Tài liệu Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh huyện Vụ Bản: ... Ebook Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh huyện Vụ Bản
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Chi nhánh huyện Vụ Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trên đà phát triển với hơn 80% dân số sản xuất nông nghiệp, thu nhập hàng năm chiếm 30% thu nhập quốc dân.Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và đề ra các chủ chương, chính sách đúng đắn. Nhờ đó nông nghiệp nước ta đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đã có sự phát triển mạnh mẽ và thu được những thắng lợi đáng khích lệ đó là: Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ quan trọng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.Tuy nhiên đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro lớn. Việc nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư cho vay luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn( NHNo&PTNT hoăc NHNo ) Việt Nam đã xác định “ Mở rộng tín dụng phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng tín dụng. Coi chất lượng tín dụng là sự nghiệp sống còn đối với NHNo&PTNT Việt Nam”.
Vụ Bản là huyện nông nghiệp năm 2006 có 10101 ha đất nông nghiệp, dân số toàn huyện là : 125.019 người, trong đó hộ sản xuất nông nghiệp chiếm 84,72% tổng số hộ. Thực tế này khẳng định: Địa bàn nông nghiệp, nông thôn huyện Vụ Bản là thị trường chính và đáng tin cậy của NHNo&PTNT huyện Vụ Bản.
Hoạt động tín dụng của NHNo huyện Vụ Bản trong những năm vừa qua đang được mở rộng và phát triển đã ảnh hưởng lớn đến việc kinh doanh của ngành và phát triển kinh tế của địa phương nói chung, nhất là lĩnh vực kinh tế hộ nói riêng. Đồng thời nhận thức được vai trò của công tác đầu tư cho vay hộ sản xuất đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, NHNo&PTNT huyện Vụ Bản đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác này. Tuy nhiên công tác đầu tư cho vay hộ sản xuất vẫn đang còn gặp nhiều tồn tại cần được quan tâm, khắc phục, nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn để phát triển, mở rộng mạnh cả tín dụng về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu vốn cho chương trình phát triển kinh tế huyện nhà.
Từ nhận thức trên, và qua thời gian thực tập tại NHNo & PTNT huyện Vụ Bản, Em chọn đề tài nghiên cứu "Hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản" để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình, với mục đích đưa ra một số giải pháp góp ý để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tổng hợp, hệ thống hoá các vấn đề cơ bản thuộc lý luận về hộ sản xuất, về hoạt động cho vay hộ sản xuất. Nhằm xem xét đánh giá thực trạng vấn đề đầu tư vào hoạt động cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT huyện Vụ Bản trong những năm qua từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho vay hộ sản xuất nói chung và cho vay hộ sản xuất ở Vụ Bản nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với tính chất của vấn đề nghiên cứu nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề thực tiễn cụ thể trong đầu tư vào hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất ở chi nhánh NHNo & PTNT huyện Vụ Bản trong 3 năm ( 2005 - 2006 – 2007)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh đánh giá.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
5. Nội dung khái quát của chuyên đề
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất của NHNo & PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản- Nam Định
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Vụ bản – Nam định.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
Khái niệm hộ sản xuất (HSX)
1.1.1. Các khái niêm
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: Hộ sản xuất là tất cả những người cùng sống chung trong mái nhà, nhóm người đó bao gồm những người cùng huyết tộc và cùng sản xuất,
Theo các nhà kinh tế học Việt Nam: Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh.
Theo điều 106 Bộ luât dân sự khẳng định: “ Hộ sản xuất mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này “.
Như vậy hộ sản xuất là một chủ thể trong nền kinh tế quốc dân. Hộ sản xuất có quyền tự chủ trong việc hạch toán kinh doanh, tự xây dựng phương án sản xuất và tổ chức sản xuất. Hoạt động kinh tế của hộ sản xuất chủ yếu trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực kinh tế khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ sản xuất đã và đang phát triển, tạo ra những thay đổi lớn trong bộ mặt ở nông thôn Việt Nam.
Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp được tổ chức lại để hình thành mô hình sản xuất mới thích ứng với cơ chế thị trường thì kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp vẫn được coi là hình thức kinh tế có sức cuốn hút to lớn để tạo điều kiện mới cho sản xuất phát triển. Bởi sản xuất hàng hóa đòi hỏi các hộ sản xuất cũng phải cạnh tranh với nhau. Do đó họ phải tìm mọi biên pháp tiết kiệm chi phí để hạ giá thành, đa dạng hóa sản phẩm, tăng năng suất lao động để có lợi nhuận ngày càng tăng trong các hộ sản xuất.
Trong những năm gần đây, hộ sản xuất chẳng những vừa là người sản xuất và cung cấp sản phẩm hành hóa cho thị trường mà còn vừa là người tiêu dùng đông đảo nhất đối với các mặt hàng trên thị trường do ngành kinh tế khác sản xuất ra. Vì thế hộ sản xuất là yếu tố quyết định sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường.
Trên góc độ ngân hàng hộ sản xuất là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ sản xuất gia đình để làm kinh tế chung của hộ. Theo văn bản 499A/NHNo-1993 của Tổng Giám Đốc NHNo&PTNT Việt Nam thì “ Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh” để có cơ sở xây dựng chính sách tin dụng cho phù hợp với từng loại hộ, từ đó đầu tư vốn có hiệu quả.
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Có quan điểm cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế chung. Quá trình sản xuất của hộ được tiến hành một cách độc lập và điều quan trọng là các thành viên của hộ có cùng huyết thống, thường cùng chung sống trong một ngôi nhà, có sinh hoạt chung với nhau. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được hiểu là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh.
Kinh tế hộ sản xuất là hình thức kinh tế chủ yếu của Việt Nam. Do đặc điểm của nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, vì thế hoạt động kinh tế hộ sản xuất phần lớn được thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp. Quá trình hình thành và phát triển của hộ sản xuất bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của kinh tế hộ gia đình, hộ nông dân nên nhiều khi kinh tế hộ sản xuất được hiểu như kinh tế hộ gia đình sản xuất nông nghiệp.
1.1.2. Phân loại hộ sản xuất
Nhìn chung có nhiều cách đánh giá và phân loại hộ khác nhau như :
- Theo tiêu trí thu nhập bình quân trên đầu người hàng tháng, hàng năm thì có: Hộ đói, hộ nghèo, hộ trung bình, hộ khá và hộ giàu.
- Theo tính chất của sản xuất kinh doanh thì có: Hộ sản xuất nông nghiệp, hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hộ ngư nghiệp, hộ sản xuất diêm nghiệp, hộ làm dịch vụ, hộ buôn bán nhỏ…
- Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh thì có thể phân loại hộ sản xuất thành 3 loại:
+ Loại thứ nhất: Là loại hộ sản xuất hàng hoá hoặc kinh doanh theo luật định. Loại hộ này có vốn, có kỹ năng lao động, biết tiếp cận môi trường kinh doanh, biết tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật… Nhưng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư cải tiến đổi mới công nghệ… nói chung là do yêu cầu của việc mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu. Đối với loại hộ này thì việc ngân hàng cho vay để bổ xung phần vốn thiếu, tạo điều kiện cho hộ mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm sản phẩm hàng hoá cho xã hội, đồng thời góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là việc cần thiết, đúng hướng và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
+Loại thứ hai: Là loại hộ sản xuất có tính chất tự cung, tự cấp hoặc buôn bán nhỏ. Loại hộ này có sức lao động, chịu khó lao động. Họ khao khát vươn lên làm giàu nhưng do thiếu nhiều điều kiện: Như do thiếu tư liệu sản xuất, ít được tiếp xúc với khoa học kỹ thuật tiên tiến, lại cư trú ở những nơi môi trường kinh doanh chưa phát triển, ít có giao lưu kinh tế… Và một trong những điều kiện cơ bản là họ thiếu vốn để sản xuất. Loại hộ này chiếm đa số trong nông thôn hiện nay thì việc đầu tư vốn của ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng khác trong nước và quốc tế để giúp họ có điều kiện tăng năng xuất lao động, mở rộng ngành nghề, tăng thu nhập… là việc làm không thể thiếu giúp họ có cơ hội ổn định cuộc sống và dần dần vươn lên, sản xuất có dư thừa sản phẩm để bán (sản xuất hàng hoá).
+ Loại thứ ba: Là loại hộ không có sức lao động do ốm đau, bệnh tật kinh niên, tuổi cao sức yếu, không còn khả năng lao động do hậu quả của chiến tranh. Đối với loại hộ này giải quyết bằng các chính sách cứu tế, trợ cấp xã hội của ngân sách Nhà nước và các quỹ từ thiện của cộng đồng…là thuộc trách nhiệm của Nhà nước và cộng đồng. Xã hội không những giúp họ về vật chất mà còn động viên cả tinh thần để họ có cuộc sống hoà nhập cộng đồng.
Đặc điểm kinh tế hộ sản xuất
Hộ sản xuất Việt Nam giữ vị trí quan trong trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Đặc điểm của hộ sản xuất Việt Nam là gắn bó, có tính chất truyền thống cả 2 mặt vật chất và tinh thần, có quyền lợi cùng hưởng có khó khăn cùng chịu. Sản xuất của hộ nông dân Việt Nam sau bao năm chiến tranh không phát triển được, vẫn còn là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, năng xuất lao động thấp, sản xuất còn lệ thuộc vào thiên nhiên nhiều. Việc chế biến sản phẩm và phát triển các ngành nghề phụ còn yếu.
Ở nước ta do đặc điểm tự nhiên của từng vùng, từng miền nên tập quán sinh hoạt, công tác, cách thức tổ chức sản xuất của các hộ gia đình cũng rất đa dạng, phong phú. Song dù ở vùng nào, miền nào thì tựu chung lại kinh tế của hộ sản xuất cũng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Chủ hộ là người lao động trực tiếp, làm việc hoàn toàn tự giác và có trách nhiệm cao.
- Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với các ngành khác, vì đối tượng của sản xuất là cây, con, sinh trưởng và phát triển theo một chu kỳ nhất định và thường là thời gian khá dài.
- Sản xuất mang tính thời vụ là chủ yếu xong cùng một lúc có thể sản xuất, nuôi trồng nhiều loại cây, con khác nhau tiến hành làm các ngành nghề khác nhau vì chu kỳ sinh trưởng và phát triển của từng loại cây, con khác nhau, chu kỳ kinh doanh các ngành nghề không giống nhau, vì thế chi phí phải bỏ ra thường là không cao lắm và dàn trải tương đối đều trong năm, đồng thời cũng có thu nhập đều trong năm. Đây cũng là đặc điểm quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển đa dạng.
- Trình độ sản xuất của các hộ chủ yếu là thủ công (máy móc tuy đã có xong ít và đơn giản) trình độ tổ chức sản xuất nói chung ở mức độ chưa cao, phạm vi chưa rộng, người lao động làm việc theo tính chất truyền thống là chính, thái độ lao động bị chi phối bởi tình cảm, đạo đức, phong tục, tập quán của địa phương…
- Sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu. Người sản xuất trong ngành nông nghiệp chưa thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Mặt khác mặc dù sản phẩm nông nghiệp là tối cần thiết cho cuộc sống con người. Song con người không thể tiêu thụ nó nhiều hơn mức mà sức khoẻ, sinh lý cho phép. Do vậy khi sản phẩm xuất hiện nhiều trên thị trường thì giá cả hạ rất nhanh, khi thiếu hụt thì giá cả tăng rất nhanh. Do vậy sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất có rủi ro lớn. Rủi ro do bị phụ thuộc vào thiên nhiên, rủi ro về giá cả.
- Hộ sản xuất nông nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ chủ yếu là sản xuất tự cấp tự túc nên việc tích tụ vốn cho sản xuất còn hạn chế . Do đó trong sản xuất kinh doanh thường thiếu vốn, nhất là vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị.
1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thi trường của nước ta hiện nay
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, nông dân sản xuất dưới hình thức tập thể, quán triệt quan điểm hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ. Nhưng vì lúc đó chưa có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp tập thể với quy mô lớn, nên đã dẫn đến tình trạng hợp tác xã chưa phải là nhà, xã viên chưa thực sự làm chủ, lao động hời hợt, năng xuất thấp kém, sản xuất đình đốn, tình trạng trì trệ trong sản xuất kéo dài hàng chục năm. Thu nhập từ kinh tế tập thể của mỗi gia đình không đảm bảo nhu cầu tối thiểu của cuộc sống. Bên cạnh đó thì kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể bị kinh tế tập thể chèn ép, bị cơ chế chính sách rằng buộc vì bị coi là mầm mống nảy sinh của chủ nghĩa tư bản.
Từ năm 1982 chỉ thị 100 của Ban Bí thư ra đời đã khẳng định mô hình sản xuất nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã là chưa phù hợp với điều kiện nước ta lúc đó. Đồng thời Đảng ta cũng đã xác định muốn đưa nền kinh tế phát triển với một nước nông nghiệp như nước ta thì nông nghiệp phải là “Mặt trận hàng đầu”, tiếp đó là nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã xác định hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cơ bản trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta. Từ đó kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể được khôi phục.
Tháng 12/1986, Nghị quyết đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa nền kinh tế của đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Đảng chủ chương coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, trong lĩnh vực kinh tế thì đổi mới nông nghiệp là khâu đột phá.
Việc chủ trương chuyển từ tập thể hoá sang chủ trương thừa nhận hộ gia đình nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, đã có tác động khơi dậy những tiềm năng to lớn của hơn 12 triệu hộ gia đình nông dân để không ngừng đẩy mạnh sản xuất phát triển.Tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và lợi thế sinh thái từng vùng. Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bởi vì kinh tế hộ có quy mô nhỏ nhưng lại rất linh hoạt, tận dụng được tối đa nguồn tài nguyên, đất đai, sức lao động, tiền vốn… kinh tế hộ dễ thích ứng với nền kinh tế thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao vì chi phí cho các khâu trung gian ít, mặt khác do quy mô nhỏ nên dễ dàng điều chỉnh cơ cấu để phù hợp với nhu cầu thị trường. Đồng thời kết hợp với các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Kinh tế hộ có điều kiện phát triển không ngừng và bền vững, là điều kiện để chuyển dịch nền nông nghiệp tự nhiên sang nền nông nghiệp hàng hoá có quy mô lớn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng với chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thị hộ sản xuất nông nghiệp được khẳng định và đặt lên vị trí hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3.2. Vai trò cụ thể của hộ sản xuất đối với nền kinh tế của nước ta
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 80% dân số sống ở nông thôn, trình độ lao động còn hạn chế. Từ khi chuyển nền kinh tế từ quản lí tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, song cũng bị co hẹp cả về quy mô và số lượng. Do đó lực lượng lao động trong khu vực đã giảm đáng kể. Nền kinh tế mở, các công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên nhanh chóng nhưng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp này còn đòi hỏi người lao động phải có năng lực và kiến thức kĩ thuật, công nghệ. Như vậy để sử dụng hợp lí nguồn lao động dồi dào, giải quyết tốt việc làm cho người lao động ở nông thôn hiện nay là một vấn đề hết sức cấp bách. Và điều đó chỉ có thể được giải quyết bằng việc phát triển kinh tế hộ sản xuất. Đó là hướng đi đúng mà Đảng và nhà nước đã lựa chọn. Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết tốt công ăn việc làm ở nông thôn.
Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lí trong nông nghiệp theo cơ chế thị trường hộ sản xuất được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao quyền sử dụng đất và quản lí đất đai lâu dài, đã có tác động thúc đẩy các hộ sản xuất khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai và tài nguôn thiên nhiên tại chỗ tăng vòng quay sử dụng đất, đầu tư thâm canh tăng độ phi nhiêu của đất, tăng nâng suất cây trồng, mở rộng khai hoang phục hóa tăng diện tích canh tác, tăng sản lượng cây trồng. Sản lượng lương thực của cả nước đã tăng từ 17,5 triệu tấn ( năm 1987) lên 34,3 triệu tấn (năm 1999) tức tăng gần gấp đôi sau 13 năm. Từ chỗ trung bình mỗi năm Nhà nước ta phải nhập khẩu trên dưới một triệu tấn lương thực thời kỳ trước đổi mới, đến năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo đến năm 1999 lượng xuất khẩu gạo đã tăng lên 4,5 triệu tấn và từ đó đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan, ngoài ra kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như chè, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu.... và các mặt hàng thủ công có nguyên liệu từ nông nghiệp đã góp phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta.. Từ những nhận định đến thực tế như trên đối với Việt Nam đã có thể khẳng định rằng kinh tế hộ sản xuất đang giữ một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong nông nghiệp nói riêng trong nền kinh tế nước ta nói chung .
Cũng như các thành phần kinh tế khác, hộ sản xuất là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ song với quy mô nhỏ bộ máy quản lí gọn nhẹ, năng động nên đã dễ dàng nắm bắt được sự thay đổi của thị trường, kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp, đồng thời lại được nhà nước có chính sách hộ trợ phát triển.
Các hộ sản xuất tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực với những điều kiện khác nhau và trong nền kinh tế thị trường mức độ cạnh tranh ngày càng tăng. Do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề gì, có điều kiện tư nhiên, kĩ thuât, tiền vốn để sản xuất được mặt hàng nào thì làm nghề đó, sản xuất mặt hàng đó. Vì vậy sẽ có điều kiện tập trung được tiền, vốn nhân lực, vật lực triển khai có hiệu quả các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Tóm lai: Hộ sản xuất là một tổ chức kinh tế năng động hiệu quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thi trường cao, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phân công lao động dẫn tới chuyên môn hóa từ đó tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi. Như vậy ở mỗi thời điểm, mỗi thời kì đều có những chủ trương, phương hướng nhất định để khẳng định vai trò to lớn của kinh tế hộ sản xuất. Những chủ trương của Đảng và Nhà nước trên đây đối với kinh tế hộ sản xuất đang được thực hiện tạo điều kiện cho sự phát triển vững mạnh của hình thức kinh tế này.
1.3. Tầm quan trọng của tin dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất
Khái quát về hoạt đồng tín dụng của ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, có hoàn trả đầy đủ cả vốn và lãi.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng qui định.
“Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
“Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng là sự tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ đi vay và cho vay giữa các Ngân hàng với chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội, được thực hiện dưới hình thức chủ yếu bằng tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng ngân hàng có khả năng đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất lưu thông hàng hoá. Vì vậy, tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
1.3.2. Tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất
Với thị trường nông thôn rộng lớn trên khắp đất nước, với đặc điểm kinh tế của hộ nông dân đa dạng, phong phú như đã nêu ở phần trên. Đặc biệt xuất phát từ vai trò quan trọng của kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta. Nên tín dụng ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển nền kinh tế hộ sản xuất cụ thể là:
- Góp phần chuyển dich cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: Tín dụng ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu và quan trọng nhất cho kinh tế hộ, nó có vai trò rất to lớn trong tiến trình phát triển nông nghiệp nông thôn mà trước hết là tác động vào phát triển lương thực, nuôi trồng thuỷ sản, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiêp, mở mang thêm ngành nghề phá thế độc canh tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá. Nhiều hộ đã tổ chức sản xuất dưới hình thức trang trại và ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp. Nhiều vùng chuyên canh mới ra đời thay thế những cây trồng vật nuôi kém hiệu quả.
- Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất: nó đảm bảo quá trình sản xuất liên tục, góp phần khai thác tiềm năng, tài nguyên, đất đai, lao động; Tiềm năng tài nguyên, đất đai nước ta còn rất lớn, nếu được đầu tư tín dụng hợp lý, kết hợp với chính sách vĩ mô thích hợp chắc chắn sẽ phát huy được hiệu quả cao, đặc biệt là lực lượng lao động hiện đang còn dư thừa chủ yếu là ở nông thôn.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn trong sản xuất nông nghiệp: Quá trình sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy phải không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới những hoạt động này đòi hỏi phải có 1 khối lượng vốn lớn thường vượt quá khả năng của hộ sản xuất. Nhờ có vốn tín dụng Ngân hàng các hộ sản xuất có đủ vốn để mở rộng sản xuất, tập trung ruộng đất, đầu tư máy móc thiết bị, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận từ đó thúc đẩy quá trình tích tụ vốn, tăng quy mô vốn tự có.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn: Một trong những đặc điểm quan trong của sản xuất nông nghiệp là sản xuất mang tính chất thời vụ, khi chưa tới vụ thu hoạch, chưa có sản phẩm hàng hoá để bán nên chưa có thu nhập song hộ nông dân vẫn cần vốn để đầu tư cho sản xuất và chi tiêu cho những khoản sinh hoạt tối thiểu. Chính điều này đã tạo điều kiện cho tệ nạn cho vay nặng lãi, tình trạng bán lúa non phát triển. Tín dụng ngân hàng ngày càng mở rộng với chính sách đầu tư trực tiếp tới hộ sản xuất đã đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu vốn cho sản xuất, hạn chế và đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi, góp phần làm giàu cho các hộ sản xuất, tăng thêm của cải cho xã hội, củng cố lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn: Thông qua việc cho vay mở rộng, phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề trong nông thôn đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động từ đó nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân sẽ góp phần đẩy lùi các tai tệ nạn xã hội, hạn chế 1 bộ phận lao động nông nhàn vào thành thị tìm kiếm việc làm, từ đó giảm sức ép đối với khu vực thành thị. Người dân tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở địa phương: Tín dụng ngân hàng đầu tư vốn tạo điều kiện để phát triển nhiều ngành nghề mới trong nông thôn, tạo công ăn việc làm, thu hút lực lượng lao động dôi thừa trong nông thôn.
- Góp phần đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn: Tín dụng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng,tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo điều kiện giao lưu hàng hoá …
Tóm lại: Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu đối với kinh tế hộ sản xuất, hay nói cách khác hộ sản xuất không thể mở rộng sản xuất kinh doanh, không thể tạo ra kinh tế hàng hoá, trong nông nghiệp nếu không có sự đầu tư của tín dụng ngân hàng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT CỦA NHNo & PTNT HUYỆN VỤ BẢN TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Đặc điểm của các hộ sản xuất ở huyện Vụ Bản
Vụ Bản là huyện nằm dọc theo quốc lộ 10 có:
- Phía Đông giáp thành phố Nam Định
- Phía Tây giáp huyện ý yên.
- Phía Nam giáp huyện Nam trực.
- Phía Bắc giáp Huyện Mỹ lộc.
* Huyện Vụ Bản có 18 đơn vị hành chính gồm 17 xã, 01 thị trấn nằm ở trung tâm huyện. Nhìn chung tương đối phát triển song hệ thống điện, đường giao thông nông thôn của huyện đã được xây dựng xong nhưng chưa được hoàn chỉnh.
Trong những năm gần đây Vụ Bản đã đạt được những thành tựu đáng kể như: đường quốc lộ 10 được nâng cấp mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông Vụ Bản với các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh do đó kinh tế thương mại của Vụ Bản tăng trưởng khá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm ăn của các hộ sản xuất ở địa phương.
* Vụ Bản tính đến năm 2006 có tổng diện tích tự nhiên của huyện là 14.038 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp là 10.096 ha.Tổng dân số trong huyện là 126.784 người.Trong đó hộ sản xuất nông nghiệp khoảng 28.330 hộ chiếm 85% tổng số hộ, với đặc thù kinh tế thuần nông, với lợi thế là cây lúa và các loại cây hoa màu khác như lạc, đậu tương... và vật nuôi là con:(Lợn, con bò) là chủ yếu.
Hộ sản xuất ở huyện Vụ Bản cũng mang những đặc tính của hộ sản xuất nói chung như đã nêu ở trên. Ngoài ra còn có một số đặc trưng khác có thể kể ra ở đây như là:
Bên cạnh lợi thế là cây lúa nước và các loại cây hoa màu khác như lạc, đậu tương, ngô,… và vật nuôi là các con như lơn, bò…,các hộ sản xuất của huyện Vụ Bản còn có thế mạnh trong các ngành nghề truyền thống khá phát triển như: Mây tre đan ở Vĩnh Hào, nghề rèn ở Quang Trung, nghề dệt ở Thành Lợi, nghề sơn mài ở Liên Minh...Các nghề truyền thông đó đã có thời gian bị mai một, nay được sự quan tâm của huyện, của các ban ngành đã hoạt động trở lại và đang trên đà phát triển. Tuy nhiên đa phần các hộ sản xuất ở huyện vẫn sản xuất nhỏ manh mún, thiếu vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị.
Trình độ của người nông dân trong huyện còn hạn chế nên việc sử dụng vốn cũng chưa thật sự hiệu quả.
2.2. Thực trạng hoạt động đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất ở NHNo chi nhánh huyện Vụ Bản
2.2.1. Đầu tư vào hoạt động huy động vốn
Muốn hiệu quả của hoạt động cho vay được nâng lên điều trước tiên là phải đảm bảo được việc có đủ vốn để cho vay. Do đó trong thời gian qua NHNo huyện đã thực hiện nhiều hoạt động đầu tư để huy động vốn có hiệu quả:
Trước hết là đầu tư vào việc tuyên truyền, quảng cáo: Ngân hàng đã thực hiện tuyên truyền quảng cáo mạnh mẽ bằng nhiều hình thức, kí hợp đồng và tự viết bài quảng cáo thường xuyên trên hệ thồng loa đài của huyện, của các xã trong toàn huyện và phát thanh vào những thời điểm thuận lợi để người nghe nắm bắt và cập nhật liên tục thông tin về lãi suất cũng như các dịch vụ của ngân hàng, quảng cáo rộng rãi việc mở tài khoản cá nhân, thẻ ATM, tiên ích ngân hàng bằng nhiều hình thức như: phát tờ rơi, họp dân, họp tổ vay vốn (TVV), lồng ghép với các cuộc họp ở xã, ở thôn nhằm mục đích tuyên truyền đến từng người dân. Ở những khu vực đông dân cư NHNo đều bố trí treo Pano, áp phích quảng cáo về lãi suất, các chương trình khuyến mại, huy động tiết kiệm dự thưởng, huy động tiết kiệm VNĐ bảo đảm bằng vàng, các dịch vụ tiện ích và đặc biệt hơn là quảng bá hình ảnh và thương hiệu của NHNo.
Trong năm 2008 vừa qua NHNo huyện đã đầu tư một cây ATM để phát triển dịch vụ thẻ ở địa phương, nhằm tạo ra thêm một kênh huy động vốn mới cho ngân hàng. Dịch vụ thẻ ATM( thẻ ghi nợ nội địa) đây là sản phẩm không phải là mới ở Việt Nam, nhưng đối với huyện Vụ Bản nói riêng và các khu vực huyện trên cả nước nói chung thì đây là một trong những dịch vụ hoàn toàn mới. vì đầu tư cho một trạm ATM rút tiền mặt và thanh toán qua thẻ tương đối cao, thường không mang lại hiệu quả về mặt kinh tế nhất là đối với các ngân hàng tuyến huyện. Song NHNo Vụ Bản xác định cần đi trước một bước nhằm tăng khả năng thanh toán, quảng bá thương hiệu NHNo Vụ Bản và quan trọng hơn là chuẩn bị cho việc triển khai quyết định 291/2006 ngày 29/12/2006 và chỉ thị 20/2007 ngày 24/8/2007 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án không dùng tiền mặt trong thanh toán và trả lương qua tài khoản. đến nay qua 3 tháng triển khai mở thẻ ATM, NHNo Vụ Bản đã phát hành trên 200 thẻ và tiếp tục sẽ tăng mạnh trong năm 2009
Ngoài ra NHNo Vụ Bản còn ra quyết định thành lập các tổ huy động vốn, cho vay, tính đến năm 2006 dã thành lập được ở tất cả các thôn xóm ở địa phương , mỗi thôn xóm 1 tổ huy động vốn và cho vay mà thành viên trong tổ chính là các hộ sản xuất kinh doanh của thôn xóm ấy. Với hình thức này các hộ sản xuất được trực tiệp tiệp cận với các thông tin về lãi suất cũng như các thủ tục giấy tờ cần thiết khi gửi tiết kiệm hoặc khi muốn vay vốn tại ngân hàng. Tiếp thị lưu động quy định và giao rõ nhiệm vụ, với nhân lực là các cán bộ nhân viên có kinh nghiệp, hiểu biết các nghiệp vụ của ngân hàng, đồng thời cho in hàng loạt tờ rơi giao cho các tổ huy động vồn và tổ vay vốn đi tiếp thị trực tiếp đến nhà người dân có khả năng tài chính (trên cơ sở đã điều tra nắm bắt trước) để quảng cáo tiếp thị về các hình thức huy động vốn khuyến mại với mức lãi suất cao hấp dẫn như: lãi suất tiết kiệm bảo đảm bằng vàng, hình thức tiết kiệm dự thưởng…
Tiếp theo là việc đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực: Bên cạnh nhưng lớp đào tạo về nghiệp vụ cho những cán bộ mới vào làm việc, ngân hàng còn tạo mọi điều kiện cho cán bộ của mình tham gia học ._.nâng cao trình độ. Do đó tính đến nay ngân hàng đã có 64,7% số cán bộ nhân viên có trình độ đại học.Ngoài ra để việc huy động vốn có hiệu quả toàn bộ cán bộ đều phải quán triệt tư tưởng, thái độ phục vụ khiêm tốn hòa nhã, tận tình với khách hàng, không phân biệt khách hàng là hộ gia đình, là các doanh nghiệp, khách hàng dù gửi ít cũng như gửi nhiều, tranh thủ huy động vốn tại chỗ đối với các khách hàng có người thân gửi tiền từ nước ngoài về
Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các khoản tiền gửi của khách hàng, ngân hàng huyện đã tham gia bảo hiểm tiền gửi tháng 7/2000 theo nghị định 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi của Chính phủ đã tạo tâm lý yên tâm cho khách hàng khi gửi tiền vào Ngân hàng.
2.2.2. Quy trình thực hiện đầu tư cho vay hộ sản xuất
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động mang tính đặc trưng và nó có vai trò quan trọng trong hoạt động Ngân hàng, là nguồn thu chính đối với Ngân hàng nhất là đối với NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT huyện Vụ Bản nói riêng. Quy mô của họat động tín dụng là một nhân tố để đáng giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tin dụng được mở rộng sẽ làm tăng doanh thu của ngân hàng nó tác động tích cực đến tình hình tài chính của ngân hàng. Chính vì vậy việc đầu tư vào việc mở rộng hoạt động tín dụng là cần thiết.
Từ khi có chỉ thị 202/HĐBT, Nghị định 14, quyết định 67 của chính phủ về chính sách cho hộ nông dân vay vốn, nghị quyết liên tịch 2308, quyết định 1627 của Ngân hàng Nhà Nước, quyết định 72 của NHNo&PTNT Việt Nam. Hệ thống NHNo&PTNT đã tập trung đầu tư cho thị trường nông nghiệp, nông thôn, trên cơ sở khảo sát khách hàng để đầu tư phát triển kinh tế hộ sản xuất, mở rộng cho vay thông qua tổ tương hỗ thực hiện cho vay, thu nợ lưu động tại xã, tạo thuận lợi cho bà con nông dân thuận tiện trong việc giao dịch vốn ngân hàng.
Trên thực tế, như đã nêu ở phần trước, trong những năm gần đây trên 97% khách hàng vay vốn ở chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản là hộ sản xuất. Như vậy đối tượng phục vụ chính của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản là hộ sản xuất. Trong hộ sản xuất vay vốn thì số hộ nông dân chiếm hơn 90%, hộ kinh doanh khác và hộ công nhân viên chức vay vốn chỉ chiếm gần 10 %.
Hiện nay, NHNo & PTNT huyện Vụ Bản thực hiện cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất theo phương thức cho vay từng lần và hạn mức tín dụng theo quyết định số 72/QĐ - HĐQT – TD ngày 31/3/2002 và 1.300/ HĐQT – TD của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam ban hành theo quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN Việt Nam ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam, có vận dụng vào điều kiện cụ thể của huyện Vụ Bản.
Quy trình tín dụng áp dụng đối với hộ sản xuất khi vay vốn tại NHNo&PTNT Huyện Vụ Bản trải qua các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Khách hàng nộp hồ sơ vay xin vay vốn theo quy định của Ngân hàng (Đơn xin vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh).
Bước 2: Cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định và tái thẩm định dự án sản xuất kinh doanh. Nếu dự án khả thi, tiếp xuống bước 3.
Bước 3: Giám đốc Ngân hàng, trưởng phòng tín dụng… tuỳ theo phân cấp xét và ra quyết định cho vay. Phán quyết sẽ ra quyết định cho vay hoặc lập báo cáo trình lên cấp trên xem xét
Bước 4: Hoàn tất thủ tục hồ sơ, tiến hành kí hợp đồng tín dụng và chuyển hồ sơ tín dụng sang bộ phận kế toán và ngân quỹ.
Bước 5: Bộ phận kế toán và ngân quỹ kiểm tra lại các thông tin trong hợp đồng, thực hiện bút toán cần thiết, sau đó tiến hành giải ngân.
Bước 6: Kiểm tra giám sát khoản vay, cơ cấu lại thời hạn trả nợ tiến hành thu lãi, thu nợ gốc và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Tóm lại: Việc cho vay đối với hộ sản xuất được thực hiện theo trình tự sau: đầu tiên cán bộ tín dụng sẽ phải hướng dẫn cho khách hàng lập hồ sơ xin vay vốn để nộp cho ngân hàng; trên cơ sở hồ sơ xin vay của khách hàng và các nguồn thông tin khác nữa ngân hàng tiến hành phân tích tín dụng đây chính là bước thẩm định khách hàng và thẩm định phương án kinh doanh mà khách hàng mang đến để xin vay. Kết quả của bước này sẽ giúp ngân hàng đưa ra quyết định co cho vay hay không; dựa vào kết quả của bước trên để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay; sau đó ngân hàng sẽ giải ngân vốn; và khi đã cho vay thì ngân hàng phải có nhiệm vụ giám sát các khoản vay và thanh lí tín dụng. Sau đây ta sẽ đi phân tích cụ thể một số bước trong quy trình trên:
2.2.2.1. Thẩm định trước khi cho vay
Để có thể được vay vốn của ngân hàng thì khách hàng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Điều kiện 1: Khách hàng phải có năng lực pháp luận dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Điều kiện 2: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Điều kiện 3: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Điều kiện 4: Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, khả thi và có hiệu quả.
Điều kiện 5: Thực hiện các quy định về bỏa đảm tiền vay quy định của Chính phủ, NHNN Việt Nam và hướng dẫn của NHNo Việt Nam.
Quy trình thẩm định nhằm kiểm tra năm điều kiện trên để ngân hàng có thể đưa ra quyết định có cho vay hay không. Đây là bước rất quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của ngân hàng. Nếu thẩm định tốt ra quyết đinh đúng sẽ ngăn chăn được nợ xấu, giảm rủi ro cho ngân hàng. Còn nếu thẩm định không chính xác ngân hàng ra quyết định cho vay sai có thể dẫn đến không có khả năng thu hồ nợ đúng hạn, như thế rủi ro tín dụng sẽ rất lớn
Quá trình thẩm định này được tiến hành theo các bước sau: thẩm định chủ đầu tư; thẩm định dự án vay vốn; thẩm định đảm bảo tiền gửi.
Bước 1: Thẩm định chủ đầu tư ở đây chính là các hộ sản xuất
Trước khi phát tiền vay, Ngân hàng cần phải hiểu rõ khách hàng vì khách hàng là người chịu trách nhiệm sử dụng và hoàn trả vốn vay, là người quyết định cuối cùng về hiệu quả của khoản tiền vay. Vì vậy thẩm định khách hàng là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nhằm phòng ngừa và hạn chế nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Nếu Ngân hàng không tiến hành thẩm định khách hàng hoặc thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến hiện tượng cho khách hàng không đủ điều kiện sử dụng và trả nợ vốn vay, gây nợ quá hạn. Qua thẩm định khách hàng, Ngân hàng thấy được khả năng tài chính hiện tại, tiềm năng trong tương lai, khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng. Có thể nói việc phân tích nghiên cứu khách hàng có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó tạo lập cơ sở ban đầu để cho ngân hàng làm căn cứ đưa ra những quyết định trong kinh doanh của mình. Bên cạnh đó việc thẩm định các phương án kinh doanh của khách hàng giúp ngân hàng thấy được phương án ấy có tính khả thi hay không có tính hiệu quả hay không từ đó giúp ngân hàng khẳng định thêm về khả năng trả nợ của khách hàng
Đối với NHNo huyện Vụ Bản thì do khách hàng chủ yếu là các hộ sản xuất nông nghiệp, các phương án sản xuất kinh doanh chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp với số vốn vay nhỏ. Hiện nay nghiệp vụ cho vay của NHNo&PTNT Vụ Bản 90 % là cho vay hộ sản xuất như đã nói ở phần trên. Trong tổng số hộ có đến trên 75% là số hộ vay dưới 30 triệu đồng. Tuy nhiên không thể vì thế mà ngân hàng coi nhẹ công tác thẩm định trước cho vay. Tuy nhiên do sự hạn chế cả về số lượng lẫn trình độ cán bộ thêm vào đó là đặc trưng của các dự án nông nghiệp nên việc thẩm định cũng gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay ở ngân hàng nông nghiệp huyện Vụ Bản thì cán bộ tín dụng cũng kiêm luôn việc thẩm định. Kết quả của việc thẩm định này là dựa trên sự đánh giá của cán bộ thẩm định trên cơ sở khoa học và các chuẩn mực khác. Do vậy muốn cải thiên chất lượng thẩm định trước hết cần đầu tư nâng cao trình độ của cán bộ một cách thích đáng.
Ngân hàng cũng đã trang bị một hệ thống máy tính và phần mềm thẩm định khá đồng bộ giúp cho việc thẩm định của cán bộ được dễ dành và chính xác. Các thông số tính toán về mặt tài chính của các dự án kinh doanh đã được tính toán trên máy đảm bảo tính khoa học, logic, chính xác trong việc thẩm định.
Hoạt động thẩm định phải đảm bảo việc phân tích đánh giá phải tiến hành toàn diện, phải đánh giá năng lực pháp lý, tư cách đạo đức, uy tín của khách hàng vay bởi điều đó quyết định ý thức trả nợ của khách hàng. Phân tích đánh giá chính xác năng lực tài chính, năng lực kinh doanh, môi trường kinh doanh của khách hàng bởi nó quyết định đến khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó còn phải chú trọng đến việc thẩm định tính khả thi và tính hiệu quả của những phương án kinh doanh mà hộ sản xuất sẽ thực hiện.
Trước hết là việc thẩm định khách hàng. NHNo&PTNT huyện Vụ Bản khi thẩm định khách hàng tập trung vào việc tìm hiểu và thẩm định các thông tin sau:
* Đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn.
- Khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật để gắn trách nhiệm của khách hàng với sự ràng buộc về mặt pháp luật, giúp cho các nhà kinh doanh thuận tiện trong việc quản lý.
Đối với hộ sản xuất tất cả các thành viên trong gia đình cần kí cam kết vay vốn và chủ gia đình phải là người có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi. Thông qua các giấy tờ như: chứng minh thư nhân dân của người chủ gia đình, sổ hộ khẩu để kiểm tra về năng lực pháp lí của khách hàng. Việc thẩm định năng lực pháp lí của khách hàng là hộ gia định cũng đơn giản hơn nhiều so với thẩm định doanh nghiệp. Điều này không phải là do ngân hàng xem nhẹ việc thẩm định đối với khách hàng là hộ sản xuất mà do tích chất khác nhau giữa hộ sản xuất so với doanh nghiệp. Hộ sản xuất là những hộ đã gắn bó lâu dài ở địa phương do đó nguồn thông tin mà ngân hàng có được về những khách hàng này cũng nhiều và chính xác hơn so với khách hàng là doanh nghiệp do đó khả năng lừa lọc của doanh nghiệp bao giờ cũng lớn hơn.
* Đánh giá năng lực phẩm chất của người lãnh đạo điều hành
Đánh giá năng lực phẩm chất của người lãnh đạo điều hành là nội dung quan trọng do Ngân hàng giao vốn cho người lãnh đạo điều hành, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của khách hàng. Đối với khách hàng là hộ sản xuất người lãnh đạo chính là chủ hộ cán bộ thẩm định thường thông qua việc nói chuyện phỏng vấn trực tiếp người chủ hộ đó để biết được năng lực kinh doanh quản lí của họ. Ngoài ra việc quan trọng là phải biết được người chủ hộ này có phẩm chất đạo đức như thế nào: có nghiện rượu không; có đam mê cờ bạc không. Vì ở nông thôn những người đàn ông trong gia đình rất dễ bị dính vào những tế nạn này. Và khi đó không những khả năng lao đông, sản xuất kinh doanh cuẩ họ bi giảm sút mà họ con rất dẽ sử dụng tiền vay của ngân hàng để phục vụ cho những nhu cầu trên của bản thân. Điều này rất nguy hiểm vì nó không những làm cho ngân hàng không thể thu được nợ mà con đẩy những hộ sản xuất này vào cảnh nợ nần không lối thoát.
* Phân tích đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng
Nếu như khách hàng là doanh nghiệp thi việc thẩm định năng lực tài chinh sẽ được dựa trên các báo cáo tài chính của khách hàng lập tại thời điểm gần nhất, ngân hàng tiến hành phân tích tình hình tài chính của khách hàng để từ đó có thể đánh giá ảnh hưởng của nó đến mức độ rủi ro của khoản vay sau này. Đối với hộ sản xuất họ không có những báo cáo tài chính nay, hoặc có nhưng không đầy đủ. Vì vậy khi thảm định tài chính đối với loại khách hàng này người cán bộ thẩm định gặp nhiều khó khăn khi thu thập thông tin. Thông tin có thể phải được thu thập từ kho lưu trữ của ngân hàng, từ phía khách hàng hoặc thường xuyên phải xuống tận cơ sở để thu thập thông tin trực tiếp. Phân tích tài chính giúp ngân hàng thấy được khách hàng thừa vốn hay thiếu vốn, nếu thiếu thì thiếu bao nhiêu? Vốn của khách hàng được sử dụng như thế nào? Khả năng tiềm tàng nằm ở đâu để từ đó có những quyết định đúng đắn đối với các khoản tín dụng phát ra. Qua phân tích đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng giúp cho các nhà kinh doanh ngân hàng có thể đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng, để biết thực trạng hoạt động sản xuấ kinh doanh (SXKD) của khách hàng, xu thế hoạt động của khách hàng trong tương lai tốt hay xấu. Qua đó xác định mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng với ngân hàng trong tương lai.
Phân tích tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Xem cơ cấu kinh doanh của khách hàng hợp lý hay không. Nếu không hợp lý thì hiệu quả sử dụng vốn thấp. Cơ cấu giữa vốn cố định và vốn lưu động, cơ cấu này cũng có khác nhau giữa các khách hàng sản xuất và kinh doanh.
- Phân tích đánh giá khả năng tự tài trợ, tự trang trải về vốn trong kinh doanh của khách hàng. Khả năng tự chủ về tài chính của khách hàng càng cao thì càng tốt.
Nguồn vốn có của khách hàng (vốn chủ sở hữu)
Hệ số tài trợ =
Tổng nguồn vốn khách hàng đang sử dụng
Hệ số này càng cao, thể hiện tình hình tài chính của khách hàng càng vững chắc. Khách hàng ít lo lắng trong việc vay, trả nợ. Như vậy năng lực đi vay rất lớn, điều này dễ hiểu bởi vì người vay có thể vay được khi chứng minh được bản thân mình có khả năng trả nợ.
Vốn vay so với doanh số hoạt động:
Vốn vay
< 1 thì khả năng tự tài trợ tốt
Doanh số hoạt động
Doanh số hoạt động lớn chứng tỏ vốn của khách hàng bỏ vào kinh doanh lớn, vốn luân chuyển cao.
- Đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng: Có ảnh hưởng rất lớn tới mức rủi ro trong một khoản vay. Một khách hàng có khả năng thanh toán tốt là có đủ khả năng trả các khoản nợ khi đến hạn. Thông thường các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt có thể tự cân đối các khoản nợ khi đến hạn, thường họ kéo dài thời hạn hoặc vay nơi này để trả nợ nơi khác gây nên nợ nần dây dưa và đến một lúc nào đó khách hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Cho vay trường hợp này, khoản tín dụng của Ngân hàng sẽ gặp rủi ro cao. Các chỉ tiêu ngân hàng sử dụng để phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là: Khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán cuối cùng.
Tổng các khoản dùng để thanh toán
Khả năng thanh toán chung = >= 1
Tổng các khoản nợ
TSLĐ - Hàng tồn kho
Khả năng thanh toán nhanh = >= 1
Nợ ngắn hạn đến hạn thanh toán
Nói chung hệ số khả năng thanh toán nhanh lớn hơn 0,5 thì tình hình khả năng thanh toán của khách hàng là khách quan, nếu thấp hơn khách hàng có thể gặp khó khăn trong thanh toán nợ.
- Khả năng sinh lời về vốn trong kinh doanh của khách hàng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng.
Lợi nhuận sau thuế
Mức sinh lời trên doanh thu =
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế
Thu nhập trên tổng tài sản =
Tổng tài sản bình quân
Lợi nhuận sau thuế
Thu nhập trên vốn thuần =
Doanh thu thuần
So sánh giữa lợi nhuận ròng với vốn vay, lợi nhuận ròng với vốn lưu động, lợi nhuận ròng với vốn tự có để xem mức sinh lời của 1 đồng vốn vay, 1 đồng vốn lưu động, 1 đồng vốn tự có. Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng càng cao thì mức độ an toàn của vốn ngân hàng đầu tư vào càng lớn.
* Năng lực kinh doanh của một khách hàng vay vốn thể hiện qua
- Năng lực sản xuất.
- Trình độ quản lý của một khách hàng.
- Khả năng mở rộng thị phần của một khách hàng.
Khách hàng có thị phần mở rộng hay khả năng tiếp cận thị trường nhanh thì có năng lực kinh doanh và khả năng cạnh tranh tốt. Khả năng cạnh tranh của một khách hàng thể hiện qua:
+ Sức cạnh tranh của sản phẩm, thể hiện chiến lược sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra. Thường là 5 năm 1 vòng đời sản phẩm. Sau mỗi giai đoạn doanh nghiệp lại đưa ra một sản phẩm mới để sản phẩm của khách hàng luôn luôn có chỗ đứng trên thị trường.
+ Chiến lược về giá của 1 sản phẩm của một khách hàng. Khách hàng có khả năng tổ chức sản xuất tốt thì mới hạ được giá thành sản phẩm.
+ Chiến lược về phân phối sản phẩm của một khách hàng, thể hiện qua việc tổ chức mạng lưới, phương thức bán hàng, tổ chức kinh doanh bán hàng có hợp lý không. Từ đó tạo điều kiện cho khách hàng có nguồn thu để trả nợ ngân hàng.
* Phân tích đánh giá môi trường hoạt động kinh doanh của khách hàng
Đánh giá môi trường hoạt động kinh doanh của khách hàng có rủi ro hay không (môi trường ngành). Đánh giá môi trường của dự án mà khách hàng xin vay vốn. Đánh giá môi trường kinh doanh trong nước và trên thế giới của sản phẩm mà khách hàng SXKD. Đánh giá các cơ chế chính sách hay điều kiện để tổ chức SXKD của một khách hàng tốt hay xấu. Phỏng vấn khách hàng để qua đó ngân hàng tìm hiểu thấu đáo khách hàng, phát hiện những rối trá trong thông tin mà khách hàng cung cấp.
Thông qua việc nghiên cứu đánh giá về khách hàng trên các mặt: Năng lực hợp pháp, năng lực phẩm chất của người lãnh đạo điều hành doanh nghiệp, năng lực tài chính, năng lực kinh doanh, môi trường hoạt động kinh doanh của khách hàng, ngân hàng sẽ xếp loại khách hàng và có chính sách cho vay phù hợp. Khách hàng đáp ứng đủ các điều kiện trên được xếp vào loại A. Loại A luôn được các ngân hàng ưu tiên vì khả năng hoàn trả nợ đúng hạn, đầy đủ là rất cao. Loại B là các khách hàng SXKD không ổn định, có hiệu quả thấp, không vững chắc, có khó khăn về tài chính, nhưng trước mắt vẫn vay trả bình thường. Loại này khó cho vay ngân hàng phải xem xét kỹ. Loại C là các khách hàng thua lỗ có khả năng giải thể…ngân hàng không cho doanh nghiệp loại này vay vì rủi ro quá cao.
Sau khi thẩm định khách hàng ngân hàng sẽ chuyển sang thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng đó.
Bước 2: Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng
Với khách hàng là các hộ sản xuất thị phương án sản xuất kinh doanh của họ chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và thủ công nghiệp, quy mô nhỏ do đo có tính chất kĩ thuật và tài chính đều không phức tạp lắm, do đó ngân hàng cũng đưa ra một quy tình thẩm định đơn giản hơn so với việc thẩm định khách hàng là doanh nghiệp. Quy trình thẩm định có nội dung như sau:
Một là: thẩm định khía cạnh pháp lí của dự án: Nó xác định tính hợp pháp của dự án. Khi thẩm định khía cạnh này cán bộ thẩm định xem xet xem ngành nghề họ sản xuất kinh doanh có bị pháp luật cấm không, việc xây dựng có phù hợp với quy hoạch của địa phương của vùng hay không…. Đây là một khía cạnh rất quan trọng nó không cho biệt dự án có hiệu quả không nhưng nó quyết định việc dự án có được triển khai thực hiện hay không. Khi thẩm định khia cạnh này cán bộ thẩm định sẽ yêu cầu khách hàng xuất trình để kiểm tra các giấy tờ và thông tin sau:
Số tiền xin vay
Mục đính vay
Thời hạn xin vay
Nguồn trả nợ
Phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Hai là: Thẩm định về sự cần thiết phải đầu tư. Trong nội dung này trước hết ta đi thẩm định về các điều kiện vĩ mô ảnh hưởng đến sự hình thành và thực hiện dự án. Sau đó phải đi thẩm định về thi trường. Việc thẩm định thị trường của dự án ta tiến hành thẩm định theo các nội dung: Thẩm định về thị trường tổng thể, thị trường mục tiêu của dự án; thẩm định loại hình sản phẩm của dự án; cung cầu thị trường của dự án hiện tại và tương lai; thẩm định về khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thi trường của sản phẩm dự án.
Ba là: Thẩm định đầu vào của dự án: đây chính là bước thẩm định về nguyên vật liệu đầu vào của dự án. Khi thẩm định khía cạnh này ngân hàng đi xem xét các nội dung đó là: dự án sử dụng loại nguyên vất liệu gì, nguồn cung cấp như thế nào.
Bốn là: Thẩm định đầu ra của dự án: Đây chính là khâu thẩm định xem sản phẩm đầu ra của dự án được sử dụng như thế nào. Khi thẩm định khía cạnh này ngân hàng đi thẩm định các nội dung: đầu tiên là về thị trường tieu thụ sản phẩm: sản phẩm của dự án được tiêu thụ ở đâu, cung cầu của thị trường như thế nào; sau đó thẩm định về phương thức tiêu thụ sản phẩm của dự án…
Năm là: Thẩm định khía cạnh tài chính của dự án đầu tư: Đây là nôi dung được ngân hàng thẩm định rất kĩ, nó là cơ sở chủ yếu để ngân hàng biết được khách hàng có khả năng trả nợ hay không từ đó đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Thẩm định khía cạnh này bao gồm các nội dung: thẩm định tổng mức vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn của dự án; các báo cáo tài chính dự kiến từng năm (hoặc từng giai đoạn của đời dự án), dòng tiển của dự án; các chỉ tiêu phân tích tài chính của dự án. Đối với những dự án của hộ sản xuất nông nghiệp do quy mô nhỏ tính chất không phức tạp nên khi thẩm định tài chinh dự án việc tính toán cũng rất đơn giản thường cán bộ tín dụng chỉ tính toán giá trị đầu ra và đầu vào của dự án rối so sánh hai gia tri này. Nếu đầu ra lớn hơn đầu vào thì dự án có lãi và cho vay. Đối với những dự án của các hộ sản xuất hoạt động trong các lĩnh vực khác thì có tính chất phức tạp hơn, quy mô lớn hơn thì ngân hàng mới đi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cụ thể như NPV, IRR, thời gian thu hồi vốn…
Tuy nhiên trên thực tế ngân hàng chỉ chú trọng đến khâu thẩm định tài chính của dự án mà ít chú trọng đến các nội dung khác. Lí do được ngân hàng đưa ra là vì nhân sự không đủ, cũng như việc thẩm định dự án đầu tư là hết sức phức tạp và rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Vì thế các nhân viên thẩm định không đủ hiểu biết để thẩm định đầy đủ các nội dung. Ngoài ra còn một lí do khác nữa được ngân hàng đưa ra đó là việc thẩm định các dự án tại ngân hàng được tiến hành sau khi dự án đã qua thẩm định của sở Kế hoạch Đầu tư. Vì thế, các nội dung về môi trường và khía cạnh kinh tế xã hội đã được sở thẩm định và xem xét. Do đó ngân hàng chỉ dựa vào các giấy tờ xác nhận được sở Kế hoạch Đầu tư phê duyệt do chủ đầu tư trình.
Bước 3: Thẩm định các biện pháp đảm bảo tiền vay
Ở NHNo huyện Vụ Bản thì hình thức đảm bảo phổ biến nhất là đảm bảo bằng bất động sản (nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng đất). Khi thẩm định phương thức đảm bảo này cán bộ thẩm định đã phân tích nguồn gốc tài sản, tính pháp lí của các giấy tờ về quyền sở hữu, sử dụng trích lục bản đồ, các vấn đề liên quan đến quy hoạch, hình thức chuyển nhượng và khả năng chuyển nhượng.Định giá theo khung giá của nhà nước, theo giá cả trên thị trường.
Sau khi cán bộ thẩm định hoàn thành ba bước thẩm định trên, kết quả sẽ được trình lên cơ quan cấp trên và Giám đốc ngân hàng, trưởng phòng tín dụng… tuỳ theo phân cấp xét và ra quyết định cho vay. Sau khi quyết định cho khách hàng vay vốn, ngân hàng chuyển sang các bước tiếp theo là giải ngân và thu hồi nợ.
Để dễ dàng hơn cho công tác thu hồi nợ, để giảm rủi ro tín dụng cho ngân hàng, ngân hàng đã liên tục có những biện pháp hỗ trợ cho các hộ sản xuất sử dụng đồng vốn hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.
2.2.2.2. Hỗ trợ hộ sản xuất sử dụng hiệu quả đồng vốn vay
Với đặc trưng là một ngân hàng đặt trên địa bản nông thôn, do đó khách hàng chủ yếu là các hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp và các hộ kinh doanh nhỏ, trình độ còn nhiều hạn chế. Do đó ngoài đầu tư vào việc giám sát các khoản vay NHNo huyện còn hỗ trở để các khách hàng này sử dụng vốn đúng mục địch và có khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn.
Kết hợp với các ngành chức năng như phòng Nông ngiệp và Phát triển Nông thôn, trung tâm khuyến nông, trạm bảo vệ thực vật, trạm thú y, mở các lớp huấn luyện vè kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, phòng trừ sâu bệnh, dịch bệnh để người dân có kĩ năng sản xuất từ đó sử dụng vốn vay hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước thì vốn tín dụng đã góp phần vào tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn: Như hệ thống giao thông thôn xóm được củng cố và nâng cấp, hệ thống kênh mương nội đồng được hình thành và phát huy tác dụng; Từ chỗ chỉ có 10/18 xã Thị trấn có điện lưới Quốc gia ( năm 1995) nay đã có 18/18 xã thị trấn có điện. Nhìn chung bộ mặt nông thôn mới có nhiều khởi sắc. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất kinh doanh làm ăn.
Sau gần 9 năm thực hiện quyết định 67 của thủ tướng chính phủ dưới sự chỉ đạo của ngân hàng nông nghiệp tỉnh Nam Định, được sự ủng hộ của đảng và chính quyền địa phương, ngân hàng nông nghiệp huyện Vụ Bản đã phối hợp chặt chẽ với hội nông dân huyện tổ chức thực hiện tốt nghị quyết liên tịch 2308 giữa NHNo&PTNT Việt Nam với TW hội nông dân Việt Nam bằng việc thành lập và duy trì hoạt động của mạng lưới tổ vay vốn - tiết kiệm(TVV – TK) trên 100% số thôn xóm trên địa bàn huyện để chuyền tải vốn tới tay hộ nông dân thực hiện các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời tổ vay vốn cùng là chiếc cầu nối để ngân hàng hướng dẫn, theo dõi việc sử dụng đồng vốn của các hộ sản xuất để từ đó có các phương án hướng dẫn và điều chỉnh kịp thời.
Hàng tháng các xã tổ chức giao ban tổ trưởng tổ vay vốn tại UBND xã do trưởng phòng đại diện tổ vay vốn tổ chức triển khai phân tích tình hình huy động vốn, tín dụng, thu nợ, thu lãi theo lịch và đôn đốc nợ quá hạn kịp thời, rút kinh nghiệm việc thực hiện nhiệm vụ tháng trước, triển khai nhiệm vụ tháng tiếp theo. Bình quân giao ban tổ trưởng tổ vay vốn trong một thàng là: 16/18 xã, tỉ lệ 89%
Hàng quý ban chỉ đạo vay vốn NHNo họp sơ kết đánh giá kết quả hoạt động và đề ra phương hướng nhiệm vụ nhưng tháng tiếp theo trên cơ sở kế hoạch của NHNo giao, chỉ tiêu phát triển kinh tế của huyện và tình hình thực tế của địa phương. Tính đến hết năm 2008 NHNo huyện đã phối hợp cùng họi nông dân huyện tổ chức sơ kết theo 3 cụm: cụm 5 xã trung tâm, cụm 5 xã khu vực Thành Lợi, cụm 9 xã khu vực Dần. qua sơ kết đã kịp thời biểu dương những nhân tố tiên tiến, đề nghị cấp trên khen thưởng những cá nhân tập thể có đóng góp và thành tích vay vốn phát triển nông nghiệp nông thôn..
2.3. Những kết quả đã đạt được trong thời gian qua
2.3.1. Những kết quả cụ thể
2.3.1.1. Kết quả trong hoạt động huy động vốn
Mặc dù trên địa bàn huyện có kho bạc Nhà nước huyện, bưu điện huyện và một quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính sách xã hội huyện huy động vốn với lãi suất cao hơn nhưng với chính sách đầu tư đúng đắn, nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT huyện vẫn tăng trưởng thể hiện qua bảng sau.
Bảng 2.1 : Nguồn vốn huy động và cơ cấu nguồn vốn huy động
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Tổng nguồn vốn huy động
156.907
100
187.000
100
250.000
100
1. Tiền gửi không kỳ hạn
42.385
27
50.490
27
62.500
25
2. Tiền gửi có kỳ hạn
114.522
73
136.510
73
187.500
75
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua 3 năm 2005,2006,2007)
Qua bảng trên cho ta thấy nguồn vốn huy động trên địa bàn huyện tăng mạnh. Cả về số tuỵêt đối và số tương đối qua các năm trong đó loại tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng thấp hơn tiền gửi có kỳ hạn.
Nguồn gửi không kỳ hạn năm 2005 chiếm 27% tổng nguồn vốn. Năm 2006 chiếm 27% số tuyệt đối năm 2006 tăng 8.105 triệu đồng so với năm 2005. Đến 31/12/2007 chiếm 25% trong tổng nguồn vốn và có số tuyệt đối tăng so với 31/12/2006 là 12.010 triệu đồng. Đây là nguồn vốn có chi phí đầu vào rẻ song tính ổn định thấp.
Tiền gửi có kỳ hạn được mở dưới nhiều hình thức và kỳ hạn khác nhau, tạo thuận lợi cho người gửi tiền và thực hiện kế hoạch cân đối ở cơ cấu nguồn vốn trong từng thời kỳ. Năm 2005 nguồn tiền gửi có kỳ hạn đạt 114.522 triệu đồng chiếm 73% trong tổng nguồn vốn. Năm 2006 đạt 187.500 triệu đồng đạt 75% trong tổng nguồn về số tuyệt đối tăng 21.988 triệu đồng tăng so với năm 2005. Đến hết quý 4 năm 2007 nguồn vốn có kỳ hạn đã tăng lên đến 187.500 triệu đồng tăng 50.990 triệu đồng tương đương với 37%. Nguồn vốn này có ưu điểm là khá ổn định và tạo điều kiện để tăng cho vay trung hạn, nhưng có bất lợi là lãi suất phải trả cao làm tăng chi phí đầu vào từ đó giảm kết quả kinh doanh.
Nguồn vốn trung và dài hạn chiếm tỉ trọng cao hơn so với nguồn vốn ngắn hạn. năm 2008 nguồn vốn trung và dài hạn huy động được đạt 126.875 tỉ đồng chiếm 54.4% trong đó nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm 45.6% trong tổng nguồn vốn huy động được của cả năm. Nó cho thấy khả năng cho vay của ngân hàng tốt và bền vững.
Ngoài việc huy động nguồn vốn tại địa phương NHNo&PTNT Vụ Bản còn sử dụng các nguồn vốn uỷ thác đầu tư của các Ngân hàng, các tổ chức tài chính, tiền tệ thế giới nhằm tận dụng các ưu thế của các nguồn vốn này như: Phí sử dụng vốn thấp, thời hạn cho vay dài thường là vốn trung và dài hạn, từ đó đáp ứng được nhu cầu về vốn cho vay hộ sản xuất, và các thành phần kinh tế khác trên địa bàn.
Nguồn vốn huy động ngân hàng huyện Vụ Bản tăng mạnh thể hiện nguồn ổn định, và đã được NHNo huyện Vụ Bản đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện, phù hợp với định hướng phát triển của huyện, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho người dân xoá đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chân chính ngay trên quê hương của họ. Ngân hàng đã quản lý tốt không bị thất thoát vốn và tuân thủ nghiêm túc các giới hạn trong đảm bảo an toàn vốn, và thực hiện đầy đủ các quy định về cho vay của các dự án uỷ thác đầu tư.
2.3.1.2. Những thành tựu trong hoạt động đầu tư cho vay hộ sản xuất của ngân hàng
a, Tổng số hộ sản xuất được vay vốn ngân hàng và suất đầu tư trên hộ sản xuất tăng
Số hộ được vay vốn của ngân hàng không ngừng gia tăng được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Tỉ lệ hộ sản xuất được vay vốn của ngân hàng
Đơn vị: hộ
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Tổng số hộ sản xuất trên toàn huyện
33.495
33.647
33790
Số hộ được vay vốn
7503
8782
7937
Tỉ lệ hộ vay vốn (%)
22.4
26.1
23.5
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua 3 năm 2006,2007,2008)
Nhìn vào bảng trên ta thấy số hộ được vay vốn của năm 2007 so với năm 2006 tăng cả về số tuyệt đối và sô tương đối. Số hộ được vay vốn tăng từ 7503 hộ năm 2006 và vào năm 2007 là 8782 hộ tăng 1279 hộ bằng 14.6%. Điều này cho thầy đồng vốn của ngân hàng ngày càng đến tay được đông đảo người dân. Nó không chỉ đem lại không chỉ là hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà nó còn góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp người lao động xóa đói giảm nghèo vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình, góp phần làm ổn định an ninh trật tự ở địa phương.
Đến năm 2008 số hộ vay vốn lại giảm từ 8782 hộ năm 2007 xuống còn 7937 hộ giảm 845 hộ tức 9.6%. Sự giảm sút này có nguyên nhân chính là do những biến động kinh tế của năm 2008. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, năm 2008 hệ thống ngân hàng gặp liên tục nhiều khó khăn, tình trạng lạm phát căng thẳng diễn ra, nhiều ngân hàng gặp khó khăn trong thanh khoản, lãi suất huy động vốn biến động hàng ngày liên tục tăng cao nhằm._.xử lý thông tin kịp thời để góp phận đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao kĩ năng giao tiếp tuyên truyền các sản phẩm ngân hàng.
Ngoài việc đào tạo nguồn nhân lực ngân hàng còn phải chú ý đến việc cơ cấu tổ chức: Sắp xếp ổn định bộ máy từ phòng tại trụ sở chính của ngân hàng đến các phòng giao dịch, đảm bảo yêu cầu tinh, gọn, nhanh. Việc bố trí cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ của mỗi người để khai thác, phát huy một cách tốt nhất khả năng của mỗi người, nâng cao hiệu quả lao động.
Con người là yếu tố trọng tâm, quyết định sự thành bại của mọi tổ chức, moi doanh nghiệp vì vậy công tác đào tạo, tổ chức cán bộ là hết sức quan trọng. Nếu những công tác này được thực hiện tốt sẽ cung cấp cho ngân hàng đội ngũ cán bộ quản lí tác nghiệp có chất lượng cao để thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng quy mô hoạt động cho vay hộ sản xuất
* Thiết lập duy trì mối quan hệ lâu bền với khách hàng vay vốn
Mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn là quan hệ hai chiều, Ngân hàng hỗ trợ về vốn sản xuất kinh doanh cho khách hàng và ngược lại khách hàng vay vốn đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu bền với khách hàng sẽ biết được nhu cầu vay thực tế và chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ để có hình thức tài trợ cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, giảm được chi phí thời gian tìm hiểu khách hàng trước khi quyết định cho vay, thì thông tin về khách hàng được thu nạp thường xuyên và đảm bảo an toàn vốn vay. Những khách hàng có quan hệ lâu dài thường kinh doanh có hiệu quả, có những khách hàng có ý thức trả nợ tốt, từ đó tạo nguồn thu ổn định vững chắc cho ngân hàng.
Tuỳ từng đối tượng khách hàng, ngân hàng có chính sách cho phù hợp. Đối với khách hàng có quan hệ thường xuyên có tín nhiệm ngân hàng có thể ưu đãi về lãi suất cho vay, mặt khác trong quá trình sản xuất kinh doanh nếu khách hàng gặp khó khăn chưa trả được nợ, ngân hàng có thể ra hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, ra hạn nợ để họ tiếp tục sản xuất kinh doanh.
* Phát triển cho vay hộ sản xuất thông qua tổ vay vốn
Tổ vay vốn là một mô hình mới do cộng đồng dân cư thành lập một cách tự nguyện dới sự lãnh đạo của tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hoạt động của tổ vay vốn nhằm giải quyết một số vấn đề sau:
- Tổ vay vốn là nơi các hộ sản xuất tương hỗ lẫn nhau không chỉ về nhu cầu vốn mà còn về kiến thức khoa học, kỹ thuật trong sản xuất và nguyên liệu đầu vào cũng nh việc tiêu thụ sẩn phẩm đầu ra.
- Tổ vay vốn được thành lập có quy ước riêng đây là điều kiện cần thiết để giám sát kiểm tra, đôn đốc sử dụng vốn vay, trả nợ, trả lãi đúng hạn của hộ sản xuất.
Hình thức chuyển tải vốn tín dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ tín chấp đem lại lợi ích cho cả hai phía: Hộ vay vốn và Ngân hàng.
+ Đối với hộ sản xuất: Vay vốn thông qua tổ tín chấp giảm bớt được thời gian giao dịch, thời gian đi lại từ đó giảm bớt được chi phí do Ngân hàng giải ngân tại các xã và bố trí lịch trực thu nợ tại xã. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì mức vốn vay của hộ gia đình còn nhỏ lẻ, khi vay phải hoàn tất thủ tục vay vốn nên người dân dễ nảy sinh tâm lý ngại vay Ngân hàng mà đi vay mượn những ngời xung quanh mặc dù lãi suất rất cao, gây tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Hơn nữa, với thành viên tổ tín chấp còn quan tâm gắn bó hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật…sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn.
+ Về phía ngân hàng, cấp tín dụng cho hộ sản xuất theo hình thức tổ tín chấp hiệu quả hơn, và đảm bảo vốn an toàn cao hơn rất nhiều. Tổ trởng tổ vay vốn là người trong xóm, trong xã do nhân dân bầu lên, được chính quyền xã công nhận, luôn giám sát việc sử dụng vốn của các tổ, nên đôn đốc hộ vay vốn sử dụng vốn vay và trả nợ gốc, lãi đầy đủ đúng hạn theo cam kết tốt hơn.
Kết quả hoạt động cho vay qua tổ, nhóm của NHNo&PTNT Vụ Bản đã hạn chế được nợ quá hạn, mặc dù tỷ lệ cho vay thông qua tổ cho vay chưa cao.
Với kinh nghiệm những năm qua, ngân hàng có thể đáp ứng hình thức cho vay qua tổ nhóm sâu rộng hơn. Để tín dụng ngày càng được nâng cao và để cho vay qua tổ nhóm ngày càng hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng cần thực hiện tốt hơn nữa các vấn đề sau:
- Tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy đảng chính quyền địa phương, phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, ban chỉ đạo vay vốn huyện, phòng đại diện vay vốn các xã thị trấn trong việc duy trì tốt hoạt động của mạng lưới TVV-TK trong năm 2008 và những năm tới.
- Kết hợp với hội nông dân huyện tổ chức đánh giá sâu sắc những mặt đã làm được và chưa làm được trong hoạt động phân phối để thành lập và duy trì hoạt động của mạng lưới TVV-TK trong thời gian vừa qua, bàn và thống nhất các biện pháp củng cố, nâng tầm hoạt động của tổ vay vốn cho phù hợp với tình hình mới.
+ Thường xuyên phân loại tổ vay vốn củng cố kịp thời hoạt động kém hiệu quả.
+ Áp dụng linh hoạt phương thức chi trả hoa hồng tổ nhóm theo hướng gắn thu nhập của tổ với số lượng và chất lượng các chỉ tiêu về công tác huy động nguồn vốn tăng trưởng diện hộ, tăng trưởng dư nợ 15%-20%, nợ quá hạn dưới 0.05%, đảm bảo thu lãi theo đúng lịch quy
- Tranh thủ sự ủng hộ của huyện uỷ, UBND huyện, thường xuyên quan tâm hơn nữa đến hoạt động ngân hàng đặc biệt trong việc chỉ đạo cấp uỷ chính quyền xã, các tổ chức hội sở thực hiện tốt quyết định 67/QĐ-TTG và nghị quyết 2308 chỉ đạo các phòng ban có liên quan trong việc giúp ngân hàng giải quyết các món nợ tồn đọng do ý thức, đạo đức khách hàng. Ngân hàng cần tổ chức chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là hội Nông dân, hội Phụ nữ, hội Cựu chiến binh đây là các tổ chức chính trị có uy tín tại địa bàn.
- Luôn luôn phải kế hợp hài hoà lợi ích giữa ngân hàng với tổ trưởng và giữa ngân hàng với các thành viên. Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về quản lý nghiệp vụ tín dụng cho các tổ trưởng tổ vay vốn.
* Tập trung tăng suất đầu tư trên một hộ vay
Hiện tại NHNo Huyện Vụ Bản mới cho vay được 14,25 % số hộ trên địa bàn, số hộ còn lại không có nhu cầu vay hoặc không đủ điều kiện vay. Như vậy việc mở rộng tín dụng theo diện hộ là hạn chế. Trong thời gian tới NHNo Vụ Bản nên tập trung tăng suất đầu tư trên hộ vay, bởi mức vay bình quân mới đạt 23 triệu đồng / hộ mức này còn thấp so với tình hình kinh tế của địa bàn. Đây là một giải pháp rất hay nó vừa giúp ngân hàng hạn chế được việc đầu tư dàn trải nhỏ lẻ tốn chi phí vừa giúp ngân hàng mở rộng dư nợ.
Bên cạnh đó nều ngân hàng tăng thêm suất đầu tư trên một hộ sản xuất sẽ tạo diều kiện cho hộ sản xuất mở rộng hơn, giúp cho các hộ sản xuất không phải sản xuất nhỏ lẻ, manh mún như hiện nay. Đồng thời nó còn tạo điều kiện cho các hộ sản xuất có thể đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc từ đó tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm làm cho sản phẩm của hộ sản xuất có tính cạnh tranh cao hơn trên thị trường và các hộ sản xuất thu được lợi nhuận cao hơn.
* Các giải pháp khác
- Tăng cường tìm kiếm các dự án sản xuất kinh doanh lớn, khả thi để đầu tư, vừa tăng nhanh khối lượng tín dụng, vừa tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên vẫn phải quan tâm đến những món vay nhỏ tuy chi phí cao nhưng rủi ro thấp.
- Tổ chức phân loại khách hàng để có căn cứ mở rộng hay thắt chặt tín dụng đối với từng loại khách hàng.
- Tăng cường công tác tiếp thị, quảng bá, thái độ giao tiếp văn minh lịch sự để thu hút khách hàng. Có chế độ ưu đãi đối với khách hàng vay lớn, có độ tín nhiệm cao, khách hàng được xếp loại A (ưu đãi về mức vay, thủ tục bảo đảm tiền vay, lãi suất, phí dịch vụ, thời hạn vay ...)
- Trình ngân hàng cấp trên về việc áp dụng mức lãi suất cho vay cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường tín dụng .
- Tăng cường công tác kiểm tra ( chủ yếu là tự kiểm tra ) để phát hiện và chỉnh sửa kịp thời những sai sót, tồn tại, làm lành mạnh hoá địa bàn tín dụng và chất lượng tín dụng.
- Tiếp tục duy trì và bổ sung chỉnh sửa cơ chế khoán đến nhóm và người lao động nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng, trên cơ sở lấy 5 chỉ tiêu cơ bản làm căn cứ tính điểm khoán cho cán bộ tín dụng là: thu lãi, thu nợ 238, dư nợ, nợ quá hạn và chấp hành chế độ.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức lương tâm nghề nghiệp cho CBCNV. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại nghiệp vụ, chủ yếu là đào tạo tại chỗ, chú ý đào tạo chuyên sâu các lĩnh vực hoạt động chính như tin học, thẩm định...
- Hiện đại hoá thêm một bước cơ sở vật chất thiết bị hiện có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác kinh doanh, trước hết là hoàn chỉnh đề án cơ cấu lại Ngân hàng của WB.
- Phối hợp với các ngành chức năng tập huấn cho người dân các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng xuất cây trồng vật nuôi, năng xuất lao động, phổ biến để người dân hiểu rõ về cơ chế chính sách tín dụng của Ngân hàng.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp nhằm giảm mức độ rủi ro của hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất của ngân hàng
* Thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, ngăn ngừa nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ quá hạn phát sinh
Thực hiện phân tích nợ thường xuyên đối với nợ vay trung hạn. Thực hiện tốt việc kiểm tra, phân tích để phân loại nợ.
- Nợ vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, có khả năng để trả nợ đúng hạn.
- Nợ vay sử dụng sai mục đích, không có hiệu quả, có vấn đề, có dấu hiệu khó khăn trong việc trả lãi, trả nợ.
Đối với nợ vay quá hạn cần phân loại nợ quá hạn có khả năng thu hồi và nợ quá hạn khó có khả năng thu hồi.
Việc phân loại nợ như vậy để có biện pháp thích hợp trong việ thu nợ. Đồng thời phải không ngừng củng cố mối quan hệ với chính quyền địa phương để tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ của các cấp chính quyền trong việc điều tra cho vay, quản lý hộ vay, xử lý thu nợ đến hạn, nợ quá hạn có hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng.
Khi hộ vay vốn thực sự không còn khả năng trả nợ quá hạn, cán bộ tín dụng thường xuyên tiếp cận và tranh thủ mùa màng hoặc sự tài trợ của anh em họ hàng, động viên hộ trả nợ và có thể bày cách làm ăn cho hộ tạo nguồn thu để trả nợ Ngân hàng. Đối với những hộ có tính chất bỏ nợ, trốn nợ không cư trú tại địa phương sẽ phải có kế hoạch truy tìm địa chỉ bằng cách dò tìm qua con đường thư tín và điện thoại để tìm địa chỉ chủ nợ, sau đó sẽ đưa công văn vào nơi cư trú mới của họ để nhờ Ngân hàng bạn thu nợ, hoặc cử người trực tiếp đi thu nợ.
*. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra
Thực hiện kiểm tra thường xuyên, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chéo, lựa chọn cán bộ kiểm tra có năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm nhằm kiểm tra việc tuân thủ các quy trình nghiệp vụ trong cho vay, phân tích làm rõ nguyên nhân và chỉnh sửa kịp thời các thiếu sót, tồn tại yếu kém phát hiện qua kiểm tra. Đánh giá năng lực cán bộ, chất lượng công tác tín dụng.
Nghiên cứu, lựa chọn đổi địa bàn để bố trí hợp lý cán bộ tín dụng, khai thác tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng và phát huy năng lực của mỗi cán bộ tín dụng, đồng thời nhiều vấn đề, nhiệm vụ việc được phát hiện sau khi đã đổi địa bàn. Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ hoạt động tín dụng cần phải tăng cường hơn trong việc kiểm tra chấp hành nghiêm chỉnh các quy chế, cơ chế, quy trình nghiệp vụ cho vay, kiểm tra hồ sơ cho vay: Hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế, hồ sơ vay vốn, hồ sơ giải quyết cho vay của ngân hàng, hồ sơ đảm bảo của khách hàng vay vốn, đảm bảo an toàn mọi mặt trong hoạt động kinh doanh tín dụng. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ chủ động xây dựng chương trình tự kiểm tra, kiểm tra 100% hồ sơ vay vốn phát sinh, phát hiện các thiếu xót vi phạm để kiến nghị chấn chỉ kịp thời, giúp Giám đốc điều hành kinh doanh đúng pháp luật đảm bảo an toàn vốn mọi lúc, mọi nơi.
* Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định trước cho vay
Cần đầu tư hơn nữa cho hoạt động tổ chức và quản lí nhân sự trong thẩm định.
Trong hoạt động thẩm định cán bộ thẩm định trực tiếp tổ chức công tác thẩm định về khách hàng cũng như tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh do khách hàng mang đến. kết quả của hoạt động này là dựa trên sự đánh giá, xem xét chủ quan của cán bộ thẩm định dựa trên các cơ sở khoa học và các chuẩn mực khác. Do vậy muốn cải thiện chất lượng thẩm định trước khi ra quyết định cho vay hay không thì đầu tiên là phải đầu tư nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ một cách đích đáng. Muốn vậy ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược dài hạn về nguồn nhân lực.
Khai thác thông tin từ nhiều nguồn và nâng cao chất lượng thông tin. Tăng cưòng trang bị thiết bị tin học và nâng cao chất lượng các phần mềm ứng dụng.
Các tổ chức tín dụng khi cho bất cứ doanh nghiệp nào vay thì đều cần phải có thông tin về doanh nghiệp đó. Các thông tin mà các tổ chức tín dụng cần quan tâm là năng lực pháp lý, năng lực của người lãnh đạo điều hành doanh nghiệp, tình hình tài chính, năng lực kinh doanh, môi trường hoạt động kinh doanh, môi trường của dự án…để có thể đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay được vốn là một vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích các nguồn đó. Đó là chưa nói tới những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro tổn thất cho ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro ngân hàng nói chung là thiếu thông tin chính xác từ người vay, từ thị trường, và thiếu tính khả thi của dự án vay. Vì vậy vấn đề thông tin và xử lý thông tin đặc biệt quan trọng trong hoạt động tín dụng. Để nâng cao chất lượng quản lý và hoạt động tín dụng, các Ngân hàng cần phát triển hệ thống thông tin trên các lĩnh vực.
+ Xây dựng hệ thống thông tin thẩm định và giám sát, xử lý tín dụng. Nội dung thông tin thẩm định gắn liền với nội dung cần thẩm định khách hàng, đó là các mặt, các chỉ tiêu, các biểu hiện phản ánh năng lực hoạt động của khách hàng và tính khả thi của dự án.
+ Xây dựng phương tiện, cơ sở vật chất, phục vụ cho việc lưu trữ, khai thác, trao đổi thông tin trong hệ thống.
+ Xây dựng mối quan hệ trao đổi, mua bán thông tin giữa NHNN với các Ngân hàng , giữa ngân hàng với các cơ quan khác.
+ Xây dựng hệ thống thông tin phân tích khả năng sinh lời theo loại hình sở hữu, theo ngành nghề, quy mô…
+ Xây dựng hệ thống thông tin đánh giá rủi ro tiềm ẩn: Rủi ro tiềm ẩn bao gồm như: Rủi ro theo ngành nghề, rủi ro tài sản thế chấp, rủi ro lãi suất, rủi ro do thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước, rủi ro hối đoái.
+ Tăng cưòng trang bị thêm các thiết bị tin học và nâng cao chất lượng các phần mềm ứng dụng nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc
*. Cần xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý
Chính sách tín dụng là một hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn trong đầu tư tín dụng của một ngân hàng.
- Mục tiêu của chính sách tín dụng là lợi nhuận, an toàn, lành mạnh. Vì vậy phải xây dựng được một chính sách tín dụng hài hoà giữa các mục tiêu đó. Chính sách tín dụng có tác dụng rất lớn đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Chính sách tín dụng của Ngân hàng được xây dựng trên cơ sở căn cứ vào quy mô, tính chất nguồn vốn của ngân hàng, dựa trên lĩnh vực Ngân hàng tài trợ, trình độ khả năng kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý của Ngân hàng, chính sách của Đảng và nhà nước tác động đến hoạt động tín dụng và hoạt động của các ngành kinh tế khác như chính sách về thuế, chính sách tiền tệ của NHTW…nhu cầu thị trường, chu kỳ phát triển của nền kinh tế. Xây dựng chính sách tín dụng có cơ cấu đầu tư hợp lý giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, theo ngành kinh tế. Thực hiện đầu tư tín dụng có trọng điểm, chú ý đầu tư vào những ngành nghề , những lĩnh vực mũi nhọn.
- Xác định thị trường chính là nông nghiệp nông thôn ,khách hàng chủ yếu là hộ sản xuất, kinh doanh tư nhân , cá thể.Phân chia thị trưởnga từng mảng để có quyết sách đầu tư đúng hướng ,làm cho cán bộ dễ dàng tiếp cận ,thực hiện tác nghiệp nhanh chóng, an toàn để chiếm lĩnh mở rộng thị trường.
- Xác định thời gian cho vay và lãi xuất cho vay 1 cách hợp lý sẽ tạo điều kiện cho khách hàng phát triển sản xuất. Nếu thời gian cho vay, lãi xuất cho vay phù hợp sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả, Ngân hàng sẽ thu hồi được vốn, Nếu việc xác định thời hạn cho vay ngắn khách hàng chưa đủ thời gian thu hòi vốn, khách hàng không trả được nợ. Nếu thời hạn cho vay dài vượt thời gian có thể trả nợ thì khách hàng có thể sử dụng vốn vào mục đích khác dẫn đến có thể không trả được nợ, và Ngân hàng có thể bị rủi ro về mặt lãi xuất.
- Tập trung vốn tín dụng đầu tư các dự án lớn có tính khả thi cao, khách hàng lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật phụ hợp với chiến lược phát triển kinh tế góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước. Kiên quyết rút dư nợ đối với những khách hàng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém thua lỗ không khắc phục được, thực hiện mọi biện pháp để thu hồi được nhanh chóng số nợ hiện còn. Đưa vào danh sách kiểm soát đặc đối với những khách hàng sản xuất kinh doanh yếu kém, vốn chủ sở hữu ít vay vốn nhiều Ngân hàng, nợ vay Ngân hàng lớn...Không nên tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực mà sản phẩm làm ra đã có dấu hiệu bão hoà. Bởi lẽ đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, thị trường tiêu thụ có xu hướng giảm nhanh.
- Về cơ cấu cho vay cần tập trung chuyển dịch đầu tư vào một số ngành hàng có tính đặc thù năng lực cạnh tranh cao.
- Cần xác lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng – Hội Nông dân – nhà doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm dịch vụ đầu vào cho quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản thông qua việc ký hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vốn cho sản xuất và tiêu thụ . (Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 80/2002/QĐ- TTg ngày 24/6/2002 “ Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản phẩm hàng hoá thông qua hợp đồng” tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện chưa có hiệu quả.)
3.3. Những kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước
Vấn đề hợp tác xã hiện nay đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước và các ngành quan tâm. Song không nên thúc đẩy quá mức để nó phải ra dời hoặc chuyển đổi khi chưa đủ điều kiện vì như vậy sẽ rất khó khăn cho hoạt động của chính các HTX, đặc biệt là trong quan hệ vay vốn Ngân hàng. Cũng chính và thế vô tình đã đặt Ngân hàng trong tình trạng khó sử bởi: 80% số HTX hiện nay là hữu danh, vô thực ( phát biểu của ông Lê Đức Thuý, Thống đốc NHNN tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X ).
Nhà nước cần có những biện pháp đồng bộ để ổn định tiền tệ hơn nữa; duy trì mức lạm phát vừa phải để ổn định nền kinh tế vĩ mô đồng thời tạo tư tưởng yên tâm cho người dân khi gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng cũng yên tâm trong đầu tư không sợ rủi ro về lãi suất.
Luật đất đai năm đã được sửa đổi và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004, Nhà nước cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn để luật sớm đi vào cuộc sống, tạo điều kiện cho người dân phát huy quyền sử dụng đất của mình trong việc vay vốn Ngân hàng.
- Trong quá trình đổi mới Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quyết định… Đã được các ngành chức năng cụ thể hoá để thực hiện, kết quả mang lại đã rõ, song một số chính sách, quyết định của Nhà nước đưa ra nhưng các ngành chức năng còn chậm trễ trong việc ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành - đề nghị Nhà nước có biện pháp chỉ đạo cụ thể hơn.
- Như chúng ta vẫn biết hoạt động tín dụng ở địa bàn nông thôn là rất gian nan và phức tạp; Nhiều vấn đề phát sinh không những gây hậu quả xấu đến chất lượng tín dụng, gây ảnh hưởng thanh danh, uy tín, nhân phẩm cán bộ tín dụng, mà đặc biệt nhiều trường hợp cả tính mạng cán bộ tín dụng bị đe doạ. Thực tế những năm vừa qua nhiều cán bộ tín dụng đã bị “ Thượng đế” hành hung vô cớ, một số cán bộ tín dụng bị sát hại dã man trong khi làm nhiệm vụ.
Đề nghị Nhà nước có chính sách đối với cán bộ tín dụng bị sâm hại tính mạng trong khi làm nhiệm vụ như liệt sĩ trong thời bình.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, công tác kiểm tra là không thể thiếu, để bảo toàn vốn kinh doanh. Tuy nhiên các Ngân hàng cơ sở vẫn xác định tự kiểm tra, kiểm soát là chính, xong không thể không có sự kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Mẹ. Đề nghị ngân hàng Nhà nước tăng cường hơn nữa việc kiểm tra đối với các chi nhánh Ngân hàng thương mại để phát hiện sử lý hoặc ngăn chặn kịp thời những sai phạm nhằm giữ ổn định và an toàn cho mỗi ngân hàng và toàn hệ thống và ngăn chặn lạm pháp qua con đường tín dụng. Tuy nhiên trong kiểm tra không nên áp dụng quá máy móc, làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
- Cần nhanh chóng có những chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hợp tác và hội nhập
- Có văn bản qui định chế tài thanh toán không dùng tiền mặt nghiêm khắc hơn , cần tham mưu cho chính phủ ra các văn bản qui định chặt chẽ hơn nữa về thanh toán không dùng tiền mặt để hạn chế tham nhũng và chống các hành vi khác
- Hoàn chỉnh các văn bản pháp lý để các NHTM tự chủ tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình trong khuôn khổ pháp luật Việt nam
- Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu để kiềm chế lạm pháp thay vì biện pháp hiện tại là tăng dự trữ bắt buộc và bắt buộc các ngân hàng mua tín phiếu NHNN để rồi các ngân hàng phải ồ ạt tăng lãi suất như trong những ngày cuối tháng 2 vừa qua,như vậy khi lãi suất tăng cao thì hàng loạt tác động không mong muốn sẽ xẩy rav với nền kinh tế ,với khách hàng và với các ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ .
3.3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam
NHNo&PTNT là Ngân hàng thương mại có số biên chế đông nhất, mạng lưới hoạt động rộng nhất, với các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố, huyện, xã, liên xã. Với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội ở từng vùng khác nhau thì kết quả hoạt động Ngân hàng ở từng vùng cũng khác nhau ở đâu có môi trường kinh tế phát triển thì ở đó kinh doanh Ngân hàng có nhiều thuận lợi và ngược lại. Kinh doanh Ngân hàng ở Nông thôn, gặp muôn vàn khó khăn so với vùng đô thị do đó đề nghị ngân hàng nông nghiệp trung ương có những chính sách ưu đãi hơn với các ngân hàng ở vùng nông thôn.
- Khẩn trương thực hiện các bước để thực hiện cổ phần hoá và xây dựng NHNo & PTNT Việt nam thành tập đoàn tài chính
- Cần có chương trình kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại hơn nữa cho các chi nhánh thành viên trong toàn hệ thống ( máy ATM,các loại thể)
- Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại tất cả các mặt nghiệp vụ.
- Cần triển khai thêm nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, phù hợp với các nước trên thế giới trong quá trình hội nhập hiện nay để chiếm được ưu thế cạnh tranh ngay trên sân nhà.
- Về chế độ với cán bộ tín dụng: Đặc điểm của hoạt động cán bộ là tín dụng chủ yếu là đi lại và làm việc ngoài trời, đề nghị NHNo&PTNT Việt nam nghiên cứu và có chế độ phụ cấp lao động ngoài trời cho cán bộ tín dụng.NHNo&PTNT nghiên cứu và điều chỉnh tăng mức khoán công tác phí, vì nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh tăng giá xăng dầu đến nay gia xăng đã lên quá cao.
- Tăng cường hơn nữa việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ để nâng cao trình độ về mọi mặt cả lý luận và thực tiễn cho cán bộ công nhân viên.
3.3.4. Kiến nghị với NHNo & PTNT tỉnh Nam Định
- NHNo&PTNT tỉnh Nam định là cấp trung gian giữa NHNo&PTNT Việt Nam đến NHN0&PTNT các huyện và ngược lại. Mọi thông tin từ Ngân hàng cơ sở phải được NHNo tỉnh chọn lọc, tổng hợp trước khi gửi đến NHNo&PTNT Việt Nam, mọi văn bản chỉ thị của NHNo&PTNT Việt Nam phải được NHNo&PTNT tỉnh hướng dẫn chi tiết để Ngân hàng cơ sở thực hiện
- Đề nghị NHNo & PTNT tỉnh Nam định nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể các văn bản của Ngân hàng cấp trên trước khi gửi xuống cơ sở để thực hiện, tránh sao chụp đơn thuần làm cho việc thực hiện ở Ngân hàng cấp huyện lúng túng hoặc vận dụng không đồng nhất.
- Đề nghị NHNo & PTNT tỉnh Nam định có chính sách khoán dư nợ hợp lý cho và điều chỉnh tăng đơn giá tiền lương khoán cho chi nhánh NHNo & PTNT huyện Vụ bản.
- Đề nghị NHNo & PTNT tỉnh Nam Định có chương trình đào tạo để cán bộ quản lý có kiến thức cơ bản trong một số lĩnh vực quản lý điều hành kinh doanh công nghệ thông tin, mở rộng thị phần.
- Đối với công tác kiểm tra, kiểm soát, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra của tỉnh đối với NHNo & PTNT huyện. Đề nghị NHNo & PTNT tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm tra chuyên đề để giúp cho NHNo & PTNT huyện khắc phục những hạn chế, yếu kém vươn lên đạt kết quả tốt hơn trong hoạt động kinh doanh.
- Hàng năm tổ chức các cuộc thi tay nghề đối với cán bộ nghiệp vụ để nâng cao trình độ nghiệp vụ và làm cơ sở cho việc bố trí sắp xếp cán bộ hợp lý hơn.
- Đối với hoạt động dịch vụ của NHNo & PTNT tỉnh Nam Định hiện còn quá nghèo nàn so với các ngân hàng TMQD cũng như các ngân hàng TMCP trên địa bàn. Trong điều kiện cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt quyết liệt, nếu không nâng cao chất lượng tín dụng và các hoạt động dịch vụ thì không những sẽ không thu hút được mà còn bị mất khách hàng, mất thị trường. Đề nghị NHNo & PTNT tỉnh mở rộng các hoạt động dịch vụ nhằm thu hút khách hàng tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng tăng vị thế của Ngân hàng trong thương trường.
3.3.5. Kiến nghị với NHNo&PTNT Huyện Vụ Bản
- Đối với công tác kiểm tra: Trong những năm qua công tác kiểm tra đã được NHNo & PTNT huyện Vụ Bản quan tâm. Thông qua kiểm tra đã phát hiện kịp thời những tồn tại, yếu kém trong hoạt động kinh doanh, góp phần trong việc nâng cao chất lợng tín dụng tại Ngân hàng cơ sở. Song với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra vẫn chưa đạt yêu cầu nhất là công tác tự kiểm tra của các phòng giao dịch. Đề nghị NHNo & PTNT huyện Vụ Bản đưa chỉ tiêu tự kiểm tra vào việc giao và quyết toán kế hoạch. Bình xét lao động giỏi để nâng cao trách nhiệm của mỗi người, trong việc kiểm tra, nâng cao chất lượng tự kiểm tra, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng và thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
- Đối với công tác tổ chức: Đề nghị NHNo & PTNT huyện Vụ Bản cần ưu tiên cho mặt trận tín dụng, ưu tiên những cán bộ có trình độ tín dụng, phân công vào những địa bàn trọng yếu, để nâng cao chất lượng tín dụng và hoạt động kinh doanh của toàn Ngân hàng huyện.
- Cần có chính sách khoán sát thực hơn nữa nhất là việc giao kế hoạch dư nợ cho từng CBTD thích ứng với từng địa bàn để khắc phục được tình trạng có cán bộ thì cho vay cầm chừng trong khi đó thì cán bộ khác lại phải vất vả mà không sao hoàn thành được kế hoạch dư nợ do địa bàn quá khó khăn.như vậy mới khuyến khích được CBTD Từ đó mới đảm bảo nâng cao được chất lương tín dụng
- Cần đưa ra mức thưởng cho CBTD thu được nợ đã xử lý rủi ro.
- Đối với những xã có khó khăn đề nghị Ngân hàng huyện nên quan tâm giúp đỡ giải quyết tháo gỡ khó khăn để tạo môi trường kinh doanh trong sạch tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.
Hệ thống NHNo&PTNT có ưu thế về mạng lưới chi nhánh, về số lượng cán bộ nhân viên trong việc mở rộng cho vay và nâng cao chất lợng tín dụng đối với khu vực nông thôn song trong điều kiện cạnh tranh giữa các Ngân hàng thơng mại ngày càng gay gắt, nếu không làm tốt công tác tiếp thị, không có chính sách đối với khách hàng sẽ bị mất dần khách hàng. Đề nghị NHNo & PTNT huyện Vụ Bản vận dụng linh hoạt lãi suất cho vay trong khu vực thị trường có cạnh tranh, đồng thời làm tốt công tác tiếp thị đối với khối cơ quan, trường học để bảo vệ giữ vững và mở rộng khách hàng, vì đây là môi trường đầu tư rất tốt, chất lượng đầu tư cao, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường.
KẾT LUẬN
Chủ trương đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã và đang thành công, nhất là khi nước ta đã ra nhập WTO. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, lấy mô hình hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ thì việc đầu tư vốn tín dụng đến hộ nông dân là một tất yếu. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đổi mới trong nông nghiệp là trọng tâm, là khâu đột phá cho sự phát triển kinh tế nông thôn nước ta.
Từ vai trò quan trọng của kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta cho thấy giải pháp về đầu tư vốn cho hộ sản xuất là giải pháp cơ bản, quan trọng hàng đầu để ý Đảng phù hợp với lòng dân và các chính sách của Đảng đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên đây là chủ trương không mới nhưng trong quá trình thực hiện chưa thể hoàn chỉnh ngay được mà còn có những vấn đề tồn tại là thứ yếu và chắc chắn sẽ được hoàn thiện dẫn trong quá trình vận động đi lên.
Thực trạng chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản đã đầu tư vốn cho hộ sản xuất trong những năm vừa qua đạt kết quả khá tốt, tạo điều kiện cho kinh tế hộ trên toàn huyện phát triển, cũng đồng thời giải quyết vấn đề mở rộng kinh doanh tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT huyện, chất lượng tín dụng được duy trì và củng cố góp phần vào sự lớn mạnh chung của toàn hệ thống. Trong quá trình thực hiện ở ngân hàng cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mà ở tầm ngân hàng cơ sở không đủ điều kiện giải quyết.
Với những kiến thức, tài liệu thu thập được trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Vụ Bản , thông qua đề tài“Hoạt động đầu tư cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản – Tỉnh Nam Định”. Em đã đưa ra những giải pháp và kiến nghị với các cấp, các ngành có liên quan, quan tâm để cùng hoàn thiện vấn đề đầu tư cho vay hộ sản xuất nói chung và cho vay hộ sản xuất ở chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vụ Bản nói riêng.
MỤC LỤC
DANH SÁCH BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 : Nguồn vốn huy động và cơ cấu nguồn vốn huy động 32
Bảng 2.2: Tỉ lệ hộ sản xuất được vay vốn của ngân hàng 34
Bảng 2.3: Quy mô và tỉ trọng dư nợ hộ sản xuất 36
Bảng 2.4 : Tổng hợp doanh số chuyển nợ, thu nợ quá hạn 37
Bảng 2.5: Tình hình nợ quá hạn hộ sản xuất 39
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất 39
Bảng 2.6: Bảng phân tích tình hình nợ quá hạn hộ sản xuất theo thời gian 40
Biểu đồ 2.2 : Thể hiện nợ qúa hạn phân theo thời gian 41
Bảng 2.7 : Vòng quay vốn tín dụng 43
Bảng 2.8 : Tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện………..…48
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21593.doc