Tài liệu HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG 2002: PHẦN I: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TIÊU DÙNG.
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại.
Theo luật các tổ chức tín dụng (có hiệu lực thi hành từ 01/10/1998) thì ngân hàng thương mại được hiểu như sau:
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Hoạt động ngân hàng là hoạt động với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng tiền này để cấp tín dụng, và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
2. Chức ... Ebook HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG 2002
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng của Ngân hàng Thương mại.
a. Ngân hàng Thương mại là định chế tài chính trung gian:
Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa những chủ thể có tiền nhưng chưa đem sử dụng và những chủ thể có nhu cầu tiền tệ thông qua việc đứng ra tập trung những tiền tệ chưa sử dụng của các chủ thể trong nền kinh tế, trên cơ sở đó cung cấp vốn cho những chủ thể có nhu cầu cần bổ sung tạm thời. Nói một cách khái quát hơn, ngân hàng vừa là người đi vay và cũng đồng thời là người cho vay, có nghĩa là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là đi vay để cho vay.
Quá trình thực hiện chức năng định chế tài chính trung gian của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ cũng như sự phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
b. Ngân hàng Thương mại có chức năng tạo tiền:
Lượng tiền mà Ngân hàng Thương mại tạo ra chính là đồng tiền bút tệ, thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong mối liên hệ giữa các Ngân hàng Thương mại với nhau. Khả năng tạo tiền phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương, trong đó “tỷ lệ dự trữ bắt buộc” là một công cụ quan trọng. Lượng tiền cung được tăng lên hay giảm xuống phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế: tăng trưởng kinh tế, hạn chế lạm phát.
c. Ngân hàng Thương mại là thủ quỹ của khách hàng.
Sự phát triển về cung ứng hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân. Việc thanh toán trực tiếp lẫn nhau gặp nhiều khó khăn cho cả hai bên, nhất là khi đối tượng thanh toán lớn, địa điểm hai bên cách xa nhau, dẫn đến chi phí cho chi trả cao, thời gian dài. Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán cho các tổ chức kinh tế, cá nhân về tiền hàng, dịch vụ phát sinh trong quan hệ giao dịch mua bán hàng hoá, giúp việc luân chuyển vốn cho các doanh nghiệp được nhịp nhàng, nhanh chóng thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, vòng vốn quay nhanh, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Ngoài ra ngân hàng còn giúp doanh nghiệp sinh lời từ khoản tiền gởi tại ngân hàng, hoặc bảo quản tài sản phi tiền tệ cho các cá nhân, tổ chức.
3. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại.
a. Nghiệp vụ huy động nguồn vốn.
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng Thương mại được sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của nghiệp vụ nguồn vốn là tạo ra nguồn “tài nguyên” để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Trong đó, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, nguồn tài nguyên to lớn nhất của Ngân hàng Thương mại.
b. Nghiệp vụ cho vay.
Nghiệp vụ cho vay là hoạt động chính yếu và quan trọng nhất của bất kỳ một Ngân hàng Thương mại nào. Nó quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng chuyển hoá từ vốn tiền gửi thành vốn tín dụng để cho vay đối với các khách hàng của mình, nhằm bổ sung cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Nhờ cho vay mà ngân hàng tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho mình, để từ đó mà bồi hoàn lại tiền gửi cho khách hàng, bù đắp các chi phí kinh doanh và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
c.Các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí... có vị trí xứng đáng trong vai trò phát triển hiện nay của Ngân hàng Thương mại. Các hoạt động này gồm:
- Các dịch vụ thanh toán thu, chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán... ).
- Bảo quản các tài sản quí giá, giấy tờ, chứng thư quan trọng của công chúng.
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của khách hàng.
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng, bạc đá quí.
- Cố vấn tài chính, giúp đỡ các công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
1. Khái niệm Tín dụng Ngân hàng.
Theo Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ Tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với một bên là các tổ chức tín dụng, cá nhân trong nền kinh tế Quốc dân.
2. Bản chất của Tín dụng Ngân hàng.
Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
. Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc thiết bị).
. Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn.
. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
3. Phân loại Tín dụng Ngân hàng.
a. Căn cứ vào thời hạn vay:
+ Cho vay ngắn hạn: thời hạn vay đến 12 tháng, vốn vay dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu trong ngắn hạn của các cá nhân và các tổ chức.
+ Cho vay trung hạn: thời hạn vay từ 1 đến 5 năm, vốn vay dùng để đầu tư vào tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
+ Cho vay dài hạn: thời hạn vay trên 5 năm, nhằm mục đích cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư vào các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất với qui mô lớn.
b. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Tín dụng đầu tư: nhằm tăng sản lượng, thu nhập trong nền kinh tế và tìm kiếm mức độ sinh lời của đồng vốn, bao gồm các hình thức sau:
+ Cho vay bất động sản: nguồn vốn vay sẽ được sử dụng để mua sắm và xây dựng các bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ ...
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này.
+ Cho vay nông nghiệp: nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như hỗ trợ chi phí sản xuất, xây dựng công trình thuỷ lợi ...
- Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để trang trải các chi phí thông thường, đáp ứng các nhu cầu về đời sống và sinh hoạt của cá nhân, gia đình trong xã hội. Ví dụ như cấp tín dụng để mua xe máy, mua nhà ...
c. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của người đi vay:
- Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng mà để có được khoản tín dụng này, người đi vay vay bắt buộc phải có một tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
- Tín dụng không có đảm bảo bằng tài sản: là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho vay chỉ căn cứ vào uy tín của bản thân người đi vay mà không cần bất cứ tài sản bảo đảm nào.
d. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
- Tín dụng trực tiếp: đây là loại tín dụng mà ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người vay, đồng thời người vay cũng là người trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: thông qua các loại giấy tờ như khế ước hoặc chứng từ nợ (thương phiếu), ngân hàng cấp tín dụng cho người phát hành (là người thanh toán nợ) bằng cách mua lại (chiết khấu) các giấy tờ này từ người sở hữu chúng (người nhận vốn từ ngân hàng).
e. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
- Cho vay bằng tiền: đây là hình thức tín dụng phổ biến, vốn tín dụng được cấp dưới hình thái giá trị tiền tệ.
- Cho vay bằng tài sản: vốn tín dụng được cấp bằng tài sản dưới hình thức tài trợ thuê mua của ngân hàng hoặc các công ty thuê mua (công ty con của ngân hàng).
4. Các nguyên tắc của Tín dụng Ngân hàng.
Để đảm bảo cho hoạt động tín dụng của mình đạt hiệu quả cao nhất và đem lại lợi ích cho các bên thì đòi hỏi ngân hàng và các khách hàng của ngân hàng phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
a. Nguyên tắc vay vốn phải có mục đích, có kế hoạch, bảo đảm sử dụng đúng với mục đích xin vay và có hiệu quả kinh tế.
Bên đi vay phải trình bày với ngân hàng về mục đích sử dụng vốn vay, kế hoạch sử dụng vốn vay... để ngân hàng quyết định cho vay. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những tổ chức, cá nhân làm ăn có hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích và ngân hàng kiểm soát được việc vay vốn. Nguyên tắc này giúp ngân hàng và cả người đi vay tiến hành hoạt động của mình được bình thường, tránh việc sử dụng vốn vay sai mục đích, không hiệu quả, thất thoát và gây lãng phí.
b. Nguyên tắc cho vay hoàn trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn.
Hoàn trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn là một nguyên tắc hàng đầu trong hoạt động tín dụng. Vì vậy buộc ngân hàng cũng như người đi vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoạt động có hiệu quả.
c. Vốn vay phải được bảo đảm.
Khi vay vốn ngân hàng thì người đi vay phải bảo đảm trả nợ cho ngân hàng bằng cách thế chấp tài sản hoặc có bảo lãnh của người thứ ba. Tuân thủ theo nguyên tắc này giúp ngân hàng thu hồi nợ, mặt khác giúp cho ngân hàng thu hồi lại vốn khi khách hàng không tuân thủ hợp đồng tín dụng.
III. TÍN DỤNG TIÊU DÙNG.
1. Khái niệm về Tín dụng Tiêu dùng.
Tín dụng tiêu dùng là hình thức tổ chức tín dụng cho các cá nhân vay vốn để mua sắm tư liệu sinh hoạt hoặc đáp ứng nhu cầu khác phục vụ đời sống.
Các khoản cho vay tiêu dùng giúp cho người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ cơ hội có thể hưởng một mức sống cao hơn.
2. Đặc điểm của Tín dụng Tiêu dùng.
a. Đây là hình thức cấp tín dụng để tài trợ cho mục đích tiêu dùng của từng cá nhân nên qui mô vốn của từng món vay thường là nhỏ so với những món vay với mục đích kinh doanh hoặc đầu tư của các tổ chức kinh tế. Điều này dẫn đến lượng khách hàng của hình thức tín dụng tiêu dùng là rất lớn. Chính vì nó thoả mãn nhu cầu của mỗi cá nhân trong xã hội mà mỗi người lại có những mục đích tiêu dùng khác nhau, khả năng tài chính khác nhau, nhu cầu vay vì thế cũng khác nhau. Nắm rõ đặc điểm này, các tổ chức tín dụng cho vay phải sắp xếp, bố trí lịch làm việc hợp lý để giải quyết được lượng khách hàng rất lớn đến để vay, trả nợ hàng tháng.
b. Là hình thức tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro nhưng đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Như ta đã biết, vay tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng trả nợ của từng cá nhân, nó không phải là rủi ro do chủ quan từ phía người đi vay mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của các yếu tố khách quan như rủi ro về mất việc làm, bệnh tật, tai nạn, chết, các sự cố xảy ra trong gia đình... nhưng chính là vì số lượng khách hàng rất là nhiều nên những rủi ro này được phân tán, không tập trung vào một đầu mối nên giảm được những tổn thất lớn cho ngân hàng. Bên cạnh đó nó lại đem về cho ngân hàng một nguồn thu đáng kể từ lợi nhuận cho vay. Vì lãi suất do các ngân hàng sử dụng trong vay tiêu dùng ở mức lãi suất cố dịnh, trong đó đã tính đến việc loại trừ các yếu tố về rủi ro nên lãi suất vay tiêu dùng thường có xu hướng cao hơn lãi suất của các loại hình cho vay khác. Vì vậy đã giảm nhẹ được thiệt hại cho ngân hàng trong những trường hợp xảy ra rủi ro dẫn đến các tổn thất tín dụng, còn trong trường hợp không xảy ra rủi ro thì ngân hàng lại thu được một món lợi từ sự chênh lệch này.
c. Đặc điểm tiếp theo là nhu cầu vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, đây là món vay rât nhạy cảm với tình trạng “sức khoẻ” của nền kinh tế. Khi nền kinh tế mở rộng, tăng trưởng tốt và ổn định thì nhu cầu vay tiêu dùng tăng lên, vì mọi người cảm thấy lạc quan về tương lai nên sẵn sàng chi tiêu cho cuộc sống của mình. Và ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, tâm lý chung của các cá nhân là không tin tưởng về cuộc sống tương lai, lo sợ tình trạng thất nghiệp xảy ra, nên họ sẽ tiết kiệm trong việc chi tiêu của mình và hạn chế tối đa trong việc vay mượn ngân hàng.
d. Đặc điểm quan trọng cuối cùng, người vay tiêu dùng hầu như không quan tâm đến lãi suất vay vốn mà họ chỉ quan tâm đến số tiền phải trả trong mỗi kỳ, mặc dù lãi suất là yếu tố biểu hiện chi phí phải bỏ ra cho món vay đó. Vì đây là những món vay tiêu dùng, không vì mục đích kinh doanh nên người vay thường ít quan tâm đến chi phí phải trả này, hơn thế nữa, đối tượng vay ở đây lại là những lao động bình thường, họ ít am hiểu về các vấn đề của ngân hàng như lãi suất, ... điều quan tâm của họ đơn giản là món vay của họ có thoả mãn được nhu cầu của họ không và số tiền họ phải trả mỗi kỳ là bao nhiêu.
3. Phân loại Tín dụng Tiêu dùng.
a. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
- Tín dụng tiêu dùng ngắn hạn: là khoản vay với thời hạn dưới 12 tháng. Loại cho vay này áp dụng lãi suất ngắn hạn.
- Tín dụng tiêu dùng trung hạn: thời hạn vay từ 1 năm đến 3 năm
- Tín dụng tiêu dùng dài hạn: thời hạn vay từ 3 năm đến 10 năm.
b. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay:
- Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của các cá nhân và hộ gia đình.
- Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho những chi phí mua sắm các chuyển động sản phục vụ đời sống như ô tô, xe máy, vật dụng gia đình...
- Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho những mục đích khác như chi phí học hành, giải trí và du lịch...
c. Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay trả góp: là khoảng cho vay mà người vay vốn phải trả nợ vay (cả tiền gốc và lãi) cho tổ chức tín dụng làm nhiều kỳ liên tiếp như đã thoả thuận (thường là tháng hay quý).
- Cho vay trả một lần: là khoảng cho vay mà người vay vốn chỉ thanh toán một lần với tổ chức tín dụng (cả tiền gốc và lãi) vào lúc đáo hạn hợp đồng theo thoả thuận của hai bên. Thông thường đây là những khoản vay có qui mô vốn vsy nhỏ đi kèm với thời hạn ngắn và sử dụng cho những mục đích như chi trả cho những chuyến đi nghỉ, tiền viện phí, mua sắm những dụng cụ trong gia đình, các chi phí sữa chữa...
d. Căn cứ vào góc độ nghiệp vụ:
- Tín dụng tiêu dùng trực tiếp: là việc ngân hàng thực hiện phát vay trực tiếp cho người đi vay một số tiền mặt nhất định nhằm mục đích tiêu dùng. Và định kỳ người vay phải trả một số tiền theo quy định cho ngân hàng.
- Tín dụng tiêu dùng gián tiếp: được thực hiện bằng cách các nhà sản xuất hay nhà cung ứng bán hàng hoá cho khách hàng và ngân hàng sẽ thanh toán thay người mua hàng. Đây là hình thức phối hợp giữa ngân hàng và các tổ chức bán lẻ hàng hoá. Sau đó, định kỳ ngân hàng sẽ thực hiện việc thu nợ từ người vay.
4. Sự cần thiết của Tín dụng Tiêu dùng.
Việc cho vay tiêu dùng của ngân hàng có tác động, ảnh hưởng rất lớn đối với bản thân ngân hàng, cũng như đối với người tiêu dùng và nền kinh tế.
- Đối với ngân hàng: cho vay tiêu dùng góp phần đa dạng hoá hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro và tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, thông qua cho vay tiêu dùng các ngân hàng có điều kiện thiết lập nhiều mối quan hệ mật thiết với các cá nhân cũng như các doanh nghiệp, tạo thuận lợi mở rộng thị phần phát triển dịch vụ ngân hàng và khả năng huy động vốn, tiền gửi từ dân cư.
- Đối với người tiêu dùng: Nhờ vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền, nhờ đó góp phần nâng cao mức sống, tạo niềm hưng phấn, tích cực lao động vì tương lai tốt đẹp và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách, như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế.
- Đối với nền kinh tế: Nếu cho vay tiêu dùng được dùng để tài trợ cho các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Song, nếu các khoản cho vay tiêu dùng không được dùng như vậy thì chẳng những không kích được cầu mà nhiều khi làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước.
PHẦN II: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG NĂM 2002.
A. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG.
1. Giới thiệu về ngân hàng Á Châu - Việt Nam.
Pháp lệnh ngân hàng ra đời năm1993 đã đưa hoạt động ngân hàng vào giai đoạn ổn định và phát triển. Hệ thống ngân hàng thương mại được hình thành và hoạt động rất có hiệu qua, góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đang tăng trưởng và phát triển.
Trong thời gian này ngân hàng Á Châu ra đời theo quyết định số 6032/NH - CP cấp ngày 14/4/1993 của NHNN. Từ đó ngân hàng được khai trương và đi vào hoạt động vào ngày 04/6/1993, có tên tiếng Anh là Asia Commercial bank (ACB) có trụ sở chính tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3,TPHCM và được gọi là Hội sở. Thời gian hoạt động là 30 năm. Năm 1996 ACB có 7 chi nhánh và 3 phòng giao dịch, hiện nay ngân hàng có 10 chi nhánh, 9 phòng giao dịch, một trung tâm thẻ và một công ty chứng khoán. Ngoài ra ACB còn có hệ thống giao dịch địa ốc gồm 6 chi nhánh và 3 phòng giao dịch.
Vốn điều lệ ban đầu của ngân hàng ACB là 20 tỷ đồng thuộc sở hữu của 27 cổ đông. Trong 5 năm đầu hoạt động, ngân hàng đã có hai đợt tăng vốn điều lệ. Năm 1994 tăng lên 70 tỷ đồng, năm 1997 tăng lên 273 tỷ đồng (trong đó 25% là vốn của cổ đông nước ngoài). Hiện nay vốn điều lệ của ngân hàng là 353,711 tỷ đồng, là ngân hàng thương mại cổ phần có số vốn điều lệ cao nhất.
Hiện nay, ngân hàng thiết lập được 1200 đại lý thanh toán thẻ tín dụng và chuyển tiền nhanh Wetern Union trong phạm vi cả nước, đồng thờiquan hệ với hơn 170 ngân hàng nước ngoài tạo ra mạng lưới thanh toán nhanh chóng và thuận lợi.
2. Sự ra đời và phát triển ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng.
Vào năm 1996, kinh tế Đà Nẵng có những bước tiến đáng kể, tốc độ tăng GDP bình quân tăng 14,4% so với năm 1995, thu nhập bình quân đầu người đạt 355 USD/ người/ năm. Ngoài vị trí địa lý thuận lợi, Đà Nẵng còn có nhiều tiềm năng về kinh tế xã hội để thu hút đầu tư phát triển thành vùng kinh tế trọng điểm của miền Trung. Hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã có sự phát triển về qui mô lẫn loại hình. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn đang giữ vị trí vốn có của nó, hàng loạt các ngân hàng thương mại cũng khai trương và đi vào hoạt động, và ngày càng thích nghi, chiếm thị phần nhiều hơn.
Trước tình hình đó, để mở rộng phạm vi hoạt động và góp phần hoàn thiện ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng đã được thành lập theo quyết định số 212/QĐ - NH15 ký ngày 13/08/1996 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 08/01/1997. Trụ sở của chi nhánh ngân hàng Á Châu Đà Nẵng đặt tại 16 Thái Phiên, Đà Nẵng. Từ khi thành lập đến nay Chi nhánh không ngừng thay đổi phương thức hoạt động, cung ứng dịch vụ, trang bị cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất.
II. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH.
- Huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn dưới hình thức tiền gửi các loại của pháp nhân, cá nhân trong nước và nước ngoài bằng tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ theo qui định của ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Á Châu.
- Cho vay ngắn trung và dài hạn bằng tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân trên địa bàn theo sự uỷ nhiệm của Tổng giám đốc ngân hàng Á Châu.
- Được phép vay, cho vay các Định chế tài chính trong nước, thực hiện và quản lý các nghiệp vụ bảo lãnh, thanh toán quốc tế, nghiệp vụ mua bán, chiết khấu các chứng từ có giá khi được Tổng giám đốc uỷ nhiệm, chấp thuận và theo đúng qui định của ngân hàng nhà nước.
- Thực hiện quản lý mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hối, chuyển tiền nhanh, thẻ thanh toán. Khi có nhu cầu và được Tổng giám đốc uỷ nhiệm, ngân hàng thực hiện việc mua bán vàng. Đồng thời, tổ chức thực hiện công tác hạch toán kế toán theo đúng chế độ của nhà nước, NHNN và của ngân hàng Á Châu.
- Thực hiện chế độ bảo mật nghiệp vụ ngân hàng như về số liệu tồn quỹ, thanh khoản ngân hàng, tài khoản tiền gửi khách hàng, ...
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHI NHÁNH.
1. Ban Giám đốc:
Ban Giám đốc gồm có một Giám đốc và một phó Giám đốc. Giám đốc chi nhánh là người đứng đầu chi nhánh, điều hành mọi hoạt động của chi nhánh, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và trước pháp luật về các hoạt động của chi nhánh. Phó giám đốc được Giám đốc uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ và quyền hạn nhất định.
2. Ban Tín dụng:
Ban tín dụng gồm 3 thành viên chính thức: Giám đốc kiêm trưởng ban, phó Giám đốc kiêm phó ban và trưởng phòng tín dụng, một Phó phòng Tín dụng là nhân viên thường trực. Ban tín dụng có chức năng đưa ra quyết định cuối cùng về việc cho vay đối với các khoản vay và quyết định hạn mức tín dụng của khách hàng theo quyết định của Hội sở.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG
BAN TÍN DỤNG
PHÒNG HC - TH
P.KẾ TOÁN-VT
P.GDỊCH-NQUỸ
P.TD & TTQT
TỐ BẢO VỆ, LÁI XE & TẠP VỤ
BAN GIÁM ĐỐC
: Quan hệ trực tuyến
: Quan hệ chức năng
3. Các phòng khác:
- Phòng Hành chính - tổ chức: tổ chức nhân sự của Phòng gồm có một Trưởng phòng, một Phó phòng và các nhân viên tổ chức, văn thư, hành chính, bảo vệ, lái xe,tạp vụ v.v... Nhiệm vụ của Phòng:
+ Thực hiện các mặt về tổ chức hành chính như văn thư, hậu cần, các hoạt phù trợ về mặt hành chính, lái xe bảo vệ ... và tạo điều kiện vật chất để các phòng nghiệp vụ của chi nhánh thực hiện tốt nhiệm vụ.
+ Phối hợp với Văn phòng Hội sở để thực hiện công tác tổ chức, quản lý và phát triển nguồn nhân lực.
- Phòng Kế toán - Vi tính: gồm một Kế toán trưởng kiêm Trưởng phòng, một phó phòng, một Kiểm soát viên và các nhân viên Kế toán, Vi tính. Có nhiệm vụ:
+ Bộ phận kế toán có nhiệm vụ quản lý các tài khoản tiền gửi của chi nhánh tại NHNN địa phương và các tổ chức tín dụng khá, nắm tình hình vốn và sử dụng vốn, quản lý, kiểm tra và hạch toán thu nhập, chi phí cũng như tài khoản của chi nhánh. Bên cạnh đó bộ phận kế toán còn thực hiện chế độ báo cáo kế toán, thống kê theo đúng qui định của NHNN và của ngân hàng Á Châu.
+ Bộ phận vi tính có nhiệm vụ quản lý mạng vi tính của toàn chi nhánh, bảo mật số liệu, thông tin trên máy.
- Phòng Giao dịch - Ngân quỹ: gồm một Trưởng phòng, một Phó phòng, một Kiểm soát viên, một Thủ quỹ nghiệp vụ, các nhân viên giao dịch quầy và kiểm ngân. Nhiệm vụ của Phòng là hướng dẫn làm thủ tục mở và sử dụng tài khoản, thực hiện và quản lý các nghiệp vụ liên quan đến các loại tài khoản của khách hàng, thực hiện các giao dịch và dịch vụ cho khách hàng.
- Phòng tín dụng và thanh toán quốc tế: gồm một Trưởng phòng, hai Phó phòng và các nhân viên tín dụng và thanh toán quốc tế. Nhiệm vụ của Phòng là thực hiện các nghiệp vụ cho vay, thẩm định và tổ chức theo dõi các khoản cho vay, bên cạnh đó còn thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Trong trường hợp cần thiết còn có thể đề xuất những phương án để giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng và bão lãnh của chi nhánh.
IV. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH TRONG NĂM 2002.
Chi nhánh nằm trên địa bàn rất thuận lợi nhưng cũng có nhiều thách thức, đòi hỏi không ngừng thay đổi phương thức hoạt động để tăng khả năng cạnh tranh, và mới có thể đứng vững trên thương trường hiện nay.
Trong thời gian qua, tình hình hoạt động của Chi nhánh đã đạt được một số kết quả sau:
1. Hoạt động huy động vốn.
Bảng 1.1: Tình hình huy động vốn của ngân hàng
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TĐ(%)
Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi thanh toán
TG KH nước ngoài
Tiền gửi các TCTD
373528,3
539674,4
277,4
11094,9
337370,8
888716,3
497,1
16201,8
-36157,5
349041,9
219,7
5106,9
-9,68
64,68
79,2
46,03
Qua bảng số liệu trên, cho thấy nguồn vốn huy động của Chi nhánh trong năm 2002 tăng khá so với năm 2001, sự tăng trưởng này bảo đảm cung cấp vốn kịp thời, đầy đủ cho các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua các ngân hàng khác trên địa bàn đồng loạt tăng lãi suất huy động tiền gửi và về phía chi nhánh do chưa điều chỉnh chính sách lãi suất huy động một cách kịp thời nên tiền gởi tiết kiệm của ngân hàng trong năm 2002 chỉ đạt 337370,8 triệu đồng giảm 9,68% so với năm 2001.Năm 2002 đánh dấu một năm khá thành công của chi nhánh trong công tác tiếp thị và phục vụ khách hàng, cũng như tạo được niềm tin ở khách hàng, nhờ vậy lượng khách hàng mở tài khoản tiền gửi giao dịch thanh toán tại chi nhánh có bước tăng trưởng khá mạnh. Trong năm 2002 tiền gửi thanh toán đạt tăng 64,68% so với năm 2001, tiền gửi của khách hàng tăng 79,2% và tiền gửi của TCTD cũng tăng 46,03% so với năm 2001.
2. Về hoạt động tín dụng.
Bảng 1.2: Tình hình sử dụng vốn của ngân hàng
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TĐ(%)
1. Doanh số cho vay
2. Doanh số thu nợ
3. Dư nợ bình quân
4. Nợ quá hạn bquân
5. Tỷ lệ NQH bquân (%)
119386
109117
37524
184
0,49
128503
136162
47346
71
0,15
9117
27045
10219
-113
7,64
24,79
27,23
-61,41
-0,34
Trong năm 2002 doanh số cho vay của ngân hàng đạt 128503 triệu đồng tăng 9117 triệu đồng so với năm 2001 (tức tăng 7,64%).Tuy mức tăng về doanh số chưa cao, nhưng nó cũng thể hiện hoạt động cho vay của ngân hàng trong năm 2002 có được sự tiến triển tốt hơn năm 2001, thị trường đầu tư của ngân hàng được mở rộng. Đồng thời do tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, của các ngành nghề, thành phần kinh tế nói chung và nhu cầu vốn đầu tư của cả nước cũng như của Đà Nẵng tăng cao, công tác tín dụng tại chi nhánh đã có bước phát triển đáng kể, trong năm 2002 doanh số thu nợ tăng 24,79% tương đương 27045 triệu đồng, dư nợ bình quân cũng tăng 27,23% ứng với 10219 triệu đồng. Chính nhờ chú trọng đến việc nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung kiên quyết xử lý các khoản nợ tồn động nên đến nay chi nhánh đã hạn chế được nợ quá hạn phát sinh, chất lượng các khoản vay tương đối tốt, tỷ lệ nợ nợ quá hạn bình quân chỉ chiếm 0,15% trên tổng dư nợ bình quân (giảm 34% so với cùng kỳ năm 2001). Đây có thể xem là một kết quả tốt của chi nhánh trong hoạt động kinh doanh.
3. Về hoạt động dịch vụ.
Bảng 1.3: Thu về hoạt động dịch vụ
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TĐ(%)
1. Thu chuyển tiền
2.Thu Western Union
3. Thu kiều hối
4. Thu thẻ
5. Dịch vụ mua bán nhà
740,8
1089
147,5
156,6
64,1
774,2
2169,6
182,5
264,8
135,6
33,4
1080,6
35
108,2
71,5
4,51
99,23
23,73
69,09
111,54
TỔNG
2198
3526,7
1328,7
60,45
Hoạt động dịch vụ tại Chi nhánh năm 2002 đạt 3526,7 triệu đồng, tăng 1328,7 triệu đồng (tức 60,45%) so với năm 2001. Trong đó chủ yếu thu về dịch vụ Western Union, cụ thể năm 2002 đạt 2169,6 triệu đồng tăng 1080,6 triệu đồng (99,23%) so với năm 2001. Do tháng 8/2000 thành lập trung tâm giao dịch ACB - Western Union ở khu vực miền Trung tại Chi nhánh từ Quảng Bình vào đến Phú Yên, do vậy nguồn thu từ hoạt động tăng lên đáng kể.
Mặc khác, mảng dịch vụ là hoạt động chủ đạo mà ngân hàng chú trọng, nên thu từ các hoạt động dịch vụ như dịch vụ chuyển tiền, kiều hối, thẻ thanh toán đều tăng trong năm 2002. Đặc biệt là thu từ dịch vụ mua bán nhà đạt 135,6 triệu đồng trong năm 2002, tăng 71,5 triệu đồng với tốc độ rất cao 111,54% so với năm 2001, đó là nhờ vào khả năng tư vấn của đội ngũ nhân viên ngân hàng.
4. Về kết quả kinh doanh.
Bảng 1.4: Kết quả kinh doanh của ngân hàng
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TĐTT (%)
Thu nhập
9820
10711
891
9,07
Chi phí
8801
7747
-1054
- 11,98
Lợi nhuận
1019
2964
1945
190,87
Chúng ta thấy hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh qua hai năm đều có lãi Trong năm 2002, tổng thu nhập của ngân hàng đạt 10711 triệu đồng, so với năm 2001 thì con số này là 9820, tăng 9,07%. Nhưng ngược lại, chi phí của ngân hàng trong năm 2002 lại giảm 11,98% (tương đương với 1054 triệu đồng) so với năm 2001. Sự tỉ lệ nghịch giữa thu nhập và chi phí của ngân hàng đã thể hiện sự phát triển liên tục trong quá trình hoạt động của ngân hàng, cũng như quá trình điều hành quản lý thực hiện các công việc một cách hợp lý, khoa học của Ban lãnh đạo ngân hàng. Từ đó, dẫn đến lợi nhuận của ngân hàng đạt được trong năm 2002 là 2964 triệu đồng tăng đến 190,87% . Có được kết quả như vậy là do ngân hàng biết đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng , đặc biệt là hoạt động Tín dụng tiêu dùng và thanh toán quốc tế, chuyển tiền nhanh... cũng như biết tăng cường công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng. Đây là kết quả của sự nổ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên ngân hàng Á Châu Đà Nẵng.
B - PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU ĐÀ NẴN._.G
I. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG.
1. Qui trình thực hiện nghiệp vụ Cho vay tiêu dùng.
a. Đối tượng, mục đích vay.
- Đối tượng vay tiêu dùng: là các cán bộ công nhân viên (CBCNV) có việc làm ổn định (trên một năm) tại các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể... hoặc các cá nhân sản xuất kinh doanh (có giấy phép sản xuất kinh doanh).
- Mục đích vay: sử dụng vốn vay để tài trợ cho những nhu cầu của cuộc sống như mua sắm các đồ dùng sinh hoạt; phương tiện thông tin; xe đạp, xe máy; sửa chữa, tu bổ nhà ở; mua cổ phần từ các doanh nghiệp cổ phần hoá nơi người lao động đang làm việc...
b. Điều kiện vay.
Khách hàng muốn vay phải có:
- Hộ khẩu thường trú trên cùng địa bàn hoạt động của ngân hàng (nơi cho vay)
- Mục đích vay vốn được sử dụng cho các nhu cầu tiêu dùng hợp pháp.
- Nguồn thu nhập ổn định, đảm bảo khả năng trả góp hàng tháng.
- Có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc được người thứ ba có tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh (đối với khách hàng vay là cá nhân).
- Thời gian công tác tính đến ngày vay trên 12 tháng và có bảo lãnh của đơn vị (đối với khách hàng vay là CBCNV đang công tác tại các đơn vị như: DNNN, công ty cổ phần, trường học, bệnh viện, các cơ quan đoàn thể... ).
c. Mức vốn vay, Thời hạn vay, Lãi suất vay vốn:
- Mức vốn vay:
+ Trường hợp vay có tài sản thế chấp: mức vay phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, nhưng không vượt quá 18% giá trị tài sản thế chấp.
+ Trường hợp vay không có đảm bảo tài sản thế chấp ( các CBCNV): tối đa là 10 triệu đồng.
- Thời hạn vay: + Cho vay ngắn hạn tối đa đến 12 tháng (1 năm).
+ Cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 36 tháng (3 năm).
- Lãi suất vay vốn được thay đổi theo từng thời kỳ cho phù hợp với chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà Nước. Lãi suất hiện nay ngân hàng Á Châu đang niêm yết đối với hình thức Vay tiêu dùng là 0,85% / tháng đối với tất cả các thời hạn vay.
d. Hồ sơ vay vốn.
- Giấy đề nghị vay vốn theo mẫu của ngân hàng có xác nhận của cơ quan làm việc, chữ ký của vợ hoặc chồng của người vay vốn và chữ ký của chính người vay vốn.
- Phương án vay vốn và khả năng hoàn trả nợ vay, trong đó phải chứng minh được các nguồn thu nhập (chính và phụ) đủ khả năng trả nợ vay ( vốn vay và lãi vay).
- Các hồ sơ, chứng từ về tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giấy tờ khác có liên quan như Chứng minh nhân dân, hộ khẩu của người vay/ người bảo lãnh, hợp đồng lao động...
e. Trình tự vay vốn và trả nợ vay.
- Bước 1: Hướng dẫn thủ tục vay vốn
Khách hàng liên hệ Phòng Tín dụng ACB để được hướng dẫn chi tiết về thể lệ cho vay và nhận hồ sơ vay vốn.
- Bước 2: Thẩm định tín dụng
Trong vòng 5 ngày làm việc (kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ), sau khi thẩm định nhân viên Tín dụng sẽ thông báo cho khách hàng biết kết quả xét duyệt cho vay.
- Bước 3: Ký kết Hợp đồng Tín dụng
Sau khi thống nhất các thoả thuận được nêu trong Hợp đồng Tín dụng, khách hàng và nhân viên tín dụng đại diện cho ngân hàng sẽ tiến hành ký kết Hợp đồng Tín dụng. Trong Hợp đồng có ghi rõ mức vốn vay, lãi suất và thời hạn vay. Nếu khách hàng trả nợ không đúng thời hạn trong một khoảng thời gian theo qui định của ngân hàng, thì khách hàng sẽ chịu lãi suất nợ quá hạn. Số tiền vay sẽ được giải ngân tại Quầy Giao dịch.
- Bước 4: Trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Việc trả nợ vay được ghi rõ trong Hợp đồng Tín dụng. Vốn và lãi vay được trả góp hàng tháng tại Phòng Giao dịch của ACB.
- Bước 5: Thanh lý Hợp đồng
Ngay sau khi khách hàng thanh toán đầy đủ vốn vay và lãi vay, ACB sẽ lập thủ tục thanh lý Hợp đồng tín dụng, lập giấy giải chấp và trả lại toàn bộ chứng từ sở hữu tài sản cầm cố/ thế chấp cho khách hàng.
Trên đây chỉ là những qui định chung có tính chất cơ bản, ngoài ra tuỳ thuộc vào từng loại hình của nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, những thay đổi trong chính sách tín dụng của ngân hàng Nhà Nước hoặc có sự thay đổi trong chính sách tín dụng của ACB mà những qui định này sẽ khác nhau.
2. Tình hình Cho vay tiêu dùng trong hoạt động cho vay nói chung tại ngân hàng Á Châu Đà Nẵng.
Hoạt động của mảng tín dụng càng tốt sẽ đem lại cho ngân hàng lợi nhuận càng lớn, đồng thời qui mô và chất lượng hoạt động tín dụng cũng thể hiện được sức mạnh của ngân hàng đó. Trong năm qua, qui mô tín dụng của ngân hàng Á Châu Đà Nẵng có sự tăng trưởng đáng khích lệ.
Bảng 2: Tình hình cho vay tiêu dùng của ngân hàng
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TĐ (%)
1. Doanh số cho vay
Trong đó: CVTD
119386
13725
100,00
11,49
128503
15918
100,00
12,39
9117
2193
7,64
15,98
2. Doanh số thu nợ
Trong đó: CVTD
109117
8020
100,00
7,35
136162
11997
100,00
8,81
27045
3977
24,79
49,59
3. Dư nợ bình quân
Trong đó: CVTD
37524
6725
100,00
17,92
47346
9063
100,00
19,14
10219
2338
27,23
37,77
4. NQH bình quân
Trong đó: CVTD
184
93
100,00
50,54
71
34
100,00
47,89
- 113
- 59
-61,41
-63,44
5. Tỷ lệ NQH bq (%)
Trong đó: CVTD
0,49
1,38
0,15
0,38
-0,34
-1,00
Qua bảng 2, ta có thể thấy được sự tăng trưởng về qui mô tín dụng trong 2 năm 2001 - 2002 là 7,64%, tương đương 9117 triệu đồng. Tuy tốc độ tăng không cao nhưng đây cũng là một kết quả đáng kể, vì trên cùng địa bàn hoạt động của ngân hàng có nhiều ngân hàng quốc doanh có lợi thế cạnh tranh hơn mà ngân hàng vẫn phát hoạt động tín dụng của mình trên địa bàn, điều này đã chứng tỏ được vị thế của ngân hàng đối với khách hàng. Trong khi đó, doanh số cho vay tiêu dùng của ngân hàng trong năm 2001 là 13725 triệu đồng nhưng sang năm 2002 đã tăng lên 15918 triệu đồng, với tốc độ tăng 15,98%. Tuy với tốc độ tăng khá nhưng tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng doanh số cho vay vẫn còn thấp. Năm 2001 tỷ trọng cho vay này là 11,49%, sang năm 2002 tỷ trọng này có tăng nhưng không đáng kể 12,39%. Nguyên nhân làm cho doanh số cho vay tiêu dùng chiếm tỷ lệ còn thấp trong tổng doanh số cho vay là do:
+ Đối tượng vay vốn của ngân hàng bị hạn chế: chỉ giới hạn ở khu vực kinh tế quốc dân hoạt động có hiệu quả, thu nhập của người lao động cao, khá ổn định. Song với đặc điểm của người miền Trung thì việc vay để tiêu dùng là ít phổ biến, chỉ trường hợp là người lao động rất cần thiết để tạo phương tiện làm việc hoặc nhu cầu tiêu dùng là cấp bách thì họ mới có ý tưởng vay. Trong khi đó, phương châm của ngân hàng là tối đa hoá hiệu quả và giảm thiểu rủi ro, vì vậy ngân hàng chưa mở rộng đối tượng cho vay tiêu dùng .
+ Trong năm 2001 ngân hàng Á Châu Đà Nẵng đã áp dụng cách tính lãi Add-on cho các khách hàng trả góp. Giả sử khách hàng vay một khoản tiền là V, thời hạn vay là n, lãi suất là i và khi trả nợ cho ngân hàng khách hàng phải trả một phần vốn và lãi do ngân hàng qui định theo công thức sau: Vgóp = V × (1 + n × i)/ n . Như vậy lãi trả hàng tháng tính trên dư nợ ban đầu, mặc dầu khách hàng đã trả bớt nợ dần qua các tháng. Trong khi tại các ngân hàng khác trên cùng địa bàn thì lãi suất cho vay tiêu dùng được tính trên dư nợ thực tế với lãi suất cạnh tranh, nghĩa là vốn trả đến đâu thì lãi cũng giảm đến đó. Nắm được nhược điểm này các ngân hàng trên địa bàn liên tục giảm lãi suất làm cho việc cho vay tiêu dùng tại ngân hàng gặp không ít khó khăn.
+ Ngân hàng ACB Đà Nẵng chịu sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn trong vấn đề lãi suất, do ngân hàng phải tuân theo qui chế của Hội sở nên không chủ động trong hoạt động của mình. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn được phép thay đổi lãi suất trong khung lãi suất qui định của ngân hàng Nhà Nước. Và chính nguyên nhân này cũng phần nào giải thích được hai nguyên nhân trên.
Tương ứng với sự gia tăng của doanh số cho vay , doanh số thu nợ cũng tăng lên. Năm 2002 doanh số thu nợ đạt 136162 triệu đồng tăng 27045triệu đồng so với năm 2001, trong đó doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng tăng từ 8020 triệu đồng năm 2001 lên 11997 triệu đồng, trong năm 2002 với tốc độ tăng 49,59%, một tỷ lệ tăng trưởng khá trong việc thu nợ đã nói lên chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng Á Châu Đà Nẵng đã được nâng cao rõ rệt. Một mặt là nhờ có sự cố gắng đáng kể của các cán bộ tín dụng ngân hàng trong việc tiếp tục thu nợ từ số dư nợ năm trước chuyển sang, và thu nợ các món vay mới được thực hiện phát vay trong năm. Mặt khác, nhờ sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan, ban ngành trong việc hối thúc thu hồi nợ đối với những khách hàng trả nợ vay trễ hạn.
Số dư nợ bình quân biểu hiện số tiền mà ngân hàng đã cho vay nhưng chưa thu nợ gốc trong một khoảng thời gian nhất định, vì nhu cầu của khách hàng không giống nhau tại các thời điểm nên có tháng số dư nợ rất cao nếu trong tháng đó phát vay nhiều, và số dư nợ sẽ rất thấp nếu trong tháng ít phát vay, có nhiều hợp đồng thanh lý. Vì vậy, để đánh giá được tổng quát tình hình dư nợ của ngân hàng thì ở đây chúng ta phân tích số dư nợ dưới hình thức là một chỉ số thời kỳ, đó là bình quân số tiền mà các khách hàng vay còn nợ ngân hàng trung bình trong tháng của một năm.
Số dư nợ của ngân hàng đã tăng 27,23% từ 6725 triệu đồng lên 10219 triệu đồng trong năm 2002. Kết hợp với việc phân tích doanh số cho vay, ta thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng thực sự có hiệu quả, vì tổng doanh số cho vay của ngân hàng tăng tương ứng với dư nợ bình quân tăng. Cùng với sự gia tăng dư nợ bình quân nói chung, dư nợ cho vay tiêu dùng cũng tăng theo. Dư nợ tiêu dùng bình quân năm 2001 là 6725 triệu đồng chiếm 17,92% trong tổng số dư nợ bình quân chung, sang năm 2002 con số này đạt 9063 triệu đồng chiếm 17,14%. Số dư nợ bình quân cho vay tiêu dùng tăng không phải do nợ quá hạn tăng mà do việc tăng doanh số cho vay tiêu dùng trong năm đã đẩy số dư nợ cuối tháng tăng và dư nợ bình quân từ đó cũng tăng lên. Mặc dù tỷ trọng dư nợ tiêu dùng bình quân trong tổng dư nợ bình quân ở các năm vẫn còn thấp, nhưng với tốc độ tăng khá cao (37,77%) năm 2002 cũng đã thể hiện sự tích cực tìm kiếm đầu ra trong mảng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng trong tình hình cạnh tranh hiện nay giữa các ngân hàng thương mại.
Ngoài các chỉ tiêu trên, nợ quá hạn là vấn đề mà các ngân hàng đặc biệt quan tâm, nó ảnh hưởng đến tốc độ vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng. Nợ quá hạn quyết định chất lượng tín dụng, một vấn đề có tính sống còn đối với ngân hàng. Xuất phát từ nhận thức trên, các cấp lãnh đạo, các cơ quan chính quyền địa phương đã tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thu nợ, ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh. Điều này được thể hiện qua nợ quá hạn bình quân, tỷ lệ nợ quá hạn bình quân/ dư nợ bình quân có chiều hướng giảm rõ rệt. Năm 2001 nợ quá hạn bình quân đạt 93 triệu đồng, sang năm 2002 giảm xuống còn 34 triệu đồng. Tuy trong năm 2002 nợ quá hạn giảm mạnh nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao, trên 47% trong tổng nợ quá hạn của ngân hàng. Tỷ trọng này không gây rủi ro cho ngân hàng trong việc không thu hồi được nợ, nhưng cũng làm cho vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng chậm hơn. Nợ quá hạn này tập trung phần lớn vào các khách hàng là CBCNV đang công tác tại các trường học. Nguyên nhân một phần là do khách hàng chây ì trong việc trả nợ, một phần là do nhu cầu chi tiêu của khách hàng phát sinh ngoài dự tính khi ký hợp đồng vay với ngân hàng. Một nguyên nhân khác cũng dẫn đến nợ quá hạn, là do việc giải toả làm đường trên địa bàn thành phố đã làm gián đoạn kinh doanh sản xuất của một số khách hàng có vay vốn của ngân hàng, trực tiếp làm giảm thu nhập của họ, vì vậy họ phải xin gia hạn nợ với ngân hàng.
Tóm lại, qua việc phân tích trên đã cho thấy hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng tuy gặp một số khó khăn nhưng cũng đã đạt được những kết quả khả quan. Từ đó, ngân hàng cần có biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng cũng như mở rộng loại hình cho vay này.
II. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU ĐÀ NẴNG.
1. Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng theo thời hạn vay.
Cho vay tiêu dùng là thể loại vay với hình thức bảo đảm là tiền lương hay thu nhập hàng tháng của người lao động nên thời hạn vay có ảnh hưởng gián tiếp đến việc chi trả món nợ vay. Tuỳ thu nhập hàng tháng của người lao động cao hay thấp mà họ quyết định thời hạn vay dài hay ngắn nhằm đảm bảo được sau khi trích thu nhập để trả số tiền gốc và lãi mỗi tháng, người lao động vẫn còn lại được một khoản tiền đủ để chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày. Chính vì thế thời hạn vay là vấn đề được cả hai phía: người đi vay và ngân hàng quan tâm. Đối với tín dụng tiêu dùng, ngân hàng Á Châu đã qui định thời hạn vay bao gồm cả ngắn hạn và trung hạn. Nhưng trên thực tế đại đa số các món vay là trung hạn (từ 12 đến 36 tháng), chỉ có một vài khách hàng có nhu cầu vay với thời hạn ngắn (12 tháng) do đó số lượng món vay ngắn hạn xem như là không đáng kể. Vì vậy khi phân tích tình hình cho vay tiêu dùng theo thời hạn vay của từng món vay thì ta phân tích theo 2 khoảng thời gian vay chủ yếu đó là từ 12 tháng trở lên đến 24 tháng và từ 24 tháng đến 36 tháng.
Bảng 3: Tình hình cho vay tiêu dùng theo thời hạn vay .
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TĐ(%)
1. Doanh số cho vay
13725
100
15918
100
9117
7,64
Từ 13 đến 24 tháng
Từ 25 đến 36 tháng
3623
10102
26,4
73,6
2404
13514
15,1
84,9
-1219
3412
-33,65
33,78
2. Doanh số thu nợ
8020
100
11997
100
3977
49,59
Từ 13 đến 24 tháng
Từ 25 đến 36 tháng
2454
5566
30,6
69,4
3083
8914
25,7
74,3
629
3348
25,63
60,15
3. Dư nợ bình quân
6725
100
9063
100
2338
37,77
Từ 13 đến 24 tháng
Từ 25 đến 36 tháng
1311
5414
19,5
80,5
1350
7713
14,9
85,1
39
2299
2,97
24,46
4. NQH bình quân
93
100
34
100
-59
-63,44
Từ 13 đến 24 tháng
Từ 25 đến 36 tháng
69
24
73,7
26,3
20
14
58,8
41,2
-49
-10
-71,01
-41,67
Qua bảng 3 cho thấy doanh số cho vay ở thời hạn từ 25 đến 36 tháng chiếm một tỷ lệ rất cao, đến hơn 70% còn lại là vay ở thời hạn từ 13 đến 24 tháng. Năm 2001, doanh số cho vay từ 13 đến 24 tháng đạt được là 3623 triệu đồng chiếm 26,4% trong tổng doanh số cho vay tiêu dùng và tỷ trọng này giảm đi trong năm 2002 chỉ còn 15,1% với doanh số là 2404 triệu đồng. Các khoản vay có thời hạn trên 24 tháng đến 36 tháng thì lại tăng lên về tỷ trọng trong tổng qui mô cho vay sau 2 năm, nếu năm 2001 nó chiếm 73,6% thì năm 2002 tăng lên đến 84,9% trong tổng doanh số cho vay tiêu dùng. Trong năm 2002, sự gia tăng của doanh số cho vay chủ yếu nằm trong các khoản vay ở thời hạn từ 25 đến 36 tháng, tăng 3412 triệu đồng (tức 33,78%) và doanh số cho vay đạt được 13514 triệu đồng. Các khoản vay với thời hạn 13 đến 24 tháng giảm xuống, thấp hơn 1219 triệu đồng so với năm 2001 (giảm 33,65%) và doanh số cho vay chỉ còn 2404 triệu đồng. Năm 2002 có xu hướng chuyển đổi thời hạn vay từ 13 đến 24 tháng sang 25- 36 tháng, vì thế nên tỷ trọng về doanh số cho vay trên 25 đến 36 tháng tăng lên (từ 73,6% trong năm 2001 tăng 84,9% trong năm 2002), còn từ 13 đến 24 tháng lại giảm xuống (26,4% năm 2001 giảm còn 15,1% trong năm 2002). Hiện tại với thu nhập thường xuyên hàng tháng của CBCNV chỉ ở mức trung bình, cộng thêm tâm lý muốn vay món tiền lớn nên họ thường có xu hướng chọn vay với thời hạn dài hơn để chủ động trong việc chi trả và hơn nữa vẫn đảm bảo được cuộc sống. Một lý do nữa để giải thích cho sự chuyển hướng này là nếu như những khoản tín dụng với các mục đích khác nhau như kinh doanh, vay đầu tư... thì món vay càng dài hạn sẽ phải chịu lãi suất càng cao vì nó chứa đựng trong nó rủi ro tiềm ẩn lớn, nhưng đối với vay tiêu dùng thì món vay của bạn có ngắn hay dài hạn cũng chịu một mức lãi suất bằng nhau như hiện nay là 0,85% tháng. Chính vì thế mà những người đi vay mà chủ yếu là những người vay có tài sản thế chấp đã chuyển dần sang vay với thời hạn dài hơn, để số tiền trả mỗi tháng là phù hợp với họ, trong khi lãi suất lại không thay đổi và khi có điều kiện họ vẫn có thể trả trước hạn để tắt toán hợp đồng sớm hơn thời hạn đã thoả thuận. Khách hàng có xu hướng vay với thời hạn dài để không phải ràng buộc bởi thời gian trả nợ, từ đó họ linh động hơn cho chi tiêu tài chính của mình. Bên cạnh đó các cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng sẽ hướng khách hàng của mình đến thời hạn vay tối đa là 36 tháng, vừa đảm bảo khả năng trả nợ, hạn chế tối đa trường hợp không trả được nợ trong hạn từ đó phải gia hạn nợ.
Trong năm qua, doanh số thu nợ cũng tăng nhanh với tốc độ tăng 49,59% tương đương 3977 triệu đồng; nguyên nhân là do các khoản thu nợ ở thời hạn vay từ 25-36 tháng tăng. Năm 2001 doanh số thu nợ là 5566 triệu đồng chiếm 69,4% trong tổng doanh số thu nợ tiêu dùng đến cuối năm 2002 con số này tăng cả về quy mô lẫn tỷ trọng là 8914 triệu đồng chiếm tỷ trọng 74,3% với tốc độ tăng khá cao (60,15%) doanh số thu nợ thời hạn vay 25-36 tháng góp phần đáng kể vào việc nâng cao tổng doanh số cho vay. Trong cơ cấu cho vay tiêu dùng tại ngân hàng cho vay từ 25-36 tháng chiếm tỷ trọng cao nhất do đó tỷ trọng thu nợ của nó cũng cao là điều dễ hiểu. Năm 2002 thu nợ cả hai khoảng thời gian vay từ 12-24 tháng và từ 25-36 tháng đều tăng thể hiện công tác thu hồi nợ tiến triển theo chiều hướng tốt đẹp. Cho vay tiêu dùng là hoạt động cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro do người vay thất nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn dẫn đến thu nhập giảm từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng. Nắm bắt những khó khăn hạn chế này, ngân hàng luôn đề cao trách nhiệm thẩm định, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và bản thân người vay ngay từ đầu, nên ít nhiều đã giúp ích cho ngân hàng trong việc thu nợ sau này.
Như đã phân tích ở trên, doanh số cho vay đối với các món vay 13-24 tháng ngày càng giảm trong khi doanh số cho vay từ 25-36 tháng lại tăng lên. Vì thế nên tỷ trọng dư nợ bình quân của các năm theo thời hạn vay cũng thay đổi theo tỷ lệ tương ứng. Cụ thể, dư nợ bình quân trong năm 2002 trong thời hạn 13-24 tháng chiếm 14,9% nhưng năm 2001 thì chiếm 19,5%. Trong khi dư nợ bình quân của 25-36 tháng chiếm 85,1% cao hơn năm 2001 chiếm 80,5%. Nhưng về số tuyệt đối thì dư nợ của cả hai thời hạn vay đều tăng, chứng tỏ trong năm qua ngân hàng đã chú trọng trong việc mở rộng cho vay. Dư nợ bình quân ở thời hạn vay 12-24 tháng tăng 39 triệu đồng (2,97%) so với năm 2002, còn ở thời hạn vay 25-36 tháng tăng 24,46% (ứng với 2299triệu đồng). Nguyên nhân của sự gia tăng trên là do trong năm 2002 việc mở rộng thêm doanh số cho vay cho ngân hàng tiếp tục gia tăng nên số dư nợ mới gia tăng. Chủ yếu vay từ 25 đến 36 tháng tăng 24,46% trước hết là vì đây là những món vay có giá trị lớn, thời hạn trên 1-3 năm nên số dư nợ tài khoản tiền vay của khách hàng từ năm 2001 chuyển sang vẫn còn ở mức cao và hầu như chưa có món vay nào được tất toán. Cộng thêm với khách hàng có xu hướng vay với thời hạn dài nên số dư nợ mới của mới của món vay 36 tháng lại tăng lên, từ đó dẫn đến dư nợ bình quân tăng hơn so với năm 2001.
Đóng góp không nhỏ vào sự gia tăng doanh số thu nợ trong năm qua, nợ quá hạn đã giảm xuống rõ rệt ở các thời hạn vay. Trong năm 2001, vay với thời hạn 13-24 tháng nợ quá hạn là 69 triệu đồng chiếm 73,7% trong tổng nợ quá hạn của ngân hàng nhưng nó được giảm mạnh trong năm 2002 còn 20 triệu đồng chiếm 58,8%. Đồng thời ở thời hạn 25-36 tháng cũng giảm từ 24 triệu đồng năm 2001 xuống 14 triệu đồng trong năm tiếp theo. Đạt được kết quả trên là vào sự cố gắng nổ lực cũng như kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng thu nợ từ những năm trước rút ra được để thực hiện cho việc thu nợ trong các lần sau.
Nguyên nhân gây ra nợ quá hạn là do một phần các cán bộ công nhân viên ỉ lại vào người bảo lãnh nên muốn kéo dài thời hạn trả nợ, một phần là do trong năm vừa qua thành phố giải toả làm đường nên gây cản trở cho việc sản xuất kinh doanh của một số khách hàng có vay tại ngân hàng, làm cho thu của những người này thấp hơn so với dự tính, do đó họ trả nợ không đúng thời hạn theo quy định đã ký kết trong hợp đồng.
Như vậy qua việc phân tích cho vay tiêu dùng theo thời hạn vay đã đặt ra cho ngân hàng định hướng nâng thời hạn vay cho mỗi món vay cho với nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời đủ khả năng để thu hồi nợ và đưa ra những biện pháp phù hợp để thu hồi nợ cho đến khi không còn nợ quá hạn trong cho vay tiêu dùng.
2. Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng theo mức vốn vay.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu chi tiêu và khả năng tài chính của khách hàng dùng để tài trợ cho mục đích tiêu dùng đó mà nhu cầu vốn vay của họ ở mức cao hay thấp. Thông thường xu hướng thay đổi về quy mô khoản vốn vay phản ánh được trạng thái của nền kinh tế tại thời điểm đó.
Hiện nay ngân hàng chỉ quy định mức cho vay tối đa và tối thiểu của mỗi món vay tiêu dùng, tuỳ thuộc vào nhu cầu cụ thể của khách hàng mà họ có thể vay ở những mức khác nhau, nhưng xét về đa số thì có 3 mức vốn vay được nhiều người vay nhất: mức 5 triệu đồng, đến 15 triệu đồng, đến 30 triệu đồng. Ta thấy có xu hướng chỉ đổi về nhu cầu vay ở từng mức vốn vay; số khách hàng có nhu cầu ở mức thấp ngày càng giảm, và ngược lại nhu cầu vay ở mức vốn vay cao lại tăng dần từ năm 2000 sang 2001.
Bảng 4: Tình hình cho vay tiêu dùng theo mức vốn vay
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TĐ(%)
1. Doanh số cho vay
13725
100
15918
100
9117
7,64
Mức 5 triệu
Đến 15 triệu
Đến 30 triệu
3212
6066
4447
23,4
44,2
32,4
2436
7290
6192
15,3
45,8
38,9
-776
1224
1745
-24,16
20,18
39,24
2. Doanh số thu nợ
8020
100
11997
100
3977
49,59
Mức 5 triệu
Đến 15 triệu
Đến 30 triệu
3264
3088
1668
40,7
38,5
20,8
3507
5915
2579
29,2
49,3
21,5
239
2827
911
7,32
91,55
54,62
3. Dư nợ bình quân
6725
100
9063
100
2338
37,77
Mức 5 triệu
Đến 15 triệu
Đến 30 triệu
1365
2347
3013
20,3
34,9
44,8
1368
2828
4867
15,1
31,2
53,7
3
481
1854
0,22
20,49
61,53
4. NQH bình quân
93
100
34
100
-59
-63,44
Mức 5 triệu
Đến 15 triệu
Đến 30 triệu
18
45
30
49,3
48,4
32,3
7
16
11
20,6
47,1
32,3
-11
-29
-19
-61,11
-64,44
-63,33
Nếu như năm 2001, tổng doanh số cho vay ở mức 5 triệu đồng là 3212 triệu đồng chiếm 23,4% trong tổng doanh số cho vay thì sang năm 2002 tỷ lệ này giảm xuống còn 15,3% với doanh số 2436 triệu đồng. Tổng vốn cho vay ở mức 5 triệu đồng giảm cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. Ngược lại, ở mức cho vay 15 và 30 triệu đồng thì lại tăng cả về số tương đối lẫn tuyệt đối, trong đó mức vay 15 triệu đồng tăng từ 6066 triệu đồng lên 7290 triệu đồng với tốc độ 20,18%, mức vay 30 triệu đồng tăng từ 4447 triệu đồng với tỷ trọng 32,4% lên 6192 triệu đồng với tỷ trọng 38,9%. Doanh số cho vay có sự biến động như thế là do khách hàng ngày càng muốn được vay một số tiền lớn, nhu cầu về những món vay có giá trị nhỏ ngày càng giảm. Kinh tế càng phát triển, mức sống cũng được cải thiện nâng lên ngày càng cao vì thế mức độ thoả mãn những đòi hỏi về đời sống từ đó cũng tăng lên. Ví dụ như thay vì họ vay một số tiền nhỏ để mua sắm những vật dụng thông thường, thì bây giờ họ sẽ vay những món tiền lớn hơn để sắm những vật dụng đắt tiền hơn, có giá trị cao hơn. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển đã làm cho người lao động có nhiều hy vọng hơn vào tiền lương hay thu nhập của mình được trả trong tương lai nên tâm lý của họ sẵn sàng vay để chi tiêu, trang trải cho cuộc sống hiện tại. Và nếu như hồ sơ thủ tục là giống nhau, thì họ sẽ không có lý do gì để không muốn vay số tiền tối đa cho phép. Chính vì vậy doanh số của các mức vay cao có xu hướng tăng. Đối với những nhu cầu chi tiêu trong gia đình của CBCNV tương đối lớn như mua xe, sữa nhà... thì mức vay 15 triệu đồng, còn đối với các cá nhân vay bằng thế chấp do có kinh doanh nên thu nhập cao hơn, vì vậy họ có khả năng trả nợ lớn hơn các CBCNV nên mức vay của họ trên 15 triệu đồng , đây là những mức vay tương đối phù hợp. Vì cùng một số lượng khách hàng đến giao dịch xin vay, nếu nâng mức cho vay lên cao, ngân hàng sẽ tăng được doanh số cho vay. Trong trường hợp này, thì điều đó đồng nghĩa với việc doanh thu thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ tăng lên đáng kể, trong khi số lượng khách hàng giao dịch không tăng, như thế sẽ tiết kiệm được chi phí trong quá trình giao dịch, bao gồm các chi phí về giấy tờ, hồ sơ... Vì trên thực tế những món vay có giá trị nhỏ thì tiền lãi thu mỗi tháng rất thấp nhưng cũng phải tốn một chi phí về thời gian, nhân công, chi phí in ấn bằng với việc thu lãi của những món vay có giá trị lớn, trong khi ở trường hợp này số tiền lãi thu được chắc chắn sẽ cao hơn. Chính vì thế trong tương lai khi mà nền kinh ngày càng tăng trưởng, chế độ tiền lương của các CBCNV được nâng lên cao hơn cũng như thu nhập của những hộ sản xuất kinh doanh cao hơn, ngân hàng cần phải định hướng nâng mức cho vay lên cao hơn.
Như đã phân tích ở trên, doanh số cho vay ở các mức vốn có hướng tăng dần ở các mức vốn cao. Và doanh số thu nợ của các mức vốn này cũng thay đổi theo xu hướng trên. Doanh số thu nợ của mức 5 triệu tăng 239 triệu đồng với tốc độ 7,32% , trong năm 2001 doanh số ở các mức vay này là 3264 triệu đồng chiếm 40,7% so với tổng doanh số thu nợ vay tiêu dùng, và tỉ trọng giảm xuống còn 29,2% trong năm 2002 tương ứng với 3503 triệu đồng, nguyên nhân của sự sụt giảm tỷ trọng này là do trong năm 2002 việc mở rộng thêm doanh số cho vay ở mức 5 triệu đồng của ngân hàng bị hạn chế. Tuy nhiên về số tuyệt đối thì doanh số thu nợ ở mức vay này vẫn tăng, đây là điều đáng mừng. Nhưng cũng trong năm này thì ở các mức 15, 30 triệu thì doanh số cho vay đều tăng nên doanh số thu nợ cũng tăng cao là điều dễ hiểu. Năm 2001, doanh số thu nợ ở mức 15 triệu là 3088 triệu đồng (38,5%) tăng lên 2827triệu đồng với tốc độ tăng là 91,55% và đạt 5915 triệu đồng vào năm 2002. Còn ở mức 30 triệu cũng tăng nhưng với tốc độ thấp hơn 54,62% tương đương với 911 triệu đồng. Điều này càng thể hiện sự đóng góp không nhỏ của các cán bộ tín dụng cũng như ban lãnh đạo sát sao theo dõi, đôn đốc thu nợ theo từng tháng trong năm.
Trong khi đó, kết quả mức dư nợ bình quân được phân theo quy mô món vay cho thấy trong mối quan hệ này có sự tỷ lệ giữa dư nợ bình quân và quy mô vốn vay. Trong năm 2001 thì dư nợ bình quân của mức cho vay 5 triệu là 1365 triệu đồng chiếm 20,3%, còn ở mức 15 triệu là 1368 triệu đồng chiếm 34,9%, ở mức cho vay cao nhất là 3192 triệu đồng thì cũng chiếm tỷ lệ cao nhất 44,8% . Vì các món vay ở mức 5 triệu thông thường vay với thời hạn ngắn, có thể tất toán hợp đồng trước hạn, trong thời gian dưới 1 năm nên số dư nợ của nó thường nhỏ, kéo theo dư nợ bình quân thấp so với tổng dư nợ. Với nhưng hợp đồng vay vốn có số dư nợ lớn, thường là những món vay có thời hạn dài nên số dư nợ của nó kéo dài từ năm này sang năm khác, trên 2 đến 3 năm, cộng thêm với những món nợ mới được phát vay trong tháng làm dư nợ từng tháng tăng cao, từ đó dư nợ bình quân cũng tăng lên. Trong năm 2002, tổng dư nợ tương đối khá về số tuyệt đối là 2338 triệu đồng tương ứng với 37,77%; do trong năm qua có một số hợp đồng đã được tất toán, nhất là những dư nợ từ những năm trước chuyển sang của những hợp đồng vay ở mức 5 triệu. Doanh số thu nợ tăng cộng với thu được nợ quá hạn trong năm 2002 nợ quá hạn bình quân chỉ còn 7 triệu đồng nhưng trong khi đó lại giảm doanh số cho vay làm dư nợ bình quân của mức vay 5 tiệu tăng không đáng kể (3 triệu đồng) so với năm 2001 chỉ đạt mức dư nợ bình quân 1368 triệu đồng. Dư nợ bình quân của mức vay 15 triệu có sự gia tăng, so với năm 2001 thì tăng về cả số tương đối lẫn tuyệt đối nhưng dư nợ ở mức 2828 triệu đồng chiếm tỷ trọng 31,2% trong tổng dư nợ bình quân. Do đây là một món vay trung hạn, vì thế doanh số thu nợ của từng tháng đã làm dư nợ từ năm trước đưa sang giảm đi nhưng trong tháng lại tiếp tục tăng dư nợ do phát vay cho những hợp đồng mới nên lại đẩy dư nợ lên, tuy tăng hơn mức cũ nhưng cũng không cao 481 triệu đồng tương ứng với 20,49%. Đối với mức cho vay 30 triệu thì số dư nợ lại càng lớn hơn, vào những tháng cuối năm 2002 cho vay đối với mức này tăng lên làm dư nợ bình quân cũng tăng theo chiếm tỷ lệ quá bán trong tổng dư nợ của vay tiêu dùng trong năm và tăng trưởng so với năm 2001 đến hơn 61%. Vì ở mức vay này tập trung chủ yếu là những người có tài sản thế chấp nên mức vay lớn, mức dư nợ của những hợp đồng vay có quy mô vốn vay lớn sẽ mang lại khoản lợi tức từ lãi tiền vay rất lớn cho ngân hàng, chính vì thế nên ngân hàng chủ trương duy trì một mức dư nợ cao.
Trong năm này tình trạng nợ quá hạn rất khả quan. Tổng nợ quá hạn bình quân đã giảm rõ rệt, trên 63% tương đương với 59 triệu đồng. Trong đó tỷ trọng bình quân trong tổng nợ quá hạn bình quân không thay đổi ở các năm, ở mức 5 triệu chiếm tỷ trọng trên 19%, ở mức 15 triệu chiếm trên 48% còn ở mức 30 triệu chiếm trên 32%. Tỷ lệ này cao hay thấp tương ứng với doanh số cho vay ở từng mức vốn vay nhiều hay ít. Nhưng khả quan hơn là tốc độ giảm khá cao, ở các mức vay đều bằng nhau trên 61%, tình trạng này thể hiện thu nhập của khách hàng đã ổn định hơn và dần vượt qua khó khăn đã gây ra nợ quá hạn. Đây cũng là kết quả của các cán bộ tín dụng đã nổ lực cố gắng trong việc hối thúc thu nợ, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo các ban ngành địa phương.
3. Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng theo hình thức bảo đảm.
Một trong những nguyên tắc của tín dụng đó là vốn vay phải được bảo đảm. Bất kỳ một tổ chức tín dụng nào khi cho vay cũng mong muốn thu hồi lại khoản vay đó khi đến hạn bởi vì có như thế nó mới có thể bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Trong VTD tại ngân hàng ACB Đà Nẵng qui định: để được vay thì khách hàng phải thế chấp tài sản hoặc phải có người thứ ba đứng ra bảo lãnh khi không có tài sản (gọi là bảo đảm bằng tín chấp).
Bảng 5: Tình hình cho vay tiêu dùng theo hình thức bảo đảm.
ĐVT: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TĐ(%)
1. Doanh số cho vay
13725
100
15918
100
9117
7,64
Đảm bảo bằng tín chấp
Bảo đảm bằng tài sản
8455
5270
61,6
38,4
9439
6479
59,3
40,7
984
1209
11,64
22,94
2. Doanh số thu nợ
8020
100
11997
100
3977
49,59
Đảm bảo bằng tín chấp
Bảo đảm bằng tài sản
5317
2703
66,3
33,7
7414
4583
61,8
38,2
2097
1880
39,44
69,55
3. Dư nợ bì._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16085.doc