Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ‹ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đặng Thị Nhàn Sinh viên thực hiện : Trần Hoài Thu Lớp : Nhật 3 - K38F Hà nội, tháng 12 năm 2003 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán 1. Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư 2. Khái niệm 3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán 3.

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn 3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư 3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ 3.4. Một số loại quỹ khác 4. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán 4.1. Đối với nền kinh tế 4.2. Đối với thị trường chứng khoán 4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư 5. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán 5.1. Mô hình công ty 5.2. Mô hình tín thác 5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác 6. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán 6.1. Nguyên tắc huy động vốn 6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ 6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ 6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư 6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ II. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán III. Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước 1. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường phát triển 1.1. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ 1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh 1.3. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản 2. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi 2.1. Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc 2.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan Chương II. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam 1. Vietnam Fund 2. Beta Vietnam Fund 3. Vietnam Frontier Fund 4. Vietnam Enterprise Investments Ltd 5. Mekong Enterprise Fund 6. Vietnam Opportunities Fund 7. VietFund Chương III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM I. Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam 1. Những khó khăn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam 2. Những thuận lợi trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán 1. Về phía Nhà nước 1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô 1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý 1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư 1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp 1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam 1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư. 1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu 1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư 2. Về phía các Quỹ đầu tư 2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp 2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng 2.3. Chiến lược đầu tư thích hợp KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU Trước những biến động bất thường về giá cổ phiếu, nhiều ý kiến cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đứng ra làm định hướng trong hoạt động đầu tư. Một trong các nhà đầu tư có tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao đó là Quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia thị trường với hai tư cách: tư cách là tổ chức phát hành, phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư để thu hút vốn và tư cách là tổ chức đầu tư dùng tiền thu hút được để đầu tư chứng khoán. Trên thế giới hiện nay có khoảng hàng chục nghìn Quỹ đầu tư đang hoạt động cung cấp cho các nhà đầu tư. Nhờ đó mà tỷ trọng tham gia thị trường chứng khoán của các quỹ ngày càng tăng so với nhà đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chứng khoán đã thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian ưu việt trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu hình thành vì sự có mặt của nó sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu tư. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập các Quỹ đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Xuất phát từ các lợi ích mà Quỹ đầu tư chứng khoán mang lại cho các nhà đầu tư công chúng, việc nghiên cứu để có những chính sách, biện pháp thúc đẩy loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam sẽ góp phần thiết thực tìm ra các giải pháp trên. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai để thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Quỹ đầu tư chứng khoán là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu và đề ra những biện pháp thúc đẩy sự ra đời của Quỹ đầu tư để có thể vận dụng vào thực tiễn là rất cần thiết. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp. Kết cấu khoá luận gồm ba phần: Chương I. Khái quát chung về Quỹ đầu tư chứng khoán Chương II. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Chương III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Với một thời gian có hạn và nguồn tài liệu còn hạn chế nên khoá luận chưa thể đề cập tới được mọi khía cạnh liên quan tới Quỹ đầu tư chứng khoán, rất mong được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn quan tâm tới lĩnh vực đầy mới mẻ này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới THS. Đặng Thị Nhàn đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thực hiện khoá luận. Đồng thời em cũng chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô ở trường ĐH Ngoại Thương đã trang bị kiến thức vững chắc để giúp em có thể nghiên cứu, hoàn thành khoá luận này. Hà Nội tháng 12 năm 2003 Chương I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán 1. Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư Xuất hiện lần đầu tại Châu Âu vào thế kỷ 19, loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán đã thu hút được sự tham gia đông đảo của công chúng và đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được. Các Quỹ đầu tư ban đầu được thành lập theo kiểu Quỹ tín thác đầu tư (Investment Trust). Quỹ tín thác đầu tiên do vua William I của Hà Lan thành lập tại Brussels – Bỉ. Quỹ này được lập ra để tạo điều kiện cho Hà Lan có thể đưa tiền đầu tư ra nước ngoài dưới dạng các khoản vay của chính phủ. Tuy nhiên, phải đến khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Anh thì các Quỹ đầu tư mới thực sự phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp này đã đưa nước Anh thành một quốc gia thịnh vượng nhất Châu Âu, sở hữu những nguồn vốn lớn. Trong khi đó, các nước láng giềng ở Châu Âu hay Mỹ thì lại đang thiếu vốn trầm trọng. Vì vậy, các nước thiếu vốn đã phát hành rất nhiều công cụ nợ với lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút vốn cho quá trình đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc đầu tư này thường gặp phải những khó khăn do không tiếp cận được những thông tin cần thiết và thiếu những hiểu biết về môi trường đầu tư nước ngoài. Trước tình hình đó, một số nhà đầu tư đã lập ra Quỹ đầu tư hải ngoại và thuê những chuyên gia hiểu biết về đầu tư nước ngoài đứng ra quản lý. Đây chính là tiền thân của các Quỹ đầu tư phổ biến trên thị trường tài chính hiện nay. Vào những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ 18, các công ty tín thác tương tự như của Hà Lan được lập ra ở Anh và Scotland. Hiệp hội tài chính London (London Financial Association) và Tập đoàn tài chính quốc tế (International Financial Society) thành lập năm 1863 được coi là những công ty tín thác đầu tiên của Anh. Các thương nhân Anh và Scotland ngày đó muốn tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn nên đã đem các khoản tiền đầu tư của họ ra nước ngoài và đặc biệt là đầu tư vào các chứng khoán của Mỹ với tỷ suất lợi nhuận cao. Từ năm 1900 đến 1914, một lượng tiền khổng lồ từ các nhà đầu tư Anh đã đổ vào Mỹ đặc biệt trong lĩnh vực đường sắt, năng lượng. Quỹ đầu tư chứng khoán ngành đường sắt và năng lượng (The Railway and Light Securities Fund) là quỹ đóng đầu tiên của Mỹ áp dụng các quỹ cho vay làm đòn bẩy để thâu tóm chứng khoán đã ra đời năm 1904. Vào những năm 1920, mô hình công ty tín thác đầu tư bùng nổ ở Mỹ đáp ứng sở thích đầu cơ của các nhà đầu tư. Thế nhưng, cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 đã làm ảnh hưởng nặng nề tới các Quỹ đầu tư. Chỉ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, các Quỹ đầu tư mới bắt đầu được khôi phục và phát triển trở thành một định chế trung gian ưu việt như hiện nay. Điều này một phần là nhờ hệ thống luật định làm khuôn khổ pháp lý cho sự hoạt động của các quỹ ngày càng được hoàn thiện. Tại Mỹ, hai dự luật làm cơ sở căn bản nhất cho hoạt động chứng khoán là Luật Chứng khoán (The Securities Act, 1933) và Luật về Sở giao dịch chứng khoán (The Securities Exchange Act, 1934). Cũng từ năm 1934, Uỷ ban chứng khoán của Mỹ (SEC) bắt đầu nghiên cứu những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc Đại suy thoái, soạn thảo và cho ra đời Luật Công ty đầu tư (Investment Company Act, 1940). Phần lớn các Quỹ đầu tư bắt đầu ra đời hoặc được tái lập sau năm 1940 để đáp ứng các quy định của đạo luật này. Đến năm 1995, luật này lại được sửa đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn hơn nữa cho người đầu tư đồng thời cho phép các quỹ được áp dụng các nghiệp vụ đầu tư mới nhất. Hiện Mỹ đang chiếm tới 59% tổng số quỹ tương hỗ, 32% tại Châu Âu, vùng Châu á Thái Bình Dương và Châu Phi chỉ chiếm 9%. Đến quý 2 năm 2003, tổng số vốn của các Quỹ tương hỗ là 12.360 tỷ USD, tăng 10,3% so với quý trước 1). 1) Nguồn: Mutual Fund Fact Book 2003. Ở Châu Á, ngay từ năm 1937 ở Nhật Bản đã xuất hiện một số quỹ tương tự như Quỹ đầu tư. Đây là một tổ chức do một số nhà đầu tư thành lập nên để lợi dụng các dịch vụ đầu tư do công ty chứng khoán cung cấp. Đây chính là mầm mống cho sự ra đời các Quỹ đầu tư về sau của Nhật. Tại Nhật Bản, Luật tín thác (Trust Law) và Luật kinh doanh tín thác (Trust Business Law) là các bộ luật điều chỉnh hoạt động của các Quỹ đầu tư. Không chỉ ở các nước có nền tài chính phát triển như Anh, Mỹ…, mô hình Quỹ đầu tư còn giữ một vị trí quan trọng trên các thị trường chứng khoán mới nổi. Việc thành lập các Quỹ đầu tư ở thị trường này bắt nguồn từ nhu cầu của những nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt, đòi hỏi phải cải thiện khả năng thanh toán và trợ giúp cơ sở hạ tầng phát triển. Nói tóm lại, hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển không ngừng, mở rộng trên tất cả các thị trường chứng khoán thế giới. Nắm trong tay một lượng vốn khổng lồ, các Quỹ đầu tư ngày càng chứng tỏ vai trò của mình – một định chế tài chính trung gian quan trọng đáp ứng nhu cầu của người đầu tư và người nhận đầu tư cũng như của cả nền kinh tế. 2. Khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán Khi bắt đầu tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, một trong những khó khăn lớn nhất mà người đầu tư phải vượt qua đó là việc lựa chọn chứng khoán để đầu tư. Việc này được sự trợ giúp bởi các nhà môi giới (Broker) hoặc kinh doanh chứng khoán (Dealer). Tuy nhiên, dù được thông tin và tư vấn đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư vẫn được xem như là người quyết định cuối cùng, và do đó hiệu quả đầu tư của họ xét cho cùng lệ thuộc vào các điều kiện và phẩm chất cá nhân. Thị trường chứng khoán lại tập hợp rất nhiều các sản phẩm đa ngành, thế nên cho dù người đầu tư có tập trung vào một lĩnh vực nào thì cũng không làm sao nắm vững hết các chiều hướng chuyển biến một cách ngọn ngành được. Chính vì vậy, nhiều người đầu tư đã lựa chọn cho mình một phương tiện để thực hiện đầu tư tốt nhất vào thị trường chứng khoán đó là Quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, tập hợp các nhà đầu tư riêng lẻ cùng đóng góp vốn vào quỹ chung, quỹ này sẽ được các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp đại diện cho các nhà đầu tư sử dụng để đầu tư vào chứng khoán theo chính sách đầu tư của quỹ. Việt Nam, theo khoản 19 điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Một nét đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa quỹ với các tổ chức khác tham gia vào thị trường chứng khoán là: quỹ vừa là một tổ chức phát hành chứng khoán lại vừa là một tổ chức kinh doanh chứng khoán. Qua việc phát hành cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư, quỹ thu được một khối lượng tiền khá lớn, sau đó chúng sẽ được quỹ sử dụng đầu tư vào các loại chứng khoán. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư sẽ được phân chia cho các nhà đầu tư mua cổ phần của quỹ. Nói chung, quỹ chủ yếu thu lợi từ hoạt động đầu tư chứ không nhằm thu lãi hàng tháng. Các Quỹ đầu tư thường ít tham gia điều hành hoạt động của các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư từ quỹ. Các bên tham gia hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. Công ty quản lý quỹ là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao về đầu tư chứng khoán, thực hiện việc quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của Quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Người đầu tư góp vốn vào Quỹ đầu tư và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ. 3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán 3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn - Quỹ đầu tư chứng khoán đóng - Quỹ đầu tư chứng khoán mở Quỹ đóng và Quỹ mở là hai loại Quỹ đầu tư điển hình và phổ biến nhất hiện nay. Chúng còn được gọi dưới một cái tên chung là Quỹ đầu tư chuyên nghiệp (Management Fund). Người ta gọi là Quỹ đầu tư chuyên nghiệp bởi vì công việc đầu tư loại này được quản lý chuyên nghiệp theo một danh mục gồm những chứng khoán phù hợp với mục tiêu đã quy định trong các văn bản thành lập. 3.1.1. Quỹ đầu tư chứng khoán đóng (Closed-end Fund) Quỹ đóng là Quỹ đầu tư chứng khoán trong đó người đầu tư không được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ trước thời hạn kết thúc hoạt động hay giải thể. Cơ cấu vốn trong Quỹ đóng được xem là ổn định. Ngoại trừ các đợt phát hành huy động vốn tập trung, các quỹ không phát hành thêm cổ phần và cũng không thu lại cổ phần đã phát hành. Các cổ phần sau khi phát hành sẽ được mua đi bán lại trên các thị trường thứ cấp, có thể là tại sàn giao dịch hoặc trên thị trường không tập trung OTC. Do đó mà nó có thể được tính thêm tiền hoa hồng hay một khoản kê giá lên. Giá thị trường của các cổ phần Quỹ đóng sẽ giao động tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động của quỹ, cung cầu trên thị trường như các loại chứng khoán thông thường khác, hơn là trực tiếp liên hệ với giá trị thuần. Các cổ đông không thể rút vốn góp ra khỏi Quỹ đầu tư và quỹ không có nghĩa vụ phải mua lại các cổ phiếu mà quỹ phát hành ra. Muốn rút vốn, các cổ đông đem bán cổ phiếu đó ra thị trường chứng khoán theo giá thị trường hoặc theo giá thoả thuận. Cổ phiếu của quỹ được giao dịch trên thị trường thứ cấp nên lượng tiền mặt của Quỹ đóng không bị tác động hàng ngày khi có những hoạt động rút vốn hay bán lại cổ phần. 3.1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán mở (Opened-end Fund) Quỹ mở được gọi phổ biến là Quỹ tương hỗ (Mutual Fund). Đây là quỹ được phép phát hành liên tục các cổ phần mới để tăng vốn, đồng thời sẵn sàng thu hồi lại các cổ phần đã phát hành mà nhà đầu tư bán lại cho quỹ bất cứ lúc nào theo giá trị tài sản ròng chứ không theo giá thị trường trong một thời hạn luật định. Cơ cấu vốn của Quỹ tương hỗ được để mở, và được gia tăng lượng vốn đầu tư thu nhận từ các cổ đông mới không giới hạn, vì vậy mà người ta gọi đây là Quỹ mở. Các cổ phần sở hữu Quỹ mở do tính chất của chúng được gọi là chứng khoán khả hoàn. Cũng do tính chất như vậy, lượng tiền trong quỹ phục vụ cho hoạt động đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu các nhà đầu tư rút vốn đồng loạt dưới sự tác động của các yếu tố trên thị trường. Điều này có thể ảnh hưởng tới chiến lược đầu tư của quỹ. Mặt khác, cũng do tính chất đó mà nhiều quỹ sau một thời gian phát triển có cơ cấu vốn tăng lên rất lớn làm cho quỹ dễ đánh mất lợi thế đầu tư của mình trong nhiều trường hợp. Đây chính là lý do để Quỹ tương hỗ phiên bản ra đời. Quỹ phiên bản (Clone Fund) là một Quỹ tương hỗ xuất phát từ một Quỹ tương hỗ khác. Quỹ tương hỗ khác đó chính là quỹ mẹ, đã tăng trưởng với quy mô vốn phình ra, làm cho tầm quản lý và đầu tư bị hạn chế. Nhiều nhà chuyên môn tài chính cho rằng sự ra đời của Quỹ phiên bản trở nên cần thiết một khi đã có sự quá tải về khả năng bao quát của Quỹ tương hỗ mẹ và cũng để tận dụng các lợi thế của bản thân Quỹ phiên bản con đang được tổ chức gọn nhẹ hơn. Khi Quỹ mở đã phát triển quá độ, người ta có thể không thành lập một Quỹ phiên bản mà thay vào đó, họ sẽ quyết định đóng lại. Đây không phải là đóng hẳn mà chỉ là khép bớt lại hoạt động của mình. Thuật ngữ gọi đây là Quỹ khép (Closed Fund). Quỹ khép là Quỹ tương hỗ đã phát triển quá lớn, không còn phát hành chứng chỉ đầu tư cho những người mới muốn tham gia vào quỹ, tuy nhiên nó cũng có thể tiếp tục bán cho những cổ đông hiện hữu. 3.1.3. Sự khác nhau giữa Quỹ đóng và Quỹ mở Sự khác nhau giữa Quỹ đóng và Quỹ mở tác động tới hoạt động của các nhà tư vấn đầu tư, cơ hội của những nhà đầu tư cá nhân để giảm thiểu rủi ro, gia tăng lợi nhuận và những chi phí mà họ phải chịu khi đầu tư vào các quỹ. Sự khác biệt được thể hiện ở một số điểm chính sau đây : + Việc mua và bán cổ phiếu ngân quỹ : Quỹ mở có số lượng chứng khoán lưu hành luôn thay đổi. Nó được quyền mua lại chứng chỉ quỹ của chính mình khi cần giảm số lượng chứng chỉ đang lưu hành trên thị trường và bán chứng chỉ quỹ của mình bằng cách bán lại chứng chỉ ngân quỹ đã mua hoặc phát hành thêm chứng chỉ mới. Khác với Quỹ mở, Quỹ đóng chỉ được chào bán cho công chúng một lần nên số lượng chứng khoán lưu hành là cố định. Quỹ đóng cũng không mua lại chứng chỉ quỹ của mình mà nhà đầu tư phải bán lại cho nhà đầu tư khác. Và nếu nhà đầu tư muốn mua chứng chỉ Quỹ đóng thì chỉ được mua từ nhà đầu tư khác. + Giá cả mua bán chứng chỉ quỹ : Đối với Quỹ đóng, giá mua bán chứng chỉ quỹ là giá thị trường được xác định bởi cung cầu trên thị trường là chủ yếu. Đối với Quỹ mở, giá mua bán chứng chỉ quỹ được công ty quản lý quỹ xác định là giá trị tài sản ròng tại thời điểm đóng cửa của ngày giao dịch (hoặc từng giờ giao dịch). + Các phí phải trả cho việc mua bán, quản lý điều hành hoạt động của quỹ : Nhà đầu tư phải trả phí môi giới mua bán cổ phiếu cho nhà môi giới và phí điều hành hoạt động của quỹ cho công ty quản lý quỹ nếu đó là Quỹ đóng. Đối với Quỹ mở, nhà đầu tư có thể phải hoặc không trả phí môi giới mua bán chứng chỉ quỹ tuỳ hình thức quỹ là Quỹ thu phí (Load Mutual Fund) hay Quỹ không thu phí (No-load Mutual Fund). Ngoài ra, nhà đầu tư trả cho công ty quản lý quỹ phí điều hành và quản trị quỹ. 3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư Các quỹ thường được thành lập với các mục tiêu cụ thể tương ứng với một trong ba mục tiêu cơ bản sau: - Thu nhập hiện tại - Thu nhập ở một mức nào đó và sự tăng trưởng - Tăng trưởng trong tương lai 3.2.1. Quỹ thu nhập (Income Fund) Để có được thu nhập ổn định quỹ dành phần lớn vốn để đầu tư vào trái phiếu và vào cổ phiếu ưu đãi là những công cụ đầu tư có thu nhập thường xuyên ổn định. 3.2.2. Quỹ tăng trưởng-thu nhập (Growth-income Fund) Quỹ này đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu thường có giá cao đồng thời có mức cổ tức ổn định. Loại quỹ này muốn kết hợp cả hai yếu tố tăng vốn trong dài hạn và dòng thu nhập ổn định trong ngắn hạn. 3.2.3. Quỹ tăng trưởng (Growth Fund) Quỹ đầu tư vào cổ phiếu của các công ty kinh doanh thành đạt. Mục tiêu chính là tăng giá trị của các khoản đầu tư chứ không nhằm vào dòng cổ tức thu được. Người đầu tư vào các quỹ này quan tâm đến việc giá cổ phiếu tăng lên hơn là khoản thu nhập từ cổ tức. 3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ Quỹ đầu tư chứng khoán không bắt buộc phải đầu tư toàn bộ vào chứng khoán mà có thể đầu tư vào bất động sản hoặc các tài sản có giá trị như vàng, kim loại quý. Tuy nhiên chứng khoán vẫn phải chiếm một tỷ lệ phần trăm nhất định. Căn cứ vào tỷ lệ chứng khoán ta có : 3.3.1. Quỹ đầu tư cổ phiếu Phần lớn tài sản quỹ đầu tư là cổ phiếu. Tuy nhiên việc đầu tư vào cổ phiếu thường được giới hạn trong một tỷ lệ phần trăm nhất định, phần còn lại sẽ đầu tư vào những lĩnh vực an toàn hơn như trái phiếu… Không như các nhà đầu tư riêng lẻ thường mua các loại cổ phiếu khác nhau để đa dạng hoá danh mục đầu tư của họ, các quỹ thường tập trung vào một khu vực nào đó, như cổ phiếu của các công ty thượng hạng (Blue Chips) hay các công ty nhỏ. Cổ tức thường được trả mỗi năm một lần vào thời điểm kết toán tài khoản, từ cổ tức mà quỹ thu được và các khoản thu nhập khác của quỹ. Khi hết thời hạn hoạt động, toàn bộ tài sản của quỹ sẽ được thanh toán và hoàn trả cho người đầu tư. 3.3.2. Quỹ đầu tư trái phiếu Một số lượng lớn tài sản của quỹ đầu tư vào trái phiếu. Đầu tư vào trái phiếu cho phép nhà đầu tư đảm bảo ổn định về thu nhập bởi khoản thu nhập không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của chủ thể phát hành. Khoản lãi này có thể nhận về hoặc lại tiếp tục đưa vào một quỹ gọi là quỹ tái đầu tư lãi. 3.3.3. Quỹ thị trường tiền tệ Quỹ đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Đây là những công cụ đầu tư khá an toàn, ổn định như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng… Do vậy, Quỹ thị trường tiền tệ thường ít biến động hơn các quỹ khác, nó thích hợp cho mục tiêu đầu tư ngắn hạn lại có thu nhập ổn định. 3.4. Một số loại quỹ khác 3.4.1. Quỹ cân bằng (Balanced Fund) Danh mục đầu tư cân bằng cố gắng để đạt được ba mục tiêu: thu nhập, tăng trưởng vốn đều đặn và bảo toàn vốn. Chúng thực hiện điều này bằng cách đầu tư vào các trái phiếu, các chứng khoán chuyển đổi và thêm một vài cổ phiếu ưu tiên cũng như cổ phiếu thường. Nhìn chung các danh mục đầu tư này đầu tư từ 40% đến 60% giá trị quỹ vào trái phiếu. 3.4.2. Quỹ đầu tư linh hoạt (Flexible Porfolio) Quỹ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ trên thị trường tiền tệ tuỳ thuộc vào điều kiện của thị trường. Người quản lý quỹ có quyền được thay đổi linh hoạt danh mục đầu tư để đáp ứng những biến động trên thị trường. 3.4.3. Quỹ ngành (Sector Fund) Các Quỹ ngành tập trung vào các cổ phiếu của một ngành công nghiệp cụ thể nào đó. Do hoạt động của các ngành thường có tính bất ổn định rất cao nên các ngành này đều có thể mang đến cho nhà đầu tư nào đầu tư đúng hướng cơ hội có những khoản lợi nhuận lớn. 4. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán 4.1. Đối với nền kinh tế Quỹ đầu tư huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế ngay cả đối với nguồn vốn nhỏ lẻ và trực tiếp tiến hành đầu tư chứ không phải cho vay. Quỹ còn hấp dẫn đối với nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào nhờ vào việc phát hành các chứng chỉ quỹ có tính hấp dẫn cao với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Quỹ đầu tư là một phương thức đầu tư hữu hiệu cho các nhà đầu tư nước ngoài còn bởi vì thông qua quỹ, nhà đầu tư nước ngoài có thể vượt qua những hạn chế về giao dịch mua chứng khoán trực tiếp đối với người nước ngoài do nhà nước đặt ra, cộng với nhiều hạn chế trong việc nắm bắt những thông tin về chứng khoán ở nước sở tại và chi phí giao dịch cao. Đối với thị trường trong nước, quỹ còn góp phần tạo nên sự đa dạng của các đối tượng tham gia trên thị trường chứng khoán. Thông qua hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài, các Quỹ đầu tư trong nước sẽ tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, phân tích và đầu tư chứng khoán. 4.2. Đối với thị trường chứng khoán Quỹ đầu tư góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp và ổn định thị trường thứ cấp. Các quỹ tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư làm tăng lượng cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường. Khi Quỹ đầu tư mua bán với khối lượng lớn một loại chứng khoán nào đó thường ảnh hưởng lớn tới sự biến động của thị trường chứng khoán. Nó góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, giúp cho sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp đầu tư khoa học. Ví dụ, khi thị trường chứng khoán thiếu cung, Quỹ đầu tư bán chứng khoán do nó nắm giữ thì sẽ làm tăng đáng kể lượng cung làm giá chứng khoán thấp xuống. Ngược lại, nếu lượng cung quá cao, quỹ có thể mua chứng khoán làm cầu tăng lên, kéo theo giá chứng khoán tăng, phản ánh giá trị thực của chứng khoán. Quỹ đầu tư góp phần làm xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán. Các quỹ tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán yêu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ. 4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư 4.3.1. Quỹ đầu tư chứng khoán cung cấp cho những nhà đầu tư riêng lẻ những thuận lợi cơ bản để giúp họ đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi ích Tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư. Các nhà đầu tư vào Quỹ đầu tư chứng khoán có thể bán chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu quỹ mình đang nắm giữ vào bất cứ lúc nào cho chính Quỹ đầu tư (trong trường hợp Quỹ mở) hoặc trên thị trường thứ cấp (đối với Quỹ đóng) để thu hồi vốn. Giá bán chứng chỉ quỹ thay đổi phụ thuộc vào thay đổi của tổng giá trị tài sản danh mục của Quỹ đầu tư phát hành ra cổ phiếu. Đặc biệt, chứng chỉ, cổ phiếu của các Quỹ thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao, người sở hữu cổ phiếu có thể bán lại cổ phiếu bất cứ lúc nào trên thị trường mà giá cả biến động rất ít. Do vậy, trong tài sản của các công ty, cổ phiếu Quỹ thị trường tiền tệ được coi như tương đương với tiền. Đa dạng hoá danh mục đầu tư và phân tán rủi ro. Bằng việc sử dụng tiền thu được từ những nhà đầu tư để đầu tư phân tán vào danh mục các chứng khoán, các Quỹ đầu tư làm giảm rủi ro cho các khoản đầu tư và làm tăng cơ hội thu nhập cho các khoản đầu tư đó. Tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Thay cho việc người đầu tư phải đi thuê tư vấn để quản lý tài sản của mình thì họ chỉ cần đầu tư vào một quỹ với chi phí giảm đi rất nhiều. Tiền tập hợp trong các Quỹ đầu tư chứng khoán được đặt dưới sự quản lý của các nhà đầu tư chuyên nghiệp - các công ty quản lý quỹ. Các chuyên gia của quỹ hay công ty quản lý quỹ sẽ tìm hiểu thị trường, đánh giá cơ hội tốt nhất để mua chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư thường xuyên, xác định chính xác thời điểm để mua bán chứng khoán. Trong các quỹ thường có các cán bộ nghiên cứu, những người quản lý danh mục đầu tư, họ biết được các công ty hay khu vực thị trường nào hoạt động hiệu quả. Không những thế, các chuyên gia còn có khả năng thâm nhập tới nhiều nguồn thông tin, nguồn hàng hơn bất kì một người đầu tư cá nhân nào. Tiết kiệm chi phí đầu tư. Vì là những danh mục đầu tư lớn được quản lý chuyên nghiệp, Quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hay được hưởng những ưu đãi về phí giao dịch hơn các cá nhân đầu tư, kể cả những người mua bán thông qua những công ty môi giới có mức phí hoa hồng thấp nhất. Tính dễ tiếp cận. Do loại hình Quỹ đầu tư là loại hình cho các nhà đầu tư cá nhân, cho công chúng nên một khi hình thành, các Quỹ đầu tư luôn tạo những điều kiện thuận lợi cho công chúng dễ tiếp cận và giao dịch. Và để thu hút sự tham gia của công chúng, các quỹ đều cung cấp thông tin sẵn có trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các báo hay qua Internet. Cung cấp các lựa chọn cho các nhà đầu tư. Một nhà đầu tư có thể có được các lựa chọn khác nhau khi đầu tư vào các quỹ tuỳ thuộc vào mục đích hay sở thích của họ. Họ có thể đầu tư vào danh mục các cổ phiếu, trái phiếu, danh mục hỗn hợp hay danh mục các công cụ thị trường tiền tệ trong hơn vài chục loại quỹ khác nhau. An toàn trước các hành vi không công bằng. Người đầu tư có thể bị thiệt hại nếu danh mục đầu tư của quỹ bị giảm giá trị do sự biến động giá chứng khoán trên thị trường, nhưng xác suất bị tổn thất do gian lận, bê bối hoặc phá sản liên quan đến công ty quản lý quỹ là rất nhỏ. Khuôn khổ pháp lý và việc quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với Quỹ đầu tư đem lại những đảm bảo cơ bản. 4.3.2. Quỹ đầu tư đem lại cho người nhận đầu tư (thường là các doanh nghiệp) một số lợi ích căn bản sau Chi phí cho nguồn vốn phát triển thấp hơn khi vay ngân hàng. Trước đây, hệ thống ngân hàng chiếm vai trò thống trị nền tài chính. Để vay được vốn, doanh nghiệp phải thoả mãn một số điều kiện nhất định và lãi suất vay cao. Quỹ đầu tư ra đời sẽ hạn chế được những nhược điểm của cơ chế cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, việc đầu tư về tài chính qua các quỹ thường có giới hạn nhất định về quyền và nghĩa vụ nên doanh nghiệp được đầu tư đảm bảo được tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn. Lợi ích này có được từ việc quỹ phát hành và giao dịch các loại chứng khoán này trên thị trường đã thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư, đặc biệt là các chủ thể có khả năng tài chính lớn như ngân hàng, các tổng công ty, các công ty bảo hiểm… đầu tư vào quỹ. Quỹ sẽ chính là cầu nối giữa doanh nghiệp mà quỹ đầu tư vào với các tổ chức tài chính này. Tận dụng được những kiến thức quản lý đầu tư, marketing và tài chính từ các Quỹ đầu tư. Ngoài cung cấp vốn cho doanh nghiệp, các công ty quản lý quỹ đầu tư còn có dịch vụ cung cấp các thông tin tài chính, tư vấn về kế hoạch tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính và doanh nghiệp khác. Điều này có lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới thành lập ít bạn hàng, thiếu thông tin về thị trường. 5. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán Hiện nay, Quỹ đầu tư được tổ chức theo hai mô hình : - Mô hình công ty - Mô hình tín thác 5.1. Mô hình công ty Trong mô hình này, Quỹ đầu tư được thành lập bởi số tiền đóng góp ấn định của các nhà đầu tư. Nó được thành lập và tổ chức như một công ty cổ phần, tức là về cơ cấu tổ chức nó cũng có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc… Hội đồng quản Công ty quản lý Tổ chức bảo quản tài Quỹ đầu tư Người đầu Người đầu Người đầu tư Do Quỹ đầu tư mô hình công ty có tư cách pháp nhân đầy đủ n._.ên người đầu tư góp vốn vào quỹ trở thành cổ đông và có quyền biểu quyết, có quyền bầu ra hội đồng quản trị và tham gia quyết định các vấn đề lớn của công ty. Hội đồng quản trị là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của quỹ, đại diện cho quỹ lựa chọn công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản và có nhiệm vụ giám sát hoạt động của cả hai tổ chức này. Ngân hàng bảo quản tài sản trong mô hình này chỉ đóng vai trò bảo quản an toàn cho tài sản của quỹ, định giá tài sản, theo dõi sự biến động tài sản của quỹ trong quá trình đầu tư vào chứng khoán, không tham gia vào công tác quản lý quỹ, kinh doanh hoặc tư vấn, cũng không bảo vệ người đầu tư trong việc đưa ra những biện pháp bảo vệ đầu tư cho họ. Công ty quản lý quỹ được hội đồng quản trị đứng ra thuê và thực hiện chức năng quản lý thuần tuý. Công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử chuyên gia để giúp quỹ điều hành và sử dụng vốn của quỹ vào đầu tư chứng khoán và các tài sản khác một cách có hiệu quả nhất nhằm thu phí dịch vụ. Trong quá trình lựa chọn phương án đầu tư trước khi đi đến quyết định đều phải có sự thống nhất thông qua hội đồng quản trị. Ngoài các tổ chức tham gia chính đã đề cập tới như trên thì tuỳ từng nước còn có thể có các đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành tham gia vào hoạt động của quỹ. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến hành việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu là Quỹ mở). Nhà bảo lãnh phát hành giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình công ty được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn và những nhà đầu tư sở hữu nó có quyền tương tự như các cổ đông, tức là có quyền biểu quyết các hoạt động kinh doanh cũng như bầu hội đồng quản trị. Các cổ phiếu phát hành có thể được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hay là được mua bán trên OTC. Quỹ mô hình công ty không được phép phát hành các trái phiếu hoặc sử dụng nguồn vốn vay khác để đầu tư mà chỉ có thể vay ngắn hạn để thanh toán cho những nhu cầu cần thiết khi chưa có khả năng thu hồi vốn ngay. Do người đầu tư là các cổ đông của quỹ nên cơ cấu vốn của quỹ khá ổn định. Vì vậy phạm vi đầu tư của quỹ rất rộng. Ngoài hoạt động chính là đầu tư vào chứng khoán và tài sản có tính thanh khoản cao, quỹ còn có thể đầu tư vào các mục tiêu có tính chất dài hạn như bất động sản… nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Trong mô hình công ty, quỹ là một pháp nhân được tổ chức như một công ty cổ phần. Tuy vậy, quỹ không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật công ty mà còn chịu sự điều chỉnh của một hệ thống luật riêng. Các nước thường ban hành các luật riêng về Quỹ đầu tư như Luật công ty đầu tư sửa đổi 1988 của Pháp, Luật công ty đầu tư sửa đổi 1988 của Đức… Riêng ở Mỹ, các Quỹ đầu tư chịu sự điều chỉnh của tới bốn đạo luật là Luật công ty đầu tư 1940, Luật chứng khoán 1933, Luật giao dịch chứng khoán 1934 và Luật tư vấn đầu tư 1940. Đến năm 1995, Mỹ sửa đổi lại Luật công ty cho phù hợp với các nghiệp vụ hiện đại mới phát sinh trên thị trường chứng khoán. 5.2. Mô hình tín thác Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình tín thác không phải là một công ty mà được thành lập bởi công ty quản lý quỹ, quản lý một số vốn nhất định của người đầu tư để thực hiện đầu tư theo mục tiêu đã xác định. Khác với các Quỹ đầu tư theo mô hình công ty, các quỹ mô hình tín thác được thành lập theo Luật đầu tư tín thác. Theo luật này, một hợp đồng tín thác được ký kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty quản lý quỹ, tổ chức giám sát bảo quản và những người hưởng lợi. Công ty quản lý Tổ chức bảo quản giám Quỹ đầu tư Người đầu  Người đầu 16 Người đầu Trong mô hình này, muốn thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán trước hết phải thành lập công ty quản lý quỹ. Mỗi công ty quản lý quỹ có thể có nhiều Quỹ đầu tư trực thuộc tuỳ thuộc vào mục tiêu đầu tư. Công ty quản lý quỹ đóng một vai trò rất quan trọng vì đó là một tổ chức đứng ra phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư huy động vốn để thành lập Quỹ đầu tư và sử dụng vốn thu được để đầu tư vào những nơi có hiệu quả nhất. Ngoài chức năng huy động vốn và thực hiện đầu tư, nó còn đưa ra các chỉ dẫn cho ngân hàng giám sát mua bán chứng khoán và các tài sản khác bằng tiền của nhà đầu tư. Nó hoạt động như những nhà tư vấn cho Quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát bảo quản ở mô hình này có vai trò quan trọng hơn nhiều so với ngân hàng bảo quản trong mô hình công ty. Ngoài vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đã đề ra. Quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát bảo quản được thể hiện bằng hợp đồng quản lý giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Người đầu tư là những người góp vốn vào quỹ và uỷ thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc họ mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ phát hành. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông như quỹ đầu tư mô hình công ty mà chỉ đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của quỹ. Quỹ đầu tư mô hình tín thác chỉ được phép phát hành các chứng chỉ tham gia chia phần, các chứng chỉ này được định nghĩa trong Luật đầu tư tín thác không phải là cổ phiếu. Điểm khác biệt cơ bản giữa cổ phiếu và những chứng chỉ này là các nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ này không có quyền biểu quyết, cũng không có quyền thay đổi chính sách đầu tư của Quỹ đầu tư chứng khoán. Do những người đầu tư không phải là các cổ đông của quỹ nên cơ cấu vốn của quỹ không ổn định. Vì vậy phạm vi đầu tư của quỹ không rộng và chỉ tập trung chủ yếu vào các loại chứng khoán và tài sản cố định có tính thanh khoản cao, coi trọng tính an toàn và hạn chế rủi ro nhiều hơn là khả năng sinh lời. So với mô hình công ty, cơ cấu tổ chức của mô hình tín thác gọn nhẹ hơn nên các văn bản pháp luật điều chỉnh cũng ít hơn. Các quốc gia tổ chức Quỹ đầu tư theo mô hình này thường chỉ ban hành Luật tín thác hoặc Luật kinh doanh tín thác như Luật kinh doanh tín thác đầu tư chứng khoán 1969 của Hàn Quốc với bốn lần sửa đổi vào các năm 1975, 1976, 1993 và 1996; Luật tín thác đầu tư chứng khoán Nhật 1951; Luật tín thác đầu tư sửa đổi Anh 1986… 5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác Qua hai mô hình trên, chúng ta có thể thấy rằng chúng là sản phẩm của nhu cầu đầu tư khác nhau. Để thích ứng với mỗi thị phần thị trường chúng đuợc sinh ra và tồn tại song song, nhược điểm của mô hình này sẽ được giải quyết ở mô hình kia và ngược lại. Mô hình tín thác được tạo nên cho những người có nhu cầu đầu tư nhưng trình độ kiến thức của họ không cho phép mạo hiểm đầu tư trực tiếp, những người có một khoản tiền nhàn rỗi dài hạn mong muốn tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn mức lãi suất ngân hàng. Mô hình công ty ứng với những tổ chức cá nhân nắm giữ trong tay một lượng tài sản lớn cùng với kiến thức về chiến lược đầu tư. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu về ưu và nhược điểm của hai mô hình này. 5.3.1. Mô hình công ty Mô hình công ty là mô hình có cơ cấu tổ chức hoàn thiện, được ưa chuộng nhất trong công tác quản lý hiện nay. Trong mô hình này có sự góp mặt của tất cả các thành phần đại diện cho từng quyền lợi tham gia công tác quản lý nên họ có thể đánh giá, cân nhắc giữa giá trị đầu tư với mức độ rủi ro, đưa ra các quyết định mang tính năng động cao nên quỹ thường đem lại lợi nhuận khả quan hơn mô hình tín thác. Quỹ trong mô hình này là một pháp nhân nên việc tiến hành huy động vốn từ các thành phần kinh tế thuận lợi hơn nhiều so với mô hình tín thác nên quỹ sẽ có thể có thêm lợi thế nhờ quy mô và dễ dàng đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình. Tuy nhiên, do cơ cấu tổ chức cồng kềnh nên sẽ khó có thể đưa ra các quyết định đầu tư một cách nhanh chóng và mặt khác sẽ tạo nên gánh nặng về chi phí quản lý. 5.3.2. Mô hình tín thác Trái lại với mô hình công ty, mô hình tín thác có cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ nên dễ bắt kịp với các cơ hội kinh doanh do việc bàn bạc để đi đến quyết định đầu tư thường nhanh chóng, đồng thời cơ cấu như vậy làm giảm đáng kể chi phí quản lý. Trong mô hình này, vì các nhà đầu tư không thể can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các công ty quản lý quỹ nên công ty sẽ chủ động hơn, có thể đầu tư vào các dự án dài hạn có tiềm năng cao. Nhược điểm của mô hình này là tính thanh khoản của các chứng chỉ quỹ không cao do việc thiết lập quỹ dựa trên hợp đồng giữa nhà đầu tư với công ty quản lý quỹ. Thêm vào đó, quỹ thường có xu hướng đặt mục tiêu an toàn lên cao để đảm bảo uy tín làm cho lợi nhuận thường không cao, giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. 6. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán 6.1. Nguyên tắc huy động vốn Việc huy động vốn của Quỹ đầu tư thông qua phát hành chứng khoán. Tuy nhiên các quỹ chỉ được phát hành một số loại chứng khoán nhất định để tạo thuận lợi cho việc quản lý của quỹ cũng như hoạt động đầu tư của những người đầu tư. Tài sản của Quỹ đầu tư chủ yếu để đầu tư vào chứng khoán chứ không phải trực tiếp đem vào đầu tư mở rộng sản xuất. Quỹ không thể phát hành trái phiếu tức đi vay để đầu tư vào chứng khoán vì như thế sẽ tạo nên môi trường chứng khoán ảo. Do vậy, nguyên tắc chung là quỹ chỉ phát hành cổ phiếu (mô hình công ty) và chứng chỉ hưởng lợi (quỹ dạng tín thác). Ngoài ra, quỹ không được phép phát hành trái phiếu hay đi vay vốn để đầu tư. Quỹ chỉ được phép vay vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí tạm thời khi quỹ chưa có khả năng thu hồi vốn. 6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ Tài sản của quỹ phải được kiểm soát bởi một tổ chức bảo quản tài sản. Tổ chức này chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi đối với tài sản của các nhà đầu tư. Chức năng giám sát tuỳ từng mô hình quỹ mà pháp luật các nước giao cho một tổ chức tín thác hay hội đồng quản trị. Theo quy định của Mỹ thì tài sản của quỹ có thể được bảo quản bởi một ngân hàng, một nhà kinh doanh môi giới chứng khoán được đăng ký hay do chính quỹ đó quản lý. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay thì các tổ chức bảo quản tài sản thông thường là ngân hàng. Nguyên tắc chung của hầu hết các nước là tổ chức bảo quản tài sản trong quá trình giám sát không có quyền quyết định hoàn toàn mà phải cùng bàn bạc, biểu quyết với các chủ thể khác như công ty quản lý quỹ… Riêng đối với hội đồng quản trị thì các tổ chức này có quyền tự quyết định nếu như nó không liên quan tới chuyên môn của hội đồng quản trị. Để đảm bảo an toàn cho tài sản của quỹ cũng như sự ổn định của thị trường chứng khoán, một số nước nghiêm cấm Quỹ đầu tư bán khống chứng khoán. 6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ Khi các nhà đầu tư đầu tư hoặc rút vốn của họ từ một quỹ, việc xác định giá phải dựa trên nguyên tắc công bằng giữa các nhà đầu tư hiện tại với các nhà đầu tư mua hoặc bán chứng chỉ. Điều này được thể hiện trong cách thức xác định giá trị tài sản của quỹ khi mua bán chứng chỉ. Đối với Quỹ mở do chủ yếu đầu tư vào chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán nên giá trị tài sản được xác định theo giá trị của chứng khoán đó tại thời điểm đó trên thị trường. Sau khi xác định xong giá trị tài sản của quỹ sẽ được chia cho số cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đang lưu hành để xác định giá trị cho mỗi chứng chỉ. Giá bán và giá mua lại sẽ bằng giá trị của mỗi chứng chỉ cộng thêm một số chi phí cho việc mua bán đó. Giá thị trường = NAV + chi phí giao dịch Trong đó NAV : Giá trị tài sản ròng (Net Asset Value). Tổng giá trị tài sản ròng của quỹ bằng tổng giá trị các tài sản có và các khoản đầu tư của quỹ trừ đi các nghĩa vụ nợ tại thời điểm tính toán. Giá trị tài sản ròng trên một cổ phần của quỹ được tính bằng NAV = Tổng tài sản có của quỹ – Tổng nợ phải trả Số cổ phần hiện có NAV của các quỹ được tính toán và công bố hàng ngày dựa trên giá thị trường của các chứng khoán mà quỹ đầu tư vào. Đối với Quỹ đóng thì giá cổ phần của quỹ sẽ phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán, nó lấy NAV làm cơ sở nhưng không gắn liền với giá trị NAV. Khi một Quỹ đóng bán cổ phiếu với giá thấp hơn NAV thì được gọi là bán chiết khấu (Discount) và ngược lại nếu giá bán cổ phiếu lớn hơn NAV thì được gọi là bán có thu phí (Premium). Chúng được tính như sau: Discount (-) / Pemium (+) = Giá cổ phần - NAV NAV Thông thường tại thị trường chứng khoán các nước phát triển rất ít Quỹ đầu tư được giao dịch có mức Premium, mà phần lớn ở mức Discount từ 15% đến 20%. Chỉ số này không ổn định mà biến động theo các điều kiện của thị trường. Thường những quỹ được giao dịch có chỉ số ở mức Discount đều có thể đạt được mức Premium cao trong tương lai và ngược lại. 6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư Việc cung cấp thông tin vừa có ý nghĩa là tạo cơ hội cho quỹ thu hút vốn đầu tư vừa để góp phần bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Do được cung cấp thông tin mà người đầu tư đánh giá đúng về thực trạng của các khoản đầu tư, khả năng chuyên môn của những người quản lý quỹ để có thể quyết định đầu tư đúng đắn. Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo sự thống nhất dễ hiểu cho các nhà đầu tư. Các nước thường quy định Quỹ đầu tư khi gọi vốn từ công chúng phải làm Bản cáo bạch (Prospectus) để công bố toàn bộ thông tin về công ty quản lý, tổ chức bảo quản giám sát về chính sách, mục tiêu đầu tư của quỹ… 6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ Hầu hết các nước đều ngăn cấm các giao dịch giữa các chủ thể có liên quan với quỹ. Giao dịch giữa các chủ thể có liên quan là các giao dịch liên quan tới tài sản của quỹ giữa một bên là Quỹ đầu tư và một bên là chủ thể khác như công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản giám sát, người bảo lãnh phát hành, nhà tư vấn… mà việc giao dịch này có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của người đầu tư hiện tại của quỹ. Các trường hợp được coi là giao dịch có liên quan như: - Việc mua bán tài sản của quỹ với người có liên quan (nhân viên, người quản lý, đối tác, người làm thuê, cổ đông…) - Các khoản vay nợ của quỹ với chủ thể liên quan. - Một người có liên quan hành động như một đại lý đối với tài sản của quỹ trong việc mua bán chứng chỉ quỹ đầu tư. quỹ. - Người có liên quan cam kết với người thứ ba tham gia giao dịch với Nói chung mỗi nước lại có quy định cụ thể riêng để ngăn chặn hiện tượng này để đảm bảo hoạt động của quỹ được lành mạnh, công bằng bảo vệ lợi ích của tất cả những người đầu tư. II. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán Tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá kết quả kinh doanh của một quỹ là liệu quỹ đó có đáp ứng được mục tiêu đầu tư của mình hay không. Để theo dõi hoạt động của quỹ và quyết định liệu quỹ có thể đem lại lợi nhuận không, nhà đầu tư có thể đánh giá dựa trên: - Theo dõi những biến động trong giá cổ phiếu hay giá trị tài sản thuần NAV. - Tính lợi suất - Tính tổng lợi nhuận thu về Ngoài một số chỉ tiêu trên thì các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới một số chỉ tiêu khác như tỷ lệ chi phí, tỷ lệ thu nhập, tỷ lệ doanh thu… Biến động NAV : Như đã đề cập tới, NAV của một quỹ được tính bằng cách chia giá trị hiện hành của quỹ cho số cổ phiếu đang giao dịch của quỹ. NAV của một quỹ tăng lên khi giá trị các cổ phiếu quỹ nắm giữ tăng lên. Ví dụ, nếu một cổ phiếu của quỹ trị giá 15 USD năm nay và 10 USD năm ngoái, điều đó có nghĩa là giá trị mà quỹ nắm giữ đã tăng 50% và do đó có thể bán cổ phiếu đi để thu lợi nhuận. Lợi suất: Lợi suất được tính bằng lợi nhuận phân chia mỗi cổ phần chia cho giá trên mỗi cổ phần. Một quỹ trái phiếu dài hạn có NAV 10 USD, trả lợi nhuận phân chia là 58 cent, vậy một cổ phiếu có lợi suất là 5,8%. Chúng ta có thể so sánh lợi suất của một Quỹ tương hỗ với lợi suất hiện hành của các loại đầu tư khác để quyết định loại đầu tư nào mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Tổng lợi nhuận: Đối với Quỹ cổ phiếu, có ba bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận là: cổ tức từ khoản thu nhập đầu tư ròng, phân phối các khoản thu nhập ròng được thừa nhận và sự tăng hoặc giảm trong giá trị tài sản ròng. Tổng thu nhập của quỹ là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động của một quỹ tốt hay không. Nó được tính bằng sự thay đổi trong NAV cộng với lợi nhuận quỹ phân chia cho khoản đầu tư. Ngoài ra, người ta còn sử dụng lợi nhuận % tính bằng cách chia giá trị tổng thu nhập cho các chi phí đầu tư ban đầu. Ví dụ, một khoản đầu tư 10.000 USD có tổng thu nhập một năm là 1.500 USD (tăng 1.000 USD về giá trị cộng với 500 USD lợi nhuận đầu tư) thì sẽ có tỷ lệ lợi nhuận phần trăm là 15%. Thước đo chính xác nhất kết quả kinh doanh trong quá khứ và hiện tại của một Quỹ đầu tư là tổng lợi nhuận thu về của quỹ đó, hay giá trị tăng lên cộng với lợi nhuận phân chia đã tái đầu tư. Một trong số các yếu tố chủ chốt ảnh hưởng tới tổng lợi nhuận thu về của một quỹ là xu hướng phát triển của một hoặc nhiều thị trường nơi quỹ sẽ đầu tư, kết quả của danh mục đầu tư của quỹ cũng như mức phí và chi phí của quỹ đó. Tỷ lệ chi phí: Tỷ lệ này được xác định bằng tổng chi phí chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Phí môi giới từ các giao dịch của quỹ không tính trong tỷ lệ chi phí này. Những tỷ lệ chi phí thấp nhất thường thấy là ở các Quỹ chỉ số, tỷ lệ chi phí thấp nhỏ hơn 1% thì được coi là thấp. Các quỹ nhỏ và tăng trưởng nhanh có sử dụng hiệu ứng đòn bẩy và chịu chi phí lãi suất cao là các quỹ phải hoạt động với tỷ lệ chi phí cao nhất. Các quỹ nhỏ có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ lớn là những quỹ thu được lợi ích từ tính kinh tế theo quy mô. Các quỹ đầu tư trên thị trường quốc tế có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn một cách đáng kể so với các danh mục đầu tư trong thị trường nội địa do chi phí nghiên cứu và các chi phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế. Các quỹ cổ phiếu có tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ đầu tư chứng khoán có thu nhập cố định. Khi đánh giá tỷ lệ chi phí, cần so sánh tỷ lệ chi phí với số liệu của các danh mục khác có cùng quy mô. Tỷ lệ thu nhập: Tỷ lệ này được tính bằng giá trị thu nhập đầu tư ròng chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Tuy nhiên, con số này không có tầm quan trọng như tổng lợi nhuận bởi vì tỷ lệ này chỉ tập trung vào thu nhập. Tỷ lệ doanh thu: Tỷ lệ này được xác định bằng số lượng tài sản được bán hoặc mua chia cho giá trị tài sản ròng của quỹ trong năm. Nếu tỷ lệ này là 100% doanh thu có nghĩa là công ty quản lý nắm giữ một loại cổ phiếu hoặc trái phiếu trung bình trong một năm. 50% doanh thu cho biết quỹ này thường nắm giữ các chứng khoán trung bình trong hai năm và với 200% doanh thu thì quỹ thường nắm giữ trong sáu tháng và cứ như vậy. Bên cạnh đó thì các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới chất lượng hoạt động quản lý quỹ. Nhà quản lý đầu tư tốt có thể điều hành hoạt động ổn định và chống chọi lại với những bất lợi của thị trường, tối thiểu hoá rủi ro thua lỗ. Một quỹ hoạt động tốt, được quản lý tốt luôn thu hút được nhiều nhà đầu tư và tài sản của nó theo đó cũng tăng lên hàng năm. III. Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước 1. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường phát triển 1.1 . Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ có một lịch sử khá lâu đời và đã nhanh chóng phát huy được những đặc tính ưu việt của mình nhờ được sự hỗ trợ đáng kể của một nền kinh tế phát triển khá ổn định và một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Tại Mỹ các Quỹ đầu tư hoạt động theo hai mô hình là mô hình công ty và mô hình tín thác. Trong đó thì mô hình công ty đặc biệt là các quỹ dạng mở chiếm ưu thế hơn cả. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán Mỹ phát triển mạnh mẽ như vậy là do tổ chức và hoạt động của các quỹ được xây dựng rất chặt chẽ, trách nhiệm và được phân chia rất rõ ràng phù hợp với trình độ quản lý quỹ và mục đích đầu tư của quỹ. Bên cạnh đó là một hệ thống luật pháp liên quan đến thị trường chứng khoán và Quỹ đầu tư chứng khoán rất chặt chẽ và rõ ràng. Điều này chủ yếu là do thị trường chứng khoán Mỹ nói chung và hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng đã hoạt động trong một thời gian rất dài và qua quá trình hoạt động thực tế đó, hệ thống luật pháp không ngừng được hoàn thiện để đảm bảo cho các quỹ hoạt động được lành mạnh và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đầu tư. 1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh có thể tồn tại dưới hai dạng kết thúc đóng và kết thúc mở tương ứng với hai loại hình quỹ đặc trưng của Anh là Quỹ tín thác đầu tư và Quỹ tín thác đơn vị. Quỹ tín thác đầu tư - ITCs là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và không phải là hình thức tín thác dưới khía cạnh pháp lý. Nó là quỹ dạng đóng. Những nhà đầu tư trong ITC mua cổ phiếu phổ thông của nó và sau đó các khoản thu nhập được trả theo dạng cổ tức và lỗ hoặc lãi vốn từ các cổ phiếu của họ. Quỹ được quyền sử dụng một số tiền để thực hiện hoạt động tiếp thị các chứng chỉ quỹ của mình và thưởng cho các đại lý. Đây chính là lý do chính đối với những thành công của ITC trong những năm gần đây, cho dù những chi phí hoạt động của chúng thường khá cao và những hoạt động đầu tư thường không tốt. Quỹ tín thác đơn vị được biết đến như là một quỹ mở mô hình tín thác. Loại quỹ này rất được phát triển ở Anh do có một số quy tắc chung trong khối thị trường chung Châu Âu về đầu tư tập thể vào các chứng khoán có khả năng chuyển đổi. Quy tắc này cho phép một Quỹ đầu tư của một nước có thể bán các chứng khoán của mình trong toàn khối thị trường chung. Chính vì vậy, Quỹ đầu tư chứng khoán dạng này có quyền hạn rộng rãi trong việc thay đổi các chứng khoán nắm giữ trong danh mục đầu tư của quỹ và các quỹ có khả năng đa dạng hoá tối đa danh mục của mình. Ở Anh, các công ty quản lý quỹ hay Quỹ đầu tư cũng không đảm nhận việc mua bán chứng chỉ quỹ hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một công ty chứng khoán thực hiện. 1.3. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản Quỹ đầu tư lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật vào năm 1941. Trải qua nhiều khó khăn nhưng kể từ năm 1996 trở lại đây, các Quỹ đầu tư đã thực sự bước vào giai đoạn phát triển ổn định và đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán và nền kinh tế nói chung. Các Quỹ đầu tư ở Nhật mang một số đặc điểm nổi bật sau. Các quỹ chỉ tồn tại theo mô hình tín thác chứ không theo mô hình công ty. Có hai phương pháp hình thành quỹ dạng tín thác. Thứ nhất là các chứng chỉ quỹ được bán cho công chúng để tạo vốn hoặc theo phương pháp thứ hai là người quản lý dùng vốn của mình giao cho người lưu giữ tài sản của quỹ tạo vốn trước, sau đó đem các chứng chỉ cho công chúng. Các Quỹ đầu tư của Nhật là dạng kết thúc mở. Qua nghiên cứu thị trường nước này cho thấy, quỹ dạng mở hoạt động rất linh hoạt, tránh được sự thao túng của các công ty quản lý quỹ thường xảy ra với Quỹ đóng, đồng thời các chứng chỉ quỹ cũng ổn định hơn nhiều so với chứng chỉ quỹ đóng mỗi khi có những sự kiện tác động đến từng loại chứng khoán liên quan. Cũng như Anh, Mỹ thì ở Nhật các công ty quản lý quỹ hay chính quỹ cũng không đảm nhận việc mua bán chứng chỉ hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một công ty chứng khoán thực hiện. Ngày nay ở Nhật Bản, Quỹ đầu tư chứng khoán trở thành một trong những loại hình đầu tư có hiệu quả nhất hiện nay. Đó là do các quỹ được hoạt động trong một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt và chính bản thân các quỹ này có được một chương trình đầu tư có hệ thống và một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoàn hảo. Đồng thời, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra được những chính sách hợp lý nhằm khuyến khích thị trường chứng khoán nói chung và Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng phát triển như thực hiện chính sách thuế ưu đãi… 2. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi 2.2 . Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc Quỹ đầu tư chứng khoán Hàn Quốc được hình thành từ năm 1969 với mô hình tương tự như mô hình Quỹ đầu tư dạng tín thác ở Anh. Chính phủ Hàn Quốc quyết định chọn mô hình này là nhằm hỗ trợ cho chính phủ trong các chính sách phát triển kinh tế. Bởi vì Quỹ đầu tư mô hình tín thác là yếu tố cần thiết trong việc huy động được một lượng vốn khổng lồ cho tiến trình phát triển kinh tế trong ngắn hạn và đem lại sự ổn định cho thị trường tài chính thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán gián tiếp. Hiện nay, Hàn Quốc đã cho phép tồn tại cả hai mô hình tín thác và công ty. Có hai loại hình công ty quản lý quỹ quản lý các quỹ tín thác đầu tư chứng khoán là Công ty tín thác đầu tư (Investment Trust Company, ITC) và Công ty quản lý tín thác đầu tư (Investment Trust Management Company, ITMC). Hai loại hình công ty này chỉ khác biệt nhau về phạm vi hoạt động. ITC được phép chào bán chứng chỉ đầu tư trực tiếp cho các nhà đầu tư thông qua mạng lưới của chính mình, còn ITMC không được trực tiếp bán chứng chỉ cho người đầu tư mà phải chào bán thông qua các đại lý là các công ty chứng khoán hoặc các ngân hàng. Khác với Anh, Mỹ, Nhật, ở Hàn Quốc các công ty quản lý đảm nhiệm luôn việc bán các chứng chỉ quỹ tới công chúng thông qua hệ thống chi nhánh của công ty. Chính nhờ đặc điểm này mà các công ty quản lý quỹ ở Hàn Quốc ít chịu ảnh hưởng của các công ty chứng khoán và điều này là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển đáng kể của các Quỹ đầu tư chứng khoán ở Hàn Quốc. 2.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan Chỉ sau khi thị trường chứng khoán Thái Lan ra đời được một năm (năm 1974), chính phủ Thái Lan đã rất chú trọng đến việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán và tăng cường khả năng huy động vốn bằng cách thiết lập Quỹ đầu tư chứng khoán dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhờ đó giúp giới đầu tư Thái Lan vốn rất bỡ ngỡ với thị trường chứng khoán có thể có được một phương thức đầu tư mới đơn giản và an toàn hơn nhờ tính đầu tư chuyên nghiệp của quỹ. Tuy nhiên phải đến hai năm sau, hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán Thái Lan mới chính thức đi vào hoạt động. Trải qua nhiều thăng trầm, đến những năm 90, kể từ khi Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán mới ra đời vào năm 1992 thì hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan mới phát triển rực rỡ. Sự thành công này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân phối và dịch vụ của các Quỹ đầu tư. Các quỹ đã xây dựng được các kênh phân phối rất mạnh thông qua việc liên kết với các ngân hàng thương mại lớn. Góp thêm vào sự phát triển của các quỹ còn phải kể đến các văn bản luật và quy chế của uỷ ban chứng khoán hoạt động khá hiệu quả do được soạn thảo bởi những người có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng khuyến khích việc liên doanh với nước ngoài để thành lập Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ nhằm tranh thủ vốn và kỹ năng của đối tác nước ngoài. Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là cùng với sự hoạt động của các tổ chức tín thác đầu tư, Thái Lan cũng đã có một sự quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán. * Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam rút ra từ thực tiễn hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại một số nước Dù ở thị trường phát triển hay thị trường mới nổi thì các Quỹ đầu tư chứng khoán vẫn có những nét tương đồng và chúng đều tuân theo một quy luật phát triển chung. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế chính trị mà Quỹ đầu tư chứng khoán ở từng nước lại có những đặc trưng riêng. Là một nước đi sau, Việt Nam có thể học tập được những kinh nghiệm quý báu này để áp dụng một cách linh hoạt, giúp cho hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán có thể phát triển lớn mạnh, phát huy được tối đa tính ưu việt của mình. Một yếu tố cần để giúp cho Quỹ đầu tư chứng khoán có thể hình thành và phát triển chính là những người đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chính là cầu nối giúp các cá nhân với số vốn ít ỏi của mình có thể đầu tư vào thị trường chứng khoán trong một danh mục đầu tư đa dạng và rủi ro được giảm xuống ở mức thấp nhất. Chúng ta có thể nhận thấy rằng các thị trường phát triển có hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán đã có một lịch sử phát triển lâu đời, cũng như các thị trường mới nổi có ngành Quỹ đầu tư chứng khoán đang bắt đầu đi vào quỹ đạo phát triển cũng đều có số lượng người tham gia đầu tư chứng khoán rất đông. Tỷ lệ người am hiểu và tự mình trực tiếp kinh doanh chiếm rất nhỏ, đa số đều thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán. Trong khi đó, ở Việt Nam, với tỷ lệ người am hiểu thị trường chứng khoán còn thấp, vốn đầu tư nhỏ thì việc làm cấp bách trước mắt chính là thu hút đông đảo dân chúng tham gia đầu tư. Bên cạnh đó, khâu đào tạo nguồn nhân lực cho các Quỹ đầu tư chứng khoán cũng phải được chú trọng. Theo kinh nghiệm của Thái Lan, để hoạt động đầu tư có hiệu quả, chính phủ nước này đã quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực. Việt Nam cần phải tìm ra được những giải pháp để có thể xây dựng được một đội ngũ cán bộ nhân viên không chỉ giỏi về mặt kỹ năng chuyên môn mà còn có đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo tính công khai, công bằng trong thị trường và cũng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Trên thế giới hiện nay, Quỹ đầu tư chứng khoán đang tồn tại dưới hai mô hình, mô hình tín thác và mô hình công ty. Việc lựa chọn áp dụng mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán nào để phù hợp với điều kiện kinh tế, hệ thống pháp luật của từng nước có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định đến quá trình hình thành và phát triển hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán. Đối với thị trường mới nổi, đặc biệt là tại các nước Châu Á, các quỹ dạng tín thác được hình thành trước. Khi hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán đã phát triển tới một trình độ nhất định thì các nước mới áp dụng mô hình Quỹ đầu tư dạng công ty. Trong khi đó, tại các nước phát triển thì lại áp dụng một cách đồng thời cả mô hình công ty và mô hình tín thác. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì các nước này đã phát triển ở một trình độ cao, hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ nên đã góp phần tạo ra một cơ chế hình thành và phát triển các Quỹ đầu tư một cách linh hoạt, tạo ra sự cạnh tranh giữa các định chế đầu tư. Chính vì vậy, với một đặc điểm tương tự như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia… trong buổi đầu hình thành Q._.hân ở nhiều kỹ năng khác nhau. Sau khi ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ, đầu tư nước ngoài ở Việt Nam sẽ tăng, cổ phiếu và các tài sản của các công ty ở Việt Nam sẽ có khả năng thu hút các nhà đầu tư tài chính. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Quỹ đầu tư. Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách ủng hộ Quỹ đầu tư chứng khoán. Các bộ, ngành đã phối hợp để ban hành quy chế hoạt động cho sự hoạt động của các quỹ, đặc biệt là các cải cách pháp luật, chính sách ưu đãi đầu tư. Bên cạnh đó, chính phủ đang có nhiều chính sách để thu hút nguồn vốn từ tất cả các thành phần kinh tế cũng như các chính sách nhằm tự do hoá khả năng làm ăn và đầu tư đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều đó tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia góp vốn vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế chứ không bị hạn chế như trước đây. Từ ngày 20/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức được khai trương và đến nay đã hoạt động được hơn ba năm. Về cơ bản, bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của các tầng lớp dân cư đến việc thực hiện đầu tư chứng khoán. Đồng thời, sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam đã giúp cho Quỹ đẩy mạnh đầu tư vào các công ty cổ phần và giúp các doanh nghiệp này được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, qua đó giúp các quỹ dễ dàng tháo lui vốn thông qua chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán. Hàng hoá chứng khoán có xu hướng ngày càng phong phú. Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được tiếp tục đẩy mạnh. Theo kế hoạch, đến năm 2005 sẽ hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Với việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự ra đời của nhiều công ty cổ phần mới. Chính phủ thường xuyên phát hành trái phiếu để huy động vốn cho việc phát triển kinh tế xã hội. Các ngân hàng thương mại đã và đang phát hành trái phiếu huy động vốn cho hoạt động kinh doanh cũng là những yếu tố góp phần làm phong phú thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Với những điều kiện trên cho thấy, trong những năm sắp tới hàng hoá chứng khoán sẽ đa dạng về chủng loại và sẽ tăng thêm nhiều về số lượng, góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán. Với sự thành công của đường lối đổi mới kinh tế, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã là nơi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và được coi là thị trường mới nổi đầy tiềm năng. Do vậy, một số Quỹ đầu tư Việt Nam của nước ngoài đã sớm được thành lập và có mặt hoạt động tại Việt Nam. Điều đó đã góp phần tạo ra một yếu tố thúc đẩy sự ra đời các Quỹ đầu tư trong nước của Việt Nam. III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán 1. Về phía Nhà nước 1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng. Chỉ trong một nền kinh tế ổn định, các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, mức lãi suất ổn định thì mới tạo lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xoá bỏ tâm lý e ngại, dè chừng khi tham gia vào một hình thức đầu tư mới. Từ đó khuyến khích các tổ chức kinh tế tích cực hơn trong quyết định thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra môi trường tốt cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự kiểm soát thì các nhà đầu tư không thể mạo hiểm tham gia vào thị trường chứng khoán vì họ không tin tưởng vào khả năng sinh lợi trên thị trường này. Điều này dẫn đến sự đình trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Một nền kinh tế ổn định còn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có thể duy trì sự phát triển ổn định của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quan tâm tới việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao và tìm cách huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế phát triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán sẽ phong phú. Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát hành ra sẽ hấp dẫn hơn đối với người đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán, làm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán sôi động. Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát lạm phát trong điều kiện chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau: - Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc hoàn thiện, cải tiến thiết bị công nghệ theo chiều sâu. 1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện nay, chúng ta đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng chưa đề cập rõ về Quỹ đầu tư. Việc điều chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa vào quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ kèm theo Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998. Nhưng để các văn bản này đi vào thực tiễn và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các nội dung này vào trong khuôn khổ pháp lý cao hơn dưới hình thức các luật như Luật về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật các định chế tài chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần đi vào hoạt động ổn định. Ngoài ra, do Quỹ đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm riêng so với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự… Các bộ luật này và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo nhau và chưa có sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ như đối với Luật đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng chỉnh sửa nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%. 1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động, do vậy rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy trợ giúp sự hình thành và phát triển Công ty tín thác đầu tư. Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua các cổ phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở Singapore chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước với mục đích tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế và các tổ chức khác. 1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới và quan trọng không kém so với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã rất thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một phần vì sợ các nhà đầu tư nước ngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền tài chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm 1997. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường Việt Nam hiện nay chiếm chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi xảy ra khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa tới kênh thu hút vốn này. 1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam Thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng lành mạnh và được kiểm soát tốt. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ thể giám sát, bảo quản tài sản của quỹ. Muốn trở thành ngân hàng giám sát, ngân hàng đó phải đáp ứng các điều kiện do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đề ra. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực liên tục cơ cấu lại tổ chức, hoàn thiện các nghiệp vụ phục vụ khách hàng và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ. Ngân hàng nhà nước nên có chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các ngân hàng thương mại, xây dựng các môi trường pháp lý chặt chẽ, xây dựng các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán rõ ràng và trung thực để các ngân hàng thương mại có thể đáp ứng một nghiệp vụ mới này. Các ngân hàng thương mại là những tổ chức đóng vai trò tích cực trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và được ngân hàng trung ương kiểm soát và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của thị trường chứng khoán. Qua đó đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự ra đời của các Quỹ đầu tư. Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực lượng nòng cốt cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng nhà nước có thể dành một khoản chi nhất định cho việc thành lập các công ty chứng khoán hoặc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ sở cho các ngân hàng thành lập công ty chứng khoán hoặc thực hiện việc liên doanh với công ty chứng khoán nước ngoài. Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương thức thanh toán… tạo điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng được các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản cho các Quỹ đầu tư. Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ký giấy phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng lưu ký chứng khoán. Đây là bước chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân hàng giám sát khi các Quỹ đầu tư ra đời. 1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới mẻ, chắc chắn khi thành lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước đối với sự hoạt động và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán. Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu tư. Theo quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Với quy định như vậy thì Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân, không thuộc sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên tắc không đánh thuế các Quỹ đầu tư, coi Quỹ đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp nhân kinh doanh. Ngay cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế độ miễn trừ nhất định để quỹ này được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy định về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là tương đương nhau trên góc độ thuế. Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được chia từ các quỹ hoặc chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập đầu vào và lợi nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư đầu tư qua quỹ. Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. 1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng khoán. Để Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Trên thực tế, số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường tập trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị trường giao dịch ngoài quầy, mức cầu cũng không khả quan. Để khuyến khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà nước phải đảm bảo hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung kích cầu trên thị trường chứng khoán. Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng hoá chứng khoán cho thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn các thị trường chứng khoán thế giới đã chứng minh rằng một thị trường chứng khoán sẽ không thể hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp cho thị trường không nhiều và số lượng nhà đầu tư nhỏ. Một thị trường như vậy được coi là một thị trường mỏng, thiếu tính ổn định và ít có khả năng tự điều chỉnh, dễ bị tác động bởi các yếu tố khách quan bên ngoài, không đảm đương được vai trò là nơi huy động và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong xã hội. Một trong những mục tiêu hàng đầu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư vào chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường còn hạn chế. Để tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần trợ giúp hàng hoá chứng khoán cho sự hoạt động của các Quỹ đầu tư. Sự trợ giúp được thực hiện bằng cách khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu bán ra bên ngoài. Hiện nay, khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thường dành một tỷ lệ từ 15% - 20% số cổ phiếu phát hành để bán ra bên ngoài cho công chúng. Thế nhưng, phần vốn thuộc sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm tỷ lệ cao 35%, phần bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp còn cao hơn 38% do đó tỷ lệ bán cho công chúng thấp, không đáp ứng được một trong những điều kiện niêm yết là 20%. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy những doanh nghiệp cổ phần hoá có triển vọng làm ăn tốt thì các nhà đầu tư riêng lẻ là công chúng khó có thể mua được cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Vì thế, việc dành quyền ưu tiên mua cho các Quỹ đầu tư vừa tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư hoạt động lại vừa có thể thực hiện phổ biến rộng rãi cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá cho công chúng qua việc họ mua chứng chỉ Quỹ đầu tư của quỹ. Có thể áp dụng các giải pháp tài chính thích hợp để tăng cung hàng hoá cho thị trường như tín dụng nhà nước và thuế. Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế nên nhu cầu chi cho đầu tư của ngân sách là rất lớn nên việc vận dụng công cụ tín dụng nhà nước là rất cần thiết để bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước cần có những dự án đầu tư mang tính khả thi và có thể đẩy mạnh việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn, đặc biệt là những trái phiếu công trình với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động của ngân hàng, vì trái phiếu chính phủ là một mặt hàng ít rủi ro dựa trên uy tín của nhà nước. Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/ NĐ-CP quy định hai hình thức mới của việc phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành thông qua các nhà bảo lãnh phát hành và thông qua đấu thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, mục đích tập trung thống nhất để trái phiếu chính phủ có thể giao dịch trên thị trường. Vấn đề đặt ra cho việc phát hành trái phiếu chính phủ là phải đổi mới thực sự cơ cấu phát hành. Trong điều kiện lãi suất ngân hàng thấp như hiện nay, nếu trái phiếu chính phủ dài hạn có mức lãi suất tương ứng thì sẽ ít hấp dẫn nhưng lãi suất trái phiếu chính phủ cũng không nên cao hơn lãi suất ngân hàng. Bên cạnh đó, phải tăng khả năng niêm yết của trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, trái phiếu cần phải được phát hành theo lịch biểu định kỳ thường xuyên. Việc phát hành từng đợt phải thống nhất về mệnh giá, lãi suất và thời hạn thanh toán mỗi đợt phát hành phải có khối lượng tương đối lớn. Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một nguồn hàng hoá không nhỏ khác cho thị trường chứng khoán là trái phiếu công ty. Để đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp, hiện nay việc cơ cấu lại nợ cho công ty nhà nước đang được đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cần cắt giảm triệt để bao cấp lãi suất, nguồn vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Điều này thúc đẩy họ phải chuẩn bị các điều kiện để phát hành trái phiếu công ty. Nhà nước khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhà nước nên nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần, chính sách khuyến khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại, chính sách cho phép đăng ký phát hành khung, chính sách niêm yết giữa cổ phần hoá và niêm yết chứng khoán… Hiện tại, quy mô vốn của các Quỹ đầu tư nước ngoài đã giảm xuống còn 128 triệu USD, thế nhưng nguồn vốn này sẽ còn là quá lớn so với quy mô vốn giao dịch hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng giá trị giao dịch của các công ty niêm yết vào khoảng 140 triệu USD trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư đến 20% cổ phiếu của các công ty niêm yết làm cho các nhà đầu tư có ít chọn lựa để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, việc gia tăng tỷ lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần để tăng nguồn cung của thị trường chứng khoán. Ngoài việc tăng về số lượng chúng ta cần phải nâng cao chất lượng chứng khoán thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường. Các biện pháp tăng cầu cho thị trường chứng khoán: Vấn đề đặt ra là phải tạo lập một cơ chế và môi trường đầu tư tốt để khuyến khích công chúng đầu tư vào chứng khoán. Để kích cầu, trước hết cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu hút sự quan tâm và nâng cao kiến thức của công chúng về chứng khoán, thị trường chứng khoán và đầu tư chứng khoán. Có chính sách ưu đãi về thuế đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu khi mới thành lập. Chưa nên áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập ròng từ đầu tư chứng khoán, chưa nên đánh vào cổ tức thu được từ đầu tư chứng khoán. Thực hiện miễn giảm thuế đối với các công ty chứng khoán trong vài năm đầu mới thành lập để tăng cường sức mạnh tài chính của nó, nhanh chóng hội nhập vào thị trường vốn đang cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước. Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một cách hợp lý để người lao động có thu nhập thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực chất là người lao động được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với chức năng tạo lập thị trường, muốn vậy nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp như: nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng thương mại. Đa dạng hoá người đầu tư: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân, các hội đoàn thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như chính phủ, địa phương, ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp… Tạo cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán. Qua 3 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp, biểu hiện rõ nét nhất được thể hiện qua sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu chứng khoán, làm đẩy giá thoát ly giá trị thực tế vốn có của nó. Có giai đoạn cầu vượt xa cung, cung vượt xa cầu và cho đến nay thì cầu giảm xuống rõ rệt, có thể nói là cung cầu chứng khoán đã không gặp nhau. Chính vì vậy, phải hình thành những kênh phân phối có hiệu quả đó là các công ty chứng khoán có tác dụng hướng dẫn và tư vấn cho người đầu tư về hình thức kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, bên cạnh thị trường tập trung phải hình thành một thị trường phi tập trung OTC để các loại chứng khoán không được niêm yết có thể giao dịch. Theo kế hoạch việc xây dựng thị trường cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội sẽ được xúc tiến, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh sẽ được xây dựng thành Sở giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hoàn toàn. 1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư Khi phân tích hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có thể nhận thấy rằng việc đầu tư vào kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng khá lớn. Điều đó là hoàn toàn bình thường vì các quỹ phải tập trung vào những ngành nghề phù hợp với mục tiêu kinh doanh của mình với những dự án mang lại lợi nhuận lớn. Chính vì vậy, nó có thể gây ra mất ổn định cân bằng trên thị trường khi danh mục đầu tư của quỹ thiên về một số ngành có tỷ suất sinh lời cao, mặt khác còn ảnh hưởng tới lợi ích xã hội. Do đó, nhiệm vụ của nhà nước khi cho phép thành lập là phải quản lý để tạo tính cân đối giữa các quỹ có mục tiêu đầu tư khác nhau. Bên cạnh các Quỹ bình ổn là nơi tài trợ cho các công ty, doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển cũng nên có các Quỹ đầu tư mạo hiểm để nâng đỡ các dự án vào các lĩnh vực mang tính rủi ro cao nhưng lãi suất lớn. 2. Về phía các Quỹ đầu tư 2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của một Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Ở nhiều nước, các nhà đầu tư riêng lẻ thường chọn Quỹ đầu tư dựa trên cơ sở xem xét tài năng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp của quỹ, người ta cũng sẵn sàng rút ra khỏi quỹ khi mà nhà quản lý chuyên nghiệp xuất sắc đó không còn làm cho quỹ nữa. Thông thường ở một số nước Quỹ đầu tư do một nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp điều hành, vừa thực hiện chiến lược đầu tư, vừa chịu trách nhiệm điều hành công việc hàng ngày. Hỗ trợ cho sự hoạt động của nhà quản lý chuyên nghiệp còn có đội ngũ chuyên viên phân tích tài chính. Hiện nay, các tổ chức thành lập Quỹ đầu tư chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho quỹ theo các kênh: - Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích chứng khoán, về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài chính tín dụng. Sau đó các nhân viên này sẽ nhận được chứng chỉ và tham gia kỳ thi sát hạch để được cấp giấy phép hành nghề đầu tư chuyên nghiệp. - Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, sau đó tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức cho các nhân viên này. - Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu về hệ thống Quỹ đầu tư ở một số nước. Những điều kiện trên cho thấy, một nhà quản lý chuyên nghiệp thực thụ của Quỹ đầu tư chứng khoán phải có một kiến thức sâu rộng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin cho công chúng. Điều đó đòi hỏi phải có kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống để xây dựng đội ngũ các nhà quản lý chuyên nghiệp cho quỹ. 2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng Những vấn đề về tín thác và Quỹ đầu tư là những vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy, một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong việc phát triển hệ thống tín thác đầu tư. Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu tư cho công chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia vào Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng. Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và tham gia của công chúng. Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người đi sâu vào thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đang có rất nhiều hình thức để phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng như tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn ngày cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khoán. Nhưng với vai trò là người quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phải đảm bảo các thông tin trên thị trường chứng khoán là chính xác, trung thực. Có như vậy mới giúp những người ít hiểu biết nhất vẫn tránh được rủi ro và việc quản lý thị trường được dễ dàng. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền thời gian qua chưa được làm liên tục và có hệ thống, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng tương xứng với tầm quan trọng về yêu cầu phát triển của thị trường. Nhiều chương trình tuyên truyền mới chỉ dừng lại ở mức thảo luận và đề xuất ý kiến mà chưa được triển khai kịp thời và bài bản. Các chương trình đào tạo vẫn còn quá ít và chỉ tập trung vào thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chưa mở rộng sang các tỉnh thành khác. 2.3. Chiến lược đầu tư thích hợp Tại Việt Nam, quy mô vốn của một dự án chỉ vào khoảng 10 triệu USD, do đó các Quỹ đầu tư cần xác định chiến lược đầu tư phù hợp, tập trung tìm kiếm các dự án thích hợp với mục tiêu đầu tư của mình. Mặt khác, các quỹ nên hạ thấp yêu cầu về tỷ suất lợi nhuận của các dự án cho phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện tại. Có như vậy, các Quỹ đầu tư mới không bị trói buộc vào thị trường đầu tư của chính mình. Tuy có một đội ngũ quản trị viên xuất sắc song chủ yếu là người nước ngoài vì vậy các quỹ nên tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam hơn nữa nhằm có một chiến lược tương thích với môi trường đầu tư Việt Nam. KẾT LUẬN Không giống như hoạt động tiết kiệm hay đầu tư vào thị trường chứng khoán, xét về mặt thuận tiện, độ tin cậy và sự hấp dẫn, nhất là để thu hút những nguồn tiết kiệm nhỏ, ta thấy khó có một hình thức đầu tư nào có thể thay thế tốt hơn các Quỹ đầu tư chứng khoán. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, các cơ sở pháp lý ban đầu của việc thiết lập thị trường chứng khoán tại Việt Nam đã sớm đưa loại tổ chức này vào các quy định cơ cấu. Theo chiến lược phát triển thị trường chứng khoán do Thủ tướng Chính phủ thông qua, tổng vốn hoá thị trường sẽ đạt 2 – 3% GDP (trên 1 tỷ USD) vào năm 2005 và tăng lên 15% vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu trên, vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán được nhấn mạnh là một kênh huy động và đầu tư vốn hiệu quả, chuyên nghiệp, mang tính ổn định lâu dài nhằm thúc đẩy sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức vào thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ cần được pháp luật điều chỉnh một cách chặt chẽ và hiệu quả để có thể phát huy được hết tính ưu việt của mình. Thế nhưng, tại Việt Nam, ngành Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung là một lĩnh vực hết sức mới mẻ nên chúng ta gặp phải rất nhiều bất cập khi xây dựng khung pháp lý. Sớm vượt qua thử thách này, trong tương lai không xa, chúng ta mới có thể hình thành một hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam với mục tiêu có từ 3 – 5 quỹ vào năm 2005 và tới năm 2010 thì sẽ có từ 20 –30 Quỹ đầu tư được thành lập. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạp chí Chứng khoán Việt Nam năm 2001, 2002, 2003 Tạp chí Đầu tư chứng khoán năm 2002, 2003 Tạp chí Tài chính năm 2003 Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán Giáo trình Thị trường chứng khoán – PGS-NGƯT Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy - Trường Đại học Ngoại thương, 1998 Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ - Ủy ban Chứng khoán nhà nước, 1998 Mutual Fund Fact Book 2003 Báo cáo của MPDF Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán – Ủy ban Chứng khoán nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, 2002 www.ici.org www.ifc.org www.dragoncapital.com www.finansa.com www.investmentfunds.com www.mekongcapital.com ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8334.doc
Tài liệu liên quan