Lời nói đầu
Khi các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở của con người đã được đáp ứng thì nhu cầu được bảo vệ lại trở thành nhu cầu thiết yếu. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã ghi nhận nhiều bước ngoặt to lớn và sự ra đời của Bảo hiểm là một trong những sự ghi nhận đó.
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà thậm chí cho tới hiện giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện khi nào. Từ hình thức sơ khai ban đầu chỉ là các hội tương hỗ sau ph
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1759 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoạt động đại lý Bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển thành các công ty , hiệp hội. Ngày nay hệ thống bảo hiểm đã phát triển rộng rãi trên khắp thế giới với các nghiệp vụ bảo hiểm ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu của con người
Cùng với sự phát triển cao của trình độ dân trí, của nền kinh tế các quốc gia ngày nay,đáng chú ý nhất là nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ ra đời không những đem lại sự an tâm cho mọi người mà còn là một biện pháp tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với mỗi cá nhân, gia đình, tạo quỹ giáo dục cho con em khi đến tuổi vào đại học hay khi lập nghiệo, cưới xin hay nâng cao mức sống khi về hưu.
Hiện nay trong xu thế hội nhập, được sự cho phép của chính phủ thị trường bảo hiểm nhân thọ hiện đang rất phát triển và cạnh tranh sôi nổi, lành mạnh. Các công ty bảo hiểm nhân thọ đều đã thu được những kết quả khả quan từ một thị trường đầy tiềm năng như thị trường việt nam. Góp phần quan trọng vào sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ không thể không kể đến vai trò to lớn của đội ngũ đại lý.
Trong đề án này, em xin trình bày về một số vấn đề về hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ ở việt nam (về đội ngũ con người đầy tâm huyết vì sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và ngành bảo hiểm nhân thọ nói riêng ) Đây là những tài liệu vô cùng quý giá được tham khảo từ rất nhiều sách báo, tạp chí và bao gồm cả ý kiến cá nhân em. Tuy nhiên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót cần được sửa chữa.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Tô Thiên Hương và mong sẽ nhận được nhiều hơn nữa đóng góp của cô để đề án của em được hoàn thiện hơn nữa.
Kết cấu đề án ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 4 phần:
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ
Phần II:Đại lý bảo hiểm nhân thọ
Phần III: Thực trạng và phương hướng nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm nhân thọ
Phần IV: Kiến nghị và giải pháp
Hoạt động đại lý BHNT tại Việt Nam
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm thương mại
a. Nguồn gốc cuả bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh dù đã chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con ngưòi vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân, ví dụ như do môi trường thiên nhiên như: bão lụt , động đất ,sương muối … cũng có thể do sự phát triển của khoa học kỹ thuật hay các rủi ro do môi trường xã hội.
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức , doanh nghiệp và các cá nhân làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế –xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm khắc phục cũng như kiểm soát hậu quả do rủi ro gây nên. Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro ( bao gồm biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro) nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết được hậu quả. Chính vì vậy mà nhóm các biện pháp tài trợ ruỉ ro ( bao gồm các biện pháp chập nhận rủi ro và bảo hiểm ) đã tỏ ra rất hiệu quả. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả của tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
Đặc biệt biện pháp bảo hiểm, đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản trị rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro dưới hình thức hợp đồng. Theo quan diểm xã hội, bảo hiểm không chỉ là sự chuyển giao rủi ro mà còn là giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra .
Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Như vậy bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ xa xưa, hình thức sơ khai ban đầu của bảo hiểm đã xuất hiện dưới dạng quỹ đóng góp chung. Người ta đã tìm thấy những dấu tích còn sót lại của nền văn minh xưa kia, cách thức mà những thị dân đầu tiên đã sử dụng để tổ chức các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế như việc có các kho lúa nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp đã gâp ấn tượng khá mạnh. Và hoạt động mang tính chất bảo hiểm đó đã phát triển dần theo sự phát triển của xã hội loài người
Thông qua kinh nghiệm ngưòi ta đã thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân của một thành phố thu hoạch ở vùng nông thôn xung quanh.Mặc dù mỗi họ gia đình có thể tự dự phòng cho những trường hợp xấu ở trên, tuy nhiên nhưng thị dân sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi ngưòi sẽ phải đóng vào một khoản thuế nhỏ trong những năm được mùa, khi giá lương thực xuống thấp. Người ta thực hiện việc thu mua lương thực có thể dự trữ được chủ yếu là lúa mỳ. Khi gặp mất mùa hoặc khi thành phố bị vây hãm ,cơ quan thuế sẽ xuất ra lương thực dự trữ để nuôi sống thành phố. Vì vậy, ý tưởng về lập một quỹ chung đã xuất hiện trong tiềm thức con người, ý tưởng này tỏ ra rất phù hợp đặc biệt là cùng với sự xuất hiện khái niệm rủi ro, và đó cũng là ý tưởng đầu tiên về bảo hiểm.
Thời kỳ đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các tổ chức bảo hiểm là bảo hiểm hoả hoạn bởi vì các thành phố đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết nhà cửa đều dùng bằng gỗ, người ta dùng lửa để đun nấu và thắp sáng. Vì vậy, rủi ro nhà bắt lửa là rất cao. Trong cộng đồng làng xã trước khi diễn ra quá trình đô thị hoá khi một thành phố bị cháy rụi tất cả những người hàng xóm sẽ hợp sức với nhau để giúp xây dựng lại ngôi nhà. Nguyên tắc trợ giúp tương hỗ trực tiếp được áp dụng. Ngược lại ở thành phố làm những nghề chuyên môn họ không có khả năng và thời gian để giúp hàng xóm để giúp hàng xóm xây dựng lại ngôi nhà trong trường hợp xảy ra hoả hoạn. Thay vào đó họ đóng phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm để nhận được hai cam kết đó là cung cấp dịch vụ cứu hoả và bồi thường bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm để tạo cho họ thuê mướn những người thợ chuyên môn cần thiết sửa chữa lại hư hỏng.
Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện. Một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những trường hợp được nêu trong bản hợp đồng bảo hiểm. Không ai có thể biết chắc chắn được tuổi thọ của một ai đó là bao nhiêu. Các nguyên tắc tính toán được sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm để làm cơ sở cho việc thành lập một quỹ chung bảo hiểm sinh mạng cho con người.
b. khái niệm
Có định nghĩa cho rằng” bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp phải một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên”. Định nghĩa này chỉ mơí đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa rõ phương thức sử dụng nó. Lại có khái niệm khác” boả hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quy dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm. Đây là định nghĩa mang tính chung nhất của bảo hiểm.
Cũng có định nghĩa chỉ rõ đặc trưng riêng của một loai hình bảo hiểm cụ thể.
Dù có nhiều khái niệm khác nhau nhưng người ta đều nhận rõ mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia, từ đó khắc phục và phát triển đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
2. bảo hiểm nhân thọ
a. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Kinh tế phát triển làm cho đời sống của nhân dân không ngừng được tăng lên và nó cũng tạo ra một lớp ngưòi có thu nhập cao trong xã hội, họ là những người có hiểu biết, có nguồn tiết kiệm dồi dào và mong muốn có một cuộc sống ổn định, sung túc. Với số tiền nhàn rỗi họ tiến hành đàu tư vào các lĩnh vực khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó bảo hiểm nhân thọ là một ling vực thích hợp.
Bảo hiểm là loại hình bảo hiểm có liên quan đến cuộc sống của con người, nó bao gồm nhiều loại hình khác nhau như: An sinh giáo giục, bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 5-10 năm.v.v…
Bên cạnh đó, việc lo cho tuổi già và khi về hưu đang là vấn đề được xã hội quan tâm, lo lắng và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu nhập từ lương hưu nhưng thực tế khó có thể đáp ứng được đâỳ đủ các nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống. Ngoài ra, phần lớn người già không có lương hưu phải sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống, đó là vấn đề bức xúc của xã hội. Khi tuổi già càng cao thì nguồn tài chính càng cạn kiệt, do vậy khi còn trẻ xu hướng dành dụ một khoản tiền khi về già càng ngày cao, đặt biệt là đối với người làm việc chưa có bảo hiểm xã hội, thậm chí nhiều người muốn bên cạnh khoản trợ cấp này cò một khoản thu thêm. Bảo hiểm nhân thọ đã đáp ứng nhu cầu này cho họ.
b. Các loại hình
Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Đỗi với những người tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những người ăn theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai…do vậy, người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, thực chất là đa dạng hoá các loại hợp đồng nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm
Chúng ta có thể phân chia bao rhiểm nhân thọ ra thành nhiều loại hình theo các tiêu thức khác nhau:
Phân chia theo sự cố bảo hiểm
+ Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
+ Bảo hiểm trong trường sống
+ Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Phân chia theo thời hạn của hợp đồng bảo hiểm
+ Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời
Một số loại hình khác
+ Bảo hiểm trợ cấp hưu trí
+ Bảo hiểm học phí
+ Bảo hiểm trẻ em
Bảo hiểm nhân thọ đã phát triển khắp thế giới và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước. Không giống như bảo hiểm phi nhân thọ, trong bảo hiểm nhân thọ mọi biến cố đều được đảm bảo, trên thế giới hiện nay đã phát triển rất nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau, để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của mỗi người. Tuy nhiên, trong thực tế hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thế giới đang triển khai 4 loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản sau:
+ Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn
Đối với loại hình bảo hiểm này, nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm, số tiền bảo hiểm chỉ được thanh toán trong trường họp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Độ dài của thời hạn bảo hiểm rất khác nhau, nhưng hiện nay thường là trên một năm. Đặc điểm cơ bản của loại sản phẩm nay là:
++Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết trong thờihạn được bảo hiểm.
++Thời hạn bảo hiểm được xác định theo năm hoặc theo kỳ
++Phí bảo hiểm không thay đỏi trong suốt thời hạn bảo hiểm và được đóng định kỳ
++Không có giá trị giải ước,nghĩa là không được nhận BTBH khi huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc hợp đồng. Chính vì vậy, số tiền bảo hiểm thấp phù hợp với người có thu nhập thấp nhưng cần bảo đảm trách nhiệm cao.
+Bảo hiểm nhân thọ trọn đời( bảo hiểm trường sinh)
loại hình bảo hiểm này là cam kết chỉ trả cho người thụ hưởng một số tiền bảo hiểm đã được ấn định trong hợp đồng khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký kết hợp đồng
Một số đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này là:
++Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết
++Thời hạn bảo hiểm không xác định
++Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hay định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm
++Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn
++ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm, do đó tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời có các mục đích sau:
=>Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất
=>Đảm bảo các thu nhập để ổn định đời sống gia đình
=>Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau
+ Bảo hiểm trong trường hợp sống( bảo hiểm sinh kỳ)
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất cứ khoản nào.
Bảo hiểm trong trường hợp này có một số đặc điểm sau:
++Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết
++Phí bảo hiểm đóng một lần
++Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định
Mục đích của loại hình này là:
=>Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay khi tuổi già sức yếu
=>giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội và con cái khi tuổi già.
Như vậy, loaị hình này rất phù hợp đối với những người khi về hưu và nhưngc người không được hưởng trợ cấp hưu trí từ bảo hiểm xã hội khi đến độ tuổi tương ứng với độ tuổi về hưu đăng ký tham gia để được hưởng trợ cấp đều đặn hàng tháng
+ Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong hoặc còn sống. Yếu tố đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới.
Đặc điểm:
++Số tiền bảo hiểm được trả khi hết hạn hợp đồng hay khi người được bảo hiểm bị tủ vong trong thời hạn bảo hiểm.
++Thời hạn bảo hiểm được xác định cụ thể ( thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm )
++Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.
++Có thể chia lãi thông qua việc đầu tư của công ty bảo hiểm và có thể đựơc hoàn phí khi không có điều kiện tham gia tiếp
Mục đích của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
=>Đảm bảo ổn định cuộc sống cho gia đình và người thân
=>tạo lập quỹ giáo dục,hưu trí, trả nợ
=>Dùng làm vật thế chấp vay vốn hay khởi nghiệp khi triển khai, các công ty có thể đa dạng hoá sản phẩm băng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, có lợi nhuận và các loại hình khác nhau tuỳ theo tình hình thực tế
c. Lịch sử ra đời và phát triển của BHNT
BHNT đã có lịch sử hơn 400 năm tồn tại và phát triển. Đây là một quãng thời gian khá dài để nói nên sự tồn tại bền bỉ và ngày càng lớn mạnh của loại hình bảo hiểm này. Đối với các nước trên thé giói đặc biệt là các nước đang phát triển, loại hình này đã được biết đến từ khá lâu và được phát triển rông rãi. BHNT đầu tiên được ký với người được bảo hiểm là William Gybbon tại London( Anh). Thực tế ông chỉ đóng 32 bảng Anh phí bảo hiểm nhưng khi ông mất,người thừa kế của ông lại được 400 bảng Anh. Vào thời kỳ đầu, nhiều tổ chức bảo hiểm ở các nước đã xuất hiện nhưng đều chỉ mang tính chất sơ khai được hình thành trên cơ sở phong tục tập quán của từng xã hội. ở Hy Lạp năm 1750 TCN,Nhà nước quy định chỉ bồi thường cho người thuê nhà bị bọn cướp sát hại tuy nhiên người ta không biết mức đóng góp cụ thể là bao nhiêu.
Các phường hội thời trung cổ: Hợp đồng thưo hình thức tương hỗ, các thành phố có trách nhiệm với nhau trong lúc gặp rủi ro. Tuy nhiên hội này không tổ chức cho mục đích từ thiện mà là vì tôn giáo, xã hội và quyền lợi kinh tế từ những hội viên là sự đảm bảo của mục đích hay là sự bồi thường cho những tổn thất do tai nạn.
Công ty BH tương hỗ đầu tiên là hội BHNT và hưu trí. Hội này do các nhà buôn vải thành lập ngày 4/10/1699. Nhưng chỉ ít năm sau hội đã phải giải tán vì nợ nần. Và 7 năm sau đó công ty BHNT suốt đời được thành lập. Nó chỉ giới hạn gồm 200 thành viên, quyền lợi bảo hiểm được xác định theo một mức duy nhất và không được quy định trước, phụ thuộc vào số ngươì chết trong từng năm.
Năm 1759 Công ty BHNT được thành lập ở Philadelphia, Mỹ, đây là Công ty BHNT lâu đời nhất tồn tại trên thế giới.
Đến năm 1762, Công ty BHNT đầu tiên ở Anh mới được thành lập và bán bảo hiểm rộng rãi cho mọi người dân, phí bảo h iểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm và công ty đã tỏ ra thận trọng hơn trong việc quản lý quỹ và các hợp đồng bảo hiểm.
ở Châu á, với sự có mặt của công ty Meiji, Nhật bản là quốc gia đầu tiên triển khai loại hình BHNT. Sau 7 năm độc quyền đến năm 1889 hai Công ty BHNT lớn khác ra đời là Teikoko và Nippon.
Hiện nay các công ty BHNT trên thế giới đã cho ra đời nhiều loại sản phẩm BHNT với hàng trăm tên gọi khác nhau. Sự cạnh tranh trên thị trường này là khá gay gắt. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển, mỗi công ty BHNT đều thiết kế những sản phẩm mang đặc thù riêng đáp ứng được nhu cầu của người dân ở từng khu vực, phù hợp với chính sách của từng quốc gia. Trên thế giới hiện doanh số BHNT chiếm khoảng 50% doah số toàn nghành bảo hiểm: ở Châu mỹ năm 1990 phí BHNT chiếm 24,8%, Châu Âu 31,4% ,Châu á 33,8% so với tổng phí BHNT trên thế giới.
ở Việt Nam BHNT có thể được coi như xuất hiện từ thời pháp thuộc trước năm 1954, ở Miền Bắc khi những viên chức làm việc cho Pháp được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm, các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty của Pháp thực hiện. Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đã có công ty Bảo Hiểm Hưng Việt triển khai một số loại hình như Bảo hiểm trường sinh và An sinh giáo dục. Nhưng công ty này chỉ hoạt động trong thời gian ngắn 1-2 năm cho nên người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm này.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nứơc ,nhận thức được tình hình, Bảo Việt đã tổ chức nghiên cứu đề tài “ Lý thuyết về BHNT và sự vận dụng vào thực tế tại Việt Nam” và đã được Bộ Tài Chính công nhận là đề tài cấp Bộ. Tuy vậy trong những năm cuối thập kỷ 80 chưa thực hiẹn được việc triển khai BHNT vì tình hình nước ta đang gặp nhiều khó khăn. Bước sang thập kỷ 90, với cơ chế đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, năm 1990 Bộ tài chính đã cho phép Bảo Việt triển khai BH sinh mạng cá nhân. Đến năm 1995 đã có trên 500000 người tham gia với tổng số phí trên 10 tỷ đồng. Ngày 20-3-1996, Bộ tài chính đã ký quyết định số 281/ TC-NH cho phép Bảo Việt triển khai 2 loại hình BHNT,BHNT có thời hạn 5,10 năm và An sinh giáo dục.
Ngày 22-6-1996 Bộ Tài chính ký quyết định số 568/QD/TCCB thành lập công ty BHNT trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, gọi là Bảo Việt Nhân Thọ. Đây là công ty bảo hiểm nhân thọ duy nhất ở Việt Nam triển khai BHNT đi vào hoạt động ngày 2-8-1996. Đến ngày 15-1-1997 đã có 225 hợp đồng trên 25 đại lý. Hiện nay công ty đã triển khai BHNT trên khắp 61 tỉnh, thành phố và tại Hà Nội đã thành lập được 18 phòng khai thác BHNT.
Cho đến nay, khi Bộ tài chính cho phép mở rộng thị trường bảo hiểm nhân thọ để hội nhập với thị trường bảo hiểm khu vực và trên thế giới đã có nhiều công ty BHNT nước ngoài như Chinfon mannulife, Pdential, AIA, Bảo Minh CMG. Điều đó có nghĩa là thị trường bảo hiểm đang ngày càng được đông đảo người dân hưởng ứng đồng thời đặt ra sự cạnh tranh quyết liệt đối với BHNT Hà Nội.
Phần II: Đại lý bảo hiểm nhân thọ
1. Khái niệm
Theo thuật ngữ pháp lý, đại lý là người làm việc cho một người khác
Trên cơ sở hợp đồng đại lý.
Theo thuật ngữ bảo hiểm ,đại lý bảo hiểm là người làm việc cho doanh nghiệp bảo hiểm,thay mặt doanh nghiệp bán các sản phẩm bảo hiểm cho người mua.
Theo luật kinh doanh bảo hiểm Vịêt Nam điều 84, chương IV thì “ đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan”.
Hoạt động đại lý bảo hiểm là phương thức bán bảo hiểm theo đó đại lý chịu trách nhiệm thu xếp việc ký kết các hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm theo uỷ quyền của doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng đại lý để được hưởng hoa hồng bảo hiểm.
Đại lý bảo hiểm là những người hoặc tổ chưc trung gian giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiềm ,đại diện cho doanh nghiệp và hoạt động vì quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm .Đại lý có thể là tổ chức ngân hàng hay luật sư. Những người này làm đại lý bảo hiểm rất thuận lợi do có sự tiếp xúc với nhiều khách hàng;đồng thời bảo hiểm là một dịch vụ bổ sung cho khách hàng của họ .Đại lý có thể là một cá nhân hoạt động chuyên trách hoặc bán chuyên trách.
Đại lý bảo hiểm hoạt động tại văn phòng hoặc đi đến từng nhà ,từng doanh nghiệp để bán bảo hiểm,thu phí bảo hiểm và đàm phán những thay đổi về nhu cầu bảo hiểm của khách hàng thực tế và tiềm năng .
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định về điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm như sau:
1. Cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây:
a.Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam ;
b.Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
c.Có chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cấp.
2. Tổ chức hoạt động đai lý bảo hiểm phải có đủ điều kiện sau đây:
a. Là tổ chức được thành lập và hoạt động và hoạt động hợp pháp;
b. Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện quy định taị khoản 1 điều này.
3. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị toà án tước quyền hành nghề vì vi phạm các tội theo quy định của pháp luật không được ký kết hoạt động đại lý bảo hiểm “(Điều 86 ,mục 1, chương IV).
Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm bảo hiểm có thể quy định bổ sung các chỉ tiêu khác để đảm bảo chất lượng và ràng buộc trách nhiệm của đại lý .Ví dụ, quy định về kinh nghiệm hoặc thành công và ổn định trong các công việc cũ, bằng cấp, hình dáng khả năng giao tiếp, thái dộ tích cực , tiền ký quỹ,thời gian học việc …Doanh nghiệp bảo hiểm có thể không cho phép nhân viên của doanh nghiệp làm đại lý cho chính mình ;hoặc không cho phép tổ chức và cá nhân được đồng thời làm đại lý cho doanh nghiệp bảo hiểm khác nếu không được sự chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm mà đại lý đang làm việc…
2. Nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lợi
Đại lý phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, có chất lượng các nhiệm vụ đại lý đã được nêu trong hợp đồng đại lý. Nhiệm vụ cụ thể của đại lý bao gồm:
a. Bán các sản phẩm bảo hiểm
Hầu hết đại lý bảo hiểm đều phải thuyết phục các cá nhân, tổ chức có nhu cầu tham gia bảo hiểm mua các sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp. Việc bán bảo hiểm thành công hay thất bại phụ thuộc vào khả năng thuyết phục người khác, vào sự nhanh nhậy, năng động của đại lý. Các phương pháp thường được áp dụng là quảng cáo và nhờ khách hàng hiện tại của đại lý giới thiệu.
Đại lý trao đổi với khách hàng các thông tin đầy đủ, chính xác về doanh nghiệp bảo hiểm và các sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp giải thích về quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng, tư vấn cho khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể hỗ trợ các đại lý thực hiện nhiệm vụ này như in các tờ rơi giới thiệu sản phẩm bảo hiểm, tuyên truyền quản cáo…
b. ký kết hợp đồng
Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, trước hết cần xác định các nhu cầu của khách hàng qua việc phân tích rủi ro. Phân tích rủi ro là phương pháp để xác định nhu cầu của khách hàng và có vai trò quan trọng trong việc bán bảo hiểm. Qua phân tích rủi ro sẽ giúp đại lý bíêt được nhu cầu của khách hàng về từng loại sản phẩm. Việc phân tích rủi ro là cơ sở khoa học giúp đại lý thuyết phục khách hàng mua bảo hiểm dễ dàng hơn, đánh giá rủi ro ban đầu chính xác hơn để định phí bảo hiểm, phục vụ cho việc bán bảo hiểm và ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Sau khi khách hàng đã đồng ý mua sản phẩm bảo hiểm, đại lý bảo hiểm phải cung cấp cho họ đơn bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm ( gọi chung là hợp đồng bảo hiểm). Hợp đồng bảo hiểm là bằng chứng thể hiện khách hàng đã mua sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực thì doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm chi trả, bồi thường cho khách hàng.
Đại lý có thể sử dụng mẫu hợp đồng bảo hiểm in sẵn để cung cấp cho khách hàng và sao lại một bản để gửi cho doanh nghiệp baỏ hiểm. Hoặc doanh nghiệp bảo hiểm gửi hợp đồng bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng hay gửi thông qua đại lý. Xu hướng hiện nay là áp dụng hình thức này do các doanh nghiệp bảo hiểm muốn cắt giảm chi phí, đặc biệt khi các hệ thống soạn thảo, cấp và quản lý hợp đồng bảo hiểm đã được hiện đại hoá bằng các trang thiết bị điện tử, tin học.
Tuy nhiên nhiệm vụ này của đại lý thường được giới hạn về các điều kiện cụ thể, về biểu phí, về tầm cỡ rủi ro.
c. Thu phí bảo hiểm, cấp biên lai hoặc các giấy tờ khác theo sự uỷ quyền và hướng dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm
Các đại lý được phép cấp hợp đồng bảo hiểm có thể lập hoá đơn và thu phí bảo hiểm của khách hàng. Sau khi khấu trừ các khoản hoa hồng phí của mình, đại lý gưỉ số phí bảo hiểm còn lại cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Nếu doanh nghiệp cấp hợp đồng bảo hiểm người tham gia bảo hiểm thường gửi hoặc thanh toán phí trực tiếp cho doanh nghiệp bảo hiểm mà không cần thông qua đại lý. Trong hình thức thanh toán này, doanh nghiệp gửi hoá đơn thu phí và gửi hoa hồng cho đại lý.
Trong trường hợp đại lý là người thu phí, họ sẽ chuyển phí bảo hiểm thu được cho doanh nghiệp bảo hiểm theo một trong ba phương thức:
+Phương thức trên cơ sở từng dịch vụ
+Phương thực thông báo
+Phương thức dực trên cơ sở tài khoản vãng lai
Theo phương thức trên sơ sở từng dịch vụ, đại lý không phải thanh toán cho doanh nghiệp bảo hiểm khi chưa thu đựơc phí bảo hiểm của khách hàng. Còn theo hai phương thức kia, đại lý buộc phải thanh toán ngay cả khi người tham gia bảo hiểm chưa thanh toán phí bảo hiểm cho đại lý.
Để bảo vệ rủi ro tín dụng cho đại lý, trong hợp đồng đại lý có thể có thêm nội dung: Sau khi đơn bảo hỉêm có hiệu lực 30-40 ngày, các khoản phí mới đến hạn thanh toán cho doanh nghiệp bảo hỉêm. Trong khoảng thời gian này, đại lý có thể sử dụng các khoản phí thu được để đầu tư. Lãi đầu tư là một phần thù lao rất có ý nghĩa đối với đại lý.
d. Chăm sóc khách hàng
Đại lý phải thường xuyên giữ quan hệ với khách hàng, tư vấn kịp thời cho khách hàng muốn thay đổi hoặc bổ sung vào hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi và thoả mãn nhu cầu của họ . Đồng thời phản hồi ý kiến từ phía khách hàng cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Nếu được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền, đại lý bảo hiểm còn có nhiệm vụ quản lý hợp đồng và trả tiền bảo hỉêm. Riêng đối với nhiệm vụ trả tiền bảo hiểm, tất cả các đại lý đều tham gia vào việc giải quyết khiếu nại phát sinh từ các đơn bảo hiểm do họ bán ra trong một chừng mực nhất định. Vì đại lý bảo hiểm là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên khi tổn thất xảy ra, đối tượng đầu tiên mà người tham gia bảo hiểm tìm đến thường là đại lý.
Trong một số trường hợp, đại lý chỉ cung cấp cho người tham gia bảo hiểm địa chỉ liên hệ của phòng giải quyết khiếu nại hoặc nhân viên giải quyết khiếu nại. Nhưng cũng có trường hợp đại lý thu thập các thông tin cơ bản có liên quan đến khiếu nại của người tham gia bảo hiểm, sau đó chuyển những thông tin này cho doanh nghiệp bảo hiểm và thu xếp cho nhân viên giải quyết khiếu nại tiếp xúc với người tham gia bảo hiểm.
Ngoài ra, đại lý có thể được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền và phân cấp giám định một số khiếu nại( thường được giới hạn băng một số tiền nhất định ), sau đó trực tiếp trả tiền bảo hiểm cho khách hàng. Việc này giúp khiếu nại được giải quyết kịp thời nhanh chóng hơn và giảm được các chi phí giám định tổn thất cho doanh nghiệp bảo hiểm.
e. Thuyết phục khách hàng tái tục hợp đồng bảo hiểm
Đại lý phải thường xuyên giữ quan hệ với khách hàng để thuyết phục khách hàng tái tục hợp đồng bảo hiểm, đồng thời cung cấp thông tin về các sản phẩm mới của doanh nghiệp bảo hiểm. Hơn nữa, đại lý có thể tìm kiếm thêm khách hàng tiềm năng thông qua mối quan hệ này.
f. Các nhiệm vụ khác
Đại lý có nhịêm vụ hoàn thành các chỉ tiêu về định mức lao động mà doanh nghiệp bảo hiểm đặt ra như số lượng hợp đồng bảo hiểm phát hành hàng tháng, doanh thu phí bảo hiểm, tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng … ngoài ra, đại lý bảo hiểm phải chấp hành các nội quy và quy định của doanh nghiệp bảo hiểm như quy định về quản lý và phát hành hợp đồng, báo cáo thống kê, tài chính…
Đại lý chỉ được hoạt động trong giới hạn và quyền hạn uỷ quyền và phải tự chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với các hoạt động vượt quá thẩm quỳên cho phép.
Tương ứng với quyền hạn và trách nhiệm của mình, đại lý có các quyền lợi nhất định:
Quỳên lợi cơ bản và cũng là mục đích của các đại lý BHNT được quy định trong hợp đồng đại lý là: được hưởng hoa hồng dựa trên cơ sở số hợp đồng và doanh thu phí của bản thân theo 1 tỷ lệ nhất định đã đượ thoả thuận và quy định từ trứơc.
Một quyền lợi khác là đại lý được hưởng các chế độ phúc lợi từ phía công ty như nghỉ lễ tết, được thăm hỏi khi ốm đau, tham gia các kỳ nghỉ do công ty tổ chức.
Ngoài ra chế độ thưởng được áp dụng công bằng với tất cả đại lý trong một công ty. Cơ sở để được thưởng là kết quả bình bầu, xếp loại theo những tiêu chuẩn: Số hợp đồng khai thác mới, doanh thu, tình trạng nợ phí. Các đại lý có thành tích xuất sắc sẽ không những được khen thưởng kịp thời mà còn được xem xét cân nhắc lên vị trí cao hơn.
Đại lý cũng có quyền được tham gia vào các tổ chức, hội , đoàn thể của công ty một cách bình đẳng, được tham dự các lớp, khoá tập trung về nghiệp vụ
Đại lý bảo hiểm nhân thọ còn được phép đề xuất với công ty các kiến nghj về sản phẩm, công tác tiếp thị, quản lý và trong một chừng mực nhất định có thể cùng bộ phận quản lý rủi ro tham gia giám định tổn thất
3. Phân loại đại lý bảo hiểm nhân thọ
Dựa vào phạm vi quỳên hạn, chức năng của đại lý hoặc mối quan hệ giữa đại lý và công ty, có th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0128.doc