, yếm khí .............................................................................................................................65 Sơ đồ 6 : Sơ đồ khối công nghệ bảo quản gạo DTQG bằng chất khử ôxy 67
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
An ninh lương thực là một vấn đề mang tính chiến lược mà bất kì quốc gia nào trên thế giới đều phải quan tâm, đặc biệt là các nước đang phát triển, lương thực được coi như là một chiếc van đảm bảo an toàn, ứng phó kịp thời có hiệu quả khi xảy ra thiên tai và biến động lớn của nền kinh tế xã hội. Vấn đề này đã được Thủ Tướng Phan Văn Khải khẳng định trong hội thảo về an ninh lương thực Việt Nam – Asean Hà Nội năm 1998 là: “Đẩy mạnh sản xuất lương thực làm cơ sở đồng thời phải đảm bảo một lượng lương thực dự trữ hàng năm nhằm ứng phó với mọi tình huống xấu xảy ra. DTQG là một nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng. Tất nhiên đây là một vấn đề rất phức tạp. Hàng năm Nhà Nước phải đầu tư một khoản ngân sách lớn cho hoạt động dự trữ lương thực quốc gia…”
Chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập chung sang cơ chế thị trường, hoạt động DTQG nói chung và DTQG mặt hàng lương thực nói riêng đã có những thay đổi cơ bản. Trong những năm qua DTQG mặt hàng lương thực đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế, sự ổn định về chính trị, xã hội của đất nước trong mọi tình huống, trước sự biến động phức tạp của cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, mới bước sang cơ chế thị trường, hoạt động DTQG nói chung và DTQG mặt hàng lương thực nói riêng còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Để khắc phục được những hạn chế đó đòi hỏi DTQG cần phải được phân tích thực trạng hoạt động dự trữ tại cục. Xuất phát từ sự cần thiết phải nghiên cứu thực trạng DTQG mặt hàng lương thực em quyết định chọn đề tài “ Hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia ” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động DTQG mặt hàng lương thực, chủ yếu là trong những năm gần đây khi hoạt động DTQG bước từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường. Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm rõ những đặc trưng cơ bản của DTQG, đặc biệt là thực trạng DTQG mặt hàng lương thực trong những năm gần đây.
Phạm vi nghiên cứu:
Một là: Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề cơ bản về DTQG mặt hàng lương thực ở tầm vĩ mô cũng như một số hoạt động dự trữ lương thực ở tầm vi mô chịu ảnh hưởng trực tiếp của các cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô, chuyên đề không nghiên cứu cụ thể hoạt động DTQG mặt hàng lương thực tại các chi cục DTQG khu vực.
Hai là: Chuyên đề nghiên cứu DTQG mặt hàng lương thực đối với toàn ngành DTQG, tập trung nghiên cứu dự trữ lương thực về mặt khối lượng trong mối quan hệ với dự trữ bằng tiền(giá trị).
Ba là: Chuyên đề chủ yếu nghiên cứu hoạt động DTQG mặt hàng lương thực trong những năm gần đây (thời kì đổi mới, khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường).
3. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ được mục đích nghiên cứu, chuyên đề đã sử dụng tổng hợp các phương pháp:
- Phương pháp tổng hợp và phân tích
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Phương pháp thống kê kinh nghiệm và thống kê toán học.
- Phương pháp dự đoán và phương pháp xử lý số liệu toán học.
4. Nội dung và kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động Dự Trữ Quốc Gia mặt hàng lương thực.
Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia
Chương 3: Phương hướng và biện pháp tăng cường hoạt động dự trữ lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG DỰ TRỮ QUỐC GIA MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC
1.1. Lý luận chung về Dự Trữ Quốc Gia
1.1.1. Sự cần thiết của Dự Trữ Quốc Gia
Thời đại ngày nay khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển, toàn cầu hoá và hội nhập nền kinh tế quốc tế ngày càng được đẩy mạnh. Song trong tình hình đó mỗi quốc gia vẫn phải đối mặt với những thách thức to lớn do thiên tai (bão lụt, dịch bệnh, hoả hoạn…) gây ra. Bên cạnh đó sự xung đột chính trị giữa các quốc gia, sự biến động và cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những nguy cơ đe doạ đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Vì vậy để phòng ngừa, hạn chế, khắc phục những tổn hại do thiên tai hoặc những bất ổn do chính trị và kinh tế gây ra đòi hỏi mỗi quốc gia phải hình thành nên các quỹ dự trữ của quốc gia mình, từ đó hình thành DTQG ở mỗi nước trong đó có Việt Nam.
DTQG được hình thành trước hết do yêu cầu thực hiện chức năng quản lý Nhà Nước về kinh tế, nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và tương lai mà nếu không có DTQG thì không thể giải quyết được. Vì vậy DTQG đóng vai trò rất quan trọng nhằm đáp ứng các nhu cầu mà các loại dự trữ khác trong nền kinh tế quốc dân không thể đáp ứng được, đặc biệt trong những tình huống đột biến do thiên tai, dịch bệnh, lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn hoặc chiến tranh xảy ra…
Thật vậy, lịch sử đã chứng minh trong quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, ở mỗi thời kì, mỗi chế độ, con người luôn phải đối mặt với những thách thức và khó khăn do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, cháy rừng…xảy ra.
Đặc biệt đối với Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, do đó thiên tai, bão lụt thường xuyên xảy ra. Hiện nay tình hình thời tiết ngày càng phức tạp, thiên tai, bão lụt ngày càng nhiều, phạm vi ngày càng mở rộng trên cả ba miền Bắc – Trung – Nam, với mức độ ngày càng gay gắt, khó đo lường và dự báo. Theo thống kê của cục Thống kê và Trung tâm dự báo kí tượng thuỷ văn, trung bình mỗi năm nước ta phải hứng chịu từ 8 đến 13 cơn bão, trong đó có nhiều cơn bão gây thiệt hại nặng nề về người và của. Tất cả những điều đó là nguy cơ tiềm ẩn gây mất ổn định về sản xuất và đời sống. Vì vậy đòi hỏi Nhà Nước phải có quỹ DTQG và quỹ này phải đủ mạnh để có thể bù đắp được những thiệt hại, ổn định đời sống nhân dân.
Thứ hai, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự chủ trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, lấy thu bù chi và có lãi. Do đó để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh, kể cả cạnh tranh không công bằng. Điều đó khiến cho nền kinh tế bất ổn, gây rối loạn thị trường.
Mặt khác tự do cạnh tranh Nhà Nước không thể ép buộc các doanh nghiệp gánh vác trách nhiệm dự trữ cho toàn xã hội, để ứng phó với những trường hợp bất ổn của thị trường và nền kinh tế. Nhiều doanh nghiệp vì lợi ích của doanh nghiệp mình họ tiến hành đầu cơ để lợi dụng những lúc thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, hoả hoạn…để ép giá nhằm thu lợi nhuận.
Vì vậy để khắc phục hậu quả do thiên tai, bão lụt, ổn định thị trường và mọi mặt đời sống nhân dân Nhà nước phải hình thành nên quỹ DTQG để thực hiện chức năng quản lý toàn xã hội.
Thứ ba, tình hình chính trị thế giới luôn diễn biến phức tạp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, đặc biệt là tình hình khủng bố quốc tế luôn diễn ra với mức độ ngày càng phức tạp. Điều đó luôn là hiểm hoả đối với xã hội loài người.
Lịch sử Việt Nam cho thấy từ ngày dựng nước đến nay, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua hàng trăm cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược để bảo vệ đất nước. Để có được nước Việt Nam độc lập ngày hôm nay, DTQG đã đóng góp một phần quan trọng.
Ngày nay, nguy cơ chiến tranh vẫn luôn tiềm ẩn, diễn biến hoà bình ngày càng phức tạp, xung đột khu vực và chiến tranh diễn ra ngày càng gay gắt với mức độ ngày càng tinh vi hơn. Điều đó đặt ra cho mỗi nước phải có và ngày càng tăng cường hơn nữa hoạt động DTQG để đảm bảo vấn đề an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc tổ quốc trước mọi tình huống.
Cuối cùng DTQG cần thiết vì đó là công cụ để Nhà Nước điều hành vĩ mô nền kinh tế, xử lý những tình huống bất trắc xảy ra, đặc biệt trong điều kiện nước ta đang trong quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. DTQG sẽ là công cụ có hiệu quả để khắc phục những khó khăn trong quá trình hội nhập, khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, đưa nền kinh tế nước ta vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa đã đặt ra. DTQG sẽ giúp Đảng và Nhà Nước ta thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đặt ra đồng thời thực hiện được các chính sách xã hội cũng như nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Chính từ những nguyên nhân trên, DTQG hình thành là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết của mỗi nước.
1.1.2. Đặc điểm Dự Trữ Quốc Gia
DTQG là dự trữ của 1 nước, vì vậy DTQG bao gồm các đặc điểm sau:
a) Dự Trữ Quốc Gia là một dạng dự trữ đặc biệt
DTQG là dự trữ của một nước, do Nhà Nước nắm giữ và quản lý. Theo pháp lệnh DTQG, DTQG là nguồn dự trữ chiến lược của Nhà Nước nhằm chủ động đáp ứng những nhu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh, tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất bức thiết khác của nhà Nước.
Hoạt động DTQG là các hoạt động xây dựng và thực hiện kế hoạch, dự toán ngân sách DTQG, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật để quản lý DTQG, điều hành nhập, xuất, bảo quản, bảo vệ DTQG.
DTQG khác các loại dự trữ khác trong nền kinh tế, DTQG do Nhà Nước quản lý ở tầm vĩ mô để điều tiết toàn bộ nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. DTQG được tích luỹ dần từng năm theo các kế hoạch của Nhà Nước.Việc nhập xuất các mặt hàng DTQG phải tuân theo các kế hoạch do Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt. Việc quản lý hàng DTQG có sự tham gia của nhiều Bộ, Ngành có liên quan. Hàng năm Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư căn cứ theo tình hình dự báo và thực tiễn hoạt động DTQG tổng hợp để Chính phủ trình Quốc hội quyết định tổng mức dự trữ hàng năm cũng như việc bổ sung ngân sách cho quỹ dự trữ. Quỹ DTQG là khoản tích luỹ từ ngân sách Nhà Nước, do Nhà Nước thống nhất quản lý và sử dụng theo quy định của Pháp lệnh DTQG các văn bản pháp luật có liên quan. DTQG bao gồm cả dự trữ bằng hiện vật và giá trị (dự trữ vật tư hàng hoá, dự trữ tiền đồng Việt Nam, dự trữ vàng và các ngoại tệ mạnh).
Sức mạnh của một nước phụ thuộc rất nhiều vào tiềm lực DTQG. Quỹ DTQG phải đủ mạnh để có thể ứng phó được các tình huống bất trắc xảy ra. Vì vậy tuỳ theo sự phát triển kinh tế xã hội, tình hình chính trị trong nước và thế giới…để Chính phủ và Quốc hội quy định cơ cấu hàng hoá dự trữ, tỷ lệ dự trữ bằng tiền và hiện vật…cho phù hợp với từng thời kì.
b) Hàng hoá đưa vào Dự Trữ Quốc Gia phải là những mặt hàng chiến lược
DTQG là công cụ để Nhà Nước quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế và ổn định mọi mặt đời sống nhân dân. Để thực hiện được những nhiệm vụ đó hàng hoá đưa vào DTQG phải là những mặt hàng thiết yếu, quan trọng, đáp ứng được các nhu cầu để phòng chống thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, địch hoạ, đảm bảo an ninh quốc phòng, bình ổn thị trường và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác của Nhà Nước.
c) Dự Trữ Quốc Gia chịu sự điều hành tập trung thống nhất của Nhà Nước, có sự phân công quản lý hàng DTQG cho các Bộ, Ngành theo quy định của Chính phủ. Cơ cấu giá trị hàng DTQG tại các Bộ, Ngành hiện nay như sau:
Bảng 1.1: Cơ cấu giá trị hàng hoá DTQG tại các Bộ, Ngành
STT
Tên đơn vị quản lý
Tỷ trọng (%)
Tổng số
100
1
Bộ Tài Chính (Cục DTQG )
27,2
2
Bộ Quốc phòng
20,7
3
Bộ Thương mại
42,7
4
Bộ Công an
2,1
5
Bộ Giao thông vải
3,13
6
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
2,5
7
Bộ Công nghiệp
0,77
8
Bộ Y tế
0,38
9
Đài Tiếng nói Việt Nam
0,37
10
Ban Cơ yếu Chính phủ
0,38
Nguồn: Cục Dự Trữ Quốc Gia
DTQG được thực hiện theo chiến lược và kế hoạch do Nhà Nước quy định. Hàng năm căn cứ vào tình hình cụ thể Chính Phủ trình Quốc hội quyết định tổng mức dự trữ hàng năm, tỷ lệ dự trữ, cơ cấu hàng hoá đưa vào dự trữ. Sau đó, Chính phủ phân cho các Bộ, Ngành quản lý hàng DTQG sao cho phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
c) Nguồn vốn hình thành Dự Trữ Quốc Gia
Nếu như nguồn vốn dự trữ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp thương mại đều được hình thành từ vốn của các chủ thể kinh tế riêng biệt thì nguồn vốn DTQG được hình thành từ ngân sách Nhà Nước do Quốc hội quyết định. Việc quản lý và điều hành quỹ DTQG được thực hiện theo sự chỉ đạo tập trung thống nhất từ phía Nhà Nước. Theo Pháp lệnh DTQG năm 2004 quỹ DTQG phải được quản lý chặt chẽ, bí mật, an toàn, chủ động đáp ứng kịp thời yêu cầu trong mọi tình huống, quỹ DTQG sau khi được xuất phải bù lại đầy đủ, kịp thời. Quỹ DTQG phải được sử dụng đúng mục đích, đúng quy định của pháp luật, không được sử dụng quỹ DTQG để hoạt động kinh doanh, thời hạn bảo quản các mặt hàng dự trữ do Nhà Nước quy định.
d) Việc tính toán các đại lượng dự trữ bao gồm danh mục hàng hoá dự trữ, số lượng, quy mô, tỷ lệ hàng hoá dự trữ là rất khó khăn và phức tạp. Sở dĩ như vậy vì tình hình kinh tế xã hội, chính trị trong nước và thế giới luôn biến động, tần xuất thiên tai và khủng hoảng kinh tế xã hội luôn diễn ra một cách khó lường. Nếu tính toán không chính xác dẫn đến dự trữ quá nhiều sẽ gây lãng phí nguồn ngân sách, dự trữ quá ít thì không thể khắc phục được các tình huống bất ngờ xảy ra.
e) Cuối cùng Dự Trữ Quốc Gia trong cơ chế thị trường hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
DTQG là nguồn dự trữ chiến lược của Nhà Nước nhằm chủ động đáp ứng các nhu cầu về phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh, góp phần ổn định thị trường…và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác của Nhà Nước. Quỹ DTQG được hình thành từ ngân sách Nhà Nước do Quốc hội quyết định. Vì vậy hoạt động DTQG không vì mục đích kinh doanh, không nhằm tạo ra lợi nhuận.
1.1.3. Vai trò của Dự Trữ Quốc Gia mặt hàng lương thực
Lương thực là vấn đề hàng đầu của con người, là mặt hàng thiết yếu nhất, nói cách khác, lương thực được coi là nhu cầu cơ bản số một của toàn xã hội.
Trong đời sống kinh tế xã hội, lương thực như học thuyết Mác đã chỉ rõ là “Điều kiện đầu tiên của mọi việc sản xuất nói chung”. Nó cho thấy lương thực đóng vai trò then chốt, giữ công tác mở đường, thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác trong nền sản xuất xã hội.
Đối với nước ta, lương thực đóng vai trò cực kì quan trọng vì nước ta là một nước nông nghiệp với gần 90% dân số làm nghề nông. Vì vậy lương thực không chỉ đáp ứng nhu về giá trị sử dụng trong đời sống của người dân mà nó còn đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng, sự phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh nói chung. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Muốn nâng cao đời sống nhân dân, thì trước hết phải giải quyết vấn đề ăn (rồi mới đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn thì phải làm thế nào có được đầy đủ lương thực”.
Chính vì tầm quan trọng của lương thực đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo đời sống nhân dân nên hầu hết các nước đều có DTQG mặt hàng lương thực. Lương thực được coi là mặt hàng dự trữ chiến lược, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hóa dự trữ tại cục DTQG.
Bảng 1.2: Tỷ trọng hàng hoá DTQG theo giá trị
Năm
2005
2006
2007
Lương thực
30%
25%
35%
Vật tư cứu hộ cứu nạn
30%
37%
40%
Máy móc thiết bị
40%
38%
25%
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Cục Dự Trữ Quốc Gia
DTQG mặt hàng lương thực là công cụ giúp Nhà Nước đảm bảo được cuộc sống của người dân trước những sự cố bất ngờ, đặc biệt trong điều kiện ngày nay khi mà thiên tai, bão lụt luôn hoành hành, thị trường luôn biến động, dịch bệnh luôn xảy ra. Để cuộc sống của người dân có thể ổn định, không phải chịu cảnh đói ăn mỗi khi có sự cố xảy ra thì dự trữ lương thực là việc làm không thể thiếu được ở mỗi quốc gia.
Mặt khác mặc dù nước ta là một nước nông nghiệp, hàng năm xuất khẩu gạo đứng vào tốp đầu trên thế giới nhưng vấn đề an ninh lương thực vẫn chưa được đảm bảo. Vì vậy DTQG lương thực là cần thiết.
1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến Dự Trữ Quốc Gia mặt hàng lương thực
1.2.1. Những tiêu chuẩn quy định cho mặt hàng lương thực Dự Trữ Quốc Gia
Lương thực DTQG chỉ có thóc và gạo. Vì vậy tiêu chuẩn quy định cho mặt hàng lương thực chính là tiêu chẩn quy định cho thóc và tiêu chuẩn quy định cho gạo.
a) Tiêu chuẩn quy định cho thóc
Căn cứ vào quyết định số 35/2004/QĐ – BTC ngày 14/4/2004, tiêu chuẩn thóc DTQG tuân theo tiêu chuẩn ngành (TCN) 04 – 2004. Theo đó tiêu chuẩn thóc như sau:
Bảng 1.3: Tiêu chuẩn cho thóc Đơn vị: %
Tiêu chí
Tỷ lệ % khối lượng tối đa
Vùng I
Vùng II
Vùng III
Vùng IV
Độ ẩm
13,8
13,5
13,8
15,5
Tạp chất
2,5
2
2
2,5
Hạt vàng
0,2
0,2
0,2
0,2
Hạt không hoàn thiện
7
5
6
7
Hạt hư hỏng
1
1
1
1
Sâu mọt sống (cm/kg)
0
0
0
0
Nguồn: Ban kĩ thuật bảo quản
Giải thích:
- Vùng I (miền núi) gồm: 2 đơn vị DTQGKV Tây Nguyên, Tây Bắc.
- Vùng II (Đồng bằng Bắc Bộ) gồm: 11 đơn vị DTQG khu vực Hà Nội, Hà Sơn Bình, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Hà Bắc, Hải Hưng, Đông Bắc, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh.
- Vùng III (Duyên hải Trung Bộ) gồm: 4 đơn vị DTQG khu vực Bình Trị Thiên, Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Nam Trung Bộ.
- Vùng IV (Đồng bằng Nam Bộ) gồm: 2 đơn vị DTQG khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hậu giang.
Ngoài ra cần thêm 1 số tiêu chuẩn quy định khác như thóc phải đảm bảo không có hạt mốc, màu sắc tự nhiên, mùi: Đặc trưng của thóc, vị: Không có vị lạ, hạt ngắn (tròn) 7 cm.
b) Tiêu chuẩn quy định cho gạo
Gạo DTQG đảm bảo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5644 – 1999. Theo đó tiêu chuẩn quy định cho gạo DTQG như sau:
Loại gạo % khối lượng
Tỷ lệ hạt dài
Thành phần của hạt
Chỉ tiêu chất lượng không lớn hơn, theo % khối lượng
Mức xát
Hạt rất dài L>7 mm
Hạt dài L: 6-7,0 mm
Hạt ngắn L< 6,0 mm
Hạt nguyên
(%)
Tấm
Hạt đỏ
Hạt sọc đỏ + xay xát dối
Hạt vàng
Hạt bạc phấn
Hạt bị hư hỏng
Hạt nếp
Hạt non
Tạp chất
Thóc
(hạt/kg)
Độ ẩm
Kích thước
(mm)
Tấm và tấm nhỏ %
Trong đó tấm nhỏ %
Gạo hạt dài
100% loại A
>=10
<=10
>60
(0,5-0,8)L
<4
<=0,1
0
0,25
0,2
5
0,25
1,5
0
0,05
10
14
Rất kỹ
100% loại B
>=10
<=10
>=60
(0,5-0,8)L
<4,5
<=0,1
0
0,5
0.2
5
0,5
1,5
0
0,05
10
14
Rất kỹ
5%
>=5
<=15
>=60
(0,35-0,75)L
5±2
<=0,2
2
2
5
5
7
7
7
2
2
5
5
7
7
7
0,5
6
1
1,5
0,2
0,1
15
14
Kỹ
10%
>=5
<=15
>=55
(0,35-0,7)L
10±
<=0,3
1
7
1,25
1,5
0,2
0,2
20
14
Kỹ
15%
<30
>=50
(0,35-0,65)L
15±2
<=0,5
0,5
7
1,5
2
0,3
0,2
25
14
Kỹ
20%
<50
>=45
(0,25-0,6)L
20±2
<=1
1,25
7
1,5
2
0,5
0,3
25
14,5
Vừa phải
25%
<50
>=40
(0,25-0,5)L
25±2
<=2
1,5
8
2
2
1,5
0,5
30
14,5
Bình thường
35%
<50
>=32
(0,25-0,5)L
35±2
<=2
2
10
2
2
2
0,5
30
14,5
Bình thường
45%
<50
>=28
(0,25-0,5)L
45±2
<=3
2
10
2,5
2
2
0,5
30
14,5
Bình thường
Gạo hạt ngắn
5%
>75
>=60
(0,35-0,75)L
5±2
<=0,2
0,5
6
1
1,5
0,2
0,1
15
14
Kỹ
10%
>75
>=55
(0,35-0,7)L
10±2
<=0,3
1
7
1,25
1,5
0,2
0,2
20
14
Kỹ
15%
>70
>=50
(0,35-0,65)L
15±2
<=0,5
1,25
7
1,5
2
0,3
0,2
25
14
Vừa phải
20%
>70
>=45
(0,25-0,6)L
20±2
<=1
1,25
7
1,5
2
0,5
0,3
25
14,5
Vừa phải
25%
>70
>=40
(0,25-0,5)L
25±2
<=2
1,5
8
2
2
1,5
0,5
30
14,5
Bình thường
35%
>70
>=32
(0,25-0,5)L
35±2
<<=2
2
10
2
2
2
0,5
30
14,5
Bình thường
45%
>70
>=28
(0,25-0,5)L
45±2
<=3
2
10
2,5
2
2
0,5
30
14,5
Bình thường
Bảng 1.4: Chỉ tiêu chất lượng gạo trắng
Nguồn: Ban kỹ thuật bảo quản
1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến Dự Trữ Quốc Gia mặt hàng lương thực
DTQG mặt hàng lương thực là do quá trình phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế xã hội, có sự quản lý, điều hành của Nhà Nước. Dự trữ lương thực là chiếc van an toàn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, đảm bảo cho quá trình sản xuất xã hội tiến hành được liên tục trong điều kiện bình thường cũng như trong những tình huống bất ngờ xảy ra. Tuy nhiên sự hình thành, duy trì quy mô dự trữ cũng như quản lý hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực phụ thuộc vào nhiều nhân tố) khác nhau. Cụ thể:
a) Các nhân tố thuộc về môi trường chính trị - xã hội
DTQG là dự trữ của một nước. Vì vậy hoạt động DTQG nói chung và dự trữ lương thực nói riêng chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường chính trị - xã hội của chính bản thân nước đó. Chẳng hạn, nếu nền chính trị không ổn định, xung đột chính trị, vũ trang, sắc tộc, tôn giáo thường xuyên xảy ra, khi đó để đảm bảo an ninh quốc gia, đảm bảo đời sống vật chất của người dân trong điều kiện chính trị biến động thì lương thực DTQG phải tăng lên. Ngược lại nếu chính trị ổn định, lượng lương thực không nhất thiết phải dự trữ nhiều, khi đó sẽ gây lãng phí một khoản ngân sách dành cho dự trữ.
Mặt khác quan điểm của Đảng và Nhà Nước trong việc quản lý nền kinh tế, điều hành đất nước cũng ảnh hưởng đến việc hình thành tỷ lệ, quy mô DTQG về lương thực. Cơ chế quản lý kinh tế sẽ ảnh hưởng tới phương thức mua bán, giá cả lương thực nhập - xuất…
Lương thực là thức ăn chủ yếu của con người, do vậy yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động DTQG về lương thực. Quy mô dân số, tỷ lệ gia tăng dân số, xu hướng vận động của dân số ảnh hưởng tới khối lượng, quy mô dự trữ lương thực. Thông thường dân số càng lớn thì quy mô lương thực dự trữ càng lớn. Có như vậy lương thực mới đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thiết yếu cho đời sống dân cư khi có tình huống xấu xảy ra.
b) Các nhân tố thuộc về tiềm lực kinh tế
Nguồn vốn dành cho DTQG 100% từ ngân sách Nhà nước. Lương thực là một mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng DTQG. Do vậy vốn cho lương thực dự trữ cũng hoàn toàn do ngân sách Nhà Nước cấp. Hàng năm Nhà Nước trích một tỷ lệ GDP cho ngân sách. Nếu nền kinh tế phát triển, tốc độ tăng trưởng cao thì khi đó tỷ lệ GDP dành cho DTQG nói chung và dự trữ lương thực nói riêng càng lớn. Ngược lại nếu nền kinh tế tăng trưởng thấp, tiềm lực kinh tế yếu sẽ dẫn tới tỷ lệ GDP cho DTQG thấp. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững, khi đó khủng hoảng kinh tế ít xảy ra hơn thì quy mô lương thực DTQG vừa phải, nếu nền kinh tế phát triển thiếu ổn định đòi hỏi DTQG về lương thực phải cao.
Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông vận tải sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng và bố trí hệ thống kho tàng cũng như việc tập trung hoá cao lương thực DTQG.
c) Các nhân tố thuộc về môi trường tự nhiên
Khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa, do vậy thời tiết và khí hậu nước ta vô cùng đa dạng và phức tạp. Chính sự đa dạng và phức tạp này đã làm nảy sinh những tai hoạ về thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, hạn hán…Ngày nay những tai hoạ này xảy ra với tần xuất ngày càng dày, cường độ lớn, quy mô rộng và ngày càng phức tạp và khó dự báo hơn. Sự biến động phức tạp của môi trường tự nhiên sẽ ảnh hưởng tới quy mô dự trữ lương thực. Chẳng hạn, nếu dự báo năm tới sẽ có nhiều cơn bão đi qua, hạn hán kéo dài…thì lương thực dự trữ phải đủ mạnh để kịp thời ứng phó nhằm khắc phục tốt thiệt hại do thiên tai gây ra.
Không những vậy, môi trường tự nhiên còn là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến công tác bảo quản lương thực DTQG. Nếu thời tiết không thuận lợi (mưa nhiều, độ ẩm cao…) sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sâu mọt phát triển và phá hoại lương thực dự trữ. Điều đó làm ảnh hưởng tới số lượng, chất lượng
cũng như thời gian bảo quản lương thực tại các kho dự trữ.
d) Các nhân tố thuộc về cơ sở vật chất và công nghệ bảo quản
Nói tới cơ sở vật chất ở đây là nói tới hệ thống kho tàng dự trữ lương thực. Quy mô kho, chất lượng kho, sự phân bố của mạng lưới kho sẽ ảnh hưởng tới khối lượng, chất lượng lương thực dự trữ. Nếu không đủ kho, tích lượng kho nhỏ, chất lượng kho không đảm bảo thì không thể đáp ứng được khối lượng lương thực dự trữ. Chất lượng kho sẽ ảnh hưởng tới chất lượng bảo quản lương thực. Nếu chất lượng kho tốt sẽ giảm đáng kể lượng lương thực bị hao hụt, mất mát, hư hỏng…Sự phân bố mạng lưới kho sẽ ảnh hưởng đến hoạt động nhập - xuất lương thực. Mạng lưới kho hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành hoạt động nhập - xuất lương thực.
Công nghệ sẽ ảnh hưởng tới quy trình bảo quản lương thực. Nếu áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến sẽ làm cho thời gian bảo quản lương thực được kéo dài, chất lượng bảo quản lương thực tăng lên, giảm hao hụt, mất mát, giảm chi phí và tăng năng suất lao động. Ngược lại công nghệ lạc hậu, lỗi thời sẽ làm giảm thời gian bảo quản, giảm chất lượng bảo quản đồng thời làm gia tăng chi phí bảo quản.
e) Yếu tố con người
Con người là chủ thể tiến hành hoạt động DTQG. Do vậy con người đóng vai trò quyết định tới hiệu quả hoạt động DTQG.
Thật vậy, nếu người làm công tác DTQG nhận thức đúng đắn về vai trò, chức năng của DTQG, họ là những người có trình độ, ý thức trách nhiệm, khi đó sẽ giúp cho việc tổ chức các nghiệp vụ hoạt động DTQG hiệu quả hơn. Chẳng hạn, nếu người làm công tác nghiên cứu và dự báo nhu cầu lương thực
cần dự trữ có trình độ, kinh nghiệm…thì mức dự trữ lương thực hàng năm sẽ được dự báo một cách khoc học và chính xác hơn.
Xét ở tầm vĩ mô, quan điểm của nhà lãnh đạo đất nước sẽ tác động tới quy mô dự trữ, nguồn vốn cho dự trữ cũng như điều hành hoạt động DTQG về
lương thực.
Như vậy mọi việc thành công hay thất bại đều do con người và tổ chức quyết định. Nếu có một tổ chức phù hợp, công tác tổ chức được quan tâm đúng mức, triển khai thực hiện một cách khoa học, kiểm tra chặt chẽ thì hiệu quả hoạt động DTQG nói chung và hoạt động dự trữ lương thực nói riêng sẽ mang lại hiệu quả cao.
1.3. Nội dung cơ bản của hoạt động Dự Trữ Quốc Gia mặt hàng lương thực
DTQG là hoạt động tất yếu khách quan của mọi nền sản xuất xã hội. DTQG hoạt động nhằm mục đích phòng, ngừa, khắc phục hậu quả do thiên tai, bão lụt, đảm bảo an ninh quốc phòng, an toàn nền kinh tế xã hội. Xuất phát từ mục đích đó nội dung của hoạt động DTQG bao gồm:
1.3.1. Nghiên cứu, phân tích và dự báo xu hướng phát triển của nền kinh tế, sự biến động của tình hình chính trị và xã hội
DTQG là nguồn dự trữ chiến lược của một nước nhằm khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt…Mà thiên tai, bão lụt…luôn xảy ra ngẫu nhiên, bất ngờ và không lường trước được. Do vậy để có đủ lực lượng DTQG nhằm ứng phó kịp thời với mọi tình huống xấu xảy ra thì yêu cầu phải có công tác dự báo là hết sức cần thiết.
Dự báo là báo trước về tình hình có nhiều khả năng xảy ra trong thời gian tới dựa trên những số liệu, những thông tin đã có để tổng kết những gì trong quá khứ, đánh giá hiện tại, dự đoán tương lai nhằm tìm ra quy luật vận động chung của điều kiện tự nhiên, xu hướng biến động chung của nền kinh tế, xã hội.
Để dự báo được xu hướng phát triển của nền kinh tế, sự biến động của tình hình chính trị, xã hội có thể sử dụng đồng thời nhiều phương pháp sau: Phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp phân tích và tính toán, phương pháp tổng hợp..
DTQG là một loại dự trữ bảo hiểm của nền kinh tế. Suy cho cùng mục đích của nó là đảm bảo an ninh quốc gia. Do vậy để hoạt động DTQG đem lại
hiệu quả, nghĩa là đảm bảo một hệ số an toàn, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, không bị bất ngờ trước những sự cố ngẫu nhiên thì đòi hỏi công tác dự báo phải được tổ chức khoa học. Nội dung của công tác này bao gồm:
- Dự báo về tình hình chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự, ngoại giao giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, bao gồm:
+ Các chủ trương, quan điểm, định hướng phát triển kinh tế, xã hội của Nhà Nước.
+ Khả năng xảy ra các xung đột chính trị, vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới.
+ Khả năng tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và thế giới.
- Dự báo về diễn biến của thời tiết và tần suất xảy ra thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán…), tần suất xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế, sự mất ổn định của thị trường.
Như vậy nghiên cứu, phân tích và dự báo xu hướng phát triển của nền kinh tế, sự biến động của tình hình chính trị, xã hội là công tác quan trọng của hoạt động DTQG, nó đòi hỏi phải có sự tham gia phối hợp của nhiều cấp, nhiều ngành nhằm đem lại hiệu quả cho hoạt động DTQG.
1.3.2. Xây dựng chiến lược Dự Trữ Quốc Gia
Hoạt động DTQG chỉ có thể đem lại hiệu quả thật sự khi ngành DTQG có một chiến lược DTQG đúng đắn.
Chiến lược DTQG là định hướng hoạt động DTQG cho một thời kì dài, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và tổng thể các biện pháp để hoạt động DTQG đạt được các mục tiêu đề ra đó là phòng, ngừa, khắc phục các biến cố do thiên tai, khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội gây ra một cách chủ động và có hiệu quả nhất.
Ở cục DTQG, từ năm 2007 trở về trước việc xây dựng chiến lược DTQG là hoàn toàn không có. Chiến lược DTQG bắt đầu được phê duyệt từ đầu năm 2007. Tuy nhiên chiến lược vẫn ở trên giấy tờ, việc triển khai chiến lược vẫn chưa được thực hiện. Nội dung của._. chiến lược DTQG bao gồm:
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động DTQG trong quá khứ, hiện tại và dự báo về tương lai.
- Quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước về phát triển kinh tế xã hội trong thời kì mới, trên cơ sở đó cụ thể hoá vào hoạt động DTQG.
- Xác định các mục tiêu tổng quát và các mục tiêu chủ yếu của thời kì chiến lược. Các mục tiêu này phải được cụ thể hoá trong từng giai đoạn và phải được thực hiện trong các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Xác định quy mô, tỷ lệ dự trữ, cơ cấu hàng hoá DTQG, danh mục các mặt hàng DTQG.
- Các giải pháp để đạt được các mục tiêu chiến lược đã đề ra.
- Các điều kiện để thực hiện chiến lược cũng như khả năng thực hiện chiến lược DTQG.
1.3.3. Lập kế hoạch dự trữ hàng năm
Kế hoạch DTQG là cụ thể hoá của chiến lược DTQG. Kế hoạch DTQG được xây dựng năm năm, hàng năm và được tổng hợp chung vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách hàng năm của Nhà Nước.
Hàng năm căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu DTQG, căn cứ vào những dự báo về tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trong nước và quốc tế… cũng như khả năng của nguồn ngân sách Nhà Nước, ban kế hoạch tổng hợp xây dựng các kế hoạch dự trữ hàng năm. Các kế hoạch đó bao gồm: Kế hoạch nhập - xuất, kế hoạch đấu thầu, kế hoạch luân phiên đổi hàng, kế hoạch mua tăng, giảm hàng, xác định mức tồn kho đầu kì và cuối kì, kế hoạch đầu tư và xây dựng cơ bản, kế hoạch đổi mới công nghệ và kĩ thuật bảo quản…Các kế hoạch này sau khi được lập ra phải trình Chính Phủ phê duyệt.
1.3.4. Tổ chức thực hiện kế hoạch dự trữ đề ra
Các kế hoạch dự trữ của cục DTQG sau khi được Chính Phủ phê duyệt và thông qua được đưa trở lại cục. Cục DTQG là nơi tiến hành triển khai các kế hoạch này.
Tổ chức thực hiện kế hoạch là các bước công việc cần phải làm để biến các kế hoạch đã đề ra thành hiện thực. Vì vậy đây được coi là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình dự trữ.
Cụ thể của việc tổ chức thực hiện các kế hoạch hàng năm đó là các phòng ban chuyên môn quyết định phương thức mua bán, thời gian nhập xuất, luân phiên đổi hàng…để duy trì lực lượng hàng hoá dự trữ đủ mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Để hàng hoá DTQG đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng thì bên cạnh việc nhập xuất hàng hoá, cục còn phải tiến hành thực hiện công tác bảo quản hàng hoá DTQG theo đúng quy trình, quy phạm bảo quản, áp dụng công nghệ mới vào bảo quản. Đồng thời tổ chức chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt công tác bảo vệ, bảo quản hàng hoá DTQG, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch theo từng năm. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà Nước về quản lý hành chính, ngân sách, chế độ báo cáo tài chính…
1.3.5. Tổ chức đánh giá và điều chỉnh chiến lược và kế hoạch cho phù hợp với tình hình cụ thể.
Chiến lược và kế hoạch được lập ra cho thời kì tương lai, mà tương lai thì luôn biến động. Vì vậy để đảm bảo hoạt động DTQG có hiệu quả thì trong quá trình thực hiện đòi hỏi phải thường xuyên đánh giá và điều chỉnh chiến lược và kế hoạch theo từng tình huống cụ thể.
DTQG là nguồn dự trữ chiến lược để phòng, chống và khắc phục hậu quả do thiên tai, bão lụt, ổn định nền kinh tế, đảm bảo quốc phòng an ninh. Để làm được điều đó cục DTQG phải dự báo những tình huống xấu có thể xảy ra trong tương lai để xây dựng chiến lược và kế hoạch dự trữ hợp lý. Tuy nhiên thiên tai, bão lụt, sự bất ổn của nền kinh tế…luôn xảy ra ngẫu nhiên, bất ngờ. Nó có thể xảy ra ít hoặc nhiều hơn dự báo. Vì vậy nó đòi hỏi cục DTQG phải điều chỉnh lực lượng dự trữ một cách phù hợp để kịp thời khắc phục những tình huống đó.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định mọi mặt đời sống người dân thì việc thường xuyên đánh giá và điều chỉnh chiến lược và kế hoạch DTQG đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó góp phần hoàn thiện chiến lược DTQG.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DỰ TRỮ MẶT HÀNG LƯƠNG THỰC TẠI CỤC DỰ TRỮ
QUỐC GIA
2.1. Giới thiệu khái quát về Cục Dự Trữ Quốc Gia
Vài nét chung:
Tên cơ quan: Cục Dự Trữ Quốc Gia.
Ngày thành lập: 7/8/1956 theo Nghị định 997/NĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Cục Trưởng: Đồng chí Lương Hữu Kiểm.
Địa chỉ: 291 - Ngõ 343 - Đội Cấn - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: 080.46465; (04).7625639; (04).7625636; (04).7625651
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của cục Dự Trữ Quốc Gia
Sau năm 1954, hoà bình lặp lại trên miền Bắc, để thống nhất lực lượng dự trữ, đủ sức phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 997/TTg ngày 07/08/1956 thành lập cục Quản lý dự trữ vật tư Nhà Nước trực thuộc Thủ tướng phủ, đây là tổ chức tiền thân của cục DTQG ngày nay.
Năm 1961, để đảm bảo cho việc phục vụ hai nhiệm vụ chính trị: đập tan âm mưu phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, sẵn sàng chi viện cho miền Nam, tổ chức bộ máy cục Quản lý vật tư Nhà Nước đã có những thay đổi quan trọng. Ngày 18/10/1961, Tổng cục vật tư được thành lập trực thuộc Hội Đồng Chính Phủ và cục Quản lý vật tư Nhà Nước được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Tổng Cục vật tư.
Đế quốc Mỹ ngày càng ra sức phá hoại miền Bắc, để thích ứng với tình hình thời chiến đồng thời đảm bảo an toàn tuyệt đối cho hàng hoá dự trữ, phục vụ kịp thời cho sản xuất và chiến đấu, Cục Quản lý vật tư Nhà Nước được tổ chức lại theo hai hướng: Chuyển nhiệm vụ quản lý trực tiếp các mặt hàng dự trữ từ cục sang các bộ chuyên ngành, theo đó cơ quan chuyên quản lý, cung cấp loại vật tư nào thì có nhiệm vụ quản lý, dự trữ Nhà Nước về loại vật tư đó. Mục đích của việc làm này là để tận dụng hệ thống kho tàng, kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của đội ngũ công nhân viên chức.
Bước vào thời kì đổi mới nền kinh tế, từ thực tiễn hoạt động dự trữ trong những năm qua, Nhà Nước ta nhận thấy phương thức quản lý thích hợp của dự trữ Nhà Nước là tập trung thống nhất từ Trung ương đến cơ sở thành một hệ thống dưới sự điều hành trực tiếp của Chính Phủ. Ngày 18/02/1984, Hội đồng Bộ Trưởng ban hành Nghị định 31/HĐBT về việc thành lập cục quản lý dự trữ vật tư Nhà Nước trực thuộc Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ). Trên cơ sở đó Cục Quản lý dự trữ vật tư Nhà Nước thuộc Bộ Vật tư và một bộ phận quản lý dự trữ Nhà Nước của các Bộ, Tổng cục (Bộ lương thực và thực phẩm, Nội thương, Tổng cục bưu điện…) chuyển sang.
Ngày 08/09/1988 Hội đồng Bộ Trưởng có Nghị định số 142/HĐBT đổi tên cục Quản lý dự trữ vật tư Nhà Nước thành cục Dự Trữ Quốc Gia. Ngày 18/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 66/CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cục DTQG. Theo Nghị định này cục DTQG là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động DTQG và trực tiếp quản lý một số mặt hàng DTQG theo sự phân công của Chính Phủ.
Ngày 24/08/2000 Thủ Tướng Chính Phủ có quyết định số 102/QĐ-TTg chuyển cục DTQG về trực thuộc Bộ Tài Chính. Hiện nay cục DTQG đặt tại địa chỉ 291 - Đội Cấn – Ba Đình – Hà Nội.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức củc cục Dự Trữ Quốc Gia
* Cơ cấu tổ chức
Căn cứ vào quyết định số 270/2003/QĐ-TTg về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cục DTQG trực thuộc Bộ Tài Chính.
Căn cứ vào quyết định số 40/2004/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính thì cơ cấu tổ chức của cục có một số thay đổi và hoàn thiện hơn trước, cụ thể:
- Bộ máy giúp việc Cục trưởng cục DTQG gồm:
+ Ban chính sách
+ Ban kế hoạch tổng hợp
+ Ban kỹ thuật và công nghệ bảo quản
+ Ban quản lý kho hàng
+ Ban tài chính kế toán
+ Ban tổ chức cán bộ
+ Văn phòng
Đơn vị sự nghiệp trực thuộc cục: Trung tâm khoa học bảo quản và bồi dưỡng nghiệp vụ.
19 Chi Cục DTQG trước đây chuyển thành 19 tổ chức DTQG khu vực như sau: Hà Nội, Hà Sơn Bình, Tây Bắc, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Hà Bắc, Hải Hưng, Đông Bắc, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Thành phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang.
Cục DTQG có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Cục DTQG có Cục trưởng và các phó Cục trưởng. Cục trưởng cục DTQG do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Cục trưởng cục DTQG phải chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Tài Chính về toàn bộ hoạt động của cục DTQG .
Phó Cục trưởng cục DTQG do Bộ trưởng Bộ Tài Chính bổ nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Cục trưởng và phải chịu trách nhiệm trước Cục trưởng về nhiệm vụ được giao.
Các ban, văn phòng trực thuộc cục DTQG tổ chức làm việc theo chế độ chuyên viên.
Văn phòng cục DTQG được tổ chức phòng công nghệ thông tin.
Điều hành ban, văn phòng là các trưởng ban và các chánh văn phòng. Giúp việc trưởng ban và các chánh văn phòng là các phó trưởng ban và phó chánh văn phòng. Trưởng ban và chánh văn phòng chịu trách nhiệm trước Cục trưởng cục DTQG về nhiệm vụ được giao.
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo của ban, văn phòng được thực hiện theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài Chính.
Biên chế của các ban, văn phòng do Cục trưởng cục DTQG quyết định trong tổng biên chế được giao.
* Nhiệm vụ cụ thể của các phòng, ban
a) Ban chính sách
- Trình Cục trưởng chương trình xây dựng pháp luật hàng năm của cục, tổ chức thực hiện, đôn đốc các đơn vị trực thuộc cục thực hiện chương trình sau khi phê duyệt.
- Nghiên cứu, xây dựng các văn bản pháp luật về quản lý DTQG
- Rà soát, tổng kết tình hình thực hiện các văn bản pháp luật, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung hoặc xây mới cho phù hợp với thực tiễn, tổ chức tuyên truyền giáo dục trong cục.
- Thẩm định về mặt pháp lý đối với dự thảo văn bản pháp luật do các ban khác soạn thảo.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy chế quản lý DTQG đối với các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trực thuộc, đề xuất xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng chương trình cải cách hành chính để trình Cục trưởng và tổ chức hướng dẫn thực hiện chương trình sau khi được phê duyệt.
- Giúp Cục trưởng giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật cũng như các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao cho.
b) Ban Kế hoạch – Tổng hợp
- Nghiên cứu, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, kế hoạch tăng cường DTQG trong từng thời kì và tổ chức triển khai thực hiện
chương trình sau khi được phê duyệt.
- Tổng hợp, xây dựng kế hoạch DTQG 5 năm, hàng năm. Trên cơ sơ kế hoạch được phê duyệt thực hiện phân bổ, giao kế hoạch năm cho các đơn vị trực thuộc cục và hướng dẫn họ thực hiện theo các kế hoạch được giao.
- Chủ trì, phối hợp với các phòng ban, các bộ ngành liên quan để quản lý hàng DTQG, huy động và sử dụng quỹ DTQG hàng năm và trong những trường hợp đột xuất.
- Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về chế độ quản lý tài chính, cơ chế về mua bán, nhập, xuất, đấu thầu DTQG, xác định giá, khung giá mua bán, chi phí nhập, xuất, bảo quản, bảo hiểm hàng hoá.
- Xây dựng, dự toán, phân bổ vốn bổ sung DTQG, thẩm định, tổng hợp, quyết toán việc sử dụng ngân sách Nhà nước cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng DTQG.
- Xây dựng chương trình, dự án, kế hoạch hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, kho để thực hiện công tác bảo quản. Tổ chức thực hiện, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
- Kiểm tra việc thực hiện các quy định về giá, phí đối với các cơ quan, đơn vị quản lý hàng DTQG.
- Thống kê, tổng hợp báo cáo định kì, đột xuất, đánh giá về tình hình quản lý hàng DTQG trong toàn ngành.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
c) Ban kĩ thuật và công nghệ bảo quản
- Xây dựng chiến lược phát triển kĩ thuật và khoa học công nghệ bảo quản hàng DTQG trong từng thời kì và tổ chức thực hiện chương trình sau khi được phê duyệt.
- Xây dựng các kế hoạch bảo quản hàng DTQG, bảo đảm trang thiết bị kĩ thuật, nghiên cứu khoa học và công nghệ bảo quản, tổ chức hướng dẫn việc thực
hiện kế hoạch cho các đơn vị trực thuộc cục.
- Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn kĩ thuật, quy trình, quy
phạm, thời gian bảo quản hàng DTQG.
- Xây dựng định mức kinh tế kĩ thuật trong công tác bảo quản, quản lý hàng DTQG do cục và các bộ ngành trực tiếp quản lý.
- Quản lý công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ bảo quản hàng DTQG, trình Cục trưởng quyết định việc áp dụng kĩ thuật bảo quản tiên tiến vào công tác bảo quản.
- Thẩm định các chương trình nghiên cứu khoa học của cục theo quy định của Nhà nước, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn kĩ thuật, quy trình, thời hạn, thời gian bảo quản.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
d) Ban quản lý kho hàng
- Xây dựng kế hoạch mua, bán, nhập, xuất, kế hoạch luân phiên đổi hàng, điều chuyển nội bộ hàng dự trữ ở các DTQG khu vực.
- Phối hợp với ban kế hoạch- tổng hợp hướng dẫn các DTQG khu vực thực hiện cấp hàng dự trữ để cứu trợ, cứu nạn, cứu hộ, viện trợ quốc tế hoặc cho các mục đích khác theo quyết định của Cục trưởng cục DTQG
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác bảo vệ, phòng chống cháy nổ, bão lụt, bảo đảm an toàn hàng hoá, tài liệu, tài sản, kho tàng DTQG.
- Tổ chức thực hiện đấu thầu, mua bán, nhập xuất tồn kho hàng dự trữ ở các DTQG khu vực theo định kì và đột xuất.
- Thực hiện nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
e) Ban Tài chính - Kế toán
- Tổng hợp, xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm, phân bổ
ngân sách cho các đơn vị trực thuộc cục.
- Trình Cục trưởng nhu cầu mua sắm thiết bị tài sản, trang thiết bị kĩ thuật
vật tư cho toàn cục.
- Thẩm định, duyệt quyết toán nguồn vốn đầu tư, xây dựng đối với các đơn vị trực thuộc cục.
- Tổ chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra ,kiểm soát các đơn vị trực thuộc cục về tình hình quản lý tài chính, kế toán, sử dụng vốn.
- Thực hiện hạch toán, kiểm toán nội bộ, ban hành các thông tri duyệt quyết toán hàng năm cho các đơn vị trực thuộc cục, tổng hợp báo cáo quyết toán.
- Kiểm kê tài sản Nhà nước, vật tư hàng hoá DTQG định kì và đột xuất, theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc sử dụng, trình Cục trưởng quyết định thanh lý tài sản, hàng hoá hư hỏng…
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
f) Ban tổ chức cán bộ
- Xây dựng, nghiên cứu chiến lược, đề án về tổ chức bộ máy, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của cục trong từng thời kì.
- Trình Cục trưởng các dự thảo văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc cục và kiểm tra việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ, quyền hạn đó.
- Xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các chức danh công chức, viên chức, kế hoạch biên chế, tiền lương hàng năm và phân bổ trình Cục trưởng xem xét và tổ chức thực hiện chương trình sau khi được phê duyệt.
- Quy hoạch, bổ nhiệm, miễm nhiệm, kỉ luật, điều động …và giải quyết chính sách nhân lực của cục.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng hàng năm theo tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ, tổ chức, viên chức trình Cục trưởng phê duyệt và thực hiện chương
trình sau khi được phê duyệt.
- Thống kê định kì và đột xuất công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, tiền
lương theo quy định.
- Quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Nhà nước và Bộ Tài Chính, hướng dẫn thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong toàn cục.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
g) Văn phòng
-Xây dựng quy chế làm việc của cục, nội quy cơ quan, chương trình kế hoạch công tác hàng năm, 6 tháng, hàng quý, hàng tháng để trình lãnh đạo cục xem xét và phê duyệt.
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị trực thuộc cục thực hiện công tác , quy chế làm việc của cục.
- Thẩm định các dự thảo văn bản do các đơn vị soạn thảo trước khi trình lãnh đạo cục, tổ chức lưu trữ hồ sơ tài liệu, thực hiện quy định về bảo mật, thủ tục hành chính, công tác văn thư đối với các đơn vị cục.
- Sắp xếp lịch công tác của lãnh đạo cục, chuẩn bị nội dung, tài liệu cần thiết, điều kiện vật chất cho các buổi họp, hội nghị.
- Tổ chức mạng lưới thông tin để phục vụ công tác điều hành, chỉ đạo các hoạt động của cục, xây dựng quy chế, hướng dẫn, chỉ đạo việc sử dụng quản lý mạng tin học.
- Phối hợp với các ban, tổ chức công đoàn để thực hiện các chính sách đãi ngộ vật chất theo quyết định đối với cán bộ công chức thuộc cơ quan cục.
- Xây dựng kế hoạch chương trình hợp tác quốc tế về các lĩnh vực quản lý của cục và tổ chức thực hiện chương trình sau khi được phê duyệt.
- Quản lý tài sản, thiết bị, máy móc cũng như các điều kiện vật chất kĩ thuật cho hoạt động của cơ quan cục.
- Quản lý, phát hành “bản tin DTQG” chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra công tác thi đua, khen thưởng, thông tin tuyên truyền trong toàn cục.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Cục trưởng giao.
* Quyền hạn của các phòng ban
- Yêu cầu các đơn vị trực thuộc và thuộc cục báo cáo tình hình cung cấp, số liệu, tài liệu có liên quan phục vụ cho công tác chuyên môn được giao.
- Được kí các văn bản hướng dẫn, giải thích, tổ chức thực hiện các vấn đề thuộc các lĩnh vực chuyên môn theo sự phân công phân cấp của Cục trưởng ụ và cơ cấu bộ máy của cục DTQG.
2.2. Phân tích thực trạng hoạt động dự trữ lương thực ở Cục Dự Trữ Quốc Gia
2.2.1. Thực trạng nghiên cứu, dự báo vấn đề lương thực của nền kinh tế
DTQG là nguồn dự trữ chiến lược của Nhà Nước nhằm ứng phó với những tình huống xấu xảy ra trong tương lai. Tương lai thì luôn biến động, do vậy để có đủ lương thực nhằm khắc phục những khó khăn đó thì việc nghiên cứu, dự báo vấn đề lương thực của nền kinh tế là một hoạt động quan trọng đối với DTQG. Nghiên cứu và dự báo sẽ là cơ sở để xác định trong năm tới sẽ phải dự trữ bao nhiêu lương thực là đủ, dự trữ ở đâu là hợp lý.
Hiện nay tại cục DTQG phụ trách công tác nghiên cứu và dự báo này do ban Kế hoạch - Tổng hợp đảm nhiệm. Trong quá trình dự báo có phối hợp với một số Bộ, Ngành liên quan và do bộ Kế hoạch và Đầu tư thẩm định trình Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt. Cụ thể công tác này được tiến hành như sau:
Ban Kế hoạch - Tổng hợp tổng kết tình hình thực tế khắc phục hậu quả thiên tai của một số năm trước đó, phối hợp với Trung tâm dự báo thời tiết quốc gia nhằm xác định lượng lương thực cần phải có để đáp ứng nhu cầu khắc phục
hậu quả thiên tai cho năm tới.
Ban Kế hoạch - Tổng hợp phải dự kiến được lượng lương thực sẽ phải xuất ra để viện trợ năm kế hoạch là bao nhiêu. Lương thực DTQG chủ yếu xuất viện trợ cho bốn nước là: Cuba, Lào, Campuchia, Triều Tiên.
Ban Kế hoạch - Tổng hợp phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đánh giá sản lượng lương thực hàng năm nhằm đảm bảo hài hoà giữa lượng lương thực xuất khẩu và lượng lương thực đưa vào DTQG. Việc xác định lượng hàng hoá lương thực phải đảm bảo được tình hình an ninh lương thực quốc gia.
Mục đích của công tác này là xác định được trong năm tới lượng lương thự cần nhập bao nhiêu, xuất cứu trợ, viện trợ là bao nhiêu. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nhập - xuất lương thực cho năm tới cho phù hợp.
Trong những năm qua, hoạt động dự báo đã góp một phần quan trọng vào hiệu quả hoạt động DTQG. Lượng lương thực DTQG xuất cứu đói, cứu trợ đã đáp ứng được 100% nhu cầu khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng của công tác nghiên cứu và dự báo còn chưa cao, thiếu tính hệ thống. Do khả năng ngân sách Nhà Nước có hạn, công tác nghiên cứu và dự báo chưa tính được lượng lương thực tham gia bình ổn thị trường và những tình huống địch hoạ. Vì vậy cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, việc xác định lượng lương thực này cần phải được chú trọng và khắc phục.
2.2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chiến lược và kế hoạch dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia
2.2.2.1. Thực trạng lực lượng cán bộ tại các kho dự trữ lương thực
Đội ngũ cán bộ tại các kho dự trữ lương thực đóng vai trò rất quan trọng đố với hoạt động DTQG mặt hàng lương thực. Họ chính là những cán bộ, nhân viên nhập - xuất, thủ kho bảo quản, kĩ thuật viên, bảo vệ….Nếu không có họ, hoạt động dự trữ lương thực quốc gia không thể tiến hành, lương thực sẽ không được bảo toàn cả về số lượng và chất lượng, không có đủ lương thực để đáp ứng các nhu cầu cần thiết của nền kinh tế và xã hôi.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ tại các kho lương thực, trong những năm qua, cục DTQG luôn quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng này. Quyết định 874 Nghị quyết chuyên đề về công tác cán bộ đã đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng. Cục đã tiến hành phân loại cán bộ, công chức, đánh giá đúng nhu cầu và gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch cán bộ. Các thủ kho bảo quản và đội ngũ nhân viên làm công tác nhập - xuất lương thực được đặc biệt chú trọng. Đến nay, cục đã đào tạo được trên 1.000 thủ kho bảo quản lương thực có trình độ trung cấp, về cơ bản phổ cập trình độ trung cấp kĩ thuật bảo quản cho các đối tượng này. Số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm trên 30%.
Tuy nhiên hiện nay chưa có một đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp và ổn định. Trình độ và năng lực của đội ngũ này còn chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ, còn bất cập và hụt hẫng, đặc biệt là khi áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến. Số lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ, thủ kho…chưa đáp ứng được nhu cầu trước mắt và lâu dài. Tình trạng hụt hẫng giữa các thế hệ cán bộ còn phổ biến, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi, có tầm hoạch định chính sách. Vì vậy trong nhiều trường hợp công tác dự báo tình hình lương thực, việc xây dựng kế hoạch nhập lương thực đã không thể khắc phục được các sự cố xảy ra.
Tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỉ luật của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới, tinh thần thái độ phục vụ chưa cao, tệ quan liêu, tham nhũng vẫn còn mà điển hình là vụ việc xảy ra tại chi cục dự trữ thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. Lợi dụng chủ trương mua lúa dự trữ cho vụ sản xuất đông xuân, phó giám đốc chi cục dự trữ Thành phố Hồ
Chí Minh là Phạm Đình Hùng đã chỉ đạo cho các tổng kho ép nông dân bán 8.000 tấn lúa với giá 1.500- 1.520 đồng/kg thay vì các tổng kho phải mua với giá quy định của cục DTQG là 1.700 – 1.785 đồng/kg. Số tiền chênh lệch là hơn 746,7 triệu đồng được đem chia nhau và sử dụng bất hợp pháp. Ngoài ra còn
một số vụ việc khác như: kê bao trấu vào kho thóc để ăn cắp hàng DTQG, tưới nước vào thóc khi xuất…là những minh chứng cụ thể cho tình trạng trên.
2.2.2.2. Thực trạng nhập - xuất lương thực tại các kho dự trữ lương thực
Nhập - xuất lương thực là một trong những hoạt động quan trọng nhất của DTQG về lương thực. Nó là hoạt động cơ bản nhằm hình thành, bảo tồn và sử dụng đúng đắn quỹ DTQG. Nhờ hoạt động nhập - xuất, các kế hoạch tăng - giảm và luân phiên đổi mới DTQG mới được thực hiện. Trước đây nhập - xuất lương thực được thực hiện theo cơ chế “cho vay đổi hạt” nên còn nhiều sơ hở và tiêu cực. Hiện nay hoạt động này chủ yếu thực hiện theo phương thức mua – bán. Đây là một phương thức tiến bộ. Theo đó mua lương thực được thực hiện theo cơ chế đấu thầu, bán lương thực được tổ chức theo cơ chế đấu giá.
Lương thực là một mặt hàng quan trọng, vì vậy việc quản lý quỹ lương thực DTQG được thực hiện rất chặt chẽ. Việc nhập - xuất lương thực đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc rất nghiêm ngặt. Cụ thể:
- Phải đảm bảo an toàn lực lượng lương thực dự trữ quốc gia, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ được Chính phủ giao, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thúc đẩy sản xuất, ổn định thị trường lương thực.
- Đúng kế hoạch, đúng quyết định của cấp có thẩm quyền: Nhập kho nói chung và xuất luân phiên đổi lương thực được đưa vào kế hoạch hàng năm do Thủ Tướng Chính Phủ xét duyệt tổng số, thủ trưởng cơ quan dự trữ quyết định nhập - xuất cụ thể. Trong nhiều trường hợp không thể dự liệu trước theo kế họach, khi xuất hiện thì thực hiện theo quyết định của các cấp có thẩm quyền. Chẳng hạn xuất để kkhắc phục hậu quả do thiên tai, dịch bệnh, bình ổn thị
trường.
- Đúng chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả, đối tượng, thời gian, địa điểm quy định: Khác với những trao đổi thông thường trên thị trường, lương thực DTQG luôn được xác định trước về khối lượng và chất lượng nên không thể tuỳ tiện thay đổi khi nhập - xuất kho lương thực. Thời gian nhập lương thực
phải được xác định trước, thông thường là vào tháng 5, 6 và tháng 10, 11 khi vào vụ thu hoạch lúa. Xuất lương thực để luân phiên đổi hàng phải theo kế hoạch đã vạch sẵn và căn cứ vào thời gian bảo quản cho mặt hàng lương thực. Thông thường thời gian xuất đổi hàng đối với gạo là 1 năm, thóc là 2 năm.
- Phải có đủ hồ sơ chứng từ theo chế độ quản lý tài chính và quy phạm bảo quản hiện hành: Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu hạch toán, đánh giá kết quả nhập - xuất lương thực. Chứng từ hợp pháp phải được chuẩn bị trước, trong và sau nhập - xuất như: Quyết định nhập, xuất; hợp đồng kinh tế; thủ tục mời thầu, đấu thầu; đấu giá; giấy chứng minh chất lượng lương thực; sổ nhập - xuất; hoá đơn mua bán, biên bản nhập....Thủ tục nhập xuất lương thực DTQG là một dạng thủ tục hành chính. Quyết định cơ chế điều hành quy trình nhập, xuất về thẩm quyền, trình tự, cách thức tiến hành được coi như một nghĩa vụ buộc các chủ thể thực hiện hoặc chủ thể tham gia phải chấp hành.
- Lương thực nhập trước xuất trước. Trong trường hợp cần thiết được quy định tại Điều 19, Điều 20 Pháp lệnh dự trữ quốc gia, lương thực nhập sau xuất trước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ.
- Việc nhập, xuất, mua, bán lương thực dự trữ quốc gia phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng được ký kết giữa Dự trữ quốc gia khu vực với các bên có liên quan.
- Nhập, xuất lương thực dự trữ quốc gia phải được xác định chính xác số lượng tại cửa kho dự trữ quốc gia. Giá mua, bán lương thực dự trữ quốc gia phải được niêm yết công khai; thiết bị đo lường phải được bố trí ở vị trí thuận lợi, để mọi người dễ quan sát, kiểm tra và đối chiếu.
- Cán bộ công chức cơ quan làm nhiệm vụ mua, bán lương thực dự trữ quốc gia không được mua, bán lương thực cho dự trữ quốc gia dưới mọi hình thức.
a) Nhập mua lương thựcDự Trữ Quốc Gia
Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao, quyết định của Thủ tướng Chính phủ về nhập lương thực dự trữ quốc gia, Cục Dự trữ quốc gia phân bổ, giao chỉ tiêu kế hoạch và chỉ đạo Dự trữ quốc gia khu vực triển khai thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Đối với mua lương thực dự trữ quốc gia được thực hiện theo phương thức đấu thầu rộng rãi, tổ chức đấu thầu tại Cục Dự trữ quốc gia hoặc tại Dự trữ quốc gia khu vực theo đúng quy định của Luật đấu thầu. Cụ thể tình hình nhập mua lương thực theo phương thức đấu thầu từ năm 2005 – 2007 như sau:
Bảng 2.1: Tình hình nhập lương thực giai đoạn 2005 – 2007
Đơn vị: Tấn
Năm
2005
2006
2007
Kế hoạch
Thực hiện
Kế hoạch
Thực hiện
Kế hoạch
Thực hiện
Nhập
Thóc
91.000
91.000
89.000
89.000
88.900
69.978
Gạo
20.000
20.000
20.000
20.000
33.850
31.345
Tổng số quy thóc
131.000
131.000
129.000
129.000
159.375
127.500
Nguồn : Ban quản lý kho hàng
Qua bảng trên ta thấy kế hoạch mua thóc dự trữ quốc gia có xu hướng giảm dần theo từng năm. Năm 2006 kế hoạch mua thóc chỉ bằng 97,8% so với năm 2005, năm 2007 kế hoạch mua thóc chỉ bằng 97,6% so với năm 2005.
Ngược lại kế hoạch mua gạo ổn định hơn và có xu hướng mua tăng dần. Năm 2007 kế hoạch mua gạo bằng 169,25% so với năm 2005 và 2006. Sở dĩ nhập thóc có xu hướng giảm dần còn nhập gạo có xu hướng tăng lên là do chiến lược của cục DTQG đó là nâng cao tỷ lệ dự trữ gạo trong tổng cơ cấu dự trữ lương thực nhằm đáp ứng nhanh chóng các sự cố xấu xảy ra.
Mặt khác qua bảng trên ta cũng thấy phần lớn thóc, gạo DTQG được thực hiện theo đúng 100% kế hoạch được giao, chỉ duy nhất có năm 2007 việc nhập thóc chỉ được 78,7% so với kế hoạch, nhập gạo chỉ bằng 92,6% so với kế hoạch. Nguyên nhân là do năm 2007 xảy ra nhiều thiên tai, bão lụt, hạn hán...làm mất mùa dẫn tới sản lượng lương thực của nông dân giảm sút, việc thu mua lương thực gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù phần lớn nhập lương thực được thực hiện theo phương thức đấu thầu, tuy nhiên vẫn có những trường hợp không tổ chức đấu thầu như:
- Mua bổ sung chỉ tiêu dự trữ quốc gia. Trong trường hợp này, Dự trữ quốc gia khu vực được ký bổ sung hợp đồng trực tiếp với nhà thầu đã được lựa chọn thông qua đấu thầu đối với hợp đồng đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong dưới 6 tháng với mức giá được xác định trong hợp đồng để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự.
- Thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ định cụ thể về đối tượng, số lượng, thời hạn nhập, phương thức thanh toán, giá cả.
Dự trữ quốc gia khu vực báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có kho dự trữ quốc gia biết chủ trương, kế hoạch nhập lương thực của Cục Dự trữ quốc gia và tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành ở địa phương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Dự trữ quốc gia khu vực phải chủ động khảo sát tình hình thời vụ thu hoạch; thị trường hàng hoá lương thực, kiểm tra kho tàng, nhân lực, để xây dựng kế hoạch và biện pháp thực hiện
nhiệm vụ nhập lương thực dự trữ quốc gia.
Nhập lương thực dự trữ quốc gia trong các trường hợp khác:
Đối với trường hợp nhập lương thực bồi thường hao hụt quá định mức; dôi kho; điều chuyển nội bộ; viện trợ, Dự trữ quốc gia khu vực thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước về quản lý hàng dự trữ quốc gia và chỉ đạo, hướng dẫn của Cục Dự trữ quốc gia.
* Thủ tục nhập lương thực dự trữ quốc gia:
- Dự trữ quốc gia khu vực thực hiện ký hợp đồng với khách hàng trước khi mua lương thực nhập kho dự trữ quốc gia theo quy định.
- Tổng kho dự trữ nhập lương thực phải thực hiện kiểm nghiệm chất lượng, lập phiếu kiểm nghiệm tại cửa kho dự trữ; có mẫu hàng để đối chiếu trong quá trình nhập lương thực theo đúng tiêu chuẩn chất lượng, quy trình, quy phạm bảo quản hàng dự trữ quốc gia hiện hành. Đối với lương thực nhập dự trữ quốc gia là gạo phải có giấy chứng nhận chất lượng do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định hiện hành của nhà nước. Trường h._.ng thực dự trữ đã tương đối hợp lý hơn. Dự trữ gạo tăng lên chiếm 15% -> 20% trong tổng cơ cấu lương thực dự
trữ, đặc biệt năm 2008 gạo dự trữ quốc gia chiếm tới 32,5%. Mặc dù vậy cơ cấu lương thực DTQG vẫn chưa thực hiện được theo đúng chiến lược DTQG(theo chiến lược dự trữ gạo chiếm 20% -> 40%, thóc chiếm 60% -> 80%).
- Cơ chế mua bán, quản lý tài chính, giá, phí…còn nhiều bất cập, thủ tục còn nhiều rườm rà chưa nhạy bén theo cơ chế thị trường. Ví như quy trình đấu thầu mua gạo, thóc kéo dài hàng tháng, đến khi thực hiện được thì đã bỏ qua thời vụ nên DTQG phải mua lương thực với giá cao.
- Cơ sở vật chất và hệ thống kho tàng bảo quản lương thực đã quá cũ, tích lượng nhỏ và phân tán. Sở dĩ như vậy vì phần lớn chúng được xây dựng trong thời chiến, khi bước vào thời bình và đặc biệt bước sang thời kì đổi mới kho dự trữ chưa được quan tâm đúng mức, chưa có một chiến lược quy hoạch kho tổng thể.
- Công nghệ bảo quản còn lạc hậu, chủ yếu là theo phương pháp truyền thống nên hiệu quả của công tác bảo quản còn chưa cao. Nguyên nhân là do DTQG chưa có sự đầu tư thích đáng vào việc nghiên cứu các công nghệ bảo quản tiên tiến. Hơn nữa trình độ của các cán bộ, nhân viên bảo quản còn thấp, chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới hoạt động DTQG, việc áp dụng công nghệ mới còn gặp nhiều khó khăn.
- Chưa có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, chưa thực hiện được cơ chế khoán trong khâu bảo quản, chưa quy định định mức hao hụt trong bảo quản lương thực. Do vậy chưa khuyến khích được các nhân viên hăng hái làm việc cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc.
Tóm lại: Trong những năm qua hoạt động dự trữ lương thực quốc gia đã đạt
được những thành tựu nhất định. Mặc dù trong quá trình hoạt động lương thực dự trữ quốc gia còn bộc lộ những mặt hạn chế, song lương thực DTQG cũng đã có những đóng góp vô cùng quan trọng vào việc khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra, ổn định thị trường, nền kinh tế và xã hội.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG DỰ TRỮ LƯƠNG THỰC TẠI CỤC DỰ TRỮ QUỐC GIA
3.1. Quan điểm, định hướng đổi mới hoạt động dự trữ lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia
3.1.1. Quan điểm đổi mới hoạt động dự trữ lương thực tại cục
- Hoạt động lương thực dự trữ quốc gia là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững, đảm bảo ổn định chính trị, kinh tế xã hội đất nước có những sự cố bất lợi do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, địch hoạ, thị trường gây ra.
- Quỹ lương thực dự trữ quốc gia được quản lý tập trung, thống nhất dưới sự điều hành của Chính Phủ, Thủ Tướng Chính Phủ. Quỹ này phải đủ khả năng khắc phục những hậu quả bất lợi cho nền kinh tế ở mức quốc gia trong một thời gian nhất định. Tốc độ tăng trung bình của quỹ lương thực phải phù hợp với tăng trưởng kinh tế và khả năng cân đối ngân sách của Nhà Nước.
- Hoạt động dự trữ lương thực quốc gia phải luôn được đổi mới để đáp ứng được đòi hỏi của đất nước trong điều kiện mới đồng thời theo kịp xu hướng tiến bộ của các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.1.2. Mục tiêu
- Mục tiêu dự trữ lương thực quốc gia là sẵn sàng, chủ động đáp ứng yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng an ninh và ổn định nền kinh tế cũng như các nhiệm vụ đột xuất khác của Nhà Nước.
- Xây dựng lương thực dự trữ quốc gia đủ điều kiện và khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, có một lực lượng lương thực dự trữ đủ mạnh, cơ cấu lương thực dự trữ phù hợp: Trong đó gạo dự trữ chiếm từ 20% -> 40%, thóc dự trữ chiếm 60% -> 80% tổng cơ cấu lương thực dự trữ. Có như vậy mới đáp
ứng nhanh nhu cầu cứu trợ, cứu đói.
- Từng bước tăng cường quỹ lương thực dự trữ quốc gia có quy mô phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Đưa tổng mức lương thực dự trữ quốc gia đến năm 2010 tăng gấp 2 lần tổng mức DTQG năm 2005 và đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tổng mức DTQG năm 2010.
- Nâng cao chất lượng công tác bảo quản lương thực dự trữ quốc gia, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, quy trình, quy phạm bảo quản, định mức kinh tế, kĩ thuật, từng bước đổi mới kĩ thuật và đưa các giải pháp công nghệ bảo quản mới vào công tác bảo quản hàng dự trữ lương thực quốc gia.
- Tiếp tục kiện toàn, phát triển tổ chức quản lý dự trữ lương thực quốc gia theo hướng tập trung vào các cơ quan quản lý chuyên trách, chú trọng phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị và năng lực công tác ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
3.1.3. Định hướng đổi mới hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại Dự Trữ Quốc Gia
` - Về mức dự trữ: Mức dự trữ bình quân từ 4-5 kg thóc/người/năm.
- Về công nghệ bảo quản: Nghiên cứu để áp dụng các công nghệ, giải pháp bảo quản hàng dự trữ lương thực quốc gia đạt trình độ tiên tiến của các nước nhằm đảm bảo chất lượng hàng dự trữ, kéo dài thời hạn bảo quản, hạ thấp tỷ lệ hao hụt, nâng cao năng suất lao động và bảo vệ môi trường. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kinh tế - kỹ thuật, phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.
- Về quy hoạch kho: Xây dựng các điểm kho dự trữ lương thực quốc gia đồng bộ, hiện đại, phù hợp với công nghệ bảo quản và quản lý tiên tiến, trên các địa bàn chiến lược của đất nước, thuận lợi cho việc điều hành nhập xuất lương thực DTQG. Hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính cân đối, bố trí ngân sách Nhà nước, để xây dựng và cải tạo nâng cấp hệ
thống kho lương thực dự trữ phù hợp với tình hình thực tế.
- Phát triển công nghệ thông tin phục vụ công tác Dự Trữ Quốc Gia: Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ DTQG thông nhất trong toàn quốc, bảo đảm tin học hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ dự trữ lương thực, bảo đảm cung cấp thông tin dự trữ lương thực quốc gia nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
3.2. Biện pháp để thực hiện tốt hoạt động dự trữ lương thực tại Cục Dự Trữ Quốc Gia
3.2.1. Nâng cao khả năng nghiên cứu, dự báo tình hình lương thực của nền kinh tế
Dự trữ lương thực quốc gia là dự trữ nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cho tương lai khi có sự cố bất ngờ xảy ra. Do vậy công tác nghiên cứu, dự báo tình hình lương thực của nền kinh tế đóng vai trò quan trọng. Có làm tốt công tac này, lương thực dự trữ quốc gia mới có đủ và kịp thời để khắc phục các sự cố đó. Muốn vậy cần:
- Thường xuyên nghiên cứu một cách khoa học và thực tiễn về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, phân tích các nhân tố, xu hướng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sự ảnh hưởng của thiên tai, môi trường…để xác định mức lương thực DTQG hợp lý.
- Áp dụng khoa học kĩ thuật, công nghệ tiên tiến trong công tác nghiên cứu, dự báo nhằm làm cho công tác dự báo được tiến hành một cách nhanh chóng, đem lại hiệu quả cao.
- Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cũng như tinh thần trách nhiệm của các cán bộ làm công tác nghhiên cứu, dự báo.
- Vấn đề nghiên cứu, dự báo chuẩn xác là một việc rất khó khăn và phức tạp. Vì vậy cần phải có sự đầu tư thích đáng, có sự phối hợp của nhiều nhà khoa học, của các Bộ, Ngành, cơ quan liên quan như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng cục lương thực, Trung tâm khí tượng thuỷ văn…Có như vậy
lực lượng lương thực DTQG mới tối ưu, đảm bảo khắc phục được hậu quả do thiên tai, địch hoạ, sự mất cân đối cung cầu gây ra một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất.
3.2.2. Hoàn thiện xây dựng chiến lược và kế hoạch dự trữ lương thực
Chiến lược là định hướng hoạt động cho một thời kì dài và các biện pháp để thực hiện được các mục tiêu đề ra. Chiến lược muốn thực hiện được phải thông qua việc triển khai các kế hoạch. Do vậy để hoạt động dự trữ lương thực quốc gia đem lại hiệu quả cao thì cần phải tổ chức và triển khai dự trữ lương thực quốc gia theo một chiến lược và kế hoạch hợp lý.
Đối với chiến lược lương thực dự trữ quốc gia đã được thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt từ ngày 23/8/2007, cần phải nhanh chóng triển khai và thực hiện trong thực tế. Cần triển khai chiến lựơc đó thành những kế hoạch nhỏ như: kế hoạch tài chính (vốn) chi cho dự trữ lương thực, kế hoạch nhập - xuất lương thực, kế hoạch bảo quản lương thực…
Mục tiêu của dự trữ lương thực quốc gia là khắc phục hậu quả do thiên tai, địch hoạ, bình ổn thị trường…Do vậy lương thực DTQG được coi là tối ưu nếu nó giải quyết tốt những vấn đề đó. Do vậy việc xây dựng chiến lược và kế hoạch dự trữ lương thực phải dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn hoạt động. Nếu dự trữ quá ít thì lương thực DTQG không đủ để đáp ứng nhu cầu giải quyết khó khăn. Mặt khác nếu dự trữ quá nhiều sẽ gây lãng phí ngân sách Nhà Nước. Vì vậy trong quá trình xây dựng chiến lược và kế hoạch dự trữ cần phải xác định mức dự trữ lương thực hợp lý. Muốn vậy chiến lược dự trữ lương thực quốc gia phải tính đến sự biến động trong tương lai của các yếu tố như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, khả năng ngân sách Nhà Nước chi cho dự trữ lương thực, tốc độ tăng dân số, tần suất xảy ra thiên tai, địch hoạ…Sự biến động của các yếu tố này có thể dẫn tới tăng hoặc giảm mức dự trữ lương thực. Mặt khác cần phải xác định cơ cấu lương thực dự trữ quốc gia cho phù hợp. Do yêu cầu thực tế
xuất rất nhiều nên dự trữ bằng thóc sẽ không đáp ứng kịp thời nhu cầu giải quyết khó khăn, vì lẽ đó cần phải tăng cường dự trữ gạo trong cơ cấu lương thực DTQG.
Chiến lược và kế hoạch là xây dựng cho tương lai, mà tương lai thì luôn biến động. Do vậy cần phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh chiến lược và kế hoạch dự trữ lương thực cho phù hợp với tình hình cụ thể trong từng thời kì.
Cục DTQG phải có sự phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan để xây dựng, ban hành hệ thống chính sách, quy chế quản lý hoạt động dự trữ, quản lý tài chính – ngân sách…để tạo điều kiện cho các chi cục, các tổng kho, kho dự trữ phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc thực hiện kế hoạch. Cần khắc phục tệ quan liêu, hành chính hoá trong công tác lập và thực hiện kế hoạch.
3.2.3. Đổi mới cơ chế nhập – xuất lương thực
Phương thức nhập - xuất lương thực hợp lý quyết định thành công của hoạt động nhập - xuất. Vì vậy cần có cơ chế nhập - xuất lương thực hợp lý. Nếu trước đây nhập xuất lương thực được thực hiện theo phương thức “cho vay đổi hạt” với quá nhiều sơ hở và tiêu cực thì hiện nay, khi chuyển sang cơ chế thị trường nhập - xuất lương thực được mua, bán theo cơ chế thị trường, đó chính là phương thức đấu thầu và đấu giá. Cụ thể:
Nhập (mua) thóc, gạo để đổi mới dự trữ hoặc mua để bổ sung dự trữ thì thực hiện mua theo mức giá trần tức là đặt mức giá cao nhất có thể mua vào. Nếu mua để can thiệp thị trường, bình ổn thị trường, bảo vệ lợi ích của người nông dân khi giá thóc, gạo ngoài thị trường quá thấp thì cục DTQG tiến hành mua theo giá sàn tức mức giá thấp nhất có thể mua vào.
Xuất (bán) thóc, gạo DTQG trong trường hợp đổi mới dự trữ, bán giảm dự trữ thì thực hiện theo mức giá sàn, tức đặt mức giá thấp nhất có thể bán. Nếu bán để bình ổn thị trường, ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng khi giá lương thực trên thị trường quá cao thì cục DTQG áp dụng bán theo giá trần tức mức giá cao nhất có thể bán.
Đổi mới cơ chế quản lý giá để phát huy tính chủ động, sáng tạo tại các đơn vị dự trữ cơ sở trong việc thực hiện các kế hoạch mua bán, điều này đặc biệt quan trọng khi việc mua lương thực dự trữ có tính thời vụ và được thực hiện theo phương thức đấu thầu. Bộ Tài Chính cần quy định khung trần giá mua, khung sàn giá bán ngay từ đầu kì kế hoạch, sau đó hướng dẫn các đơn vị cơ sở thực hiện.
Đối với mua lương thực theo phương thức đấu thầu thì cần phải quy định cụ thể thời gian giải quyết các thủ tục từ thành lập hội đồng đấu thầu, mở thầu và mở thầu từ 5 – 7 ngày. Có như vậy việc mua lương thực mới thực hiện đúng được theo kế hoạch và kịp thời vụ, tránh tình trạng đấu thầu kéo dài hàng tháng là bỏ lỡ thời vụ phải mua với giá cao.
Trong quá trình nhập - xuất lương thực phải có văn bản hướng dẫn và tổ chức tập huấn cho cán bộ công chức nắm vững về phương thức nhập - xuất, đối tượng mua bán, các yêu cầu quản lý, chức trách từng người. Người lãnh đạo quản lý phải thường xuyên theo dõi sát diễn biến quá trình nhập xuất để kịp thời có những điều chỉnh tổ chức thực hiện hoặc kiến nghị với cấp trên về giá, phí, đối tượng mua bán… nhằm thực hiện tốt kế hoạch nhập - xuất. Cần chú trọng kiểm tra giám sát cụ thể ngay khi quá trình nhập - xuất đang diễn ra, nhất là ở khâu kiểm tra chất lượng hàng, cân, đo, giao, nhận, ghi chép chứng từ, thanh toán tiền hàng…
3.2.4. Đổi mới việc quy hoạch, bố trí mạng lưới kho dự trữ lương thực
Kho dự trữ lương thực sẽ ảnh hưởng tới công tác bảo quản cũng như hoạt động nhập - xuất lương thực quốc gia. Vì vậy việc quy hoạch, bố trí mạng lưới kho hợp lý sẽ là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực quốc gia. Muốn vậy cần:
Một là: Quy hoạch lại hệ thống kho tàng lương thực DTQG tại các vùng lãnh thổ phù hợp với các vùng kinh tế, với an ninh quốc phòng. Việc phân bố kho lương thực DTQG phải gắn với chiến lược an ninh quốc phòng và phân vùng bão lụt. Đồng thời nó phải đảm bảo tính tập trung nhưng thuận lợi trong quá trình tác nghiệp hoạt động lương thực DTQG. Bố trí mạng lưới kho tập trung ở các vùng trọng điểm như Tây Bắc, Đông Bắc, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ…
Hai là: Trên cơ sở định hướng về tổng mức dự trữ lương thực, cân đối với quỹ kho hiện tại để cố gắng từng bước không áp dụng những kho có tích lượng nhỏ (dưới 3000 tấn) và những kho bố trí không phù hợp với việc thực hiện hoạt động lương thực DTQG. Trong điều kiện định mức đầu tư cho phép, khi xem xét tổ chức hệ thống kho, ngoài việc phải bảo đảm thuận tiện trong quản lý nhập xuất lương thực, đáp ứng kịp thời các nhu cầu nhiệm vụ, việc xây mới cần phải tính tới tích lượng kho. Tích lượng kho phải đủ lớn để có thể từng bước cơ khí hoá, tự động hoá vào công nghệ quản lý và triển khai các công nghệ bảo quản tiên tiến như thông gió, bảo quản khối hạt tự động…
Ba là: Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, hệ thống kho lương thực DTQG, hình thành các khu kho hiện đại với công suất từ 10.000 – 20.000 tấn/điểm kho. Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng hoàn chỉnh hệ thống kho, trang bị thiết bị kĩ thuật hiện đại, đủ điều kiện để thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý hàng DTQG.
Bốn là: Tiến hành thanh lý những điểm kho nhỏ lẻ, xa xôi không còn phù hợp với việc bảo quản, xuất nhập hoặc những điểm kho có tích lượng lớn nhưng đã xuống cấp nghiêm trọng và không cần thiết với nhu cầu dự trữ lương thực của vùng chiến lược.
Năm là: Tổ chức hợp tác quốc tế, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong việc xây dựng hệ thống kho tàng, kinh nghiệm quản lý và
bố trí mạng lưới kho…để vận dụng sáng tạo vào tình hình cụ thể của nước ta.
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác bảo quản lương thực
Công tác bảo quản lương thực sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng lương thực DTQG. Để nâng cao hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực thì việc đầu tư, chú trọng tới chất lượng công tác bảo quản là việc làm vô cùng quan trọng. Để làm được điều đó cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:
Thường xuyên nghiên cứu, triển khai áp dụng công nghệ tiên tiến vào trong khâu bảo quản. Áp dụng các biện pháp tổng hợp bao gồm các yếu tố vật lý, sinh học, hoá học, chính sách để tăng cường hiệu quả bảo quản, giảm tối thiểu độc hại cho con người và môi trường sinh thái.
Tối ưu hoá các điều kiện bảo quản cho mỗi vùng sinh thái, hiện đại hoá phương tiện, công cụ, kĩ thuật bảo quản nhằm giảm chi phí bảo quản, giảm tỷ lệ hao hụt thóc, gạo, tăng thời gian lưu kho lương thực. Cụ thể:
* Đối với thóc:
- Lựa chọn vật liệu có tính ưu việt hơn các biện pháp truyền thống cũ thay thế cho kê lót kho chứa, tăng cường khả năng chống ẩm và thoát nhiệt. Trong các loại vật liệu nên tìm hiểu khả năng sử dụng ván công nghiệp, vật liệu compsit kết hợp với các giải pháp tạo kết cấu chống ẩm và bức xạ cho kho chứa thóc.
- Đẩy mạnh việc thử nghiệm áp dụng biện pháp thông gió cưỡng bức bằng cách đặt hệ thống thông gió cố định cho kho chứa lương thực theo công nghệ bảo quản thoáng có điều tiết khí hậu.
- Áp dụng công nghệ bảo quản kín, đặc biệt bảo quản kín trong các kho kết cấu bao che đủ kín, kết hợp với việc sử dụng các vật liệu gắn kín để áp dụng bảo quản thóc trong môi trường khí hiếm.
- Chọn lựa và thí nghiệm tính khả thi của công nghệ sấy hạt áp dụng trong điều kiện cần thiết. Đặc biệt đối với miền núi và đồng bằng Nam Bộ nên
thử nghiệm công nghệ bảo quản mát.
- Chọn lựa và áp dụng các thiết bị vận chuyển và đảo hạt cỡ nhỏ (bằng khí động học) áp dụng cho các kho hiện đại và đầu tư đồng bộ cho kho mới.
* Đối với gạo:
- Hoàn thiện công nghệ bảo quản gạo trong lô hàng kín có bổ xung khí trơ, trước mắt sử dụng khí CO2, dần xen kẽ hỗn hợp khí N2, CO2 khắc phục nhược điểm của công đoạn nạp khí CO2.
- Nghiên cứu áp dụng công nghệ bảo quản gạo trong môi trường yếm khí (hút chân không cho vừa đủ) với các lô gạo lớn có độ dày màng phủ thích hợp.
- Bổ sung các biện pháp chọn vật liệu tạo kín cho lô hàng gạo, ngoài việc sử dụng màng PVC, chú trọng tới việc tạo màng PP, HDPE, PE.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, áp dụng biện pháp bảo quản gạo trong môi trường chân không bằng cách sử dụng công ten nơ cỡ nhỡ và cỡ lớn chế tạo từ vật liệu cao phân tử. Đây là hướng thích hợp áp dụng cho công nghệ bảo quản gạo ở miền núi, đồng bằng Nam Bộ là nơi thường có nhiệt độ ẩm không khí cao và hay xảy ra thiên tai, bão lụt, gió xoáy.
- Từng bước áp dụng giải pháp cơ giới hoá khâu chất xếp trong bảo quản gạo bằng cách sử dụng thiết bị vận chuyển nâng hạ di động nhằm làm giảm chi phí bốc dỡ khi nhập xuất lương thực.
Để bảo quản lương thực được tốt cần đẩy manh áp dụng các giải pháp phòng trừ đối với sinh vật gây hại như:
- Xây dựng phương án phòng trừ tổng hợp theo phương thức liên hiệp: Nguồn nguyên liệu – Kho chứa – Các giải pháp đề phòng từ xa đối với sự phá hoại của côn trùng gây hại.
- Thử nghiệm và áp dụng các biện pháp kết hợp giữa việc sử dụng thuốc xông hơi với khí trong trừ dịch hại.
- Áp dụng phương pháp xử lý côn trùng bằng cách tạo biến đổi áp suất đột
ngột trong các kho kín.
- Đẩy mạnh việc áp dụng các thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc và biện
pháp phối hợp giữa phòng ngừa lan truyền và dập tắt ổ dịch hại.
Áp dụng các công nghệ, quy trình, quy phạm bảo quản tiên tiến để giảm chi phí, hạ thấp tỷ lệ hao hụt.
Thực hiện cơ chế bảo toàn vốn, khoán hao hụt trong thời gian lưu kho để nâng cao trách nhiệm bảo quản đối với các thủ kho. Nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ, nhân viên bảo quản. Thường xuyên mở các lớp huấn luyện, đào tạo đội ngũ nhân viên bảo quản để họ biết cách sử dụng các trang thiết bị hiện đại, biết áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến.
Xây dựng cơ chế tổ chức kết hợp giữa các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành trong và ngoài nước với các cơ quan trong ngành DTQG như trung tâm khoa học công nghệ bảo quản và các chi cục dự trữ để triển khai các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ bảo quản DTQG.
3.2.6. Đổi mới và nâng cao công tác tổ chức, quản lý lực lượng cán bộ tại các kho dự trữ lương thực
Đội ngũ cán bộ, nhân viên tại các kho dự trữ lương thực đóng vai trò quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực quốc gia. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực quốc gia vấn đề đặt ra là phải đổi mới, nâng cao công tác tổ chức và quản lý lực lượng này. Cụ thể:
- Các cán bộ công chức của cục được tuyển dụng phải qua phương thức thi tuyển chứ không phải qua phương thức xét tuyển như trước đây. Mục đích là nhằm tuyển được đội ngũ nhân viên có đủ trình độ chuyên môn phù hợp và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Tiến hành phân loại cán bộ, công chức, đánh giá đúng nhu cầu và gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch cán bộ. Hàng năm, phải xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức theo đối tượng, trên cơ sở đó
xác định nội dung chương trình đào tạo cho phù hợp.
+ Đối với công chức chuyên môn: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhập kiến thức, kết hợp việc tổ chức các hình thức bồi dưỡng chuyên sâu để phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia.
+ Đối với các thủ kho bảo quản: Cần phải chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới đặc biệt là việc sử dụng các trang thiết bị hiện đại, các công nghệ bảo quản mới.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý: Cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức kinh tế, pháp luật trong quúa trình hội nhập, kết hợp cập nhật kiến thức với tổ chức các khoá huấn luyện chuyên sâu về kĩ năng hoạch định chính sách.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động quản lý nhằm đạt hiệu quả quản lý cao nhất.
Tóm lại: Thực hiện được tốt các biện pháp trên, hoạt động dự trữ lương thực mới đem lại hiệu quả cao, lương thực DTQG mới thật sự đủ mạnh để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
3.3. Những điều kiện để thực hiện tốt các giải pháp trên
3.3.1. Về phía Nhà nước
Quản lý của Nhà Nước đối với hoạt động dự trữ lương thực quốc gia trong cơ chế thị trường là một nội dung quan trọng không thể thiếu. Nếu quản lý tốt, lương thực DTQG sẽ đủ mạnh, tập trung, thống nhất dưới sự quản lý, điều hành của Chính Phủ để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, giải quyết tốt các nhu cầu đột xuất của xã hội, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế một cách có hiệu quả. Vì vậy hoạt động dự trữ quốc gia phải được chú ý quản lý chặt chẽ từ phía Nhà Nước.
Hoạt động DTQG nói chung và hoạt động dự trữ lương thực quốc gia nói
riêng luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà Nước. Trong những năm qua hệ thống văn bản pháp luật đã đưa hoạt động DTQG vào trật tự, kỷ cương và đúng pháp luật. Tuy nhiên hiện nay hệ thống văn bản này
vẫn chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, các văn bản chỉ là văn bản dưới luật nên không đáp ứng kịp thời hoạt động dự trữ lương thực quốc gia trong điều kiện mới. Vì vậy để hoạt động dự trữ lương thực quốc gia ngày càng đạt hiệu quả cao thì về phía Nhà Nước cần:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dự trữ lương thực quốc gia phù hợp với yêu cầu và điều kiện của tình hình mới.
- Cần ban hành hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, đảm bảo môi trường pháp lý an toàn và ổn định cho hoạt động dự trữ lương thực quốc gia.
- Trên cơ sở pháp lệnh DTQG ban hành năm 2004, cần tiến tới xây dựng, ban hành luật DTQG.
-Thường xuyên điều chỉnh, bổ sung cũng như ban hành các Nghị Định, Nghị Quyết về quản lý lương thực quốc gia cho phù hợp với tình hình mới. Chẳng hạn cần ban hành các văn bản về chế độ quản lý tài chính, khung giá, mức giá, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kĩ thuật…Nội dung các Nghị định, Nghị quyết này phải rõ ràng, xác định được rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình xây dựng, tổ chức quản lý và điều hành hoạt động dự trữ lương thực quốc gia.
- Thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra quá trình thực hiện hoạt động dự trữ lương thực quốc gia. Đồng thời phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, cơ chế khoán và khen thưởng đối với các chi cục, đơn vị có thành tích tốt trong hoạt động DTQG về lương thực cũng như sự sáng tạo của các cán bộ, công nhân viên. Song song với việc tổ chức khen thưởng cũng cần xử ý nghiêm minh những trường hợp vi phạm trong hoạt động dự trữ lương thực quốc gia như các tệ tham ô, tham nhũng…
Ngoài ra Nhà Nước cần phải có sự đầu tư thích đáng ngân sách Nhà Nước vào hoạt động dự trữ lương thực quốc gia. Ngân sách Nhà Nước chi cho dự trữ lương thực quốc gia phải được tích luỹ ngày một tăng theo kế hoạch, theo
kịp đường lối phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Có như vậy quỹ dự trữ lương thực quốc gia mới đủ mạnh để đáp ứng kịp thời các nhu cầu của nền kinh tế - chính trị - xã hội.
3.3.2. Về phía Bộ Tài Chính và các Bộ, Ngành có liên quan
Với Quyết định số 102/TTg ngày 24/08/2000, cục DTQG được chuyển về trực thuộc Bộ Tài Chính. Theo đó Bộ Tài Chính là cơ quan trực tiếp quản lý hầu hết mọi hoạt động dự trữ tại cục DTQG. Vì vậy để hoạt động dự trữ quốc gia về lương thực đạt hiệu quả về phía Bộ Tài Chính cần:
- Quan tâm nhằm tạo điều kiện hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý cục DTQG.
- Bộ Tài Chính căn cứ vào chiến lược dự trữ lương thực quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chủ trì, phối hợp với với các Bộ, Ngành khác tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao. Đồng thời tổng hợp dự toán ngân sách Nhà Nước chi cho dự trữ lương thực quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Bộ Tài Chính phải tạo điều kiện về kinh phí cho việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, hệ thống kho tàng, công nghệ bảo quản lương thực, cần ưu tiên vốn cho việc xây dựng các kho hiện đại, đầu tư để áp dụng công nghệ tiên tiến trong quản lý và bảo quản lương thực, cần có lộ trình phù hợp với tiến trình đổi mới lương thực DTQG.
- Tạo điều kiện về kinh phí và cơ chế cho việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, nghiên cứu dự báo, nhân viên, các thủ kho bảo quản…
- Xây dựng cơ chế, chế độ kiểm tra, thanh tra định kì, thường xuyên và
đột xuất đối với việc nhập - xuất lương thực, bảo quản lương thực…để nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức cũng như hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực.
Để hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực quốc gia là tối ưu, ngoài Bộ Tài Chính chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp thì cần phải có sự phối hợp của các Bộ, Ngành có liên quan:
* Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Đây là cơ quan cung cấp các thông tin về chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, dự báo tốc độ phát triển của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP, các cân đối chủ yếu của nền kinh tế… trên cơ sở đó xác định tổng mức lương thực DTQG, tổng mức tăng ngân sách Nhà Nước dành cho lương thực DTQG, phương án bổ sung nguồn vốn cho lương thực…
* Bộ Thương mại: Cung cấp cho cục DTQG các thông tin về tình hình mua - bán, nhập - xuất lương thực trên thị trường như giá, phí; các thông tin về quan hệ thương mại quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế…Từ nguồn thông tin đó để cục DTQG ra các quyết định nhập - xuất, đổi mới hàng dự trữ, xuất bình ổn thị trường…một cách chính xác.
* Tổng cục thống kê: Cung cấp các số liệu tổng hợp thống kê về tình hình mưa bão, lụt lội, hạn hán, thống kê về các cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội…trong những năm qua. Đây là nguồn thông tin hết sức cần thiết, nó là cơ sở để các cán bộ nghiên cứu, dự báo chính xác tình hình để hoạch định và đề ra các kế hoạch dự trữ lương thực hợp lý.
* Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cung cấp thông tin về tình hình thu hoạch lúa làm cơ sở cho việc lên kế hoạch thu mua lương thực.
*Bộ Giao thông vận tải: cung cấp thông tin về mạng lưới bố trí kho tàng bảo quản lương thực DTQG.
KẾT LUẬN
Chuyên đề thực tập với đề tài “Hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực tại cục Dự Trữ Quốc Gia ” đã tập trung nghiên cứu được những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động dự trữ mặt hàng lương thực, phân tích được thực tiễn hoạt động dự trữ lương thực tại quốc gia trong thời gian qua, trên cơ sở đó đã đưa ra được một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động dự trữ lương thực quốc gia. Những nội dung cụ thể mà chuyên đề đã làm được là:
Thứ nhất: Chuyên đề đã hệ thống được những vấn đề lý luận cơ bản về DTQG bao gồm: Sự cần thiết phải có DTQG, đặc điểm DTQG, làm rõ được những nội dung cơ bản của hoạt động DTQG mặt hàng lương thực, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến dự trữ lương thực quốc gia.
Thứ hai: Chuyên đề đã phân tích được thực trạng hoạt động dự trữ lương thực quốc gia trong thời gian qua bao gồm thực trạng nghiên cứu, dự báo vấn đề lương thực của nền kinh tế, thực trạng thực hiện các kế hoạch nhập - xuất lương thực quốc gia, thực trạng cơ cở vật chất kĩ thuật và công nghệ bảo quản, tình hình đội ngũ cán bộ công nhân viên tại các kho dự trữ lương thực cũng như công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện hoạt động dự trữ lương thực quốc gia.
Thứ ba: Trên cơ sở phân tích thực trạng, chuyên đề đã đánh giá được những thành tựu của hoạt động dự trữ lương thực quốc gia trong quá trình đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế xã hội, khắc phục các biến cố xảy ra và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời chuyên đề cũng đã chỉ ra được những mặt hạn chế trong việc thực hiện hoạt động dự trữ lương thực và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
Cuối cùng, từ việc đánh giá thành tựu, hạn chế và tìm ra nguyên nhân của chúng, chuyên đề đã chỉ ra được phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động dự trữ lương thực quốc gia trong thời gian tới.
Hoạt động dự trữ lương thực quốc gia là một vấn đề khoa học hết sức phức tạp, một lĩnh vực thuộc bí mật của Nhà Nước. Do vậy việc phân tích thực trạng dự trữ lương thực còn vấp phải một số khó khăn trong việc dẫn số liệu chứng minh. Hơn nữa do thời gian và khả năng có hạn, mặc dù đã hết sức cố gắng và được bác Nguyễn Ngọc Long chỉ dẫn nhưng chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em mong nhận được sự góp ý của thầy giáo để em hoàn thiện chuyên đề được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài Chính: Quy phạm bảo quản thóc, gạo DTQG. Quyết định 39/2004/QĐ-BTC
Bộ Tài Chính: Định mức hao hụt thóc bảo quản DTQG, Quyết định số 03/2007/QĐ – BTC - Hà Nội 2007
Bộ Tài Chính: Tiêu chuẩn ngành TCN 04 : 2004 – Thóc DTQG, TCVN 5644 – 1999 - Gạo DTQG.
Báo cáo: Quản lý kĩ thuật và công nghệ bảo quản lương thực quốc gia 5 năm 2000 - 2005
Chính phủ (1996), Nghị định 10/CP, Quy chế quản lý DTQG
Cục DTQG (2006), năm mươi năm xây dựng và phát triển cục DTQG, nxb Hà Nội.
Cục DTQG, báo cáo tổng kết công tác hoạt động DTQG từ năm 2002 – 2006
Internet
PGS.TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc, Giáo trình Quản trị kinh doanh Thương Mại (tập 1), nxb Lao động – xã hội.
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 139/2007/QĐ- TTg về chiến lực phát triển DTQG đến năm 2010, định hướng 2020.
Uỷ ban quốc gia về an ninh lương thực (1998), chương trình an ninh lương thực quốc gia đến năm 2006
Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh DTQG.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20466.doc