Hoạt động công bố thông tin trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Lời mở đầu Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy để thị trường chứng khoán ( TTCK) hoạt động có hiệu quả và lành mạnh cần phải công bố thông tin công khai, thông tin là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của TTCK (cho dù là tập trung, phi tập trung hay tự do), đồng thời là cơ sở cho nhà đầu tư định giá để mua hoặc bán chứng khoán. Nếu các thông tin trên TTCK sai lệch sẽ gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoang mang trong tâm lý của nhà đầu tư dẫn đến những đ

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3082 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động công bố thông tin trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột biến của thị trường, tạo ra sự khủng hoảng đối với thị trường tài chính quốc gia và sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Đối với một thị trường mới nổi như ở Việt Nam, khi quy mô của TTCK còn nhỏ, cơ chế hoạt động chưa thật sự hoàn chỉnh thì diễn biến của thị trường phụ thuộc rất lớn vào những công ty niêm yết có giá trị vốn hoá lớn. Lúc thị trường mới thành lập, chỉ số VN-Index phụ thuộc vào giá trị cổ phiếu SAM, REE. Hiện nay, việc biến động của các cổ phiếu FPT, VNM, STB lại dẫn đến những biến động của thị trường. Việc phân tích kĩ thuật hay phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như sử dụng các mô hình định lượng khác trong việc phân tích và dự báo giá cổ phiếu trở nên không hữu ích đối với các nhà đầu tư riêng lẻ. Thực tế thời gian qua cho thấy câu hỏi: “Tại sao giá của các cổ phiếu lại tăng giảm một cách đột ngột trong khi chính tình hình của chính công ty đó chẳng có gì đặc biệt” được các nhà đầu tư quan tâm nhưng thực chất của vấn đề là vì họ không nắm được các thông tin từ thị trường mà nguyên nhân chủ quan là do việc minh bạch hoá thông tin vẫn chưa trở thành một thói quen bình thường đối với các đối tượng tham gia TTCK (bao gồm cả CTNY, CTCK...). Để thấy rõ thực trạng và tìm ra các giải pháp cho hoạt động công bố thông tin trên TTCK hiện nay. Em đã chọn đề tài: "Hoạt động công bố thông tin trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam Thực trạng và giải pháp" Kết cấu của dề tài gồm có 3 phần chính: - Chương I: Cơ sở lí luận về Hoạt động công bố thông tin. - Chương II: Thực trạng của Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. - Chương III: Kiến nghị và giải pháp cho Hoạt động công bố thông tin ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng công bố thông tin của các tổ chức tham gia trên TTCK Việt Nam trong vài năm trở lại đây. Do giới hạn về mặt tư liệu cũng như nhận thức, chuyên đề của em chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong thầy góp ý và sửa chữa để đề tài của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy!!! Hà Nội, Ngày 7/4/2007 Chương I: Cơ sở lý luận về Hoạt động công bố thông tin 1.Khái niệm về hoạt động công bố thông tin Công bố thông tin là quá trình các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán công bố một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời những thông tin về hoạt động của thị trường, các thông tin có thể ảnh hưởng tới giá chứng khoán đến cho nhà đầu tư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm của tổ chức, công ty và các phương tiện thông tin của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch khoán khoán nhằm đảm bảo sự công bằng của giá chứng khoán và bảo vệ nhà đầu tư. Các tổ chức tham gia TTCK bao gồm : - Tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng. - Tổ chức niêm yết - Công ty chứng khoán - Công ty quản lý quỹ - Công ty đâu tư chứng khoán - Sở giao dịch chứng khoán - Trung tâm giao dịch chứng khoán. Có hai phương thức công bố thông tin chính: Công bố thông tin trực tiếp và công bố thông tin gián tiếp. - Công bố thông tin trực tiếp nghĩa là các tổ chức có nghĩa vụ công bố thông tin được quyền trực tiếp công bố ra công chúng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và phải đồng thời báo cáo với các cơ quan quản lý và vận hành thị trường như UBCKNN, SGDCK hoặc TTGDCK. - Công bố thông tin gián tiếp nghĩa là các tổ chức khi tiến hành nghĩa vụ công bố thông tin phải chuyển thông tin cần công bố tới các cơ quan quản lý và vận hành thị trường để các cơ quan này tiến hành xử lý các thông tin đó trước, sau khi được xử lý các thông tin này mới được công bố ra công chúng thông qua các phương tiện thông tin của của chính cơ quan quản lý hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng khác. 2. Sự cần thiết và vai trò của hoạt động công bố thông tin đối với hoạt động của TTCK . 2.1. Sự cần thiết Thị trường chứng khoán là sản phẩm cao cấp của nền kinh tế thị trường, thông tin chứng khoán là cơ sở cho sự hoạt động của thị trường chứng khoán, là yếu tố cơ bản giúp các nhà đầu tư định giá chừng khoán để tiến hành các hoạt động mua và bán chứng khoán. Việc duy trì sự ổn địmh và phát triển của TTCK đã trở thành 1 nhu cầu cấp bách và cấp thiết đối với hoạt động của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.Cùng với hệ thồng ngân hàng,TTCK Việt Nam đã tạo ra hệ thống tài chính trong nước, mọi hoạt động của TTCK sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới toàn bộ nền kinh tế xã hội của đất nước - hoạt động nhằm huy động nguồn vốn trung và dài hạn 1 cách có hiệu quả nhất để đầu tư phát triển kinh tế. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động công bố thông tin trên TTCK là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển TTCK,bởi vì vai trò của hoạt động công bố thông tin trong sự vân hành của thị trường chứng khoán là rất quan trọng, nó như chiếc cầu nối thông tin giữa nhà phát hành cới công chúng đầu tư, các thông tin này sẽ là cơ sở để các nhà đầu tư ra quyết định sẽ đầu tư vào lĩnh vực nào. Các tổ chức chào bán và công ty niêm yết phải cung cấp nhiều tài liệu cần thiết về bản thân công ty để các nhà đầu tư có thể xác định được giá trị của công ty và đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Trên TTCK, các yếu tố ảnh hưởng tới giá chứng khoán là: Giá trị công ty, các điều kiện thị trường, yếu tố kinh tế vĩ mô,yếu tố tâm lý nhà đầu tư và yếu tố ngẫu nhiên (do thiên tai gây ra). Về lâu dài giá chứng khoán chịu sự chi phối của giá trị công ty.Một công ty ngay cả khi có tình trạng tài chính tốt,khả năng sinh lời cao nhưng giá chứng khoán của công ty vẫn thấp nếu thông tin của công ty không được công bố một cách đầy đủ, chính xác vì thế nhà đầu tư không thể tiếp cận được những thông tin cần thiết để đưa ra những quyết định đầu tư.Thực tế, các công ty phát hành thường không muốn công bố những thông tin xấu, đặc biệt là các công ty ở những thị trường mới nổi. Vì vậy, công bố thông tin là một trách nhiêm của nhà phát hành và các tổ chức niêm yết trong việc cung cấp mọi thông tin, cả tốt và xấu. 2.2. Vai trò Hoạt động công bố thông tin có vai trò quan trọng đối với các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường và có tác dụng thúc đẩy TTCK phát triển. Đối với công tác quản lý thị trường - Giúp cho các tổ chức công bố thông tin mội cách chính xác Thông tin công bổ ra chủ yếu nhằm phục vụ các nhà đầu tư, việc công bố các thông tin định kì, bất thường sẽ giúp các nhà đầu tư có cách nhìn đầy đủ và khách quan hơn về các khoản đầu tư của mình - Là công cụ quản lý gián tiếp có tác động trở lại trong việc quản lý Hoạy động công bố thông tin còn là công cụ gián tiếp có tác động quản lý các CTNY từ chính các thông tin công bố. Tính công bằng của thị trường, các mặt trái của thị trường thể hiện ngay trong các số liệu mà các CTNY hay các công ty phát hành công bố. Việc công bố các thông tin của công ty đại chúng là điều kiện bắt buộc.Các thông tin đó chính là tình hình hoạt động của công ty, doang thu , lợi nhuận, kế hoạch phát triển.... Do vậy việc công bố thông tin chính là công cụ cho phép các công ty đại chúng thực hiện nghĩa vụ của mình, nhằm duy trì nguyên tắc trong thị trường một cách hiệu quả. - Theo dõi liên tục quả trình phàt triển của các tổ chức Các tổ chức chào bán, CTCK luôn luôn giữ lại được các số liệu về tình hình phát triển, giúp cho các công ty hay tổ chức có thể đáp ứng được các đòi hỏi của công chúng đầu tư hay TTGDCK trong mọi lúc. Các số liệu đó còn có thể được tổng hợp để đưa ra thành các thông tin có tính hỗ trợ quyết định và đánh giá sự phát triển của tổ chức, các loại chứng khoán trong quả khứ hiện tại và tương lai. - Đáp ứng nhu cầu thông tin của các nhà đầu tư Việc công bố thông tin của tổ chức phát hành là có tính chất nghĩa vụ, nếu chúng ta biết tận dụng khả năng của hệ thốn thông tin một cách có hiệu quả, gián tiếp đã tạo ra các cơ họi cho các nhà đầu tư cũng như tạo khả năng phát triển cho TCPH, nhà đầu tư có thê rnhanh chóng hiểu được khả năng hoạt động của công ty, xu hướng và cơ hội phát triển để đầu tư vào chính công ty đó.Sự đa dạng hoá trong hoạt động công bố thông tin giúp cho các nhà quản lý, nhà đầu tư có nhiều cách nhìn nhận và kiểm tra, giám sát khác nhau đối với các công ty niêm yết. - Báo cáo nhanh chóng tình hình hoạt động theo định kì Hoạt động công bố thông tin sẽ đảm bảo cho phép các CTNY có khả năng công bố thông tin về tình hình hoạt động của mình theo định kì, cho nên nếu chúng ta xây dựng được các tiêu chuẩn cho các thông tin công bố thì chúng ta có thể nhanh chóng hệ thống hoá được các yêu cầu thông tin. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phát hành công bố thông tin của mình một cách nhanh chóng, thuận tiện nhất đảm bảo tính chính xác của dữ liệu thông tin. Đối với nhà đầu tư Đảm bảo nhận được thông tin một cách chính xác Hoạt động công bố thông tin sẽ đảm bảo công bố thông tin một cách chính xác cho các nhà đầu tư, nhà đầu tư luôn cần có các thông tin cần thiết cho các dự báo, phỏng đoán để nắm bắt thị trường nhằm phục vụ cho nhu cầu đầu tư của mình. - Đảm bảo tính công bằng chống các hành vi gian lận Tính công bằng của thông tin thể hiện ở hệ thống công bố thông tin đối xử công bằng, lành mạnh đối với các nhà đầu tư, đang đầu tư hay chính là các đối tượng khai thác và xử lý thông tin.Người ta vẫn nói rất nhiều tới sự thành công trên TTCK phần lớn là biết cách nắm bắt thông tin đưa ra các quyết định hợp lý tại nhiều thời điểm có lợi nhất dựa trên những hiểu biết về thông tin thị trường. Hoạt động công bố thông tin phải đảm bảo theo nguyên tắc bảo đảm sự công bằng đối với mọi nhà đầu tư, nhà đầu tư có thể khai thác thông tin một cách trực tiếp thông qua hệ thống truyền thông, máy tính nối mạng hoặc gián tiếp thông qua các hãnh tin, công ty tư vấn. Các công bố thông tin sẽ được xây dựng dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính công bằng, có trật tự, đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho mọi nhà đầu tư. - Đảm bảo cung cấp thông tin liên tục và đa dạng. Việc công bố thông tin định kỳ hay bất thường của các tổ chức tham gia thị trường theo một nguyên tắc nhất định sẽ cho ta một kho dữ liệu khổng lồ về các thông tin trong quá khứ, với khả năng lưu trư thông tin sẽ cho pháep chúng ta lưu trữ lại tất cả những biến động thị trường trong mọi thời kì phát triển, giúp cho các nhà đầu tư có thể nhận định, lập luận về sự phát triển của các loại chứng khoán, giúp họ đánh giá đúng dắn hơn trên cơ sở của các loại thông tin đó. Đối với Trung tâm giao dịch chứng khoán Là công cụ giúp cho TTGDCK và SGDCK công bố thông tin kịp thời Hệ thống công bố thông tin giúp cho trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán công bố thông tin kịp thời tạo điều kiện tốt cho các nhà đầu tư cũng như các đối tượng thị trường có được cái nhìn nhanh nhất về sự thay đổi của thị trường cũng như chứng khoán mà mình quan tâm. 3. Nguyên tắc và tiêu chí trong công bố thông tin Cho dù các TCNY nhận thấy được tầm quan trọng về lợi ích của việc công bố thông tin nhưng họ không thể thực hiện công bố thông tin một cách tuỳ tiện về hình thức, thời gian, địa điểm... mà hoạt động công bố thông tin khi đã trở thành nghĩa vụ và tập quán trong kinh doanh cũng cần tuân thủ theo một số nguyên tắc và tiêu chí nhất định.Việc đề ra các nguyên tắc và tiêu chí mang tính chuẩn tắc trong hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, kể cả đối với thông tin của tổ chức niêm yết lẫn thông tin thị trường là nhằm đảm bảo và duy trì lòng tin của các nhà đầu tư khi họ tham gia thị trường chứng khoán. Thông thường, các nguyên tắc và tiêu chí cơ bản về công bố thông tin ở hầu hết các thị trường chứng khoản trên thế giới là: 3.1.Tính chính xác,trung thực và đầy đủ. Đây là yêu cầu cơ bản đầu tiên của việc công bố thông tin. Điều này đòi hỏi tổ chức thực hiện và công bố thông tin phải tôn trọng tính trung thực vốn có của thông tin, không được xuyên tác , bóp méo thông tin công bố, hoặc có những hành vi cố ý gây hiểu nhầm thông tin.Các thông tin được công bố, đặc biệt công bố thông tin từ các tổ chức niêm yết là căn cứ cho hành vi mua bán của các nhà đầu tư trên thị trường, là một trong những vấn đề đảm bảo sự công bằng trong việc hình thành giá cổ phiếu. Trái lại, nhũng thông tin thuộc loại tin đồn sẽ có mức độ chính xác và độ tin cậy thấp nhất. Những nhà đầu tư mua bán chứng khoán theo tin đồn sữ gánh chịu nhiều thiệt hại, rủi ro cao do mức độ tin cậy thấp của các thông tin đó. Nguyên tắc này được tuân thủ dựa trên cơ sở một danh mục các thông tin được quan trọng và cần được cung cấp.Nói cách khác, tổ chức niêm yết có nghĩa vụ cung cấp tất cả các thôn tin được xem là có thể ảnh hưởng tới nhận định của nhà đầu tư đối với triển vọng của tổ chức niêm yết.Những thông tin và sự kiện như vậy bao giờ cũng được quy định chặt chẽ trong luật chứng khoán và các quy định về niêm yết và công bố thông tin. Một số thông tin quan trọng cung cấp định kì dưới dạng tài liệu phải được kiểm tra kĩ để đảm bảo tính chính xác.Chẳng hạn, đó là những thông tin về các khoản mục trên bản báo cáo tài chính, đặc biệt là các khoản mục nằm ngoài bản cân đối kế toán, những thay đổi trong định giá các hợp đồng giao dịch trên thị trường, các dự án đầu tư.Ngoài ra, để đảm bảo tính chính xác, trung thực, thông tin công bố còn phải được trình bày rõ ràng, không gây hiểu lầm hoặc đánh lừa người đọc.Về mặt nguyên tắc, các tổ chức phát hành phải cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin quan trọng về công ty 1 cách đầy đủ nhất để từ đó nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đầu tư chính xác và chịu hoàn toàn trách nhiệm về quyết định của mình.Nhưng tổ chức niêm yết luôn có sự mâu thuẫn về lợi ích với nhà đầu tư về mặt công bố thông tin.Các công ty thường không muốn tiết lộ các thông tin bí mật của ban quản trị.Ngược lại, các nhà đầu tư lại muốn biết các thông tin này càng nhiều , càng tốt.Vì vậy, các thông tin công bó ra ngoài phải chính xác, phải được công bố ngay cả khi thông tin đó bất lợi cho TCNY. Về mặt lý thuyết, các cơ quan quản lí thị trường về TTCK được quyền kiểm tra, xem xét nội dung các thông tin này trước khi cho phép công bố ra công chúng, như vậy nhà đầu tư sẽ tránh được rủi ro khi mua chứng khoán.Thực tế thì các cơ quan quản lý không thể đánh giá được chất lượng của tất cả các loại chứng khoán.Vì vậy việc công bố thông tin cho công chúng thì nhà đầu tư phải chịu hoàn toàn mọi rủi ro đối với quyết định dầu tư của mình. Ở đây vai trò của các chuyên gia trong lĩnh vực phân tích chứng khoán như các tổ chức đầu tư, định mức tín nhiệm, công ty phân tích tài chính sẽ vô cùng quan trọng. 3.2. Nguyên tắc công bố thông tin kịp thời,liên tục. Trong những năm gần đây, nguyên tắc này được đặc biệt chú trọng. Điều này có nghĩa là thông tin phải được công bố trên cở sở thời gian một cách liên tục, không ngừng, bao hàm cả những thông tin tức thời và thông tin định kì , liên quan đến tổ chức niêm yết và các thông tin bất thường. Nói cách khác , công bố thông tin phải đảm bảo được tính kịp thời của thông tin được công bố, nghĩa là: Công bố thông tin ngay lập tức khi có các tài liệu được công bố,tức là cồng bố thông tin càng sớm, càng tốt. Công bố thông tin định kì thông thưòng được quy định trong luật chứng khoán hoặc các quy định về niêm yết chứng khoán, chẳng hạn các báo cáo tài chính quý hoặc năm.Những thông tin đôi khi đi kèm cả những báo cáo về các cuộc họp ,thảo luận, nhận định ,phân tích tình hình của ban điều hành công ty, do vậy những thông tin này cũng phải được công bố.Những thông tin này phải được tuân thủ về mặt thời gian theo quy định , khồng được để gián đoạn. Tuy nhiên, nguyên tắc này còn có nghĩa là 1 số thông tn có thể được công bố chậm lại hoặc không công bố khi pháp luật quy địnhcho phép chẳng hạn các thông tin mật có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Việc công bố thông tin kịp thời sẽ giúp tránh hiểu lầm cho nhà đầu tư, giảm bớt các vi phạm về giao dịch nội gián có thể xảy ra.Với ý nghiax đó, việc công bố thông tin đúng thời hạnđóng vai trò quan trọng, thể hiện sự khách quan của công bố thông tin.Vì vậy thông thường các Sở giao dịch hay các trung tâm giao dịch chứngkhoán buộc các công ty niêm yết phải công bố thông tin về công ty càng sớm .càng tốt. 3.3.Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng. Nghĩa là thông tin phải được công bố rộng rãi cho công chúng đầu tư.Nhà đầu tư phải được tiếp cận như sau về các thông tin của thị trường chứng khoán. Tổ chức CBTT không được cung cấp thông tin cho một số nhà đầu riêng biệt hoặc các bên có lợi ích khảc trước khi công bố rộng rãi ra công chúng. Các trường hợp ngoại lệ chỉ áp dụng khi cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư vấn hoặc các công ty định mức tín nhiệm hoặc có khi là các đối tác của TCNY đang hoặc có ý định hợp tác trong hoạt động đầu tư, sản suất kinh doanh.Trong trường hợp này bên nhận thông tin phải có trách nhiệm bảo mật các thông tin đó. Để thực hiện được nguyên tắc này,bên cung cấp thông tin phải sử dụng những loại phương tiện công bố nhằm giúp cho người sử dụng thông tin có thể tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng mọi thông tin cần thiết. Mọi hoạt động của nhà đầu tư trên thị trường đều dựa trên các thông tin công bố.Do vậy, khi thiết kế hệ thống thông tin, việc phân loại người sử dụng cũng như loại và phạm vi thông tin mà người sử dụng được nhận là rất cần thiết nhằm tránh xảy ra tình trạng gián ddoanj hoạtđộng của thị trường do việc sử dụng và tiếp cận thoong tin một cách bất hợp pháp và không công bằng. 3.4.Trách nhiệm của bên công bố thông tin. Đây được hiểu là việc tuân thủ nghĩa vụ CBTT của tổ chức cung cấp thông tin. Khi đó, các tổ chức thực hiện CBTT phải đmr bảo tôn trọng những nguyên tắc của công bố thông tin như thông tin chính xác , liên tục,có khả năng giải thích về các thông itn công bố và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về thông tin do mình công bố. Trong một số trường hợp, 1 số tổ chức cụ thể đuợc định rõ có thể phải chịu trách nhiệm liên đới dối với các TTCB đưa ra. 4. Phân loại thông tin công bố Có thể phân loại các thông tin trên thị trường theo các tiêu thức sau: Phân loại theo loại chứng khoán Thông tin về cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư Thông tin về trái phiếu, thông tin về các chứng khoán phái sinh Phân loại theo phạm vi bao quát Thông tin đơn lẻ của từng nhóm chứng khoán Thông tin nghành Thông tin nhóm ngành Thông tin nhóm cổ phiếu đại diện và tổng thể thị trường Thông tin của SDGCK hay cả quốc gia, thông tin có tính quốc tế Phân loại thông tin theo thời gian Thông tin quá khứ, thông tin hiện tại và thông tin dự báo cho tương lai Thông tin theo thời gian( phút, ngày...) Thông tin tổng hợp theo thời gian(tuần, tháng, quý, năm...) Phân loại theo nguồn thông tin Thông tin trong nước và quốc tế. Thông tin của các tổ chức tham gia thị trường: Tổ chức niêm yết, công ty chứng khoán và thông tin của SGDCK. Thông tin tư vấn của các tổ chức tư vấn đầu tư và tổ chức xếp hạng tín nhiệm. - Thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng(báo, truyền hình, mạng Internet...) 5. Các nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán 5.1.Thông tin từ tổ chức niêm yết Chứng khoán là một dạng tài sản tài chính ( khác với tài sản thực) được niêm yết giao dịch trên thị trường chứng khoán bởi chính tổ chức phát hành. Ngoài yếu tố quan hệ cung cầu, giá chứng khoán được hình thành dựa trên “sức khoẻ” của chính công ty phát hành. Do vậy, các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành đều tác động tức thời lên giá chứng khoán của chính tổ chức đó, và trong những chừng mực nhất định có thể tác động lên toàn bộ thị trường.Trên thị truờng chứng khoán, vấn đề công bố thông tin công ty(corporate disclosure) được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hệ thống thông tin của thị trường, bảo đảm cho thị trường hoạt động công bằng, công khai và hiệu quả, nảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Nội dung thông tin liên quan đến tổ chức phát hành bao gồm các thông tin trước khi phát hành, sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng, và sau khi chứng khoán được niêm yết giao dịch trên thị trường tập trung,Các thông tin bao gồm: Thông tin trên báo cáo bạch (prospectus): Bản cáo bạch là bản thông cáo của tổ chức phát hành khi thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng , nhằm giúp cho nhà đầu tư hiểu rõ về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính... và các thông tin khác về mục tiêu phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành. Thông tin định kì : Là những thông tin do tổ chức niêm yết công bố vào nững thời điểm theo quy địnhcủa cơ quan quản lý như: hàng năm, bán niên, hàng quý , hàng tháng.nội dung thông tin lên quan đến các báo cáo tài chính; kết quả hoạt đọng kinh doanh;báo cáo lưu chuyển tiền tệ...vv.Các báo cáo thường niên phải có kiểm toán của các tổ chức tài chính độc lập được UBCK nhà nước chấp thuận. Thông tin bất thường: Là những thông tin được tổ chức niêm yết công bố ngay sau khi xảy ra các sự kiện quan trọng, làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán hoặc lợi ích của nhà đầu tư. Thông thường, các thông tin này được công bố trong vòng 24h00 sau khi xảy ra sự kiện hoặc sau 3 ngày. Nội dung các thông tin bất thường được quy định trong Luật chứng khoán. Thông tin theo yêu cầu : Là việc công bố thông tin khi UBCK hoặc SGDCK yêu cầu phải công bố thông tin do có nhũng dấu hiệu bất thường, hoặc tin đồn trên thị trường có tác động đến giá chứng khoán. 5.2. Thông tin từ SGDCK, TTGDCK. Đây là thông tin từ các cơ quan quản lý và vận hành thị trường, được công bố cập nhật trên hệ thống thông tin của SGDCK, TTGDCK ( qua bảng hiển thị điện tử; thiết bị đầu cuối ; bản tin thị trường ; mạng Internet, Website...vv); nội dung thông tin do SGDCK ,TTGDCK công bố bao gồm: - Thông tin từ nhà quản lý thị trường + Hệ thống các văn bản, chính sách ban hành mới, thay đổi , bổ sung, huỷ bỏ ...vv + Đình chỉ giao dịch hoặc cho phép giao dịch trở lại các chứng khoán + Công bố ngày giao dịch không được hưởng cổ tức, lãi và các quyền kèm theo. + Các chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát, cảnh báo. + Huỷ bỏ niêm yết hoặc cho niêm yết lại. + Đình chỉ thành viên hoặc cho phép thành viên giao dịch trở lại. - Thông tin về tình hình thị trường: Thông tin giao dịch của 5 cổ phiếu hàng đầu: giao động giá cổ phiếu hàng ngày; cổ phiếu đạt nức giá trần sàn... Thông tin về diễn biến của thị trường: + Thông tin về giao dịch trên thị trường (giá mở cửa, đóng cửa, giá cao nhất và thấp nhất trong ngày giao dịch; khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch; giao dịch lô lớn, giao dịch mua bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm yết). + Thông tin về lệnh giao dịch( giá chào mua, chào bán tốt nhất ; quy mô đặt lệnh, số lượnglệnh mua, hoặc bán). + Thông tin về chỉ số giá ( chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp; bình quân giá cổ phiếu, chỉ số giá trái phiếu). - Thông tin về tình hình của các tổ chức niêm yết. - Thông tin về các nhà đầu tư: Giao dịch lô lớn, giao dịch thâu tóm công ty; giao dịch đấu thầu mua cổ phiếu...vv Thông tin về hoạt động của công ty chứng khoán thành viên. 5.3. Thông tin từ các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán và từ các phương tiện thông tin đại chúng. Công bố các thông tin về chính các tổ chức này và các thông tin khác được thông báo trên bảng điện tử, kết quả giao dịch trên SGDCK,TTGDCK và trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo (báo điện tử và báo viết), tạp chí chuyên ngành, các ấn phẩm của tổ chức... 6. Thông tin không đối xứng và hoạt động giám sát công bố thông tin trên TTCK Một thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và hiệu quả luôn gắn liền với hệ thống công bố thông tin và giám sát công bố thông tin minh bạch và hữu hiệu.Công bố thông tin của các doanh nghiệp tham gia trên thị trường chứng khoán không chính xác, đầy đủ,cập nhật sẽ không đảm bảo tính trung thực và phản ánh không đúng giá trị của doanh nghiệp, dẫn đến thiệt hại cho nhà đầu tư và gây tác động tiêu cực đối với thị trường chứng khoán. Thông tin không đối xứng liên quan đến TTCK Theo nghĩa đơn giản có thể hiểu: “ Thông tin không đối xứng là tình trạng xuất hiện trên thị trường khi một bên nào đó ( người mua hoặc người bán) có được thông tin đầy đủ hơn bên kia về các đặc tính của sản phẩm”. ( Giáo trình Kinh tế và Tài chính công, Trường Đại học Kinh tế quốc dân). Trong cuốn “ Toàn cầu hoá và những người bất đồng” , J.Stiglitz đã phân tích hiện tượng “ thông tin không đối xứng “. Theo đó, trong các giao dịch kinh tế giữa hai bên mua và bán thì gần như bao giờ một bên( ví dụ như bên bán) cũng biết nhiều hơn bên kia ( ví dụ như bên mua) về những đặc tính của giao dịch đó.Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong các giao dịch thẻ hiện ở hai mặt: Lựa chọn đối nghịch do thông tin không đối xứng tạo ra trước khi diễn ra giao dịch.Hiện tượng thiếu thông tin của một trong hai bên sẽ dẫn đến các quyết định kinh tế trái ngược nhau. Rủi ro đạo đức do thông tin không đối xứng tạo ra sau khi diễn ra giao dịch.nói cách khác, đây là hậu quả của một bên sau khi tiến hành giao dịch. Thông tin không đối xứng gây ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp trong việc huy động vốn đầu tư.Tuy nhiên, ở đây còn có một vấn đề khác, đó là thông tin không đối xứng giữa các nhà đầu tư và doanh nghiệp tham gia thị trường sẽ gây tác động tiêu cực tới thị trường chứng khoán.Việc thiếu thông tin từ các tổ chức này sẽ khiến cho các nhà đầu tư hiểu không thấu đáo tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, dẫn tới các quyết định đầu tư thiếu chính xác. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới các giao dịch nội gián trên thị trường chứng khoán. Giao dịch nội gián nghĩa là khi một tổ chức hay cá nhân mua bán chứng khoán biết được thông tin nội bộ( xấu hoặc tốt)về doanh nghiệp phát hành có thể ảnh hưởng tới giá cgứng khoán trong khi thông tin này chưa được công bố rộng rãi ra công chúng. Ví dụ, vào cuối năm tài chính, tổng kết hoạt động công ty có tỷ suất lợi nhuận 60% nhưng chưa được công bố.Thành viên hội đồng quản trị có thể lợi dụng báo cho người nhà khối lượng lớn cổ phiếu, chờ khi công bố thông tin giá cổ phiếu tăng, họ bán ra,thu chênh lệch giá lớn. Quyền lợi của các nhà đầu tư bị ảnh hưởng có thể gây ra sự đổ vỡ trên thị trường chứng khoán,tác động xấu đến nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thông tin không đầy đủ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán sẽ dẫn tới “ hiệu ứng đô-mi-nô ”. “ hiệu ứng đàn cừu ”,...gây đổ vỡ trên thị trường. Tình trạng này còn dễ diễn ra hơn tại những bộ phận thị trường- nơi thiếu hoặc không có sự quản lý và giám sát từ đó sẽ dẫn tới việc cung cấp thông tin không đầy đủ và kịp thời.Một trong những nơi đó là thị trường chứng khoán phi tập trung và thị trường chứng khoán tự do, nơi mà các nhà đầu tư thường rất thiếu thông tin từ các loại chứng khoán được mua bán. Kinh nghiệm của nhiều nước trong việc quản lý thị trường OTC cho thấy, để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư chứng khoán, Nhà nước quy định chi tiết các giao dịch trong nội bộ, nhằm đưa ra các rằng buộc để người thuộc tổ chức phát hành(đại diện của chứng khoán giao dịch ) không thể có một đặc quyền nào đưa đên sự cạnh tranh không công bằng đối với nhà đầu tư bên ngoài. Cơ quan quản lý nhà nước luôn tìm cách hạn chế tối đa khả năng những cá nhân, tổ chức lợi dụng ưu thế của mình để trục lợi trong mua bán chứng khoán. Chính vì lí do trên mà hoạt động giám sát các giao dịch chứng khoán nói chung và hoạt động giám sát công bố thông tin trên thị trường chứng khoán nói chung ra đời. Hoạt động giám sát công bố thông tin Giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán nói chung và công bố thông tin nói riêng là một nghiệp vụ rất phức tạp và mới mẻ, nhất là ở các TTCK mới nổi. Để đảm bảo sự ổn định của TTCK thì ngay từ khi nó hình thành công tác này phải được đặc biệt chú trọng và quan tâm. Giám sát hoạt động công bố thông trên TTCK là nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi công bố thông tin sai trái, không tuân thủ theo các quy định của Luật pháp về nghĩa vụ công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường để bảo vệ thị trường, nâng cao tính minh bạch của TTCK. Hoạt động giám sát này được thực hiện theo những nguyên tắc, nội dung , phương pháp, trình tự do pháp luật quy định. Kết quả của hoạt động giám sát của Cơ quan giám sát thị trường là cơ sở để UBCKNN quyết định việc điều tra, thanh tra và đưa ra các biện pháp xử lý vi phạm. Ngoài ra, kết quả giám sát còn là căn cứ để Toà án xết xử, một khi tội danh “Lũng đoạn thị trường” và “Mua bán nội gián” được bổ sung vào Bộ Luật hình sự. Thông thường công tác giám sát này được thực hiện bằng phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Giám sát trực tiếp là theo dõi những biến động của thị trường, kiểm tra, phân tích những biến động đó ngay khi giao dịch được thực hiện. Giám sát còn được thực hiện qua TTGDCK tiếp xúc với các chủ thể tham gia thị trường, tìm ra các nguồn gốc của các tin đồn, các nguyên nhân gây ra các biến động lớn về giá trên TTCK. Giám sát gián tiếp dược thực hiện thông qua việc theo dõi và phân tích những biến động diễn ra mỗi ngày, tìm ra các giao dịch bất thường. SGDCK Việt Nam Quan hệ giám sát - Các tổ chức niêm yết - Các công ty CK - Nhà đầu tư - Thành viên khác của TT Giám sát tuân thủ các quy định của pháp luật - Giám sát các TCNY - Giám sát các cty CK là thành viên và không là thành viên của SGDCK - Phối hợp với TTLKCK Việt Nam để giám sát các thành viên lưu ký - Giám sát nhà đầu tư Giám sát các giao dịch không công bằng - Giao dịch nội gián - Giao dịch thao túng và nội gián thị trường - Lan truyền thông tin, tin đồn thất thiệt - Các hành vi gây rối loạn thị trường khác Nội dung giám sát Nội dung giám sát Kiểm tra, điều tra sơ bộ Kết luận hồ sơ vụ việc là có vi phạm UBCKNN Điều tra sâu, thanh tra Kết luận vụ việc Xử lý vi phạm Xử phạt hành chính Truy tố Chuyển hồ sơ Sơ đồ 1.1: Mô Hình Giám Sát Của SGDCK Việt Nam 7. Điều kiện để phát triển Hoạt động công bố thông tin trên TTCK. Công bố thông tin là một nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức chào bán, tổ chức niêm yết và các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Mục tiêu hướng tới của thông tin công bố là các cơ quan quản lý thị trường và công chúng đầu tư. Để củng cố và phát triển hệ thống công bố thông tin trên TTCK, các nước thường tập trung đầu tư vào các vấn đề sau: Thứ nhất, đó là môi trường pháp lý về hoạt động công bố thông tin Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện để các tổ chức tham gia thị trường hiểu r._.õ hơn về nghĩa vụ công bố thông tin của mình, hiểu rõ các thông tin cần công bố, thông tin nào là định kì, bất thường hay nhạy cảm để có thể công bố kịp thời đến cơ quan quản lý và công chúng đầu tư. Đồng thời, để có một môi trường công bố thông tin hiệu quả thì phải có các chế tài xử lý các trường hợp về vi phạm vấn đề công bố thông tin. Nhìn chung, một môi trường pháp lý đồng bộ và hiệu quả sẽ giúp tăng cường quản lý các dòng thông tin đầu vào, bao gồm củng cố sự tuân thủ các yêu cầu công bố thông tin của các tổ chức tham gia thị trường.. Thứ hai, đó là cơ sở hạ tầng kĩ thuật và công nghệ về hoạt động công bố thông tin. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật và công nghệ là điều kiện quan trọng để phát triển TTCK nói chung. Nếu như coi ngành chứng khoán là một “cỗ xe “thì cơ sở hạ tầng kĩ thuật và công nghệ là một trong những “bánh xe”, nếu bánh xe này chưa đủ mạnh, thì cỗ xe chưa thể phóng đi với một tốc đọ cao. Đối với hệ thống công bố thông tin nói riêng, thì đây là một bộ phận không thể tách rờ, giúp hoạt động công bố thông tin được hiệu quả. Cơ sở kĩ thuật hiện đại tạo điều kiện công bố thông tin nhanh chóng và đầy đủ, công nghệ tiên tiến sẽ giúp việc thông tin đảm bảo tính an toàn, bảo mật, giúp giảm thiếu thời gian cho quy trình xử lý thông tin. Thứ ba, đó là nguồn lưc con người Yếu tố con người trong bất kì lĩnh vực nào cũng mang tính quyết định, sản phẩm tinh thần hay vật chất đều gắn với hoạt động của con người. Đối với với một tổ chức khi nhiệm vụ, chức năng được xác định thì nguồn nhân lưc để vận hành không chỉ là công việc tiếp theo, mà thậm chí đã phải có sự chuẩn bị từ trước. Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một lĩnh vực được hình thành như một tất yếu khách quan để phục vụ cho quả trình phát triển kinh tế, xã hội, càng không thể thiếu nguồn nhân lực. Với đặc điểm là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường. TTCK không chỉ đòi hỏi có một đội ngũ những người “ biết làm chứng khoán” mà còn phải là những chuyên gia giỏi, những nhân viên tinh thông nghiệp vụ, coi trọng đạo đức hành nghề. Để quản lý và vận hành thị trường chứng khoán trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng cao thì yếu tố con người càng phải được coi trọng. Việc các cá nhân, tổ chức tham gia vào trong lĩnh vực CK có sự hiểu biết rõ về thị trường, sẽ giúp họ nhận thức được tầm quan trọng của việc công bố thông tin cũng như lợi ích do nó mang lại, chính vì vậy mà sẽ giúp hoạt động công bố thông tin trở nên hiệu quả và lành mạnh hơn rất nhiều. Kết thúc chương I, chúng ta đã hiểu hơn về hoạt động công bố thông tin, các tổ chức có nghĩa vụ công bố thông tin, nguyên tắc công bố thông tin. Nguyên nhân tại sao phải có hoạt động giám sát công bố thông tin và diều kiện để phát triển hoạt động công bố thông tin. Nhưng tất cả chỉ là lý thuyết còn thực trạng của hoạt động công bố thông tin này ở nước ta ra sao thì trong chương II của chuyên đề này. Chương II : Thực trạng của Hoạt động công bố thông tin trên TTCK ở Việt Nam hiện nay 1. Những vấn đề chung. TTCK là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống các thị trường trong nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế đồng bộ được tiêu chuẩn hoá. Một trong những nguyên tắc cơ bản của thị trường chứng khoán là tính minh bạch và công khai. Điều này có nghĩa là mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá cho tất cả các thành viên thị trường và công chúng đầu tư. Sau hơn 6 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đang tiếp tục khẳng định sự lớn mạnh là một kênh huy động vốn quan trọng trên thị trường vốn. Tuy TTCK Việt Nam đang trên đà phát triển ổn định và tăng trưởng, nhưng cũng còn không ít những tồn tại cần khắc phục và hoàn thiện, trong đó có việc nâng cao hơn nữa tính minh bạch của thị trường chứng khoán. Tính minh bạch của TTCK phản ánh việc công khai hoá thông tin của thị trường. Đây là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động và hiệu quả của thông tin trên thị trường vốn, trong đó có thị trường chứng khoán. Đây cũng là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của cơ quan quản lý TTCK trên thế giới nhằm tạo lòng tin và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Ở bất kì quốc gia nào, việc công khai hoá thông tin là trách nhiệm của các đối tượng nhất định cần phải công bố thông tin, những vấn đề này được quy định cụ thể trong pháp luật về chứng khoán. Hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến vấn đề minh bạch hoá, công khai hoá thông tin đối với các tổ chức tham gia TTCK, bao gồm Luật kế toán, Luật Thống kê, Pháp luật về Kiểm toán, Luật Doanh nghiệp và mới đây nhất là Luật chứng khoán được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 tại kì họp thứ 9, Quốc hội Khoá XI dành một chương (Chương VIII) về Công bố thông tin (từ Điều 100 đến Điều 107) quy định về đối tượng và phương thức công bố thông tin; nghĩa vụ công bố thông tin của các đối tượng bao gồm: Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, Công ty đại chúng, Cty Ck, Cty Quản lý quỹ, Công ty Đầu tư Ck, SGDCK, TTGDCK. Các đối tượng này khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo UBCKNN về nội dung thông tin được công bố. Nội dung và phương thức công bố thông tin của từng đối tượng do Bộ tài chính quy định. Tuy nhiên, trước khi Luật Chứng khoán ra đời và có hiệu lự thi hành (kể từ ngày 1/7/2007) thì đã có một số văn bản quy phạm pháp luật cụ thể quy định về vấn đề này. Trước hết, là Nghị định 64/2002/NĐ-CP và Thông tư 80/ 2002/TT-BTC ngày 9/9/2002 của Bộ Tài chính, theo đó, quy định trong thời hạn 30 ngày trước khi thực hiện cuộc đấu giá, phải niêm yết thông tin tại nơi bán đấu giá và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên thực tiễn triển khai văn bản này phát sinh một số hạn chế như: Có nhiều doanh nghiệp cung cấp thông tin cho nhà đầu tư không đầy đủ, còn sơ sài, không kịp thời. Nhiều nhà đầu tư không biết được kế hoạch, lịch trình cụ thể về việc bán cổ phiếu của các doanh nghiệp trong các Bộ, địa phương, tổng công ty nhà nước vì các cơ quan trên ít khi công bố trên các phương tiên truyền thông về tiến độ cổ phần hoá (CPH) của các đơn vị mình, nhất là ở giai đoạn chuẩn bị bán cổ phần để nhà đầu tư có thông tin chuẩn bị. Mặc dù có Hội đồng đấu giá, nhưng ở nhiều cuộc đấu giá, từ khâu chuẩn bị đến khi tiến hành thiếu cơ chế kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến tình trạng che giấu thông tin, hạn chế việc đăng kí mua cổ phần của các nhà đầu tư dưới nhiều hình thức như thời hạn đăng kí ngắn, đăng trên báo chậm hoặc đăng trên các báo không mang tính đại chúng...: Bên cạnh đó, còn có tình trạng phải săn lùng và mua thông tin về doanh nghiệp cổ phần hoá qua các kênh không chính thức. Theo các chuyên gia tài chính, nguyên nhân tình trạng trên là do nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa cũng như lợi ích của việc bán đấu giá cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp CPH. Mỗi doanh nghiệp cổ phần hoá chưa được coi là các dự án cho các nhà đầu tư vì đã là dự án thì thông tin, cách thức mua bán cổ phần phải được cập nhật đầy đủ cho các nhà đầu tư. Bản thân một số doanh ngiệp cổ phần hoá không muốn cung cấp thồng tin đầy đủ, sẵn sàng cho các nhà đầu tư vì nhiều các lý do khác nhau. Để khắc phục tình trạng này. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 57/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 hướng dẫn Nghị định 144/2004/NĐ-CP về công bố thông tin trên TTCK, nhằm hạn chế những bất cập do thiếu thông tin trên thị trường này, theo đó: Các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết phải công bố thông tin định kì về Báo cáo tài chính năm của mình để nhà đầu tư tham khảo. Các tổ chức này cũng phải công bố thông tin bất thường về những biến động lớn liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của công ty; những thay đổi về tài khoản tại ngân hàng; thay đổi chế độ kế toán áp dụng; về chi trả cổ tức; hoặc sửa đổi, bổ xung điều lệ tái cơ cấu lại công ty; các chỉ tiêu và kế hoạch hoạt động SXKD hàng năm; các Nghị quyết khác của Đại hội đồng cổ đông; quyết định đầu tư vốn cổ phần từ 10% trở lên, cho vay hoặc đầu tư vào trái phiếu từ 30% trở lên vốn cổ phần hoặc vốn góp của một tổ chức khác; Sản phẩm của công ty bán ra trên thị trường có quyết định bị đình chỉ tiêu thụ, bị thu hồi có thời hạn với giá trị từ 10% trở lên vốn cổ phần; quyết định thay đổi nhân sự ...; Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết phải công bố thông tin theo yêu cầu của UBCKNN, TTGDCK hoặc SGDCK, thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc phương tiện công bố thông tin của SDGCK hoặc TTGDCK; Công ty chứng khoán công bố thông tin về BCTC năm và công bố thông tin bất thường khi lâm vào tình trạng phá sản; có quyết định giải thể; quyết định hợp nhất, sát nhập, chia, tách, góp vốn liên doanh, chuyển đổi công ty; quyết định sửa đổi bổ xung điều lệ công ty; thay đổi tên công ty; tăng hoặc giảm vốn điều lệ; Mở hay đóng cửa chi nhánh, phòng giao dịch hoặc đại lý nhận lệnh; thay đổi địa điểm trụ sở chính, chi nhánh, phòng giao dịch hoặc đại lý nhận lệnh. Yêu cầu phải công bố thông tin trong vòng 3 ngày trên phương tiên công bố thông tin của trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc SGDCK kể từ ngày xẩy ra sự kiện đó; Công ty quản lý quỹ phải công bố bất thường và những thông tin theo yêu cầu. TTGDCK hoặc SGDCK phải công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán tại TTGDCK hoặc SGDCK, các thông tin trong giờ giao dịch; Các thông tin định kỳ trong ngày giao dịch; Tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài và giới hạn còn được mua đối với từng loại chứng khoán; Giao dịch của 5 cổ phiếu với giá trị niêm yết lớn nhất và 5 cổ phiếu có giá thị trường lớn nhất. Lãi suất trái phiếu được giao dịch, lãi suất đặt mua đặt bán tốt nhất, lãi suất trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn. Thông tin về tổ chức niêm yết, về hoạt động niêm yết, thông tin định kỳ, bất thường về công ty chứng khoán, Thành viên TTGDCK hoặc SGDCK, thông tin quản lý thị trường. TTGDCK hoặc SGDCK công bố thông tin thị trường thông qua các phương tiện của TTGDCK hoặc SGDCK gồm: Bản tin TTCK, website, bản hiển thị điện tử tại TTGDCK hoặc sàn giao dịch chứng khoán, trạm đầu cuối, các ấn phẩm của TTGDCK và sàn GDCK và các phương tiện khác, sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để công bố thông tin; TTGDCK hoặc sàn giao dịch chứng khoán cung cấp thông tin về tổ chức niêm yết chứng khoán, công ty Quản lý quỹ, Quỹ đầu tư chứng khoán cho các công ty chứng khoán thành viên. Các CtyCK thành viên có trách nhiệm cung cấp lại thông tin về tổ chức niêm yết và quỹ đầu tư chứng khoán cho nhà đầu tư; Chỉ được bảo lưu chưa công bố thông tin trong trường hợp thông tin có thể ảnh hưởng đén an ninh quốc gia và lợi ích quốc gia, thông tin có thể làm lộ bí mật kinh doanh, làm tổn hại đến lợi ích của các tổ chức, công ty; thông tin gây hiểu lầm, ảnh hưởng đến lợi ích của nhà đầu tư. Công bố thông tin là một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo lòng tin và sự công bằng cho các nhà đầu tư trên TTCK. Đã hơn 6 năm hoạt động, việc công bố thông tin và giám sát hoạt động công bố thông tin trên TTCK Việt Nam vẫn chưa dược quan tâm đúng mức. Công tác quản lý, giám sát thị trường còn có nhiều bất cập do các văn bản pháp luật, cơ chế chưa đầy đủ, đồng bộ. Hệ thống công nghệ chưa đáp ứng được các yêu cầu về giám sát tự động, Thêm nữa, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ quản lý, giám sát hoạt động thị trường còn hạn chế. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy điều chỉnh vấn đề công bố thông tin trên TTCK Việt Nam đã và đang được xây dựng nhằm đảm bảo được các nguyên tắc công khai, minh bạch thông tin trên thị trường và duy trì, củng cố lòng tin của nhà đầu tư. Cụ thể thực trạng hoạt động công bố thông tin của các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay như sau. Các Hãng Thông Tấn Báo Chí, Đài Phát Thanh, Truyền Hình Bảng hiển thị điện tử Báo cáo kết quả giao dịch Bản tin hằng ngày Trực tuyến Công ty Chứng Khoán Các Phòng Chức Năng Nhà đầu tư Phòng Giao Dịch Hệ Thống Giao Dịch Hệ Thống Công Bố Thông Tin 2.1. Mô hình hệ thống thông tin thị trường trong giai đoạn đầu 2. Thực trạng công bố thông tin ở các TTGDCK ở nước ta hiện nay. Theo Luật Chứng Khoán hiện h (có hiệu lực từ ngày 1/1/2007) SGDCK,TTGDCK, tại Điều 107 quy định SGDCK, TTGDCK phải công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán tại SGDCK,TTGDCK; Thông tin về tổ chức niêm yết tại SGDCK, TTGDCK; Thông tin về Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và các thông tin về giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán. Hiện tại ở Việt Nam chưa có SGDCK (dự định sẽ được chuyển đổi từ TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh vào giữa năm 2008) mà chỉ có các TTGDCK. TTCK tập trung của Việt Nam chính thức hoạt động từ tháng 7/2000 với việc khai trương hoạt động của TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh. Một thị trường phi tập trung đơn giản ban đầu cũng đã chính thức khởi động từ thàng 4 năm 2005 với việc đi vào hoạt động của TTGDCK Hà Nội. Theo Thông tư số 38/2007/TT-BTC ban hành ngày 18/4/2007 Hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK, thông tin công bố trên 2 trung tâm hiện nay được chia thành 3 luồng chính: - Thông tin về giao dịch chứng khoán tại SGDCK, TTGDCK, bao gồm các thông tin trong giờ giao dịch và thông tin định kì trong ngày giao dịch. Thông tin về tổ chức niêm yết tại SGDCK, TTGDCK; thông tin về CTCK thành viên; công ty quản lý quỹ có quản lý quỹ đại chúng/công ty đầu tư chứng khoán đại chúng; quỹ đại chúng; công ty đầu tư chứng khoán đại chúng. Thông tin giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán. Bên cạnh tổ chức tốt hoạt động giao dịch chứng khoán ảo, các TTGDCK đã thực hiện tốt chức năng công bố thông tin trong điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật cũng như nhân lực còn rất hạn chế. Hệ thống công bố thông tin hoạt động tương đối hiệu quả với mục tiêu bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư. Các TTGDCK đã chủ động cung cấp thông tin kịp thời thông qua các công ty chứng khoán đến các nhà đầu tư thông qua các phương thức: - Thông qua các ấn phẩm phát hành hàng ngày tại TTGDCK như các bản tin nhanh hàng ngày sau mỗi phiên giao dịch, các bản công bố thông tin của các công ty niêm yết... - Thực hiện cung cấp thông tin trực tuyến (online) kết nối trực tiếp với các công ty chứng khoán thay cho việc cung cấp thông tin tại sàn thông qua đại diện giao dịch của công ty chứng khoán. - Công bố thông tin trên mạng Internet tại trang web của TTGDCK Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh lần lượt là www.hastc.org.vn. và www.vse.org.vn. Bên cạnh các kết quả có được hiện nay hai trung tâm này còn bộc lộ nhiều hạn chế trong hoạt động công bố thông tin. Cụ thể: - Hoạt động giám sát và công bố thông tin về giám sát giao dịch còn chưa được thực hiện tốt. Năm 2005, TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh chỉ phát hiện được 1 trường hợp nhi ngờ giao dịch thao túng và 1 trường hợp nghi ngờ giao dịch nội gián. Tuy trung tâm có theo dõi thường xuyên và phân tích những tài khoản đặt lệnh với khối lượng lớn, có biểu hiện lôi kéo giá, ảnh hưởng đến tình hình giao dịch trên thị trường. Trong năm 2006, vi phạm về chứng khoán và giao dịch chứng khoán ngày càng tăng so với năm 2005 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều nhà đầu tư, nhất là những nhà đầu tư cá nhân.Tuy nhiên, việc xử lý mới chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở và chưa có vụ nào công khai cho các nhà đầu tư biết, dù chỉ là một cái tên cá nhân, tổ chức, chưa nói đến việc công khai thông tin về nội dung vi phạm và mức độ xử lý vi phạm. Đối với hoạt động giám sát của TTGDCK, chủ yếu tập trung, phát hiện và ngăn chặn các nhà đầu tư mở nhiều tài khoản, giao dịch vi phạm chế độ công bố thông tin, vi phạm về hành vi vừa mua, vừa bán cùng một loại chứng khoán trong cùng một phiên giao dịch, vi phạm giao dịch của cổ đông lớn, chủ chốt... Cụ thể trong 6 tháng đầu năm, Trung tâm đã phát hiện ra 12 trường hợp ( năm 2005 chỉ có 8 trường hợp) thành viên chủ chốt của tổ chức niêm yết và những người có liên quan giao dịch cổ phiếu nội bộ, vi phạm điều 34 Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính Phủ. Đồng thời, Trung tâm cũng đã phát hiên ra 43 trường hợp giao dịch vừa mua, vừa bán một loại cổ phiếu trong cùng một ngày giao dịch (năm 2005 chỉ có 38 trường hợp), vi phạm khoản III.13.1 thông tư số 58/2004/TT-BTC của Bộ Tài Chính. Phát hiện 803 trường hợp (năm 2005 có 1.614 trường hợp) nhà đầu tư mở cùng lúc nhiều tài khoản giao dịch, vi phạm quy định về mở tài khoản: “ Nhà đầu tư chỉ được phép mở một tài khoản tại 1 công ty chứng khoán”. Những trường hợp vi phạm tập trung nhiều trong năm 2006 là do trong giai đoạn này giá cổ phiếu có nhiều biến động và thêm nhiều cổ phiếu mới niêm yết trên TTCK. Việc xử lý những vi phạm nêu trên, hiện nay, nhiều hành vi vi phạm chỉ dừng lại ở chế độ nhắc nhở, chưa áp dụng biện pháp chế tài mạnh mẽ nên vi phạm vần tiếp diễn và ngày càng gia tăng, nhất là vi phạm mở nhiều tài khoản và vừa mua vừa bán cùng một loại chứng khoán trong cùng một phiên giao dịch, chuyện này đã gây ra trong các nhà đầu tư rất nhiều bức xúc. Vì vậy, các TTGDCK cần phải công khai tất cả những cá nhân, tổ chức, công ty vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng, không chỉ công bố trên các phương tiện công bố thông tin của trung tâm. - Việc công bố thông tin định kì cũng như bất thường tại TTGDCK còn chậm, gây ra các ảnh hưởng nhất định đến diễn biến của giá cổ phiếu và ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư. Cụ thể đó là việc Công ty Thạch cao xi măng đưa thông tin chia cổ tức 16% và tăng vốn điều lệ năm 2007 từ ngày 5/1 nhưng đến ngày 12/1 HASTC mới đưa tin. Cũng tương tự, Công ty Sông Đà 9 họp hội đồng quản trị ra nghị quyết từ ngày 12/1 về việc chia cổ tức 15% bằng cổ phiếu, trình Đại hội đồng cổ đông sắp tới kế hoạch sản xuất kinh doanh và chia cổ tức 18% năm 2007 nhưng HASTC chậm thông báo... Hiện nay, các TTGDCK ở Việt Nam đang hoạt động không theo thông lệ quốc tế tức là hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, hoạt động một cách độc lập và chuyên nghiệp mà các TTGDCK ở nước ta hiện nay là những tổ chức tài chính nhà nước, được quản lý và chỉ đạo mọi mặt từ UBCKNN. Trong khi đó, UBCKNN đóng vai trò vừa là cơ quan quản lý nhà nước, lại vừa là cấp trên chủ quản. Với mô hình hiện nay, hoạt động của các TTGDCK chưa đạt hiệu quả, chưa đảm bảo được nguyên tắc cơ bản của thị trường là công khai, công bằng và minh bạch. Với cơ chế hiện nay thì nếu hoạt động của các TTGDCK này không hiệu quả thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm trong khi mọi hoạt động quan trọng của trung tâm phải được phê chuẩn từ UBCKNN. Với cơ chế hoạt động như vậy cùng với việc các CTNY và đăng kí giao dịch không được công bố thông tin rộng rãi trong cùng một thời điểm, mà phải gửi thông tin cho TTGDCK để các trung tâm này được hưởng đặc quyền sở hữu thông tin trước và sau đó mới công bố thì một câu hởi đặt ra là tại các TTGDCK có tình trạng giao dịch nội gián hay không? Trong thực tế, khoảng thời gian từ lúc thông tin gửi về cho đến lúc được TTGDCK công bố có khi kéo dài đến 4-5 ngày. Với quãng thời gian như vậy, những người nắm giữ thông tin này hoàn toàn có thể đặt lệnh mua bán cổ phiếu để kiếm lời nhờ biết trước thông tin so với các nhà đầu tư khác. Ví dụ, như việc có được trước những thông tin về tỉ suất lợi nhuận cao của một công ty có thể khiến những người này lợi dụng để “gom” khối lượng lớn cổ phiếu, chờ đến khi công bố thông tin, giá cổ phiếu tăng, họ bán ra thu chênh lệch giá. Hay như đối với những công ty bị lỗ, người có thông tin hoàn toàn có thể quyết định bán sớm cổ phiếu mà mình nắm giữ dể tránh thiệt hại. Thực chất, đây chính là giao dịch nội gián. Quan sát nhiều phiên giao dịch, người ta không hiểu sao mã một vài loại cổ phiếu tự nhiên được mua nhiều, rồi sau đó là giá tăng do thông tin tốt. Thông tin nội gián về danh sách các nhà đầu tư có tổ chức (trong nước và ngoài nước) tham gia đấu giá cổ phần bị rò rỉ phổ biến và trở thành cơ chế xin cho. Tình trạng này chỉ gây thiệt hại cho đông đảo các nhà đầu tư cá nhân, cho những nhà đầu tư không quen biết khi những người nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường sẽ tính toán được hợp lý mức giá mà họ sẽ bỏ thầu. Tuy nhiên, tình trạng các công ty niêm yết khi công bố thông tin phải qua TTGDCK hiện nay đã không còn, do những nỗ lực của VAFI và các phương tiện thông tin đại chúng nhằm cải thiện việc công bố thông tin minh bạch, đầy đủ và chống lại các giao dịch nội gián. Ngày 26/1/2007, UBCKNN đã cho phép các doanh nghiệp niêm yết được công bố thông tin một cách rộng rãi ra công chúng đồng thời với việc công bố thông tin tới các TTGDCK, điều này làm tăng tính chủ động trong công bố thông tin của các doanh nghiệp lên rất nhiều và hạn chế tối đa các giao dịch nội gián từ các TTGDCK. - Hệ thống công bố thông tin của các TTGDCK hiện nay còn yếu về điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ. Bằng chứng rõ nhất về vấn đề này là sự cố “sập sàn” ngày 8/12/2006. Sáng ngày 8/12 chỉ ít phút sau khi thị trường chính thức mở cửa giao dịch, toàn bộ hệ thống giao dịch điện tử của TTGDCK Tp.HCM và hơn 20 công ty chứng khoán thành viên đã ngừng hoạt động vì gặp sự cố. Các bảng giao dịch trực tuyến tại các sàn giao dịch và tại các công ty chứng khoán hay qua mạng đều trống trơn, không có bất kì số liệu nào nên không thể đặt lệnh. Theo giới chuyên môn, sự cố trên không chỉ xảy ra trong phiên giao dịch sáng 8/12 mà trong các phiên trước đó , bảng điện tử liên tục gặp sự cố. Số liệu nhảy loan xạ và đến cuối phiên mới có thể điều chỉnh trở lại. Sáng ngày 4/4/2007, bảng giao dịch chứng khoán trực tuyến trên trang web http:// www.vse.org.vn của TTGDCK Tp.HCM đã có sự trục trặc, gây hoang mang cho các nhà đầu tư khi liên tục khớp lệnh sai. Cụ thể, trên trang chủ của trang web, chỉ số VN-Index báo tăng, nhưng ở thông tin giao dịch trực tuyến lại báo giảm ở cả 3 đợt khớp lệnh. Theo sự phản ánh của các nhà đầu tư, dây không phải là lần đầu tiên bảng trang web của Trung tâm cập nhật sai, mà từ sau tết âm lịch đến nay, thông tin giao dịch chứng khoán trên mạng luôn chậm và không đúng so với khớp lệnh tại sàn và các trang web chứng khoán khác. Nguyên nhân của các sự cố trên là do hệ thống của trung tâm bị quá tải khi ngày càng nhiều nhà đầu tư, các công ty chứng khoán và các công ty niêm yết tham gia thị trường, do lỗi kĩ thuật hay là do nguyên nhân nào khác đi chăng nữa nhưng sự cố vừa rồi cho thấy rõ sự yếu kếm của hệ thống giao dịch tại trung tâm, nó không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường mà còn ảnh hưởng đến lòng tin của họ đối với sự phát triển ổn dịnh của thị trường cũng như ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh về một TTCK đang trong thời kì phát triển trong con mắt bạn bè quốc tế. 3. Thực trạng công bố thông tin của các tổ chức chào bán chứng khoán ở nước ta hiện nay. 3.1. Thực trạng công bố thông tin của các công ty đại chúng trên TTCK VN. Theo Luật chứng khoán hiện hành, công ty đại chúng phải tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin tại Điều 10 Chương VIII về Công bố thông tin. Cụ thể, về nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng, tại Điều 101 Luật chứng khoán quy định: Công ty dại chúng phải công bố thông tin định kì về Báo cáo tài chính (BCTC) năm trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có BCTC năm được kiểm toán. Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 24h, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện như: Tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả; Tạm ngừng kinh doanh hoặc công ty bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động... Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72h, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện như: quyết định vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực có trở lên; quyết định của hội đồng quản trị về chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; quyết định thay đổi phương pháp kế toán áp dụng; công ty nhận được thông báo của toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đồng thời theo yêu cầu của UBCKNN, công ty đại chúng phải thông báo khi xảy ra một trong các sự kiện: Có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó. Đối với tổ chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng, ngoài nghĩa vụ công bố thông tin định kì theo quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn 72h, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện quy định tại các điểm a, b, và c khoản 2 và khoản 3 Điều 101 của Luật. Việc mua bán chứng khoán của các tổ chức phát hành chưa được niêm yết trên TTCK tạo ra một thị trường mua bán chứng khoán không chính thức (hay còn gọi nôm na là thị trường tự do) mặc dù lâu nay vẫn diễn ra, có lúc lặng lẽ, có lúc ồn ào không kém gì thị trường chính thức, nhưng đây vẫn là thị trường không được thừa nhận. Và trong chừng mực nào đó việc tổ chức thị trường này sẽ là bất hợp pháp. Bởi theo Luật chứng khoán vừa có hiệu lực từ ngày 1/1/2007, ngoài SGDCK, không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán (khoản 3 Điều 33). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường tự do (cổ phiéu của các công ty cổ phần chưa niêm yết trên sàn TP.HCM hoặc chưa đăng kí giao dịch trên sàn HN).Thị trường tự do còn được xem là gây nhiều rủi ro cho nhà đầu tư cũng như làm xáo trộn TTCK nói chung. Hiện nay, thị trường tự do này ngày càng thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mua bán. Các giao dịch được tiến hành trên thị trường này cũng rất đơn giản và nhanh chóng, theo nguyên tắc thuận mua, vừa bán. Giá cổ phiếu trên thị trường này luôn được nâng lên cao và không có mức nhất định, nhiều doanh nghiệp đã tranh thủ tình hình này để phát hành cổ phiếu để huy động vốn với giá phát hành khá cao. Thêm vào đó, việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp này hiện nay cũng không cần lưu kí qua công ty chứng khoán, nên giá cả đều do doanh nghiệp tự quyết định. Có thể nhận thấy giá chứng khoán trên thị trường tự do có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường niêm yết. Một khi giá chứng khoán trên thị trường này bị đẩy lên cao, sẽ kích giá cổ phiếu trên thị trường chính thức. Sự tác động qua lại giữa hai thị trường này sẽ tạo ra những cơn sốt “nóng”, tạo “bong bóng” cho thị trường. Thực tế, hiện chưa có bất cứ sự kiểm soát nào đối với việc phát hành cổ phiếu và công bố thông tin của những công ty này. Chính vì vậy, để có thể tiến hành những phân tích dự báo đối với những chứng khoán phát hành trên thị trường này hầu như là không thể, bởi với lực lượng “cò” cổ phiếu đang phát triển chóng mặt, thông tin trên thị trường tự do cũng bùng nổ và rất nhiễu loạn, không đảm bảo được độ chính xác.Các nhà đầu tư đang tiến hành mua bán chứng khoán trên thị trường này chủ yếu là theo phong trào, theo cảm tính, theo tâm lý “cái gì tăng thì nó tiếp tục sẽ tăng”, thông tin mà họ thu lượm được chủ yếu là từ các tin đồn, tin truyền miệng, mà người ta thường gọi chung chúng là các tin “vỉa hè”. Nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán nhưng thiếu hiểu biết đã tự biến mình thành nạn nhân của các tin đồn. Cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) là một trong những cổ phiếu được giao dịch nhiều trên thị trường chưa niêm yết vào thời điểm trước và sau khi Ngân hàng này tổ chức Đại hội cổ đông ngày 26/1/2007. Trước ngày 26, xuất hiện những thông tin lan truyền cho rằng tỷ lệ cổ tức cao, tỷ lệ cổ phiếu thưởng trong lần tăng vốn tới sẽ là 1-1 với giá chỉ một chấm (tức là bằng mệnh giá), chuyện SHB sẽ bán cho một tập đoàn lớn 20% cổ phần đã khiến cho giá cổ phiếu này trong 3 tuần tăng từ 420.000 đồng lên 620.000 đòng. Tuy nhiên, sau đại hội cổ đông, giá cổ phiếu SHB có dấu hiệu giảm do thông tin được kiểm chứng không giống như tin đồn. Không riêng gì SHB, trong vòng 3 tháng đầu năm 2007 thị trường chứng khoán chưa niêm yết liên tục sốt nóng và nhiệt độ của nó chưa có dấu hiệu giảm bởi 3 tháng đầu năm là mùa tổng kết, mùa chia cổ tức... Và đó là thời điểm tin đồn liên tục bung ra. Một thông tin gây chấn động giới đầu tư trên thị trường này vào đầu tháng 3/2007 là tin đồn Công ty dầu khí ATIP là thành viên của tập đoàn ATI có trụ sở chính tại 142 Fairbanks, Oak Ridge, Tennessee, USA và Công ty Thác Đa ATIP chào bán cổ phiếu ATIP tại Việt Nam. Nhà đầu tư săn lùng cổ phiếu này đến nỗi UBCK phải ra thông báo là chưa nhận được hồ sơ xin phép phát hành, kể cả báo cáo của công ty ATIP về việc niêm yết trên thị trường Euronext. Một thông tin có tính chất lừa đảo là Ngân hàng Việt Hoa và Ngân hàng Châu Á TBD chuẩn bị được NHNN VN bãi bỏ lệnh giám sát đặc biệt đã đẩy giá cổ phiếu (giấy cam kết viết tay) của hai ngân hàng này tăng vọt lên từ 3-4 lần chỉ trong vòng 1 tuần đầu tháng 3/2007. Trong đầu tháng 3 số lượng tin đồn về chuyện một số CTNY sẽ chuyển sàn giao dịch từ HN vào Tp.HCM và giá cổ phiếu của các công ty này sẽ tăng mạnh. Thực tế, các công ty bị đồn thổi chưa có kế hoạch chuyển sàn vào Tp.HCM. Điển hình nhất là tin đồn công ty cổ phần nông dược HAI có kế hoạch chuyển sàn từ HN vào Tp.HCM và tăng vốn điều lệ lên 200 tỷ đồng đã kích giá cổ phiếu của HAI từ 4.5 chấm lên 9 chấm chỉ trong vòng 1 tuần đầu tháng 3/2007. Ngày 9/3. công ty này chính thức tuyên bố chưa có kế hoạch chuyển sàn và tăng vốn, lập tức giá cổ phiếu HAI sụt giảm xuống mức cũ. Cổ phiếu của một ngân hàng cổ phần nông thôn mới nâng cấp lên ngân hàng cổ phần đô thị (GP Bank), mạng lưới hoạt động còn thưa thớt, kết quả kinh doanh còn chưa công bố nhưng những thông tin về việc có Tổng công ty lớn của Nhà nước đứng phía sau và các thông tin đối ngoại được đăng tải trên báo chí đã khiến hàng ngàn nhà đầu tư cá nhân đeo bám. Có những doanh nghiệp khi công bố kết quả kinh doanh đã cố tình gây hiểu lầm cho công chúng. Có một cổ phiếu tuần đầu của tháng 2 gần như không có bán ra mà chỉ có mua vào là cổ phiếu của một ngân hàng có tỷ lệ cổ tức trên 40%. Một ngân hàng khác công bố cổ tức là 38%, nhưng trong đó 8% chia bằng tiền và 30% chia bằng cổ phiếu. Thực ra, tỷ lệ cổ tức tính kiểu đó đã bao gồm cả cổ tức tiền mặt và cổ phiếu thưởng. Bởi không có một tỉ lệ cổ tức cao hơn tỉ lệ lợi nhuận. Những kiểu thông tin như vậy đã tác động mạnh đến giá cổ phiếu trên ._.Các giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống công bố thông tin trên TTCK VN. 2.1. Giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả củas hoạt động công bố thông tin từ phía cơ quan quản lý Cơ quan trực tiếp quản lý và giám sát hoạt động của TTCK Việt Nam hiện nay là UBCKNN. Vì vậy, vai trò của UBCKNN là rất quan trọng đối với sự phát triển của TTCK nói chung và của hoạt động công bố thông tin nói riêng. Các giải pháp đối với UBCKNN có tác động rất lớn đến những thành viên khác tham gia thị trường. Vì vậy, UBCKNN phải tích cực tự nhận thức, đấnh giá và sàng lọc những ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân để hoàn thiện hệ thống thông tin chứng khoán. Có những giải pháp cụ thể sau mà UBCK nên xem xét và áp dụng: 2.1.1. Cần có kế hoạch cụ thể về việc nâng cấp các điều kiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật và công nghệ thông tin cho hệ thống thông tin. Xét về hình thức và chất lượng công bố thông tin, dòng thông tin đầu vào từ các tổ chức niêm yết và kinh doanh, chứng khoán hiện nay chủ yếu nhất vẫn là dạng văn bản do chưa có một hệ thống phần mền thống nhất nối mạng với các tổ chức này.Trong khi đó, dòng thông tin đầu tư còn thiếu đa dạng và với chất lượng thấp. Quy trình xử lý và công bố thông tin trên thị trường còn mất nhiều thời gian. Xét trên tổng thể thị trường, chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất và phần mềm công bố thông tin thông suốt từ các tổ chức phát hành, niêm yết và kinh doanh chứng khoán đền TTGDCK và tới các phương tiện thông tin đại chúng. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà quy mô thị trường lớn mạnh hệ thống công bố thông tin hiện tại khó thể đảm đương được tốt nhiệm vụ của mình do tốn nhiều thời gian công sức để xử lý. Chính vì vậy, vấn đề chủ yếu và cấp bách đặt ra là nhóm giải pháp nhằm nâng cấp các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ cho hệ thống công bố thông tin. Đảm bảo được yêu cầu này sẽ giúp công tác quản lý theo kịp với đòi hỏi của thị trường, thông qua việc tận dụng tiến bộ công nghệ thông tin. Qua tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, chuyên đề xin đưa ra các giải pháp sau đây: - Hướng tới việc xây dựng và phát triển một hệ thống công bố thông tin số hoá sử dụng công nghệ XML bởi vì đây là một giải pháp lớn giải quyết được các tồn tại nêu trên. - Do thiết kế và xây dựng hệ thống này đòi hỏi chi phí lớn, nên trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chúng ta phải tận dụng tối đa các nguồn vốn đầu tư và huy động tối đa nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong nước, ứng dụng tiến bộ công nghệ thông tin vào việc thiết kế và xây dựng từng phần hệ thống công bố thông tin số hoá. Việc xây dựng từng phần này, trước hết, sẽ tập trung vào giải quyết những khâu mất nhiều thời gian nhất hiện nay trong quy trình công bố thông tin. Đồng thời, việc thiết kế cũng đảm bảo tính mở, nghĩa là có thể điều chỉnh để đáp ứng những yêu cầu mới. (trong thời gian trước mắt, nên bắt đầu từ việc xây dựng hệ thống kết nối giữa các TTGDK và các tổ chức niêm yết chứng khoán, các CTCK vì đây là một trong những khâu tốn nhiều thời gian xử lý văn bản nhất). Đặt vấn đề xây dựng hệ thống thông tin số hoá trên TTCK trong mối liên hệ với các dự án tổng thể xây dựng Chính Phủ điện tử ở nước ta. Điều đó sẽ giúp thống nhất được các điều kiện kĩ thuật, công nghệ và tạo ra được sự liên kết thông tin giữa các cơ quan quản lý TTCK với các cơ quan nhà nước khác, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý lĩnh vực công bố thông tin trên TTCK. 2.1.2. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý về TTCK nói chung và mảng công bố thông tin nói riêng. Các cơ quan chủ quản cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các văn bản pháp Luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các cơ quan này hoàn toàn có thể tạo một mối trường pháp lý lành mạnh, hiệu quả nếu như luôn bám sát thị trường, nhìn nhận thị trường một cách khách quan, lắng nghe, tiếp thu ý kiến của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước... để tạo được một môi trường pháp lý đồng bộ, không có sự chồng chéo giưã các Luật, đảm bảo được sự ổn định và phát triển bền vững của TTCK. Cụ thể, Luật chứng khoán mới đi vào hoạt đông chưa được bao lâu nhưng cũng đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Ví dụ như vụ đấu giá cổ phần của Công ty xuất nhập khẩu Intimex vừa rồi đã gây ra nhiều bức xức trong dư luận do cơ chế công bố thông tin của Công ty khi chào bán ra công chúng chưa rõ ràng, khiến các nhà đầu tư không thể nắm rõ chính xác tình hình hoạt động của công ty cũng như không thể định giá chính xác được giá trị của doanh nghiệp này..Vì vậy, Luật chứng khoán hiện hành cần phải đưa ra một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp có độ chính xác cao cũng như cần quy định cụ thể và rõ ràng hơn về quy chế công bố thông tin của các công ty cổ phần khi tiến hành chào bán chứng khoán ra công chúng... để các nhà đầu tư nhất là nhà đầu tư cá nhân không bị thiệt thòi trong việc xác định giá trị của doanh nghiệp. 2.1.3.Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát hoạt động công bố thông tin trên thị trường. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán phát triển không ngừng cả về quy mô giao dịch và số lượng hàng hoá cũng như các thành viên tham gia thị trường, thì đòi hỏi hoạt động giám sát thông tin trên thị trường từ phía các cơ quan quản lý phải năng động và hiệu quả hơn để đảm bảo quyền lợi của các cá nhân, tổ chức tham gia vào thị trường. Cụ thể: - Tăng cường và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động giám sát, để đảm bảo việc tuân thủ việc tuân thủ các nguyên tắc thị trường của các thành viên tham gia. Hiện tại, số lượng cán bộ làm công tác giám sát tại hai TTGDCK chưa đủ để thực hiện chức năng giám sát thị trường toàn diện. Theo quy định tại Luật chứng khoán, đối tượng giám sát và hành vi vi phạm cũng mở rộng hơn. Do vậy, yêu cầu cấp thiết trước mắt là tăng cường đội ngũ cán bộ giám sát. Thông thường ở các SGD thì bộ phận giám sát thị trường là bộ phận có số lượng nhân viên nhiều nhất. Ví dụ như bộ phận giám sát thị trường NASD (Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Mỹ) chuyên giám sát và quản lý các giao dịch trên thị trường NASD và thị trường phi tập trung, có đến 200 nhân viên là các nhà phân tích, luật sư và cán bộ thanh tra. Bên cạnh việc tăng thêm nguồn nhân lực, bản thân các cán bộ giám sát cần trang bị và liên tục cập nhật những kỹ năng để có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường, bản thân các cán bộ giám sát cũng phải có khả năng đánh giá được những diễn biến giao dịch trên thị trường và có được những nhận định tổng quát về thị trường . Thứ nhất, cần nâng cao kỹ năng tổng hợp và phân tích. Hai là, nâng cao kỹ năng nhận diện được các hành vi vi phạm. Để có thể nhận biết được các dấu hiệu vi phạm này, bản thân cán bộ giám sát phải đặt mình vào địa vị của một người đầu tư trên thị trường để có thể có được những cảm nhận vê thị trường (sense of market).Ba là coi trọng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Yêu cầu đạo đức nghề nghiệp ở đây chính là đảm bảo tính bảo mật thông tin về giám sát. - Xây dựng cơ sở dữ liệu cho hoạt động giám sát. Đây là một trong những công cụ quan trọng để các cán bộ giám sát có thể thực hiện công tác giám sát các hành vi vi phạm trên thị trường.Các thông tin này có thể cập nhật từ nhiều nguồn, song có 3 nguồn chính là thông tin của TTGDCK, TT LKCK và thông tin từ các công ty chứng khoán. Để có thể cập nhật và xử lý các thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả, cần phải xây dựng một kênh thông tin thường xuyên giữa các cơ quan quản lý và các CTCK, CTNY và các thành viên tham gia thị trường. Cụ thể: -Thông tin giữa TTGDCK và các CTCK thành viên: Với mô hình quản lý tài khoản giao dịch như hiện nay, thông tin chi tiết về người đầu tư đều tập trung tại các CTCK. Theo quy định về công bố thông tin định kỳ của các CTCK. Luật Chứng khoán không quy định việc CTCK phải báo cáo thông tin định kì về danh sách tài khoản mở/đóng trong kỳ của nhà đầu tư, tuy nhiên đây là thông tin cần thiết để các trung tâm theo dõi và giám sát hoạt động giao dịch của nhà đầu tư, từ đó phát hiện ra các hành vi vi phạm. -Thông tin giữa TTGDCK và TTLKCK: Thông qua việc quản lý đăng ký người sở hữu chứng khoán và thực hiện cung cấp dịch vụ thực hiện quyền cho người sở hữu chứng khoán, cấp mã số giao dịch cho nhà đầu tư nước ngoài, TTLK có thể phối hợp rất hiệu quả với TTGD trong việc phát hiện các hành vi vi phạm trên thị trường như nhà đầu tư mở hai tài khoản, thay đổi tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. - Thông tin giũa TTGDCK và công chúng đầu tư: Hiện nay, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý và công chúng đầu tư là rất mờ nhạt, có thể nói cơ quan quản lý chưa xây dựng được lòng tin trong công chúng đầu tư. Mặt khác, bản thân aơ quan quản lý cũng cần có được các thông tin đa chiều đánh giá về công tác quản lý thị trường để có thể đổi mới phương thức quản lý cho phù hợp. Hướng xây dựng kênh thông tin hai chiều giữa TTGD và công chúng đầu tư có thể dưa trên các phương tiẹn thông tin điện tử, thông tin trực tuyến... - Đưa thị trường OTC vào vòng kiểm soát Thị trường này được coi là gây nhiều rủi ro cho nhà đầu tư cũng như làm xáo trộn TTCK nói chung. Bên cạnh Luật Chứng khoán quy định về việc tổ chức thị trường, các nhà quản lý cũng đặt ra nhiệm vụ là trong năm 2007 phải thu hẹp thị trường này, tất nhiên không can thiệp thô bạo bằng hành chính mà sử dụng cơ chế chính sách phù hợp. Thực tể, hiện nay để kiểm soát thị trường OTC, Luật chứng khoán quy định các công ty cổ phần phải nộp hồ sơ đăng ký lại thành công ty đại chúng trong vòng 90 ngày kể từ ngày có số lượng cổ đông đạt từ 100 người trở lên. Sau khi dăng kí, các công ty này sẽ phải thực hiện kiểm toán, công bố thông tin và quản trị công ty theo Luật CK. Bước tiếp theo là các công ty tiến hành lưu ký cổ phiếu, sử dụng các công ty Ck làm đầu mối và chuyển các giao dịch về TTGDCK HN. Đối với các công ty không nộp hố sơ đăng ký công ty đại chúng sẽ bị phạt từ 5-20 triệu đồng nhưng đây cũng chỉ là giải pháp tình thế.Tuy nhiên, thực tế cho thấy phần lớn các công ty cổ phần không thích trở thành công ty đại chúng vì lợi ích mang lại không tương xứng với những cái mà họ mất đi. Cụ thể, họ e ngại rủi ro bị chia quyền kiểm soát, các ràng buộc về công bố thông tin, nhiều công ty vẫn muốn duy trì các khoản tài chính không rõ ràng, chủ yếu vì lý do đóng thuế... Nhìn chung, để khuyến khích các công ty cổ phần đăng ký đại chúng, UBCKNN nói riêng và các cơ quan chủ quản nói chung cần có những chính sách khuyến khích các công ty này hơn là ép buộc họ. Chuyên đề xin đưa ra một số chính sách cụ thể như sau: Thứ nhất, yêu cầu bắt buộc phải tiến hành các phương thức quản trị doanh nghiệp hiện đại trung các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá để họ không phải “ngỡ ngàng” khi chuyển mô hình hoạt động thành công ty đại chúng. Thứ hai, Chính phủ cần ban hành nghị định hướng dẫn cụ thể về minh bạch thông tin trong các công ty đại chúng để hạn chế tình trạng mất cân xứng thông tin trên TTCK. Thứ ba, cần có những quy định chính sách về các hoạt động mua lại, sát nhập và bảo vệ nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nhỏ. Xu hướng này sẽ diễn ra khá phổ biến trong tương lai và cần phải được Nhà nước dự báo thấu đáo nhằm đưa ra các chính sách thích hợp để bảo vệ nhà đầu tư. 2.1.4. Thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm doanh nghiệp. Chúng ta biết rằng thông tin hiện nay đóng vài trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là đối với TTCK, thị trường tiền tệ. Có thể khẳng định, ai nắm bắt được thông tin người đó sẽ có được thành công trong kinh doanh và hạn chế được rủi ro. Đối với TTCK trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai thì thông tin về doanh nghiệp và nhất là thông tin về định mức tín nhiệm doanh nghiệp là rất quan trọng. Thứ nhất: Giúp cơ quan quản lý, điều hành vĩ mô có thêm kênh thông tin tham khảo về hoạt động của các doanh nghiệp đã, đang và chuẩn bị lên sàn giao dịch. Từ đó giúp các cơ quan này đưa ra các chính sách hợp lý để TTCK hoạt đông ổn định hơn, giảm thiểu rủi ro và tránh đuợc những “cú sốc” có thể xảy ra. Thứ hai: Đối với CTCK, các quỹ đầu tư, các nhà đầu tư...có thông tin để ra các quyết định đâu tư chính xác hơn, giảm thiểu được rủi ro. Các CTCK có thêm nguồn thông tin tham khảo để từ đó tư vấn hiệu quả hơn cho các nhà đầu tư... Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, ngoài CIC (Trung tâm phân tích, xếp hạng tin dụng doanh nghiệp của Ngân hàng nhà nước), vẫn chưa có tổ chức đơn vị nào thực hiện việc đánh giá xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp.Hiện nay NHNN đang xây dựng thành lập công ty Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp Việt Nam. Bởi trong tương lai không xa nhu cầu về xếp hạng doanh nghiệp là rất lớn, các doanh nghiệp và các tổ chức đầu tư cần có thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh và các cơ quan chủ quản của TTCK cũng cần có nguồn dữ liệu để có thể quản lý tốt được thị trường, kịp thời đưa ra các thông tin cảnh báo về các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả hay vi phạn các nguyên tắc hoạt động của TTCK. 2.1.5. Có kế hoạch đào tạo và sử dụng tốt nguồn nhân lực trong công tác công bố thông tin chứng khoán. Vấn đề con người là vấn đề cốt lõi và nền tảng cho hệ thống thông tin chứng khoán cũng như TTCK. Vì vậy, UBCKNN phải có trách nhiệm cụ thể, đó là các biện pháp đào tạo, phổ biến nâng cao nhận thức cho các thành viên tham gia trên thị trường để họ có kiến thức tốt về hệ thống thonng tin chứng khoán. Mặc dù hiện nay, UBCK nhà nước cũng đã có Trung tâm nghiên cứu khoa học chứng khoán và bồi dưỡng nghiệp vụ thị trường chứng khoán, trong chương trình giảng dạy của trung tâm cũng có nhiều tiết học giảng về nghĩa hoạt động công bố thông tin trên TTCK nhưng như thế có lẽ là còn quá ít. Bởi hiện nay hoạt động công bố thông tin vẫn chưa trở thành một thói quen bình thường đối với các đối tượng tham gia TTCK. Các buối tập huấn về công bố thông tin gần đây dành cho các tổ chức niêm yết tại UBCKNN và TTGDCK HN cho thấy các công ty niêm yết vẫn chưa hiểu rõ được quyền và nghĩa vụ công bố thông tin của mình, các công ty niêm yết còn vậy thì làm sao ta có thể đòi hỏi các công ty đại chúng minh bạch hoá thông tin. Về phía các nhà đầu tư, bản thân họ cũng không nhận thức được quyền đòi hỏi được công bố thông tin của mình. Trong khi đó các lớp bồi dưỡng mới chỉ tiến hành đào tạo tại các trung tâm đào tạo chứng khoán ở HN và TP.HCM, mà hiện nay nhu cầu của các lớp học về chứng khoán luôn trong tình trạng quá tải. Giải pháp trước mắt cho vấn đề này là UBCKNN cho phép các trường đại học liên kết với các trung tâm đào tạo của UBCK để mở các lớp đào tạo cho sinh viên và những người có nhu cầu, nhằm giảm thiểu tình trạng quá tải tại các lớp đào tạo của UBCK hiện nay, đồng thời mở thêm các điểm đào tạo khác ở các tỉnh thành phố khác để mọi nhười trong cả nước có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các tri thức mới. UBCK cũng có thể tổ chức trực tiếp các lớp bồi dưỡng của các CTCK, CTNY và cho phép khách hàng của các công ty này đến dự. Hơn nữa các hình thức đào tạo cũng nên được đa dạng hoá để cho các đối tượng ở các vùng địa lý khác nhau có thể tiếp cạn được bằng cách sử dụng các công nghệ trong công tác đào tạo như đào tạo từ xa, đào tạo với sự trợ giúp của các thiết bị đa phương tiện, đào tạo hướng dẫn trực tuyến... Về lâu dài, để tăng cường nguồn nhân lực cho TTCK, chúng ta cần phải quan tâm bằng nhiều giải pháp: Thứ nhất, cần có cơ chế chính sách cụ thể và thiết thực để ổn định và phát triển nguồn nhân lực, thu hút được nhiều chuyên gia kể cả đối với chuyên gia nước ngoài ; Thứ hai, đầu tư thoả đáng cho công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành chứng khoán trong đó có cả đầu tư để phát triển các cơ sở đào tạo chuyên ngành , phối hợp đầu tư của nhà nước với các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán và hợp tác quốc tế đa dạng và hiệu quả hơn. Thứ ba, ban hành tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, coi trọng tính chuyên ngiệp của nghề chứng khoán. Thứ tư, đầu tư mạnh mẽ công nghệ hiện đại để phát huy chất xàm của những “người làm nghề chứng khoán” sớm hoà nhập với thị trường chứng khoán thể giới. 2.2. Giải pháp phát triển hoạt động công bố thông tin từ các công ty chứng khoán. Trong thời gian qua cùng với sự biến động thất thường của thị trường, các vi phạm trong giao dịch chứng khoán của các CTCK ngày càng gia tăng. Hàng loạt các vi phạm về giao dịch chứng khoán xảy ra tại các công ty này. Cụ thể là các sai phạm tại các Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương (VCBS), Ngân hàng Á Châu (VCBS), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán Sài Gòn (SSI), Công ty Chứng Khoán Tp.HCM (HSC) gây thiệt hại cho nhiều nhà đầu tư, chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Để gây dựng lại hình ảnh tốt đẹp của công ty trong con mắt của các nhà đầu tư, các Công ty này cần phải đảm bảo sự tuân thủ đúng các nguyên tắc hoạt động của thị trường, tăng cường chất lượng của các dịch vụ đối với nhà đầu tư.. nhằm làm tăng uy tín của mình ngay từ bây giờ trong những giới hạn có thể làm được nhằm đáp ứng được sự phát triển của thị trường trong tương lai. Thứ nhất, cần quán triệt đầy đủ các nguyên tắc về thông tin chứng khoán. Khi thông tin cho khách hàng của mình cũng như khi thông tin rộng rãi ra ngoài công chúng, các công ty này cần phải phản ánh trung thực các thông tin về chứng khoán, về các tổ chức chào bán, đại chúng hay niêm yết. Nếu có thông tin tốt về các công ty này cần phải xác minh một cách rạch ròi bằng khả năng phân tích của các cán bộ chuyên môn, tránh tình trạng đưa ra các thông tin không chính thống trôi nổi trên thị trường, đó là điều rất nguy hiểm. Nếu có không tin không tốt về các công ty đại chúng hay niêm yết, cần phải thông báo cho khách hàng của mình... không nhất thiết phải thông báo rộng rãi khi còn e dè... Đối với các thông tin định kì, bất thường hay theo yêu cầu cần đảm bảo thông tin được công bố đầy đủ, kịp thời và chính xác, không nên che giấu hoặc bóp méo thông tin, cố tình gây hiểu lầm cho nhà đầu tư. Cần đảm bảo có sự đối xử công bằng giữa những nhà đầu tư nhỏ và các “đại gia”. Khi việc công bố thông tin từ các công ty này đảm bảo được tính minh bạch, rõ ràng, kịp thời thì khách hàng sè trở thành các khách hàng trung thành của công ty, hơn nữa họ cũng sẽ chính là người quảng cáo hiệu quả uy tin của các công ty trên thị trường, đó mới chính là mòn quà lớn. Thứ hai, phát huy hơn nữa những năng lực hiện có của công ty để phát triển hệ thống thông tin. Các Công ty chứng khoán hiện nay hầu như đều là các pháp nhân kinh doanh ra đời từ các pháp nhân đã từng hoạt động tốt trên thị trường như các ngân hàng, các tổng công ty, các tổ chức này đã trang bị cho mình hệ thống thông tin khá hoàn chỉnh như nối mạnh diện rộng giữa các chi nhánh...Như vậy, với những thế mạnh sẵn có này, các công ty chứng khoán nên có các giải pháp riêng cho mình. Chẳng hạn tiếp nhận thêm, thu hút thêm các nhà đầu tư từ các chi nhánh và thông qua hệ thống mạng máy tính này khâu xử lý lệnh của công ty sẽ trở nên đơn giản hơn chứ không như các công ty không có mạnh diện rộng phạm vi hoạt động là rất hẹp. Có một hực tế hiện nay là, tính bảo mật trong các Website của các công ty chứng khoán còn yếu, theo thống kê của Trung tâm an ninh mạng BKIS có tới hơn 50% các Website của CTCK có lỗi bảo mật và có nguy cơ bị các hacker chiếm dụng bất cứ lúc nào. Vấn đề đặt ra hiện nay là các CTCK phải tìm cách khăc phục sự cố nêu trên thông qua việc nâng cao chất lượng của dội ngũ cán bộ thông tin thông qua các lớp huấn luyện với các chuyên gia trong lĩnh vực thông tin ở trong và ngoài nước, tránh lặp lại tình trạng “náo loạn” tại sàn chứng khoán của CTCK Công thương như trong tháng ba vừa rồi, làm ảnh hưởng không tốt tới quyền lợi cũng như hình ảnh công ty trong con mắt các nhà đầu tư khi mà công ty này thông báo cho các nhà đầu tư nguyên nhân của tình trạng treo máy ở công ty là do virut. Thứ ba, về lâu dài các CTCK nên duy trì hoạt động tư vấn của mình. Bởi hiện nay doanh thu từ hoạt động tư vấn ở các CTCk ở nước ta là còn rất thấp. mà nghiẹp vụ này thì được coi là rất có giá trị ở các TTCK phát triển mà nguyên nhân chủ quan là phát sinh từ những yếu kém của hệ thống thông tin. Các CTCK nên duy trì hoạt động này bằng cách đầu tư công tác thông tin chứng khoán như xây dựng các bộ phần mềm dữ liệu chứng khoán phù hợp với đặc thù TTCK Viẹt Nam. Từng bước chuyên nghiệp hoá bộ phạn tư vấn chứng khoán cho nhà đầu tư, như có kế hoạchđào tạo công nghệ thông tin cho nhân viên tư vấn chứng khoán, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các cán bộ đang làm công tác thông tin có như vậy hoạt động công bố thông tin mới phát triển được. 2.3. Chuyên nghiệp hoá thông tin chứng khoán của các công ty niêm yết. Hiện nay các CTNY đã bị lên án rất nhiều là họ làm hạn chế sự lành mạnh của hệ thống thông tin, việc công bố thông tin của họ vi phạm các quy chế của UBCKNN, vi phạm các nguyên tắc của thong tin chứng khoán. Muốn các nhà đàu tư không quay lưng lại với công ty và để bản thân công ty không bị lên án thì nhất thiết họ phải tự cứu lấy mình ngay từ lúc này. Khi các CTNY chấp hành tót các quy đinh về thông tin và công bố thông tin chứng khoán thì hệ thống thông tin chứng khoán Việt Nam cũng được cải thiện đáng kể. Thứ nhất, các CTNY phải chấp hành các quy chế về công bố thông tin. Hiện nay Luật Chứng khoán đã dành hẳn một chương về Công bố thông tin và hiện nay cũng đã có thông tư hướng dẫn chi tiết về nghĩa vụ công bố thông tin của các tổ chức tham gia thị trường được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 38/2007/TT-BTC ban hành ngày 18/4/2007 và sẽ có hiệu lực trong vòng 15 ngày kể từ ngày công bố. Các thông tin khi công bố rộng rãi ra công chúng phải đồng thời báo cáo với UBCKNN, SGDCK hoặc TTGDCK. Các công ty niêm yết phải tự chịu trách nhiệm về tính trung thực của các thông tin đuợc công bố. Thứ hai, Các CTNY phải quản triệt các nguyên tắc về thông tin chứng khoán. Ta biết các thông tin chứng khoán phải rõ rãng công khai và minh bạch. Nếu thông tin không rõ ràng, đầy đủ, hoặc cố tình gây hiểu lầm thì bản thân công ty sẽ mất đi một bộ phận các nhà đầu tư dài hạn. Hơn nữa, khi thông tin ra thị trường về các báo cáo tài chính, các phương án kinh doanh các công ty cần phải hết sức thận trọng bởi khi thông tin được công bố thì đó sẽ là thông tin chính thức, bất kể sự thay đổi thông tin nào đều gây ra nhứng ảnh hưởng đến giá chứng khoán và ảnh hưởng tới uy tín và hình ảnh của công ty. Các CTNY cần phải nhận thức được rằng sự trung thực về thông tin của công ty không phải là việc công khai bí mật của công ty mà là nghĩa vụ và quyền lợi của chính bản thân công ty, các nhà đầu tư sẽ tìm đến với những công ty nào làm ăn thật sự hiệu quả và có thông tin minh bạch rõ ràng, đây chính là cách để công ty tồn tại lâu dài trên thị trường , hơn nữa sẽ là đối tượng rót vốn mở rộng sản xuất của các nhà đàu tư nước ngoài trong tương lai. Thứ ba, các công ty niêm yết cần phải quan tâm hơn đối với việc đầu tư cho hoạt động công bố thông tin hiện nay. Cụ thể các website của hầu hết các công ty chứng khoán vẫn chưa được sử dụng hữu hiệu như một công cụ để truyền tải thông tin tới các nhà đàu tư, các thông tin trên trang web còn sơ sài, chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư khi họ cần đến thông tin về công ty, thậm chí có các website của công ty chưa hề đi vào hoạt động. Chính vì vậy các CTNY hiện nay cần phải chú trọng đầu tư, nâng cấp hơn nữa các trang web của mình. Đây không chỉ là cách để đáp ứng nhu cầu thông tin của các nhà đầu tư mà còn là cách để công tư quảng bá hình ảnh của mình thu hút thêm các nhà đàu tư nước ngoài, các đối tác chiến lược đồng thời cũng giúp ngăn chặn các tin đồn xấu về công ty. Có một thực tế là mặc dù các CTNY hiện nay đều đã có bộ phận công bố thông tin, theo yêu cầu của UBCKNN, nhưng do các công ty chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc công bố thông tin nên đã gây ra nhiều bất cập, vậy nên các CTNy nên quan tâm hơn đến hoạt động công bố thông tin, không để cho các cán bộ thông tin làm việc kiêm nhiệm như khiện nay, mà phải có các cán bộ thực sự làm việc trên, họ hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của việc cung cấp thông tin , hiểu được các nguyên tắc thông tin, cũng như thời điểm để đưa ra các cnguồn thông tin khác nhau, thông tin định kì, bất thường và theo yêu cầu ... Hơn nữa là người phụ trách thông tin chuyên nghiệp trong tổ chức họ biết rõ đâu là thông tin chính thức, không chính thức vầ đấu tranh chống các thông tin lá cải và các thông tin không trung thực về tổ chức họ. 2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các phương tiện thông đại chúng Trên thị trường tài chính nói chung và TTCK Việt nam nói riêng, vai trò cầu nối thông tin giữa thị trường và nhà đầu tư của các phương tiên truyền thông đại chúng là rất quan trọng. Tuy nhiên mức độ niềm tin của nhà đầu tư vào các thông tin do các đơn vị truyền thông cung cấp thường quá cao hoặc quá thấp.Vì vậy, thách thức của đơn vị truyền thông hiện nay là phải xác lập một “niềm tin” hợp lý từ phía những người sử dụng thông tin của mình, góp phần minh bạch hoá hệ thống thông tin và góp phần thúc đẩy TTCK phát triển ổn định. Giải pháp đặt ra là: Các phương tiện truyền thông phải “chuyên nghiệp hoá” và “chủ động hoá” đội ngũ phóng viên về tài chính. Đảm bảo các thông tin được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là khách quan và trung thực, đúng với tình hình thực tế của các tổ chức công bố .Các phóng viên của các hãng truyền thông dứt khoát không thể là “diễn viên chính” trong “trò chơi chứng khoán”, dẫn dắt thị trường hoặc thổi phồng những thông tin không có thực từ các nhà công bố thông tin, mà phải là “người đứng ngoài” đưa tin về cuộc chơi. Mặt khác các phóng viên này luôn phải duy trì tư duy về phản biện thông tin, có thêm các ý kiến độc lập phân tích chuyên sâu của riêng mình, thậm chí là lật ngược lại các phân tích của người khác. Để làm được như vậy, các phóng viên chứng khoán phải là người có kiến thức tốt và am hiểu thị trường. Vì vậy,các hãng truyền thông nên đầu tư để đào tạo phóng viên hoặc thuê các chuyên gia giỏi làm việc cho mình. Như vậy, niềm tin của nhà đầu tư với các phương tiện thông tin đại chúng sẽ tăng, và các phương tiện truyền thông sẽ trở thành kênh thông tin hiệu quả trong việc đưa các thông tin được công bố nói riêng và các thông tin chứng khoán khác nói chung dến với các nhà đầu tư. 2.5. Nâng cao nhận thức thông tin về chứng khoán cho nhà đầu tư Nhà đầu tư là cá nhân nên thận trọng khi tiếp nhận các thông tin trên thị trường, muốn vậy họ phải có các kiến thức nhất đinh về chứng khoán và đặc biệt là thông tin về chứng khoán, nhận biết được các thông tin lá cải và các thông tin không trung thực khác trên thị trường... Thứ nhất, nhà đầu tư phải hiểu rõ về Luật chứng khoán, nhận thức được quyền lợi về quyền yêu cầu được công bố thông tin của mình và không ngừng đào tạo cho mình các kiến thức về chứng khoán nói chung và hệ thống thông tin chứng khoán nói riêng bằng nhiều hình thức: qua mạng, báo chí và mạng internet... Thông tin trên mạng thật sự hữu ích với các cá nhân riêng lẻ, chỉ cần có một máy tính cá nhân với phần cứng đủ mạnh, điện thoại , modem, nối mạng internet, nhà đầu tư sẽ có rất nhiều nguồn thông tin và các kiến thức về chứng khoán thông qua rất nhiều các trang web trong nước và quốc tế. Thứ hai, nhà đàu tư nên thận trọng trong việc tiếp nhận các thông tin thị trường. thông tin trên thị trường chứng khoán là thông tin nhiều chiều, thông tin chính thống và các nguồn thông tin bị buông lỏng. Thứ ba, khi chưa có đủ thông tin và các kiến thức về thị trường các nhà đầu tư nên tham khảo ý kiến tư vấn của các CTCK có uy tín hay đầu tư vào các quỹ đầu tư chứng khoán để vừa có thể đa dạng hoá được danh mục đầu tư, vừa tận dụng được kinh nghiệm và phương thức đầu tư của các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Kết luận Sau 12 tuần đi thực tập tại Công ty Chứng Khoán Ngân Hàng Đông Nam Á, mặc dù chưa được tiếp xúc đầy đủ các nghiệp vụ do công ty mới chỉ chính thức thực hiện giao dịch, nhưng bước đầu tôi đã được tiếp xúc, tìm hiểu cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của công ty. Quan trọng hơn, tôi đã được trực tiếp tham gia quá trình phân tích cơ bản, chính trong quả trình này đã giúp tôi nảy sinh ý định chọn đề tài này làm chuyên đề tốt nghiệp.Vì để có thể thực hiện các phân tích cơ bản, việc quan trọng đầu tiên chúng ta cần tiến hành là thu thập dữ liệu, dữ liệu đó chính các báo cáo tài chính của công ty trong vài năm trở lại đây. Mặc dù theo các quy định của Pháp luật về chứng khoán thì đó là các thông tin định kì được công bố công khai ra công chúng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên công việc tìm kiếm là vô cùng khó khăn, ngay cả trên website của các TTGDCK thông tin cũng không được đầy đủ. Chính thực tế đó đã cho thấy, tình trạng công bố thông tin trên TTCK ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đáng dể chúng ta lưu tâm. Đề tài đã nêu nên những vấn đề cơ bản của hoạt động công bố thông tin, nguyên tắc, phương tiện, các tổ chức có nghĩa vụ công bố thông tin, thấy được thực trạng công bố thông tin của các tổ chức tham gia thị trường (các mặt được và hạn chế). Trên cơ sở đó, đề tài cũng đã đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động công bố thông tin trên TTCK Việt Nam hiện nay. Một lấn nữa, tôi xin chân thành cảm ơn Công ty Chứng Khoán Ngân Hàng Đông Nam Á đã giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập. Xin chân thành cảm ơn Ths. Nguyễn Đức Hiển - Người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này! Danh mục tài liệu tham khảo Sách: Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân (2002), Giáo trình Thị trường chứng khoán. 2. Vũ thị Minh Luận (2002), Hoàn thiện hệ thống thông tin cho Thị trường Chứng khoán, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học KTQD 3. Trần Thăng Long (2004), Giải pháp hình thành và phát triển thị trường phi tập trung (OTC) ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại Học KTQD. Báo: Tạp chí Chứng Khoán Việt Nam (2005,2006,2007). Thời báo Kinh tế Sài gòn (2007) Tạp chí Tài chính (2006) Websites: www.saigontimes.com.vn www.ckvn.com www.vir.cm.vn www.vinastock.com.vn www.vinastock.com.vn Danh mục các từ viết tắt TTCK : Thị trường chứng khoán. UBCKNN : Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước. SGDCK : Sở Giao Dịch Chứng Khoán. TTGDCK : Trung tâm giao địch chứng khoán. CTCK : Công ty chứng khoán. CTNY : Công ty niêm yết. CTQLQ : Công ty quản lý quỹ TTLK CK : Trung tâm Lưu Ký Chứng Khoán MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36704.doc
Tài liệu liên quan