Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp

Lời mở đầu "Một đội bóng sẽ thi đấu ra sao nếu không có đội trưởng?" câu trả lời cũng sẽ gần đúng khi chúng ta hỏi một nhà kinh tế rằng "Hệ thống ngân hàng sẽ hoạt động ra sao nếu không có Ngân hàng trung ương. Thực tế ngân hàng thương mại đã có trước khi ngân hàng trung ương ra đời, nhưng đó là giai đoạn khi các ngân hàng chưa trở thành hệ thống và kinh tế xã hội chưa phát triển. Ngày nay, quốc gia nào có hệ thống ngân hàng đều có ngân hàng trung ương. Sự phát triển, hoàn thiện của ngân hàng t

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rung ương thể hiện trình độ phát triển của cả hệ thống ngân hàng của quốc gia đó. Ngân hàng trung ương là người "đúng mũi chịu sào", người chịu trách nhiệm đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng và cũng một lúc ôm cả khối công việc của 3 ngân hàng: ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của Nhà nước. So với ngân hàng trung ương của nhiều nước trên thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời khá muộn (1951). 50 năm qua với vai trò người dẫn dắt, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng với những thành tựu tuy còn khiêm tốn nhưng đã bắt đầu có tín hiệu khởi sắc, mở ra một triển vọng mới cho ngành ngân hàng Việt Nam. Từ vai trò quan trọng của ngân hàng trung ương nói chung và ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng em ý thức được rằng nghiên cứu hoạt động của ngân hàng Nhà nước là vấn đề cần thiết và thiết thực đối với sinh viên ngành ngân hàng. Tuy nhiên đặt vấn đề nghiên cứu ở đây là quá khó đối với sinh viên chúng em khi kiến thức còn hạn chế. Do đó đề án của em với đề tài: "Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp" chủ yếu là sự kế thừa những người đi trước và chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết. Bài viết của em có bố cục 3 phần: Phần I: Tổng quan về ngân hàng trung ương. Phần II: Hoạt động ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp. Nêu các nội dung hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam và trong mỗi nội dung có nêu thực trạng và giải pháp cụ thể Phần III: Đánh giá chung Nhằm tăng tính logíc và tổng hợp cho các vấn đề nêu ở phần II, phần III có nhiệm vụ đánh giá lại tổng thể các hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay gồm thành tựu, hạn chế và đường lối chung. Em rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn để có thêm kinh nghiệm hoàn thành tốt hơn đề tài này cũng như những đề tài tiếp theo. Phần I: Tổng quan về ngân hàng TW I. ngân hàng Trung ương (NHTW): 1. Quá trình hình thành ngân hàng TW đã trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất có tính tiệm tiến, kéo dài hơn hai thế kỷ. Trong giai đoạn này, những ngân hàng này có quyền ưu tiên phát hành giấy bạc được gọi là ngân hàng phát hành, nhưng chức năng của nó còn rất hạn hẹp. Giai đoạn thứ hai diễn ra một cách sôi động trong vòng mấy thập kỷ gần đây và hình thành nên khái niệm ngân hàng TW thay cho khái niệm ngân hàng phát hành với ý nghĩa lý luận và thực tiễn có tính khái quát phản ánh đúng vị trí và vai trò bao trùm của nó trong hoạt động kinh tế tiền tệ của một quốc gia. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ ngân hàng Thuỵ Điển BANK OF SUEDEV, một ngân hàng TM có tiền thân là ngân hàng TSOCHIM đã biết dùng tiền giấy khả hoán (giấy bạc ngân hàng ) sớm nhất trên thế giới. Về sau ngân hàng này đã tổ chức thành ngân hàng quốc gia và từ ưu quyền đến độc quyền phát hành tiền phải trải qua hàng thế kỷ. Đầu thế kỷ 19 bắt đầu có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ một ngân hàng TM có thế lực nhất thành ngân hàng có ưu quyền (hoặc độc quyền) phát hành giấy bạc ở nhiều nước tư bản châu Âu. Đến cuối thế kỷ 19, sự chuyển đổi này lan rộng đến hầu hết các nước tư bản châu Âu, châu Mỹ.Quá trình biến đổi có tính tiệm tiến đó cũng là quá trình hình thành khái niệm phân lập hai chức năng quản lý và kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Dần dần ngân hàng phát hành từ chỗ ít liên hệ đến chỗ hoàn toàn không liên hệ với khách hàng cũ của nó là các chủ doanh nghiệp sản xuất và lưu thông nên tính thương mại cũng mất dần và trở thành ngân hàng cuả các ngân hàng có quyền lực và kinh tế chi phối các ngân hàng TM theo pháp luật của Nhà nước pháp quyền. Giai đoạn thứ hai thừa hưởng thành tựu của giai đoạn thư nhất diễn ra nhanh chóng hơnbằng cách thiết lập ngân hàng TWcó tương đốiđầy đủ chức năng, nhiệm vụ, công cụ điều hành. Mở đầu giai đoạn này là hội nghị tài chính quốc tế năm 1920 ở Brucxlle (thủ đô nước Bỉ) với một nghị quyết nói lên sự cần thiết phải thiết lập ngân hàng TW như sau: Mong mỏi tất cả những nước nào chưa có ngân hàng TW cần thiết lập ngay càng sớm càng tốt để không những lập lại sự ổn định tiền tệ và hệ thống ngân hàng nước đó mà còn để gia tăng sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Sau hội nghị hàng loạt nước từ năm châu đều thành lập ngân hàng TW như: Nam Phi 1921, ấn Độ 1934, Canada 1935, Thái Lan 1942, Indonexia 1953. Riêng ở Mỹ từ năm 1913 đã thiết lập hệ thống dự trữ liên bang, bao gồm 12 chi nhánh. Hiện nay, trên thế giới tồn tại nhiều loại mô hình tổ chức của ngân hàng TW: Mô hình ngân hàng TW trực thuộc Quốc hội (ngân hàng TW Cộng hoà liên bang Đức, hệ thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ ). Mô hình ngân hàng TW trực thuộc chính phủ (ngân hàng TW Anh, ngân hàng TW Hàn Quốc ...) và mô hình ngân hàng TW thuộc Bộ tài chính (Xu hướng đang lần lượt loại bỏ mô hình này, coi như một kinh nghiệm không thành công trong chức năng quản lý vĩ mô của chính phủ đối với nền kinh tế thị trường). Dù với tên gọi khác nhau (ngân hàng TW, ngân hàng Nhà nước, ngân hàng quốc gia, hệ thống dự trữ liên bang) tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế chính trị của mỗi nước nhưng giữa chúng có những nét tương đồng: - Ngân hàng TW là cơ quan công lập của Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, đối nội và đối ngoại. - Hệ thống tổ chức của ngân hàng TW thường được bố trí theo chiều dọc từ tư đến các địa phương. - Hoạt động của các ngân hàng TW theo nguyên tắc tập trung thống nhất nhằm thực hiện ổn định tiền tệ và đamr bảo cho hệ thống trong nước hoạt động an toàn, hiệu quả. - Về cơ chế quản trị, ngày nay hầu hết ngân hàng TW các nước đều thực hiện theo cơ chế: quản trị tập thể dưới hình thức “Một hội đồng” với tên gọi khác nhau, tuỳ theo luật của từng nước. II- Vai trò, chức năng của ngân hàng TW: Vị trí đặc thù của ngân hàng TW trong nền kinh tế thị trương được quyết định bởi mục đích, tính chất và yêu cầu quản lý vĩ mổ của Nhà nước đối với hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Đây là cách quản lý đặc thù của ngân hàng TW: quản lý không phải chỉ bằng pháp luật mà còn được thực hiện bằng những công cụ điều tiết thị trường thông qua các hoạt động nghiệp vụ có tính chất sinh lời (Tuy nhiên hoạt động sinh lời này chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu quản lý). Để thực hiện nhiệm vụ cơ bản này, các ngân hàng TW phải đóng vai trò vừa là ngân hàng phát hành, ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng. Ba vai trò này của ngân hàng TW có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Chỉ có thực hiện tốt các nhiệm vụ của ngân hàng TW trong 3 vai trò nói trên thì mới đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng TW. 1. Ngân hàng TW là ngân hàng phát hành: Nhiệm vụ bao trùm nhất là hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường. Với chức năng phát hành. Ngân hàngTW không chỉ phát hành tiền mặt mà cả phương tiện lưu thông nói chung. Trách nhiệm của ngân hàng TW là đảm bảo cung ứng đủ, không để thiếu phương tiện thanh toán (kể cả tiền mặt), làm sao cho tổng cung phù hợp với tổng cầu tiền tệ. Một vấn đề có tính nguyên tắc và là đòi hỏi đối với việc vận hành chính sách tiền tệ là không được phát hành tiền bù đắp thiếu hụt Ngân. Tiền mặt không phải là tất cả mà năm trong lương tiền cung ứng. Quản lý tiền mặt đã từng là công cụ quản lý duy nhất, là nhiệm vụ thường xuyên, hàng đầu của ngân hàng TW. Tiền mặt giờ đây chỉ là phương tiện thanh toán, xã hội cần bao nhiêu đều được đáp ứng đủ. Quản lý tiền mặt được thay bằng khái niệm quản lý lượng tiền cung ứng. Chính sách tiền tệ được vận hành thông qua các chính sách cụ thể về tín dụng, về quản lý ngoại hối và về chính sách đối với ngân sách Nhà nước. Hàng loạt công cụ kinh tế vĩ mô ngày càng được hoàn thiện tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở ... 2. Chức năng ngân hàng của các ngân hàng Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân hàng TW thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng kinh doanh và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng từ tín dụng tạo tiền của các ngân hàng kinh doanh. Hoạt động đó làm hình thành mối quan hệ giữa chủ thể quản lý (ngân hàng TW) và đối tượng chịu sự quản lý- ngân hàng TM (ở đây các ngân hàng TM trở thành khách hàng của ngân hàng TW). Mặt khác, do hoạt động kinh doanh sôi động đầy tính cạnh tranh trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ, cần thiết phải có người đóng vai trò điều chỉnh hoạt động của hệ thống ngân hàng – vai trò đó thuộc về ngân hàng TW. Chức năng này được thể hiện qua các nghiệp vụ sau: -Quản lý tài khoản và dự trữ tiền tệ trên tài khoản của các ngân hàng. -Cấp tín dụng cho các ngân hàng (chủ yếu bằng phương pháp tái cấp vốn). -Là trung tâm thanh toán của các ngân hàng. -Thực hiện quản lý Nhà nước đối với ngân hàng kinh doanh bằng các công cụ luật pháp. 3. Chức năng ngân hàng của Nhà nước : Ngân hàng TW nói chung đều thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập theo luật định là một pháp nhân, có vốn riêng do Nhà nước cấp. Là ngân hàng của Nhà nước, ngân hàng TW thực hiện các dịch vụ tiền tệ, tín dụng cho Nhà nước vì lợi ích quốc gia, gồm các nghiệ vụ chủ yếu như: Mở tài khoản nhận và trả tiền gửi kho ạc Nhà nước. Tổ chức thanh toán cho kho bạc Nhà nước. Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí quí. Tạm ứng cho ngân sách trong trường hợp cần thiết. Làm cố vấn cho Nhà nước về kinh tế tài chính, tiền tệ và đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức quốc tế. III- Các vấn đề cơ bản: 1. Quyền phát hành giấy bạc: Cuối thế kỷ 19, ở mỗi quốc gia vẫn tồn tại nhiều ngân hàng phát hành, nhưng chỉ 10 năm sau, quyền phát hành này được tập trung vào ngân hàng TW. Các nguyên tắc cơ bản của phát hành giấy bạc: Nguyên tắc phát hành dựa trên cơ sở dự trữ kim loại quí: là việc phát hành giấy bạc. Ngân hàng vào lưu thông có sự bảo đảm bằng vàng, bạc gửi vào ngân hàng. Nguyên tắc phát hành dựa trên cơ sở tín dụng tức là phát hành qua cho vay nền kinh tế (thông qua việc cho vay các ngân hàng trung gian, thị trường vàng và ngoại tệ, thị trường mở...) thực ra chỉ là ứng trước tiền cho nền kinh tế và sẽ quay trở lại ngân hàng khi đến hạn. 1.1. Cơ sở tiền tệ (MB): Chúng ta hãy xem bản cân đối kế toán (rút gọn) của ngân hàng TW: Tài sản có Tài sản nợ Chứng khoán Tiền mặt đang lưu hành Cho vay chiết khấu Tiền dự trữ của các ngân hàng TMđặt trong ngân hàng TW Như vậy, tiền của ngân hàng TW được hiểu là: 1)Tiền mặt của chính ngân hàng TW (trước hết là giấy bạc ngân hàng , tiền kim loại) 2)Các tài khoản ngân hàng TM trong ngân hàng TW và chúng được gọi là tài khoản chuyển khoản của ngân hàng TW MB= C+R Tiền TW tăng lên bằng 2 cách: - Ngân hàng TW cho vay các chủ thể là ngân hàng TW (DL). - Ngân hàng TW mua vào kim khí quý, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối hoặc mua vào tín phiếu kho bạc. - Trên thị trường mở, làm tăng cơ số tiền không vay (MBn). 1.2. Lương tiền cung ứng MS: MS theo nghĩa hẹp, trực tiếp tham gia vào quá trình trao đổi gồm 2 bộ phận: MS= C+D Trong đó: D là tiền gửi không kỳ hạn có thể viết sec. Ngoài ra lượng tiền cung ứng có thể bao gồmtiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và một số động sản tài chính khác để chuyển hoá thành tiền mặt. Để dự đoán và kiểm soát MS người ta thường sử dụng công thức MS= m.MB. Trong đó, m là hệ số gia tăng tiền tệ. Hệ số m lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào: - Ngân hàng TW quy định dự trữ bắt buộc cho hệ thống ngân hàng TM cao hay thấp. - Dự trữ dư thừa của hệ thống ngân hàng TM nhiều hay ít. - Nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt của nền kinh tế lớn hay nhỏ. - Chính sự tác động của hệ số m đã dẫn đến : MS tăng hay giảm không phải chỉ riêng ngân hàng TW quyết định mà còn tuỳ thuộc vào cách ứng xử của hệ thống ngân hàng TM , những người gửi tiền và người vay tiền. Ngân hàng TW được Nhà nước giao nhiệm vụ điều tiết và kiểm soát MS cho phù hợp với các mục tiêucủa nền kinh tế vĩ mô- họ phải là người quyết định lượng tiền cung ứng. Để làm được điều đó, ngân hàng TW chủ động chi phối vào MB, đặc biệt là MBn, vì sự tăng giảm của MBn hoàn toàn do ngân hàng TW quyết định. Mặt khác, ngân hàng TW quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chủ động thay đổi tỉ lệ này cũng là để tăng cường việc kiểm soát hệ số m. 2. Chính sách chiết khấu: + Nghiệp vụ chiết khấu: Trước tiên, chúng ta hãy cùng xem sơ đồ nghiệp vụ chiết khấu như sau: Ngân hàng trung ương Chiết khấu lại kỳ phiếu (4b) Ngân hàng thương mại (5)Xuất trình kỳ phiếu đến thời hạn Người mua Xuất trình kỳ phiếu đến kỳ hạn (4a) (3) Kỳ phiếu chuyển sang chiết khấu Hàng hoá (1) Người giao hàng C D B A Nghĩa vụ kỳ phiếu (2) Nghiệp vụ chiết khấu được giải thích ngắn gọn như sau: (1)A giao hàng cho B. (2) B lập kỳ phiếu mà A nhận thế vào việc nhận tiền. (3) A bán kỳ phiếu của mình cho ngân hàng TM C. Hiện nay, ở C có 2 khả năng: (4a) C giữ kỳ phiếu và thanh toán cho người mua B khi đến hạn. (4b) C bán kỳ phiếu cho ngân hàng TW Cnhận được không phải toàn bộ tổng số ghi trên kỳ phiếu, mà khấu trừ đi mức chiết khấu của ngân hàng TW vào thời điểm thực hiện (5). Khi đến hạn thanh toán tiền, D đưa kỳ phiếu cho B và nhận đủ tổng số ghi trên kỳ phiếu. Bằng cách tăng hoặc giảm tỷ lệ chiết khấu, ngân hàng TW tác động vào việc đảm bảo tiền tệ cho hệ thống kinh tế. +Vai trò người cho vay cuối cùng. Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ sở tiền tệ và cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính. Vai trò người cho vay cuối cùng thể hiện khi ngân hàng TW cung cấp dự trữ cho hệ thống Ngân hàng khi các sự phá sản của các ngân hàng có nguy cơ không kiểm soát được. 3. Chính sách thị trường mở: Chính sách thị trường mở: là mua bán chứng khoán của ngân hàng TW với mục đích tác động vào thị trường tiền tệ. Nhiệm vụ cơ bản của chính sách này là làm sao điều chỉnh cung và cầu đối với chứng khoán để kéo theo sự phản ứng tương tự ở các ngân hàng TM. Nếu chính sách chiết khấu ảnh hưởng toàn cục và bị hạn chế bởi thời gian, thì chính sách thị trường mở là vũ khí tác động nhanh và năng động. Ngân hàng TW xác định “mức” có lợi trong việc mua bán chứng khoán để cố găng tác động vào số lượng dự trữ của ngân hàng TM nằm ở ngân hàng TW, trên thực tế là tác động vào quy mô cho vay của các ngân hàng TM đối với nền kinh tế và dân cư. Vào bất kỳ thời điểm nào ngân hàng TW cũng có thể mua chứng khoán. Họ sẵn sàng mua khi các khả năng khác để điều chỉnh chứng khoán không còn. Ngân hàng TW không sử dụng độc quyền hành chính về việc bán chứng khoán trong tay mình. Nếu nó cần thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế nhằm giảm khả năng thanh toán của các ngân hàng TM thì nó khuyến khích các ngân hàng TM mua chứng khoán trên thị trường mở. Để khuyến khích họ mua, ngân hàng TW phải đưa ra lãi suất có lợi cho các ngân hàng khi mua các chứng khoán này, đối với chứng khoán không có lãi thì phải có khoảng cách lớn giữa thị giá bán và giá trị danh nghĩa. Nếu ngân hàng TW thành công trong việc bán chứng khoán cho ngân hàng TM thì các ngân hàng TM sẽ cho vay ít đi. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính sách gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Đặc điểm của nghiệp vụ này là dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng TW có thể đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu ngân hàng TW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua trên thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán. 4. Chính sách dự trữ tối thiểu: Một công cụ khác giúp ngân hàng TW điều tiết hoạt động của ngân hàng TM đó là chính sách dự trữ tối thiểu. Tuỳ theo tình hình, luật các nước có cơ chế duy trì mức dự trữ tối thiểu khác nhau, song họ đều theo đuổi một mục tiêu chung- các ngân hàng TM bắt buộc phải để lại một phần tiền huy động tại ngân hàng TW. Chính sách dự trữ tối thiểu bắt buộc xuất phát từ yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán tiền mặt khi cần thiết của ngân hàng TM . Hiện nay qui mô dự trữ tối thiểu có ý nghĩa hai mặt. Thứ nhất nó đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên ở các ngân hàng. Thứ hai nó là công cụ của ngân hàng TW để điều chỉnh khối lượng tiền tệ và khả năng cho vay của các ngân hàng TM. Dự trữ bắt buộc xác định bằng cách Tiền dự trữ bắt buộc = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc * Tổng số tiền gửi nhận được Hệ số nhân tiền mở rộng = 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khả năng mở rộng tiền gửi Tiền gửi ban đầu x 5. Chính sách lãi suất tín dụng: Cũng như chính sách thị trường mở, chính sách lãi suất tín dụng cũng là công cụ gián tiếp để điều chỉnh cung và cầu về tín dụng qua giá cả của nó. Thông thường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được nâng lên thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại. Làm sao dung hoà được hai yêu cầu : nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kiềm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay nâng đỡ sản xuất. Để lãi suất phát huy được vai trò của mình trong quá trình vận hành lãi suất cần tuân thủ các nguyên tắc sau: +Lãi suất thực phải bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân. +Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát danh nghĩa +Lãi suất huy động vốn danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (dương). +Lãi suất cho vay trung bình cao hơn lãi suất huy động trung bình. + Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. + Lãi suất nội tệ tương đương lãi suất ngoại tệ (trừ trượt giá) + Lãi suất phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. *Chính sách lãi suất được vận hành theo nhiều cách khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau. + ấn định lãi suất: Để tránh rủi ro cho các ngân hàng trung gian, các ngân hàng TW thường ấn định mức lãi suất “sàn” tối thiểu cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối đa cho tiền vay. Cũng có trường hợp người ta chỉ khống chế lãi suất trần (đầu ra, lãi suất cho vay) còn lại giao quyền chủ động cho các ngân hàng TM. + Thả nổi lãi suất: Lãi suất là giá bán và giá mua của quyền sử dụng vốn. Lãi suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về vốn. Với quan điểm cho rằng, đã là giá cả thì lãi suất phải biến dộng, phải được tư doanh hoá, nhiều nước đã từ bỏ biện pháp ấn định lãi suất khung cứng nhắc, chuyển qua thả nổi lãi suất trên thị trường tiền tệ: Quy trình hình thành lãi suất: Cạnh tranh nội địa Nhu cầu vay. Khả năng cho vay Lãi suất thị trường Chính sách tiền tệ. Các công cụ tác động Hệ thống tín dụng Chiến lược phát triển Thị trườngtín dụng quốc tế Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng TW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng TM bằng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu, làm “đắt” hoặc “rẻ” tín dụng nhằm “hạn chế”, “khuyến khích” các ngân hàng TM trong hoạt động vay vốn của ngân hàng TW. Từ đó có ảnh hưởng đến cung cầu tín dụng. Phần II: Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp I. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam- những bước đi khởi đầu. Từ một nước thuộc địa không có chủ quyền về tiền tệ, ngay sau Cách mạng tháng 8/1945 thành công, bằng ý chí và sự sáng tạo của mình, dựa vào lòng yêu nước của nhân dân, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã từng bước thiết lập được một nền tiền tệ, ngân hàng độc lập với những bước đi phù hợp và đầy sáng tạo. Tháng 12/1945 chính quyền cách mạng đã phát hành đồng bạc Việt Nam đầu tiên được nhân dân hết sức hoan ngân hàng nghênh, hưởng ứng và được gọi là “tờ giấy bạc cụ Hồ”. Ngày 3/2/1947, tổ chức tín dụng đầu tiên của Việt Nam- Nha tín dụng sản xuất được thành lập. Ngày 6/5/1951 tại Hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tỉnh Tuyên Quang, chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập ngân hàng Quốc gia Việt Nam- chính thức khai sinh một ngành kinh tế mới cho đất nước ngành ngân hàng . Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời thực sự là một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển nền tiền tệ- ngân hàng của Việt Nam. Lần đầu tiê nước ta có một ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ ngày thành lập đến trước đổi mới, gần 40 năm hoạt động và phát triển theo mục tiêu xây dựng CNXH trong điều kiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, ngân hàng Nhà nước đã được xây dựng và hoạt động phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế đó, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời hoạt động của ngân hàng cũng phản ánh đặc trưng của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Với tư cách là cơ quan Nhà nước quản lý tập trung thống nhất trong cả nước về: Phát hành tiền, quản lý tiền mặt và tổ chức kế khoạch hoá lại vốn dưới hình thức tín dụng ngân hàng , quản lý quỹ ngân sách Nhà nước , quản lý ngoại hối vàng, bạc, tín dụng và thanh toán quốc tế, kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế quốc dân. Đồng thời là một tổ chức kinh tế của Nhà nước kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Về hệ thống tổ chức, trong nền kinh tế quốc dân chỉ có một ngân hàng Nhà nước duy nhất với hệ thống tổ chức 3 cấp trên địa bàn hành chính: TW, tỉnh, huyện để thực hiên đồng thời 2 chức năng quản lý và kinh doanh . Thực chất đó là hệ thống ngân hàng một cấp vừa được thực hiện nhiệm vụ của một ngân hàng TW vừa thực hiện nhiẹem vụ của các tổ chức trung gian tài chính. Tất cả các chủ trương, chính sách hoạt động của ngân hàng TW pải hướng vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế , chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn, từng năm kế hoạch, thể hiện cụ thể bằng các chỉ số phát triển, trên cơ sở đó xác định phương hướng, chỉ tiêu kế hoạch cho các ngân hàng cấp dưới; trong đó chủ yếu là chỉ tiêu thu, chi tiền mặt; mức bội thu, bội chi tiền mặt, chỉ tiêu vay vốn đôí vớitừng ngành kinh tế , từng thành phần kinh tế và chỉ tiêu huy đông tiền tiết kiệm. Coi việc thực hiện các chỉ tiêu đó là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước, các ngân hàng các cấp chạy theo thành tích, bỏ qua chất lượng và hiệu quả cuối cùng. Về cơ chế nghiệp vụ, hệ thống chế độ, biện pháp nghiệp vụ về tín dụng, tiền tệ, thanh toán nói chung đêùđược áp dụng theo khuôn mẫu của hệ thống XHCN (Liên Xô) mang nặng tính tập trung bao cấp. Công tác tín dụng thực hiện theo chế độ cho vay trực tiếp, có kế hoạch với chính sách lãi suất mang tính chất giá cung cấp ổn định và bằng nhiều loại biện pháp cho vay khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất là lưu thông hàng hoá theo kế hoạch Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế . Ngoài ra, phần lớn nhu cầu vốn phát sinh từ nguyên nhân khách quan, và những nguyên nhân do qủn lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ, thậm chí cả những nhu cầu vốn nhằm duy trì, củng cố quan hệ sản xuất XHCN, nói chung đều được tín dụng ngân hàng tài trợ. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt, kế hoạch hoá thu nộp tiền mặt và chi tiêu tiền mặt qua quỹ ngân hàng được áp dụng một cách phổ cập và bắt buộc đối với mọi tổ chức kinh tế. Kết quả là trong những năm 75-86 nền kinh tế mất cân bằng về cung cầu vốn. Ngân hàng không kiểm soát được gia tăng tín dụng, gia tăng cung tiền. Trong nhiều năm liên tục cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số (1986, làm phát 774%) toàn bộ nền kinh tế suy sụp đình trệ. Thực tế cho thấy cơ chế kế hoạch hoá không còn phù hợp cho giai đoạn mới. II- Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới. Thực trạng và giải pháp Đại hội Đảng VI họp 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược, mở đầu thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bước khởi đầu đầy khó khăn này cũng chính là bước khởi đầu về cải cách hệ thống ngân hàng chuyển dần từ tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN. Hai pháp lệnh ngân hàng được công bố vào ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng Việt Nam tiến hành một bước chuyển đổi mới cơ bản, chuyển sang hoạt động theo mô hình hai cấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng phát hành, đồng thời là ngân hàng của ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam. Qua một số năm thực hiện, hai pháp lệnh ngân hàng trên đã được tổng kết, nâng lên thành luật về ngân hàng được quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Sau 10 năm đổi mới, bộ mặt của toàn ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng đã có rất nhiều thay đổi mới mẻ. Yêu cầu đổi mới đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện về những gì đã thực hiện được và chưa làm được, cần đổi mới của ngân hàng Nhà nước. 1. Về mô hình tổ chức ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điểm 1, điều 1 luật ngân hàng Nhà nước qui định “ngân hàng Nhà nước là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng TW của nước CHXHCN Việt Nam”. Trên thực tế, ngân hàng Nhà nước được coi như một bộ đặc thù trong chính phủ. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam mô hình này có ưu điểm là thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ, hoạt động ngân hàng cũng như phát huy vai trò của ngân hàng Nhà nước trong việc giúp đỡ đắc lực cho chính phủ. Nhưng mô hình này cũng có những hạn chế tương đối. Ngân hàng Nhà nước là thành viên của chính phủ nên ngân hàng Nhà nước không thể trực tiếp trình các dự án quản lý vĩ mô trước quốc hội mà phải thông qua chính phủ, hạn chế cũng thể hiện ở chỗ ngân hàng Nhà nước chưa thực sự chủ động trong việc thực thi chức năng của mình do sự can thiệp quá sâu đối với ngân hàng Nhà nước của các cơ quan, tổ chức. Về tổ chức chi nhánh theo qui định của luật ngân hàng Nhà nước , các chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố được thành lập trên cơ sở địa giới hành chính. Hiện nay, ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 61 chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc TW và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng TW trên địa bàn. Tuy nhiên trên thực tế các chi nhánh chỉ tập trung vào 2 nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra, thanh tra các chi nhánh ngân hàng TM quốc doanh và cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và cung ứng tiền mặt. Ngoài ra, các chi nhánh ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng cho cấp uỷ và chính quyền địa phương. Ưu điểm của mô hình chi nhánh hiện nay là bảo đảm thông tin phục vụ cho hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước , góp phần quan trọng trong quản lý kinh tế địa phương và cung ứng đầy đủ tiền mặt cho các tổ chức tín dụng trong giao dịch với các đối tác trong hoạt độnghàng ngày. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số nhược điểm, nhất là làm cho bộ máy ngân hàng Nhà nước khá nặng nề với biến chế đông. Một trong 2 hoạt động của các chi nhánh này là thanh tra, kiểm tra nhưng do chỉ thực hiện với các ngân hàng TMquốc doanh nên hiệu quả đạt được trong công tác này không cao. Như vậy vấn đề đặt ra là cần phải nới lỏng tự do cho ngân hàng Nhà nước , cho phép ngân hàng Nhà nước chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ, hạn chế sự can thiệp quá sâu của quá nhiều tổ chức vào hoạt động ngân hàng TW trong việc thực thi chính sách tiền tệ. -Hướng đổi mới mô hình tổ chức chi nhánh củangh Nhà nước trong thời gian tới là: vừa phải hình thành một số chi nhánh ngân hàng Nhà nước khu vực, trên cơ sở lựa chọn trong số các chi nhánh ngân hàng Nhà nước hiện nay, tăng chức năng, nhiệm vụ cho các chi nhánh ngân hàng Nhà nước khu vực: 2. Vấn đề xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ: Đây là nhiệm vụ trung tâm, là linh hồn của ngân hàng TW với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ của hệ thống ngân hàng 2 cấp. Để chính sách tiền tệ thực thi có hiệu quả, ngân hàng TW sử dụng hàng loạt công cụ như tái cấp vốn, lãi suất tín dụng, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở ...mỗi loại này đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lượng tiền cung ứng. Có thể nói thành công lớn nhất trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua đặc biệt trong naưm 1999 là: Tuy trong bối cảnh giá vàng, tỷ giá các đồng mạnh như yên, USD,.. có nhiều biến động lớn, nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn ổn định. Mức dao động trên dưới 14000/1USD. Đây cũng là bước thay đổi trong cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá, phản ánh khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ. Nhìn chung ngân hàng Nhà nước đã có những bước tiến rất đáng kể. *Thay đổi cơ chế điều hành lãi suất Bắt đầu từ 5/8/2000, ngân hàng Nhà nước đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, các ngân hàng TM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Theo cơ chế mới, hàng tháng ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Trong các tháng 8,9,10,11 và 12/2000 lãi suất cơ bản đối với tiền đồng Việt Nam vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng các ngân hàng TM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn,0,5% đối với cho vay trung và dài hạnh. Lãi suất cho vay ngoại tệ dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng, cộng với biên độ 1% đối với cho vay ngắn hạn, 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ 1/8) lên 0,5%/tháng (từ 1/11) và lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%/tháng. Nếu so sánh với lãi suất cùng kỳ hạn 12 tháng của một số đồng tiền trên khu vực và thế giới thì có thể thấy lãi suất tiền gửi ở Việt Nam là vừa phải. Đó rõ ràng là một ưu việt của cơ chế mới về điều hành lãi suất có lợi cho sản xuất kinh doanh , đồng thời tạo ra sự lựa chọn tối ưu cho người gửi tiền. Lãi suất có tính cạnh tranh thực sự, các doanh nghiệp làm ăn có tín nhiệm, có vốn vay lớn được các ngân hàng TM quốc doanh cho vay với lãi suất chỉ có 0,62%-0,7%/tháng, tương đương 7,5-10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và không chênh lệch nhiều so với lãi suất cho vay bản tệ ở nhiều quốc gia. Tuy n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35102.doc