Trường đại học kinh tế quốc dân
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành quản trị kinh doanh quốc tế
&
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG
EXIMBANK - THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Giáo viên hướng dẫn : TS. Bùi Huy Nhượng
Sinh viên thực hiện : Bạch Quốc Trung
Lớp : KDQT B
Khóa : 46
Hệ : Chính quy
Hà Nội – 2008
MỤC LỤC
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Bảo lãnh trực tiếp 15
Sơ đồ 2: Bảo lãnh đối ứng 16
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) - Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sơ đồ 3: Xác nhận bảo lãnh 17
Bảng 1: Tình hình nguồn vốn của Eximbank qua các năm 30
Bảng 2: Tình hình cho vay vốn của Eximbank qua các năm 31
Bảng 3: Biểu phí của nghiệp vụ bảo lãnh 36
Bảng 4: Doanh thu bảo lãnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 42
Bảng 5: Doanh thu các loại bảo lãnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 44
Biểu đồ 1: Bảo lãnh vay vốn xuất nhập khẩu từ 2005 - 2007 45
Biểu đồ 2: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu từ 2005 - 2007 46
Biểu đồ 3: Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước trong hoạt động xuất nhập khẩu 47
năm 2005 - 2007 47
Biểu đồ 4: Bảo lãnh trong thanh toán xuất nhập khẩu giai đoạn 2005 - 2007 48
Biểu đồ 5: Bảo lãnh bảo đảm chất lượng hàng xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2005 - 2007 49
Biểu đồ 6: Bảo lãnh nộp thuế giai đoạn 2005 - 2007 50
Biểu đồ 7: Bảo lãnh hạn ngạch giai đoạn 2005 - 2007 51
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quá trình hội nhập WTO đưa nước ta đến những cơ hội mới và thách thức mới. Như Nhà nước đã dự báo, khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất đấy là ngành Ngân hàng. Một loạt các ngân hàng mới đã được thành lập, sự đổ xô vào đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng của các doanh nghiệp nước ngoài đang khiến cho hoạt động của các ngân hàng trong nước trở nên khó khăn hơn. Mức độ cạnh tranh gay gắt hơn không những trong các Ngân hàng với nhau mà còn là Ngân hàng với các tổ chức Tài chính, các Công ty Bảo hiểm…
Ngoài các hoạt động chính của ngân hàng như cho vay hoặc gửi tiết kiệm thì còn tồn tại các hoạt động ngoại hảng khác. Các hoạt đông này hiện nay đang ngày càng đóng vai trò quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận cho các Ngân hàng đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Một trong các hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng hiện nay là hoạt động bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh là một nghiệp vụ được các Ngân hàng thương mại thực hiện khá lâu và góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ của Ngân hàng, nó giúp cho các doanh nghiệp có thêm cơ hội phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ thương mại của mình. Hiện nay, nhu cầu được bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh nhất là kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp là rất lớn trong khi sự đáp ứng của các Ngân hàng đối với nhu cầu này còn chưa cao. Các doanh nghiệp thậm chí là ngay cả các Ngân hàng đang còn gặp rất nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này.
Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank đã cho ra đời nghiệp vụ bảo lãnh từ lâu song đối với các nghiệp vụ ngoại bảng khác như nghiệp vụ tín dụng thì nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng còn chưa được quan tâm đúng với tiềm năng của Ngân hàng và chưa đáp ứng tốt nhu cầu bảo lãnh ngày càng nhiều của các doanh nghiệp. Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank hoạt động liên quan chủ yếu đến các doanh nghiệp có hoạt động gắn nhiều với kinh doanh quốc tế nên ở đây chủ yếu ta sẽ nói đến nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy mà em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp là “Hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam – thực trạng và các giải pháp hoàn thiện” nhằm có thể tìm ra được những tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng từ đó có thể đưa ra một số giải pháp giúp hoạt động hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu ngày càng tốt hơn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở phát hiện ra các tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng của Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank thời gian gần đây và từ đó đề ra được các giải pháp cụ thể để nâng cao hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và bảo lãnh ngân hàng nó chung.
Để thực hiện được mục tiêu trên thì nhiệm vụ của chuyên đề là:
- Hệ thống hóa lý luận về hoạt động bảo lãnh.
- Phân tích thực trạng hoạt đông bảo lãnh xuất nhập khẩu trong Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank trong thời gian gần đây.
- Đề xuất ra các giải pháp để hoàn thiện hơn nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động bảo lãnh nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng của Ngân hàng Xuất nhập khẩu – Eximbank từ năm 2005 đến 2007.
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề của em còn được chia làm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Eximbank Việt Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Eximbank Việt Nam.
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
I.BẢO LÃNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Khái niệm về bảo lãnh và bảo lãnh ngân hàng
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay thì hoạt động thương mại đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, phục vụ cho nhu cầu ngày càng lớn của xã hội về các loại hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng. Hàng loạt các tổ chức được thành lập, các hiệp định thương mại được ký kết nhằm thúc đẩy sự giao lưu kinh tế, hoạt động thương mại phát triển. Các hàng rào thương mại được dỡ bỏ và dự đoán thương mại quốc tế sẽ còn phát triển nhanh và mạnh hơn nữa. Tuy nhiên, điều này cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro cho cac doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế do những biến động bất thường về chính trị-kinh tế-xã hội trên toàn cầu. Khi thương mại mở rộng không biên giới thì cũng kéo theo những rủi ro về thông tin không đầy đủ, làm xuất hiện sự thiếu tín nhiệm, thiếu tin cậy giữa các doanh nghiệp. Đây là một cản trở rất lớn cho hoạt động thương mại, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy rất cần có một sự đảm bảo để các giao dịch thương mại được diễn ra an toàn, tăng độ tin cậy giữa các đối tác kinh doanh.
Do nhu cầu cần có đảm bảo trong giao dịch đã làm xuất hiện một loại giao dịch mới, đó là giao dịch đảm bảo, dựa vào sự đảm bảo của một bên thứ ba có uy tín, tín nhiệm , có khả năng và tư cách để đảm bảo cho các quan hệ. Đó chính là hoạt động bảo lãnh.
1.1 Khái niệm bảo lãnh
Phương thức bảo lãnh là bất cứ một sự bảo lãnh, một sự cam kết hay bất cứ một sự cam kết thanh toán nào của trung gian tài chính hoặc của pháp nhân hay thể nhân bằng văn bản là sẽ bồi thường một số tiền nhất định, nếu đến hạn mà người được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ như quy định trên thư bảo lãnh
Theo luật Dân sự Việt Nam điều 336, khái niệm bảo lãnh được xác định “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
1.2 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng chính là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
Cam kết bảo lãnh: Là văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng, bao gồm:
- Thư bảo lãnh: là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Hợp đồng bảo lãnh: Là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Trong kinh doanh ngày nay, bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy thông hành cho doanh nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này không những tạo thuận lợi cho kế hoạch của doanh nghiệp mà các đối tác kinh doanh cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng doanh nghiệp hơn.
2.Đặc điểm:
Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập
Mặc dù nội dung của bảo lãnh được xây dựng trên cơ sở nội dung của hợp đồng thương mại, hợp đồng vay vốn hay hợp đồng đấu thầu nhưng đặc trưng nổi bật của bảo lãnh đó là nó độc lập và tách biệt với các quan hệ thương mại và vay nợ. Điều này có nghĩa là thư bảo lãnh độc lập và tách rời khỏi cơ sở hình thành ra nó. Trong bất kỳ một bảo lãnh nào cũng tồn tại ít nhất ba mối quan hệ của ba hợp đồng, và tính chất độc lập của của nó được thể hiện rõ nét trong từng mối quan hệ giữa các bên liên quan.
Thứ nhất là quan hệ giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh (người thụ hưởng) trong hợp đồng thương mại, hợp đồng vay nợ hay đấu thầu. Đây là hợp đồng đóng vai trò cốt yếu và là cơ sở cho việc xây dựng hai hợp đồng còn lại.
Thứ hai là quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh trong hợp đồng cung cấp dịch vụ hay tài trợ giữa khách hàng và ngân hàng.
Thứ ba là quan hệ giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành bảo lãnh thể hiện qua cam kết bảo lãnh của ngân hàng đối với khách hàng của mình (người được bảo lãnh).
Như vậy các hợp đồng được hình thành xuất phát từ những mối quan hệ giữa các đối tượng riêng biệt, đồng thời do được chi phối bởi các mục đích khác nhau nên tính pháp lý cũng như quyền lợi của các bên liên quan hoàn toàn mang tính độc lập. Mặc dù giữa các hợp đồng đều có sự ràng buộc theo quan hệ liên đới, mỗi hợp đồng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, song ngân hàng với vai trò là người cung cấp dịch vụ và cam kết thanh toán sẽ phải thự hiện nghiệp vụ bảo lãnh của mình trên cơ sở độc lập về quyền và nghĩa vụ riêng biệt trong hai hợp đồng.
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại được quản lý như một nghiệp vụ tín dụng
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi phát hành một cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không hề bị thay đổi. Do vậy, nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo các điều khoản được nghi trong cam kết bảo lãnh, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay cho ngân hàng, ngân hàng sẽ cấp một khoản tín dụng bắt buộc cho bên được bảo lãnh. Khi đó, nghiệp vụ bảo lãnh sẽ tác động đến bảng cân đối tài sản của ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản và các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng. Bởi vây, tuy là một hoạt động ngoại bảng, bảo lãnh vẫn phải được giám sát và quản lý một cách chặt chẽ như các hình thức cấp tín dụng khác.
Bảo lãnh ngân hàng mang tính quốc tế và nội địa
So với nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ trong thập niên 30, hoạt động bảo lãnh chỉ mới được áp dụng từ giữa những năm 60 bắt đầu từ thị trường nội địa của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, từ năm 1970, bảo lãnh đã được sử dụng rộng rãi trong giao dịch quốc tế như là một công cụ đảm bảo hữu hiệu góp phần thúc đẩy mậu dịch giữa các nước. Các đối tác làm ăn ở các quốc gia khác nhau thường sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng như là một hình thức đảm bảo, hạn chế các rủi ro thường gặp do sự thiếu thông tin, sự khác biệt về không gian, văn hoá, tôn giáo hay do những biến động về môi trường chính trị và xã hội khác nhau. Hàng loạt các quy chế quốc tế về bảo lãnh như URCG 325 (1978), URDG 458 (1992) lần lượt xuất hiện, góp phần đảm bảo việc áp dụng thống nhất các tập quán trên trên cơ sở bình đẳng của các bên liên quan.
Cùng với sự phát triển của bảo lãnh quốc tế thì bảo lãnh cũng ngày càng phổ biến trong thị trường nội địa vì tính đa dạng của nó. Nếu như tín dụng thư chỉ được sử dụng trong lĩnh vực thương mại như là một phương tiện thanh toán an toàn cho cả hai phía, thì bảo lãnh thư là một công cụ được sử dụng rất năng động, có thể đáp ứng các nhu cầu về thương mại và phi thương mại, tài chính và phi tài chính..Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động bảo lãnh đã thực sự phát huy lợi thế của mình trong mạng lưới giao dịch đang diễn ra trên khắp đất nước. Nghiệp vụ bảo lãnh rất thông dụng không chỉ trong hoạt động ngân hàng (bảo lãnh trả nợ vay, bảo lãnh rut quá số dư…) mà còn trong các giao dịch ở mọi lĩnh vực khác như trong lĩnh vực xây dựng (bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh duy tu), thuế (bảo lãnh trả thuế), hoặc hải quan (bảo lãnh hàng tạm nhập, tái xuất hay tạm xuất tái nhập)
3.Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
Chức năng phòng ngừa rủi ro
Đây là chức năng cơ bản của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Xuất phát từ sự thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa các đối tác, sự rủi ro do khách quan cũng như chủ quan, do đó bảo lãnh ngân hàng có chức năng là công cụ bảo đảm cho các giao dịch diến ra.Tuy nhiên chức năng này không hoàn toàn trùng khớp với chức năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động bảo hiểm. Điều này được thể hiện rõ nét trong mục đích và hình thức của bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng không bù đắp toàn bộ thiệt hại khi có rủi ro mà nó chỉ trước hết tạo ra sự đảm bảo tín nhiệm giữa các đối tác trong giao dịch và cam kết đền bù ở một mức độ cụ thể được ghi trong thư bảo lãnh.
Chức năng đảm bảo pháp lý
Đây chính là mục tiêu và là chức năng tối quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh, đó là cung cấp một sự đảm bảo cho người thụ hưởng, không chỉ là bảo đảm về thanh toán mà còn bảo đảm việc thực hiện hợp đồng và nhờ đó đảm bảo sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng: trong mối quan hệ dân sự cũng như kinh tế, ai không thực hiện nghĩa vụ của mình thì người đó phải chịu hậu quả phát sinh. Bảo lãnh tạo lập sự đảm bảo về nghĩa vụ tài chính và phi tài chính., trong đó nghĩa vụ tài chính đó là người đi vay phải trả nợ cho ngân hàng theo hợp đồng tín dụng, người mua phải trả tiền hàng cho người bán, chủ công trình phải trả tiền thi công cho nhà thầu… còn nghĩa vụ phi tài chính đó là người bán phải giao hàng theo hợp đồng thương mại cho người mua hay nghĩa vụ nhà thầu phải thực hiện đúng tiến độ xây dựng.
Như vậy có thể nói bảo lãnh ngân hàng thực chất là hình thức đảm bảo pháp lý trong giao dịch chứ không hoàn toàn chỉ mang chức năng thanh toán. Đặc biệt các thư bảo lãnh dùng trong hợp đồng thi công, hợp đồng bảo hành sản phẩm, dự thầu công trình… là những thoả thuận không mang tính chất mua bán hay thanh toán. Với chức năng đảm bảo pháp lý này, bảo lãnh có tác dụng đem lại sự tín nhiệm cũng như an tâm cho các nhà cung cấp vốn, nhà tài trợ trong giao dịch với đối tác.
Chức năng thúc đẩy
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng chỉ đứng ra đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp, tức là chức năng đảm bảo pháp lý. Và như vậy, bản thân các doanh nghiệp sẽ tự mình quyết định cách thức thực hiện các nghĩa vụ đó, tính toán sao cho có hiệu quả cũng như phải chịu trách nhiệm trước những hành vi vi phạm của mình. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của n gười xin bảo lãnh, buộc họ và các bên có liên quan phải nỗ lực trong việc thực hiện đúng các nghĩa vụ theo yêu cầu của hợp đồng. Mặt khác, ngay cả đối với người được thụ hưởng bảo lãnh, họ sử dụng bảo lãnh chỉ như là một công cụ để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của Người được bảo lãnh, hạn chế rủi ro nên cho dù họ có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, nhưng về thực chất trước và sau khi ký kết, người thụ hưởng vẫn luôn mong muốn người được bảo lãnh thực hiện đúng theo hợp đồng chứ không trông chờ vào một khoản bồi hoàn tài chính từ phía ngân hàng phát hành bảo lãnh. Nên chức năng đảm bảo thực hiện hợp đồng của bảo lãnh thường được thực hiện hơn chức năng đảm bảo tài chính.
Chức năng tài trợ
Chức năng này được thể hiện rõ nét trong việc cấp bảo lãnh cho người xin bảo lãnh. Không phải bất cứ yêu cầu bảo lãnh nào cũng được ngân hàng chấp nhận, nó còn phụ thuộc và nhiều điều kiện cụ thể. Do đó bảo lãnh ngân hàng có chức năng tài trợ gián tiếp để các doanh nghiệp có đủ điều kiện thực hiện các giao dịch, được nhận các khoản tiền ứng trước, nhận được các khoản tín dụng hàng hoá và tín dụng tiền tệ. Bên cạnh đó, do bảo lãnh chủ yếu được sử dụng trong các hợp đồng thi công và thậm chí một số hợp đồng buôn bán lớn, có tính phức tạp như các hợp đồng bảo lãnh liên quan đến các công trình xây dựng lớn, hay các mua bán vật tư, thiết bị sản xuất theo phương thức trả chậm với các đối tác quốc tế...Hầu hết các hợp đồng này đều đòi hỏi phải có một khoảng thời gian dài mới hoàn tất. Nên Người được bảo lãnh sẽ gặp nhiều rủi ro và gặp nhiều rủi ro về tài chính, cho nên khi một ngân hàng đứng ra phát hành bảo lãnh thanh toán hay bảo lãnh hoàn tiền ứng trước, bảo lãnh vay vốn cho Người được bảo lãnh đồng nghĩa với việc ngân hàng cung cấp một công cụ tài trợ, giúp Người được bảo lãnh có được khoản tài trợ ngắn hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sự tài trợ này cũng có thể được cung cấp trực tiếp do uy tín và quan hệ lâu dài của khách hàng với ngân hàng, hoặc do sự chỉ định của chính phủ để doanh nghiệp có thể thực hiện được các dự án lớn, phát triển các ngành mũi nhọn trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế.
4.Vai trò của bảo lãnh
4.1 Đối với ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng ra đời làm phong phú hơn hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là một trong những dịch vụ hiện đại được các ngân hàng thương mại không ngừng hoàn thiện, mở rộng và phát triển đáp ứng được các yêu cầu tổng hợp cũng như tính đặc thù cao của nền kinh tế. Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại trên thế giới.
Từ khi ra đời và trong quá trình phát triển của mình, bảo lãnh ngân hàng luôn cố gắng phát huy đầy đủ vai trò và các chức năng quan trọng của mình. Chính vì thế, ngày nay nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một trong các công cụ kiểm soát hữu hiệu, điều tiết nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Bản thân các ngân hàng thương mại ngày nay không còn xem bảo lãnh đơn thuần là tín dụng gián tiếp mà là một nghiệp vụ đem lại cho ngân hàng các lợi ích thiết thực sau:
Thu phí dịch vụ
Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để thu phí dịch vụ theo phần trăm tính trên doanh số bảo lãnh. Ngân hàng có thể thu phí một lần đối với các khoản bảo lãnh ngắn ngày như bảo lãnh dự thầu, hoặc thu hàng quý đối với các khoản bảo lãnh dài ngày như bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Nguồn vốn từ khoản ký quỹ
Luật pháp bắt buộc muốn được bảo lãnh thì khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh. Khoản này sẽ được gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng bảo lãnh trong suốt thời gian bảo lãnh, cho nên đối với ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định mà thông thường là được quy định không phải trả lãi.
Lãi cho vay ký quỹ
Do thông thường tiền khách hàng phải ký quỹ tại ngân hàng để được bảo lãnh là khá lớn nên trong đó có thể có một phần là vốn tự có của khách hàng và phần lớn là khách hàng phải thế chấp tài sản để vay tiền ký quỹ bảo lãnh nên ngân hàng có thể vừa cho vay ký quỹ tương đối an toàn, lại vừa thu được lãi vay.
Hoạt động an toàn
Nội dung của thư bảo lãnh thường có các điều kiện ràng buộc rõ ràng và minh bạch, do đó ngân hàng có thể đảm bảo hoạt động của mình diễn ra an toàn, ràng buộc khách hàng xin bảo lãnh phải thực hiện các dịch vụ thanh toán đồng thời thu được phí dịch vụ cho ngân hàng.
4.2 Đối với doanh nghiệp
Đối với bên được hưởng bảo lãnh
Bảo lãnh có tác dụng đảm bảo cho doanh nghiệp an tâm khi tham gia vào các giao dịch, đặc biệt là giao dịch quốc tế, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Đồng thời bảo lãnh cũng đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất khi có rủi ro. Trong giao dịch bảo lãnh, người được hưởng bảo lãnh luôn được ưu tiên thanh toán theo yêu cầu đầu tiên.
Đối với bên xin bảo lãnh
Trước hết bảo lãnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ tư cách tham gia đấu thầu hoặc thực hiện hợp đồng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp tìm được nguồn vốn để mua sắm trang thiết bị, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo cơ hội mở rộng thị trường ra nước ngoài qua hoạt động thương mại quốc tế.
Hơn nữa, để được ngân hàng đồng ý bảo lãnh, doanh nghiệp phải có chế độ hạch toán kế toán minh bạch, tình hình tài chính lành mạnh, vì ngân hàng coi việc cấp bảo lãnh như một hình thức cấp tín dụng và doanh nghiệp phải thoả mãn những điều kiện nhất định. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
II.PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Theo mối quan hệ giao dịch
1.1 Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành cam kết không huỷ ngang, trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng hay nói cách khác chịu mọi trách nhiệm và nghĩa vụ trực tiếp đối với người nhận bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp thường được ngân hàng người xin bảo lãnh phát hành. Trong trường hợp người nhận bảo lãnh ở một nước khác, bảo lãnh sẽ được thông báo qua ngân hàng đại lý tại nước sở tại của ngân hàng phát hành. Ngân hàng này chỉ đóng vai trò là ngân hàng thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh chứ không được coi là ngân hàng thanh toán, không chịu trách nhiệm về nội dung thư bảo lãnh và các tranh chấp phát sinh nếu có sau này.
Ngân hàng
phát hành
(Issuing bank)
Bên thụ hưởng
(Beneficiary)
Bên được
bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng
Thông báo
(Advising bank)
Thông báo
(1) Hợp đồng thương mại
(2) Yêu cầu phát hành bảo lãnh
Bảo lãnh
(3) cam kết bảo lãnh
Sơ đồ 1: Bảo lãnh trực tiếp
Trường hợp đặc biệt của phương thức bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh phát hành trái phiếu. Ngân hàng phát hành cũng có nghĩa vụ trực tiếp với công ty thực hiện phát hành trái phiếu nhưng người yêu cầu bảo lãnh và người thụ hưởng là một. Ngân hàng và công ty phát hành trái phiếu sẽ ký kết hợp đồng bảo lãnh thanh toán qua trái phiếu đối với người mua. Nếu công ty không thu đủ số tiền cần huy động trong lần phát hành trái phiếu, ngân hàng sẽ bù đắp. Loại hình bảo lãnh này hiện đang được sử dụng phổ biến và thông dụng không chỉ trong giao dịch tại thị trường nội địa mà cả trong giao dịch quốc tế. Tuy nhiên, bảo lãnh trực tiếp dễ gây rủi ro do khoảng cách xa xôi và thủ tục đòi tiền phức tạp.
1.2 Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là một bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một nhân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn. Cũng tương tự như bảo lãnh trực tiếp, ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể thông báo trực tiếp tới người hưởng thụ hay thông qua một ngân hàng thông báo.
Ngân hàng thứ nhất (hay còn gọi là ngân hàng chỉ dẫn) đồng ý phát hành một thư bảo lãnh theo chỉ thị của người xin bảo lãnh đến ngân hàng thứ hai thụ hưởng, đồng thời chỉ thị cho ngân hàng thứ hai (ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp) phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai cũng tương tự như quan hệ giữa ngân hàng thứ nhất và người được bảo lãnh. Trong hình thức bảo lãnh này, ngân hàng thứ hai là ngân hàng cam kết đảm bảo trực tiếp và chịu nghĩa vụ tài chính với người nhận bảo lãnh. Người hưởng không được quyền và không phải đòi tiền tại ngân hàng chỉ thị mà là tại ngân hàng phát hành.
Khi nhận được đòi tiền, ngân hàng phát hành thanh toán cho người thụ hưởng và thu lại số tiền này từ tài khoản của ngân hàng chỉ thị theo cam kết trong bảo lãnh đối ứng.
Ngân hàng phát hành
(Issuing bank)
Bên thụ hưởng
(Beneficiary)
Bên được bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng Thông báo
(Advising bank)
Thông báo
(1) Hợp đồng thương mại
Bảo lãnh
(4)Cam kết bảo lãnh
Ngân hàng chỉ thị
(Instructing bank)
(2) Yêu cầu phát hành
(3) Bảo lãnh đối ứng
Sơ đồ 2: Bảo lãnh đối ứng
Bảo lãnh đối ứng được sử dụng chủ yếu trong trường hợp Bên thụ hưởng là người nước ngoài, Ngân hàng phát hành là ngân hàng đại lý của Ngân hàng chỉ thị tại quốc gia của Bên thụ hưởng. Bảo lãnh đối ứng cũng được sử dụng khi Ngân hàng phát hành là do Bên thụ hưởng chỉ định, nhưng lại không có quan hệ với Bên được bảo lãnh. Khi đó, Bên được bảo lãnh có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một bảo lãnh đối ứng cho Ngân hàng phát hành.
1.3 Xác nhận bảo lãnh
Sau khi nhận được thư bảo lãnh từ Ngân hàng phát hành, ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng đóng thêm xác nhận đảm bảo khả năng thanh toán vào thư bảo lãnh trước khi thông báo cho bên thụ hưởng.
Trong trường hợp Bên được bảo lãnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết, Ngân hàng xác nhận sẽ thay mặt Bên thụ hưởng tiến hành truy đòi đối với Ngân hàng phát hành và Ngân hàng phát hành sẽ bồi thường cho Bên thụ hưởng thông qua Ngân hàng xác nhận. Nếu Ngân hàng phát hành không thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh thì Ngân hàng xác nhận phải thực hiện thay và coi đây là một khoản cho vay bắt buộc đối với Ngân hàng phát hành.
Ngân hàng
phát hành
(Issuing bank)
Bên thụ hưởng
(Beneficiary)
Bên được bảo lãnh
(Principal)
Ngân hàng
Xác nhận
(Confirming bank)
(4) Xác nhận bảo lãnh và thông báo
(1) Hợp đồng thương mại
(2) Yêu cầu phát hành bảo lãnh
(3) Tư bảo lãnh
Sơ đồ 3: Xác nhận bảo lãnh
Với xác nhận bảo lãnh, Bên thụ hưởng sẽ được đảm bảo chắc chắn hơn bằng uy tín và khả năng tài chính của hai ngân hàng: Ngân hàng phát hành và Ngân hàng xác nhận. Xác nhận bảo lãnh chủ yếu áp dụng trong trường hợp Bên thụ hưởng thiếu thông tin về Ngân hàng phát hành hoặc khó khăn trong việc trực tiếp thực hiện quyền truy đòi.
2. Theo tính chất bảo đảm
2.1 Bảo lãnh vô điều kiện
Bảo lãnh vô điều kiện hay còn gọi là bảo lãnh theo yêu cầu là dạng bảo lãnh có tính chất độc lập với các giao dịch khác, kể cả hợp đồng là cơ sở để bảo lãnh được phát hành. Do vậy, nó được goi theo thuật ngữ chung là Independent Guarantee. Người phát hành bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ của mình ghi trong bảo lãnh ngay khi nhận được yêu cầu (first demand, on demand) thông qua việc xuất trình một số chứng từ do người nhận bảo lãnh hay còn gọi là người thụ hưởng bảo lãnh phát hành, mà không được viện dẫn bất kỳ một lý do chủ quan hay khách quan nào. Loại bảo lãnh này thường được sử dụng rất phổ biến vì sự thuận tiện và lợi thế cho người thụ hưởng và phù hợp với tập quán và thông lệ giao dịch của ngân hàng thương mại trên thế giới. Tuy nhiên, cũng vì vậy mà nó có một nhược điểm là có thể xảy ra gian lận, thậm chí lừa đảo nếu người thụ hưởng là đối tác không trung thực gian dối do việc đòi bồi thường mang tính chủ quan.
2.2 Bảo lãnh có điều kiện
Theo hình thức bảo lãnh này thì người hưởng thụ bảo lãnh nếu muốn được bồi thường thiệt hại thì phải xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của toà án chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của người được bảo lãnh. Do có những điều kiện xác lập chứng từ như vậy nên bảo lãnh có điều kiện về bản chất rất tương đồng với nghiệp vụ bảo hiểm, theo đó người được bảo hiểm phải xuất trình các chứng từ chứng minh sự tổn thất thì mới được bồi thường. Mặc dù các điều kiện này gây khó khăn cho người thụ hưởng do việc bồi thường không được thực hiện ngay, mà phải qua các thủ tục pháp lý khác nhưng phía người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành lại hài lòng vì nó đảm bảo tính khách quan. Tuy nhiên, quan trọng và có ý nghĩa hơn là nó có tác dụng ngăn ngừa tối đa sự gian lận hoặc lừa đảo của phía người nhận bảo lãnh, điều có thể xảy ra và đã xảy ra trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam.
Do tính chất kém linh hoạt và không phù hợp với thông lệ giao dịch của ngân hàng nên bảo lãnh có điều kiện ít được sử dụng trong nghiệp vụ ngân hàng. Người ta cho rằng dạng bảo lãnh này không đúng với bản chất của bảo lãnh theo đúng nghĩa của nó mà thuộc kiểu bảo đảm trong lĩnh vực bảo hiểm. Bảo lãnh có điều kiện hiện nay chỉ được sử dụng nhiều ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi và rất ít được ưa chuộng tại Châu Âu. Một số nước khác thì chấp nhận dạng bảo lãnh được pha trộn tính chất của hai loại bảo lãnh vô điều kiện và bảo lãnh có điều kiện, miễn rằng các bên chấp nhận và ngân hàng đồng ý phát hành.
3. Theo tính hiệu lực của bảo lãnh
Theo tính hiệu lực của bảo lãnh, bão lãnh được chia thành bảo lãnh theo món, bảo lãnh theo hạn mức và bảo lãnh tuần hoàn:
- Bảo lãnh theo món là bảo lãnh do ngân hàng phát hàng theo hợp đồng bảo lãnh ký kết từng lần. Theo đó hợp đồng bảo lãnh chỉ có hiệu lực một lần duy nhất. Bảo lãnh theo món thường được áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu được bảo lãnh thường xuyên.
- Bảo lãnh theo hạn mức là bảo lãnh do ngân hàng phát hành theo hợp đồng bảo lãnh hạn mức đã được ký kết áp dụng trong một thời gian nhất định. Khi có nhu cầu được bảo lãnh, khách hàng chỉ cần trình các giấy tờ cần thiết và ký kết với ngân hàng một hợp đồng bảo lãnh nhỏ căn cứ theo hợp đồng bảo lãnh chính. Bảo lãnh theo hạn mức được áp dụng với những khách hàng có nhu cầu bảo lãnh thường xuyên, chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp xây lắp.
- Bảo lãnh tuần hoàn là loại bảo lãnh ngân hàng mà hiệu lực và giá trị của nó tự động lặp lại sau một khoảng thời gian nhất định. Bảo lãnh tuần hoàn được áp dụng chủ yếu với những khách hàng có nhu cầu bảo lãnh với giá trị ổn định theo một chu kỳ nhất định ví dụ như bảo lãnh thanh toán để nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất…
4. Theo tính chất chuyển nhượng
Theo tính chất chuyển nhượng của bảo lãnh, có hai loại: bảo lãnh có thể chuyển nhượng và bảo lãnh không thể chuyển nhượng:
- Bảo lãnh có thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh có thể chuyển quyền thụ hưởng cho một đối tượng khác không giới hạn.
- Bảo lãnh không thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh không được chuyển quyền thụ hưởng cho đối tượng khác.
Tính chất chuyển nhượng của bảo lãnh phải được quy định rõ ngay khi phát hành bảo lãnh.
5. Theo đối tượng bảo lãnh
Cách phân loại này dựa trên tính chất của hợp đồng cơ sở giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
5.1 Bảo lãnh dự thầu
Đây là cam kế._.t của của tổ chức tín dụng với bên mời thầu, để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh dự thầu thường có giá trị 1%-5% giá trị hợp đồng với điều kiện thanh toán là theo yêu cầu (on demand). Nếu người dự thầu hoạt động ở nước ngoài, chủ công trình sẽ yêu cầu bảo lãnh dự thầu gián tiếp. Người thụ hưởng bảo lãnh (chủ công trình) sẽ có quyền đòi tiền khi người dự thầu vi phạm cam kết dự thầu, ngay cả trường hợp người dự thầu không cung cấp bảo lãnh thực hiện hợp đồng sau khi ký hợp đồng.
5.2 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu:
Trong hoạt động xuất nhập khẩu quốc tế, đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu thanh toán bảo lãnh : không thực hiện đúng tiến độ giao hàng, hay tiến độ xây dựng công trình và ngân hàng sẽ thanh toán thay.
Hiện nay bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu được sử dụng rất phổ biến tại Việt Nam do trong giao dịch thương mại, người mua nước ngoài lo ngại phía Việt Nam không giao hàng hoặc giao hàng không đúng thời hạn quy định trong hợp đồng. Bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì nhu cầu đối với bảo lãnh dự thầu cũng ngày càng tăng do ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nước ngoài tham gia đấu thầu các công trình mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
5.3 Bảo lãnh thanh toán trong hoạt động xuất nhập khẩu
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến hạn. Ngân hàng cam kết sẽ chi trả tiền thi công công trình, phí sửa chữa thiết bị, tiền thuê máy móc, chuyên gia, công nghệ hay tiền bán hàng hoá, tiền gia công cho người nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh thanh toán thường có những điều kiện trả tiền mang tính khách quan hơn là các bảo lãnh vô điều kiện khác. Nó yêu cầu người hưởng phải xuất trình hoá đơn bán hàng cho người mua và có thể được xác thực bởi một bên thứ ba như hải quan cửa khẩu. Thông thường bảo lãnh thanh toán bằng 100% giá trị hợp đồng. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh thanh toán do các bên tự thoả thuận, thường kết thúc khi việc thanh toán hoàn tất. Thời hạn và giá trị của bảo lãnh thanh toán có thể giảm dần theo tiến độ thanh toán cho người hưởng.
5.4 Bảo lãnh vay vốn
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ gốc và lãi đối với bên nhận bảo lãnh ngay khi bên này có yêu cầu.
Bảo lãnh vay vốn mang tính rủi ro cao cho ngân hàng bảo lãnh nên việc thực hiện chúng rất phức tạp và đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng về phía ngân hàng. Ngân hàng cần phải xem xét đến tính khả thi của dự án vay vốn, các điều kiện về tài sản cầm cố, thế chấp, mức ký quỹ phù hợp. Có trường hợp ngân hàng bảo lãnh có thể yêu cầu ký quỹ dến 100% giá trị thư bảo lãnh. Thời hạn hiệu lực do các bên tự thoả thuận. Giá trị bảo lãnh có thể gồm cả nợ gốc lẫn lãi tuỳ thuộc yêu cầu của bên cho vay.
5.5 Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
Đây là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh này chỉ có hiệu lực khi hợp đồng cơ sở đã được thực hiện. Thời hạn của bảo lãnh thường gắn liền với thời hạn của hợp đồng cơ sở và giá trị bảo lãnh có thể giảm dần theo kỳ hạn trả nợ hoặc tiến độ giao hàng.
Bảo lãnh trả nợ vay thường được thực hiện trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam hay giữa các ngân hàng trong nước và nước ngoài nhằm mục tiêu luôn đảm bảo nguồn tài trợ cho Việt Nam được hoàn trả đủ và đúng hạn
6. Các loại bảo lãnh khác
6.1 Thư tín dụng dự phòng
Thư tín dụng dự phòng là loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự, dù được gọi hay miêu tả thế nào, theo đó ngân hàng cam kết với người thụ hưởng sẽ trả một khoản tiền mà người yêu cầu mở tín dụng thư đã thanh toán hoặc ứng trước, hay thanh toán một khoản nợ của người mở, hoặc bồi thường những thiệt hại do người mở không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
6.2 Bảo lãnh vận đơn
Mục đích của bảo lãnh này là nhằm bảo vệ những người có quyền lợi chính đáng trước sự lợi dụng vận đơn. Trị giá bảo lãnh thường từ 100%-150% giá trị hàng hoá để có thể bù đắp thiệt hại phát sinh. Bảo lãnh vận đơn gồm hai loại chính:
- Loại thứ nhất: người xuất khẩu là người đề nghị phát hành bảo lãnh. Ngân hàng sẽ cam kết với nhà nhập khẩu bồi thường mọi thiệt hại phát sinh đối với người này do việc vận hơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình không kịp thời.
- Loại thứ hai: người nhập khẩu là người đề nghị phát hành bảo lãnh. Ngân hàng cam kết với người vận tải sẽ chịu bồi thường mọi thiêt hại nếu hàng hoá được giao không có chứng từ cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc hoặc đến chậm hơn tàu, hoặc chủ hãng vận tải được uỷ nhiệm nhận hàng không có chứng từ.
6.3 Bảo lãnh sai sót chứng từ nhờ thu
Mục đích của loại bảo lãnh này là nhằm đền bù thiệt hại trong khuôn khổ phương thức thanh toán nhờ thu do việc xuất trình giấy tờ, chứng từ không phù hợp hoàn toàn với những điều khoản của hợp đồng mua bán hoặc số lượng chứng từ thiếu không được bổ sung.
6.4 Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm
Là cam kết của của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
6.5 Bảo lãnh hối phiếu
Là cam kết của ngân hàng sẽ trả tiền cho người hưởng lợi khi hối phiếu đến hạn trả tiền mà người được bảo lãnh không thực hiện các trách nhiệm về tài chính của mình như đã quy định. Với hình thức bảo lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm theo chữ ký của người đại diện đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm đến mức như trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi ngân hàng đã quy định trong hối phiếu.
6.6 Bảo lãnh thuế quan
Trong nhiều trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào một nước nào đó nhằm mục đích trưng bày tại triển lãm hay tham dự hội chợ trong một khoảng thời gian xác định rồi sẽ tái xuất. Hay trong trường hợp một công ty thi công cần nhập khẩu máy móc vào một nước nào đó để thi công nhưng sau khi thi công xong lại xuất khẩu máy móc đó về bản quốc. Những hàng hoá hay máy móc đó theo quy định của hải quan các nước thì sẽ không phải nộp thuế xuất nhậnp khẩu. Do vậy, hải quan nước mà hàng hoá đó được tạm nhập, tái xuất sẽ yêu cầu chủ hàng phải có một bảo lãnh nhằm đảm bảo rằng nếu quá thời hạn đăng ký mà hàng hoá hay máy móc đó không tái xuất thì hải quan sẽ có quyền yêu cầu Người bảo lãnh thanh toán tiền thuế nhập khẩu và tiền phạt
6.7 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là một lĩnh vực hoạt động của ngân hàng thương mại được phép hỗ trợ cho công ty phát hành chứng khoán của mình, hoặc chủ sở hữu chứng khoán phát hành và phân phối chứng khoán bằng việc thoả thuận mua bán chứng khoán để bán lại hoặc bán chứng khoán thay mặt người phát hành hay người chủ sở hữu. Bởi vì có những công ty muốn phát hành chứng khoán của mình ra thị trường nhưng quá trình này gặp khó khăn do uy tín của công ty chưa đủ để công chúng tín nhiệm hay mạng lưới cung ứng của nó còn yếu. Ngân hàng sẽ căn cứ vào mục đích của đợt phát hành cổ phiếu, khả năng tài chính, hiệu quả sử dụng vốn, loại hàng hoá dự định sản xuất, quan hệ của công ty với ngân hàng để quyết định có bảo lãnh hay không. Có các loại thoả thuận giữa ngân hàng và nhà phát hành chứng khoán là: cam kết làm hết sức mình (best effort), cam kết hoặc là mua hết hoặc là không mua gì hết (all or none), cam kết sẵn sàng hỗ trợ (stand by).
III.NỘI DUNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Trình tự phát hành bảo lãnh ngân hàng
Tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh khi có đủ các điều kiện sau đây:
Nghĩa vụ bảo lãnh đã đến hạn
Bên nhận bảo lãnh có văn bản đề nghị tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Các tài liệu chứng minh khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, nếu cam kết bảo lãnh có đề cập như là một điều kiện để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Tổ chức tín dụng kiểm tra các tài liệu, nếu phù hợp với cam kết bảo lãnh thì thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, tổ chức tín dụng yêu cầu khách hàng thực hiện việc bồi hoàn theo các bước sau:
Đối với trường hợp bảo lãnh thông thường
Tổ chức tín dụng bảo lãnh thông báo cho khách hàng kèm các tài liệu liên quan, yêu cầu khách hàng hoàn trả số tiền mà tổ chức tín dụng đã trả thay.
Sau khi nhận được thông báo của tổ chức tín dụng khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả nợ hoặc có văn bản xác nhận nợ với tổ chức tín dụng về số tiền mà tổ chức tín dụng đã trả thay. Sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, nếu khách hàng chưa hoàn trả, hoặc chưa có văn bản xác nhận nợ thì tổ chức tín dụng hạch toán ghi nợ cho khách hàng ( ngày hạch toán ghi nợ là ngày tổ chức tín dụng đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho khách hàng). Khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận nhưng không quá 150% lãi suất trong hợp đồng giữa khách hàng và bên nhận bảo lãnh ( trong trường hợp bảo lãnh vay vốn) hoặc lãi suất cho vay ngắn hạn mà tổ chức tín dụng đang thực hiện, kể từ ngày tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với số tiền đã trả thay.
Trường hợp vì lý do khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, những khó khăn tài chính tạm thời và những lý do khách quan khác hoặc việc trả nợ cho bên nhận bảo lãnh không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, khách hàng chưa thực hiện được nghĩa vụ đúng hạn đối với bên nhận bảo lãnh. Trên cơ sở đề nghị của khách hàng trong văn bản xác nhận nợ, tổ chức tín dụng có thể xem xét định lại kỳ hạn trả nợ và áp dụng lãi suất cho vay thông thường đối với số tiền mà tổ chức tín dụng đã trả thay.
Tổ chức tín dụng bảo lãnh có quyền thực hiện các biện pháp như phát mại tài sản bảo đảm, trích tài khoản của khách hàng ( nếu có thỏa thuận trước), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định này để thu hồi số tiền đã trả thay.
Đối với trường hợp bảo lãnh đối ứng
Sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng, bên phát hành bảo lãnh đối ứng có quyền yêu cầu khách hàng hoàn trả cho mình số tiền bên phát hành bảo lãnh đối ứng đã trả cho tổ chức tín dụng bảo lãnh. Trình tự thực hiện việc hoàn trả nợ hoặc nhận nợ giữa bên phát hành bảo lãnh đối ứng và khách hàng thực hiện tương tự như đối với bảo lãnh thông thường.
Đối với trường hợp xác nhận bảo lãnh
Sau khi bên xác nhận bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho bên được xác nhận bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được xác nhận bảo lãnh hoàn trả cho mình số tiền bên xác nhận bảo lãnh đã thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Trình tự thực hiện việc hoàn trả nợ hoặc nhận nợ của bên được xác nhận bảo lãnh đối với bên xác nhận bảo lãnh thực hiện tương tự như đối với bảo lãnh thông thường.
Việc bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp sau:
Nghĩa vụ bảo lãnh được tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện đầy đủ.
Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật.
Bên được bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo lãnh.
Bên nhận bảo lãnh đồng ý hủy bỏ bảo lãnh theo các quy định của pháp luật.
Việc bảo lãnh được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác do các bên thỏa thuận.
Thời hạn của bảo lãnh đã hết hiệu lực trong trường hợp bảo lãnh có quy đinh về thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.
Tổ chức tín dụng bảo lãnh chấm dứt hoạt động thì nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Ngoài ra cần lưu ý xử lý trong một số trường hợp sau:
Đối với trường hợp tổ chức tín dụng bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà nhiều khách hàng cùng tham gia thực hiện thì các bên tham gia có trách nhiệm hoàn trả nợ hoặc nhận nợ với tổ chức tín dụng theo tỷ lệ tương ứng với phần nghĩa vụ của mình trong nghĩa vụ chung. Nếu một trong các bên tham gia không thực hiện được phần nghĩa vụ của mình thì tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu bất kỳ bên nào trong số các bên tham gia phải thực hiện phần nghĩa vụ đó.
Trường hợp chỉ một tổ chức tín dụng trong số nhiều tổ chức tín dụng đồng bảo lãn cho một nghĩa vụ của khách hàng được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những tổ chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình nhưng không phải chịu trách nhiệm về phần nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được miễn.
2. Nội dung của thư bảo lãnh
Tuỳ thuộc vào từng loại bảo lãnh mà nội dung của bảo lãnh phải được diễn đạt nhằm nêu bật nghĩa vụ của người bảo lãnh và quyền của người nhận bảo lãnh, đồng thời nó còn phụ thuộc vào biểu mẫu của từng ngân hàng, hoặc tập quán của từng quốc gia, từng khu vực trên thế giới, hay theo qui định quốc gia của ngân hàng phát hành. Tuy nhiên, nhìn chung các phần của nội dung bảo lãnh được sắp xếp tương đối giống nhau, thể hiện thông lệ vốn có trong giao dịch bảo lãnh, cụ thể:
1. Tên gọi của bảo lãnh, số tham chiếu, ngày phát hành
2. Tên, địa chỉ của ngân hàng phát hành
Tên, địa chỉ của người thụ hưởng
3. Đối tượng được bảo lãnh: Hợp đồng cơ sở, ngày của hợp đồng và các chi tiết liên quan khác.
4. Tên và địa chỉ của người uỷ nhiệm bảo lãnh
5. Cam kết của ngân hàng bảo lãnh
6. Giá trị của bảo lãnh
7. Thời hạn của bảo lãnh: Ngày có giá trị, ngày và nơi hết hiệu lực của bảo lãnh
8. Những diễn đạt có tính đặc thù của bảo lãnh hoặc các điều khoản về thuế, phí
9. Điều kiện thanh toán: thủ tục và chứng từ đòi tiền
10. Yêu cầu hoàn trả bảo lãnh cho ngân hàng phát hành
11. Luật hoặc qui tắc áp dụng
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
I.TỔNG QUAN VỀ EXIMBANK
1. Quá trình ra đời và phát triển của Eximbank
Eximbank được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam.
Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến tháng 12 năm 2006 vốn điều lệ của Eximbank là 1.870.124.000.000 đồng VN. Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 29 Chi nhánh, phòng giao dịch được đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, và TP.HCM. Đã thiết lập quan hệ đại lý với hơn 640 ngân hàng ở trên 65 quốc gia trên thế giới
Năm 1991 và năm 1992 được Ngân Hàng Nhà Nước và Bộ Tài Chính tín nhiệm giao thực hiện một phần chương trình tài trợ không hoàn lại của Thụy Điển cho các đơn vị Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu.
Năm 1993, Vietnam Eximbank được chọn để thực hiện chương trình viện trợ của chính phủ Thụy Sĩ, và bản thân ngân hàng cũng nhận được một phần viện trợ từ chương trình này. Ngân hàng cũng đã tham gia vào hệ thống thanh toán bù trừ điện tử của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam.
Năm 1995, Vietnam Eximbank là thành viên Hiệp hội các định chế tài trợ phát triển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ADFIAP), được Ngân Hàng Nhà Nước chọn là ngân hàng đầu mối tham gia chương trình hàng đổi hàng với Indonesia theo Bản ghi nhớ giữa Bộ Thương Mại Việt Nam với Phòng Thương Mại và Công Nghiệp nước cộng hòa Indonesia và cũng được chọn là 1 trong 6 ngân hàng Việt Nam tham gia thực hiện Dự án hiện đại hoá ngân hàng (Bank Modernization Project) do Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam tổ chức với sự tài trợ của Ngân Hàng Thế Giới. Ngân hàng cũng đã được hai tổ chức thẻ tín dụng lớn nhất thế giới là Master Card International và Visa International chấp nhận làm thành viên chính thức (principal member)
Năm 1998 được CHASE MANHATTAN BANK (US) New York tặng giải thưởng “1998 Best Services Quality Award”.
Năm 2005, ngân hàng được nhận cúp vàng top ten sản phẩm uy tín chất lượng cho sản phẩm hỗ trợ du học trọn gói do Cục sở hữu trí tuệ và Hội sở hữu trí tuệ công nghiệp Việt Nam, Trung tâm Công nghệ thông tin & tư vấn quản lý QVN cùng báo điện tử Saigon News hợp tác tổ chức. Tháng 11/2005, Eximbank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành thẻ thanh toán Quốc tế mang thương hiệu Visa Debit.
Tháng 01/2006, đã vinh dự được nhận bằng khen do ngân hàng Standard Chartered Bank trao tặng về chất lượng dịch vụ điện thanh toán quốc tế (chất lượng dịch vụ tốt nhất trong lĩnh vực thanh toán quốc tế qua mạng thanh toán viễn thông liên ngân hàng) và nhận giải cúp vàng thương hiệu Việt trong cuộc bình chọn CÚP VÀNG TOPTEN THƯƠNG HIỆU VIỆT (lần thứ 2) do Mạng Thương Hiệu Việt kết hợp cùng Hội sở hữu công nghiệp Việt Nam hợp tác tổ chức.
Tháng 04/2006, Eximbank đạt giải thưởng “Thương hiệu mạnh Việt Nam 2005” do độc giả của Thời Báo Kinh tế Việt nam bình chọn. Quy trình đánh giá và lựa chọn được Thời báo Kinh tế Việt Nam phối hợp cùng Cục xúc tiến Thương Mại tổ chức.
Bước sang năm 2007, trong bối cảnh nhiều cơ hội và thách thức đan xen, ngân hàng xác định đây sẽ là năm bản lề tăng tốc phát triển đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động, tạo tiền đề cho sự phát triển và hội nhập sau này. Và vào tháng 8/2007, một sự kiện được coi là “chấn động” trong cộng đồng ngân hàng Việt Nam, khi mà Eximbank đã chọn được đối tác chiến lược là Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC), một trong số ít Tập đoàn ngân hàng lớn nhất của Nhật Bản và thế giới, đã khẳng định những nỗ lực phấn đấu của toàn bộ cán bộ công nhân viên ngân hàng với mục tiêu làm thế nào để Eximbank trở thành một ngân hàng có tầm cỡ không chỉ trong nước mà còn trong khu vực.
2. Hoạt động tín dụng
2.1 Tổng nguồn vốn kinh doanh và vốn huy động
Đặc điểm nổi bật nhất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng xuất nhập khẩu trong vài năm qua là tổng nguồn vốn kinh doanh liên tục tăng nhanh và ổn định. Nếu như cuối năm 2004, tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng chỉ đạt con số là 8.268 tỷ VNĐ thì bước sang năm 2005 con số này đã tăng 3.101 tỷ (37,50%); cuối năm 2006, ngân hàng đã có tổng số vốn kinh doanh lên tới 11.369 tỷ VNĐ, tăng 37,51% so với năm 2005. Đặc biệt trong năm 2007, tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng đạt 31.689 tỷ VNĐ, tăng 83% so với năm 2006. Sỡ dĩ có được kết quả tích cực trên là do ngân hàng đã nghiêm túc triển khai các giải pháp cho vay hiệu quả, tăng trưởng nhưng vẫn luôn đảm bảo an toàn tín dụng.
Đóng góp lớn trong mức tăng ổn định của tổng nguồn vốn kinh doanh là tổng vốn huy động của ngân hàng cũng liên tục tăng theo thời gian.
Bảng 1: Tình hình nguồn vốn của Eximbank qua các năm
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Tổng nguồn vốn kinh doanh
8.268
11.369
18.324
31.689
Vốn điều lệ
500
700
1.212
2.278
Vốn huy động
6.296
8.352
13.467
24.913
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Eximbank qua các năm)
Tổng vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế của Eximbank trong năm 2007 đạt 24.913 tăng gần 85% so với năm 2006, trong đó huy động từ doanh nghiệp đạt 7.015 tỷ, cá nhân đạt 17.898 tỷ đồng.
2.2 Hoạt động tín dụng
Tính đến cuối năm 2007, tổng dư nợ đạt 18.700 tỷ, tăng 83% so với năm 2006, Chiếm tỉ trọng khoảng hơn 50% tổng tài sản hiện có của Eximbank.
Dư nợ cho vay doanh nghiệp năm 2007 đạt 11078 tỷ đồng, trong đó cho vay doanh nghiệp nhà nước đạt 989 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng dư nợ cho vay, cho vay đối với các doanh nghiệp khác là 10077 tỷ đồng, chiếm 54% tổng dư nợ cho vay.
Với chính sách đẩy mạnh cho vay tiêu dùng cá nhân, đa dạng hoá sản phẩm tín dụng cá nhân đã góp phần làm cho hoạt động tín dụng bán lẻ của Eximbank không ngừng phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua, đặc biệt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Cho vay cá nhân đạt 7600 tỷ đồng, tăng 49% so với đầu năm. Tỷ lệ dư nợ cho vay cá nhân chiếm tỉ trọng 41% trong tổng dư nợ cho vay; trong đó: dư nợ cho vay cá nhân thuần tuý đạt khoảng 4600 tỷ đồng, dư nợ cho vay cầm cố là 2400 tỷ đồng, dư nợ chiết khấu thẻ tiết kiệm đạt hơn 500 tỷ đồng.
Bên cạnh yếu tố tăng trưởng, ngân hàng luôn chú trọng đến công tác kiểm soát chặt đồng thời chú trọng cải tiến nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, duy trì cơ cấu tín dụng an toàn và hiệu quả nhằm hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh, đẩy mạnh cho vay vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tài trợ xuất nhập khẩu, mở rộng hạn mức tín dụng đối với khách hàng có uy tín và đã có thời gian hợp tác lâu dài, thay đổi cơ cấu tổ chức hướng tới khách hàng, triển khai nghiệp vụ xuất khẩu trọn gói nhằm tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng gắn kết với tăng trưởng tài trợ và thanh toán xuất nhập khẩu. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ được kiểm soát ở mức 0,8%, thấp hơn so với chuẩn quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Hoạt động tín dụng tăng trưởng khá và an toàn cũng góp phần thúc đẩy các hoạt động dịch vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán xuất nhập khẩu.
Bảng 2: Tình hình cho vay vốn của Eximbank qua các năm
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Chỉ tiêu
2006
2007
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng dư nợ
10.207.392
100%
18.700.288
100%
Cho vay ngắn hạn
7.834.454
76,75%
14.610.535
78,13%
Cho vay trung hạn
1.275.467
12,50%
2.085.082
11,15%
Cho vay dài hạn
1.020.765
10,00%
1.832.628
9,8%
Cho vay đồng tài trợ
51.701
0,51%
117.811
0,63%
Các khoản nợ chờ xử lý
25.005
0,24%
54232
0,29%
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Eximbank các năm 2006, 2007)
3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng và thanh toán quốc tế là những mảng nghiệp vụ thế mạng của Eximbank. Đây là một trong số ít các ngân hàng thương mại được phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ Option giữa ngoại tệ và VNĐ, và cũng là ngân hàng thương mại duy nhất được phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mặt theo tỉ giá thoả thuận. Bên cạnh đó, nhờ áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả cũng như chính sách tỷ giá linh hoạt, cạnh tranh mà mà Eximbank đã đạt được các kết quả khả quan. Trong năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 13.310 triệu USD, tăng khoảng 50% so với năm 2006, trong đó, doanh số bán ngoại tệ - VNĐ đạt 7,1 tỷ USD, tăng 42% so với năm 2006; thu nhập kinh doanh ngoại tệ trong năm đạt 51,06 tỷ đồng. Đối với hoạt động kinh doanh vàng, doanh số mua bán vàng trong năm 2007 đạt 3.072 ngàn lượng, tăng 144,6% so với năm 2006 (1.256 ngàn lượng); thu nhập từ hoạt động kinh doanh vàng đạt 80,34 tỷ đồng, tăng 138% so với năm 2006 (33,76 tỷ đồng). Từ giữa năm 2006, ngân hàng đã triển khai thêm hai sản phẩm mới là kinh doanh vàng kỳ hạn và quyền chọn vàng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, đến nay đã có hơn 1000 hợp đồng kỳ hạn quyền chọn vàng với hơn tổng giá trị 130.653 lượng. Với lợi thế kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu ngoại tệ, ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu ngoại tệ mặt đa dạng của khách hàng với mạng lưới gần 900 ngân hàng đại lý ở các quốc gia, doanh số kiều hối đạt 556.73 triệu USD, tăng 34,6% so với năm 2006.
Hoạt động thanh toán quốc tế cũng là thế mạnh truyền thống của Eximbank từ trước đến nay. Tổng doanh số thanh toán quốc tế năm 2007 đạt khoảng 2.600 triệu USD, tăng khoảng 16% so với năm 2006. Trong đó thanh toán hàng xuất khẩu đạt 456,4 triệu USD, tăng 23% so với năm 2006, doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 1.575 triệu USD, tăng 66% so với năm 2006. Doanh số thanh toán phi mậu dịch đạt 587 triệu USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Với bề dày kinh nghiệm và chuyên môn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế cùng với đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, chuyên môn sâu, luôn sẵn sàng phục vụ, hướng dẫn tư vẫn cho khách hàng. Chính vì thế ngân hàng luôn nhận được đánh giá cao về chuyên môn, chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế, đặc biệt là công tác tư vấn hiệu quả cho khách hàng
4. Các hoạt động khác
Với lợi thế là một trong những ngân hàng đầu tiên của Việt Nam là thanh viên chính thức của tổ chức thẻ Visa và MasterCard quốc tế, Eximbank đã phát hành thẻ tín dụng quốc thế Eximbank Visa, MasterCard, và thẻ ghi nợ quốc tế Eximbank Visa Debit bên cạnh thẻ nội địa Eximbank Card. Số lượng thẻ phát hành trong năm 2007 đạt 23.684 thẻ, thẻ Visa Debit đạt13.779 thẻ, thẻ Eximbank Card là 27.275 thẻ. Doanh số thanh toán thẻ quốc tế trong năm 2007 đạt hơn 85 triệu USD, tăng 73% so với năm 2006. Doanh số giao dịch qua máy ATM đạt 783 tỷ đồng.
Về hoạt động đầu tư tài chính, năm 2007, ngân hàng đã có tổng số dư tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng là 3.392 tỷ đồng, thu lãi 177.23 tỷ đồng. Để đa dạng hoá danh mục đầu tư và tận dụng thời cơ, đầu năm 2007, ngân hàng đã thành lập phòng Đầu tư tài chính nhằm đưa nguồn vốn vào sử dụng với mức sinh lợi cao. Tổng danh mục đầu tư công cụ tài chính qua các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, cổ phiếu đến cuối năm 2007 đạt 1.970 tỷ đồng. Trong đó, số vốn dùng để đầu tư cho chứng khoán được phân bổ 9,73% cho đầu tư cổ phiếu và chứng chỉ quỹ phần còn lại được phân bổ vào danh mục các loại trái phiếu.
Hoạt động quản lý rủi ro cũng được ngân hàng quan tâm đúng mức. Eximbank đã thành lập Uỷ ban quản lý tài sản Nợ quá hạn Có (ALCO) để xây dựng các hạn mức, giới hạn trong hoạt động kinh doanh, làm cơ sở để ban hành các công cụ quản trị rủi ro khá hữu hiện. Ngân hàng cũng đang kiện toàn hệ thống xử lý trung tâm, triển khai mở rộng hệ thống ứng dụng xử lý nghiệp vụ lõi đến toàn bộ các chi nhánh, phòng giao dịch trong hệ thống để đảm bảo tính đồng bộ của một kênh cung cấp sản phẩm dịch vụ qua toàn bộ mạng lưới các điểm giao dịch, đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống IT nhằm mở rộng và hoàn thiện các kênh phân phối điện tử và phát triển các phương tiện thanh toán ngân hàng hiện đại như thẻ thông minh, thanh toán qua Internet, điện thoại di động.
II.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG EXIMBANK
1. Quy chế đối với hoạt động bảo lãnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của Eximbank
1.1 Đối tượng bảo lãnh
Đối tượng được bảo lãnh trong hoạt động xuất nhập khẩu của ngân hàng Eximbank bao gồm:
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động tại Việt Nam
hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện hoạt động theo điều 94 Bộ Luật dân sự
Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Những đối tượng bị hạn chế không đựơc Eximbank xem xét bảo lãnh bao gồm:
Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại Eximbank, thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại ngân hàng, kế toán trưởng
Doanh nghiệp có một trong những đối tượng sở hữu trên 10% vốn đều lệ của doanh nghiệp đó.
1.2 Hình thức bảo lãnh và các loại bảo lãnh
Các hình thức bảo lãnh chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu của ngân hàng Eximbank bao gồm:
Thư bảo lãnh ( Letter of Guarantee hoặc Standby L/C): được sử dụng trong các trường hợp bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh quốc tế.
Mở L/C trả chậm (Deferred L/C): thường được áp dụng trong bảo lãnh vay vốn phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu trong đó Bên cho vay chính là bên bán thiết bị nước ngoài hoặc bên tài trợ cho Bên bán thiết bị nước ngoài.
Ký bảo lãnh trên Hối phiếu (Bill of Exchange) hoặc giấy nhận nợ (Promissory notes): thường được áp dụng trong bảo lãnh vay vốn phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
1.3 Điều kiện bảo lãnh
Điều kiện bảo lãnh của Eximbank phù hợp với các quy định trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN.
Điều kiện chung
- Có tư cách pháp nhân, thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
- Hoạt động kinh doanh có lãi.
- Có hợp đồng liên quan đến việc bảo lãnh
- Không có nợ quá hạn đối với ngân hàng, không có nợ quá hạn với nước ngoài, không có nợ thuế với ngân sách nhà nước tại thời điểm xin bảo lãnh.
- Có bảo đảm hợp pháp cho bảo lãnh theo yêu cầu của ngân hàng: có đủ tài sản thế chấp hợp pháp hoặc được bảo lãnh bằng tài sản thế chấp hợp pháp của bên thứ ba. Tài sản thế chấp là các động sản, bất động sản. Riêng đối với các doanh nghiệp nhà nước, việc sử dụng tài sản hình thành bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước để thế chấp phải được cơ quan tài chính cung cấp (chủ sở hữu, đại diện) đồng ý bằng văn bản. Theo quy định mới hiện hành thì tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận việc áp dụng hay không áp dụng các biện pháp đảm bảo tài cho bảo lãnh tuỳ thuộc vào đặc điểm của tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín của khách hàng.
- Có yêu cầu bảo lãnh của bên cho vay.
Điều kiện riêng
- Trường hợp bảo lãnh vay vốn XNK, Bảo lãnh thanh toánXNK, ngoài các qui định tại Điều kiện chung, khách hàng cần có thêm các điều kiện sau:
• Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán.
• Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất/kinh doanh khả thi, hiệu quả khi đề nghị bảo lãnh vay vốn.
• Đáp ứng các điều kiện đối với khách hàng vay vốn được qui định tại bản Hướng dẫn của ngân hàng về Quy chế cho vay đối với khách hàng.
• Trong trường hợp vay vốn nước ngoài, khách hàng phải thực hiện đúng các qui định của pháp luật về quản lý vay ._.c vấn đề ngoài thẩm quyền của ngân hàng.
1.2 Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm
Sản phẩm ở đây chính là dịch vụ bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp. Điều quan trọng trước mắt là ngân hàng phải đa dạng hoá các hình thức cấp bảo lãnh. Ngoài các hình thức bảo lãnh truyền thống như bảo lãnh L/C trả chậm, bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Eximbank cần chú trọng phát triển các hình thức bảo lãnh khác như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh bảo hành…hay các hình thức bảo lãnh liên quan đến chứng khoán để đáp ứng nhu cầu thị trường chứng khoán đang hoạt động hết sức sôi nổi. Bên cạnh đó, hình thức đồng bảo lãnh là giải pháp cho ngân hàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh những dự án, công trình lớn mà giá trị bảo lãnh vượt quá hạn mức được uỷ quyền, đồng thời hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Việc phát triển hình thức đồng bảo lãnh đòi hỏi ngân hàng phải thiết lậo được những mối quan hệ hợp tác tin cậy, đôi bên cùng có lợi với các ngân hàng khác.
Tuy nhiên, do khả năng đáp ứng các loại hình bảo lãnh giữa các ngân hàng là không có sự khác biệt lớn nên chất lượng dịch vụ bảo lãnh đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm ở đây là sự thuận tiện, chính xác, kịp thời trong quy trình nghiệp vụ, giải quyết đầy đủ các yêu cầu của khách hàng với mức phí hợp lý. Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là sự cạnh tranh phi giá, nhiều khi mức phí rẻ mà chất lượng phục vụ không tốt cũng không thu hút được khách hàng. ở một mức độ nào đó, các nhân tố như bề ngoài, sự giúp đỡ tận tình, thái độ lịch sự quan tâm tôn trọng khách hàng của nhân viên ngân hàng nhiều khi tạo nên ấn tượng tốt, nhận xét tích cực khi đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ của khách hàng.
1.3 Xây dựng một chiến lược giá cả phù hợp
Nếu so sánh bảng phí dịch vụ bảo lãnh của Eximbank với biểu phí của các ngân hàng khác thì sự khác nhau là không lớn do những quy định của ngân hàng Nhà nước về mức phí bảo lãnh. Do đó việc cạnh tranh về phí bảo lãnh là hạn chế. Tuy nhiên, do Eximbank và hầu hết các ngân hàng khác đều áp dụng chế độ phí do các bên thoả thuận không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh, nên ngân hàng cũng có thể thay đổi mức phí cho phù hợp với các đối tượng khách hàng, độ rủi ro nhằm thu hút khách hàng và tạo cơ hội cạnh tranh về giá với các ngân hàng khác vì các bảo lãnh khác nhau đều có những đặc điểm riêng, và các tổ chức với quy mô kinh tế khác nhau cũng như nhu cầu bảo lãnh ở các mức độ khác nhau. Thành phần đến đề nghị bảo lãnh ở ngân hàng có thể là các tổ chức kinh tế lớn như tổng công ty nhà nước, các công ty quy mô lớn, cũng có thể là các thành phần kinh tế nhỏ và cá nhân. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách định giá cho từng đối tượng này một cách hợp lý và tuỳ theo mức độ quan hệ với ngân hàng.Việc định giá đối với tổ chức kinh tế (khách hàng truyền thống) nên linh hoạt hơn và ưu đãi hơn đối với cá nhân(khách hàng mới, đã có sử dụng hoặc chưa sử dụng lần nào.
1.4 Xây dựng chiến lược giao tiếp, khuyếch trương hoạt động bảo lãnh
Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình để đứng ra đảm bảo cho các giao dịch. Do vậy ngân hàng cần tạo dựng một hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong khách hàng. Đội ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong chính sách giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng là phương pháp tuyên truyền, quảng cáo hiệu quả nhất về hình ảnh của ngân hàng. Ngân hàng cần củng cố và nâng cao chất lượng của mạng lưới phục vụ hiện có nhằm củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Chiến lược giao tiếp khuyếch trương sản phẩm cũng như hình ảnh về ngân hàng được thực hiện thông qua khâu bán hàng của các cá nhân, tuyên truyền, quảng cáo nhằm kích thích tiêu thụ. Để mở mang hoạt động của ngân hàng thì việc tuyên truyền quảng cáo về các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo lãnh trên các báo, tạp chí, phương tiện thông tin đại chúng là rất cần thiết. Trong tuyên truyền quảng cáo cần chú ý đến các đối tượng khách hàng của ngân hàng, các nhóm khách hàng thường xuyên và nhóm khách hàng tiềm năng để có thể lựa chọn phương pháp, phương tiện tuyên truyền quảng cáo cho phù hợp mà khách hàng thuận tiện và dễ dàng tiếp cận. Đồng thời ngân hàng cũng nên xác định ngân sách dành cho nhiệm vụ này bởi những hoạt động trên đều đòi hỏi một số chi phí nhất định.
2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các yêu cầu bảo lãnh
Công tác thẩm định cần dựa trên cơ sở kết hợp thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo đầy đủ và chính xác. Nên kết hợp công tác thẩm định với việc kiêm rtra, giám sát doanh nghiệp trong suốt thời gian bảo lãnh có hiệu lực. Cán bộ ngân hàng cần xem xét, kiểm tra và đánh giá 5 điều kiện quan trọng sau:
+ Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp
+ Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh chính
+ Khả năng quản lý, điều hành của chủ doanh nghiệp
+ Khả năng về tài chính và tài sản thế chấp
+ Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh cụ thể trong yêu cầu bảo lãnh
Trong năm điều kiện trên thì có hai điều kiện cần tập trung xem xét, nghiên cứu cụ thể:
- Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh:
Các cán bộ ngân hàng phải có đủ năng lực, kinh nghiệm và trung thực khi đánh giá, xem xét tính khả thi của dự án dựa trên các phương diện: yếu tố thị trường, yếu tố kỹ thuật, yếu tố tài chính. Bên cạnh đó, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án. Kết quả của việc thẩm định là tiêu chuẩn quan trọng để quyết định có cấp bảo lãnh cho khách hàng hay không.
- Khả năng về tài chính và tài sản thế chấp
Trước hết, khách hàng phải đáp ứng tỷ lệ ký quỹ theo quy định, còn lại sẽ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Đây là biện pháp để hạn chế và bù đắp rủi ro khi phát sinh thanh toán mà doanh nghiệp không đủ khả năng hoặc không chịu thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng.
Thông thường khi đến Eximbank xin bảo lãnh, khách hàng đều muốn ký quỹ ở mức tối thiểu theo quy định (thường là 5% trên tổng giá trị bảo lãnh). Đồng thời khách hàng phải thực hiện việc cầm cố, thế chấp thay cho việc ký quỹ 100%.
Cán bộ ngân hàng cần xem xét kỹ quyền sở hữu tài sản, công chứng của các cơ quan công chứng Nhà nước, tính chuyển nhượng của tài sản thế chấp. Việc cầm quản kho hàng (thay thế cho việc thế chấp các tài sản khác) chỉ được đặt ra trong trường hợp ngân hàng thực sự quản lý trực tiếp được kho hàng, tránh mang tính hình thức. Ngân hàng chỉ bảo lãnh tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố.
Đối với các tài sản thế chấp thuộc sở hữu Nhà nước của các doanh nghiệp Nhà nước khi đem đi cầm cố phải có văn bản xác nhận đồng ý của Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước.
Ngoài ra, để thực hiện tốt các giải pháp đề xuất trên đây, ngân hàng cũng cần nâng cao chất lượng công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Đây được coi là yếu tố quan trọng của công tác thẩm định dự án đầu tư. Hiện nay Eximbank đã có một phòng ban phụ trách về thông tin tín dụng song cũng phải thừa nhận rằng việc thu thập thông tin tín dụng nói chung và bảo lãnh nói riêng của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng, mất cân xứng và thiếu tin cậy, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả bảo lãnh. Để khắc phục được nhược điểm này đòi hỏi ngân hàng cần phải:
- Nâng cao chất lượng cán bộ và đào tạo cán bộ. Yêu cầu cán bộ chuyên trách làm thông tin tín dụng phải có trình độ về ngân hàng, tài chính, kinh tế, thông thạo máy tính và ngoại ngữ. Các cán bộ cần được tập huấn để biết cách thu thập, khai thác thông tin, biết phân tích và đánh giá về doanh nghiệp.
- Hoàn thiện chương trình quản lý, phân loại khách hàng, phân loại dư nợ bảo lãnh bằng hệ thống máy vi tính và qua các mạng thông tin điện tử khác.
- Tăng cường công tác thu thập, xử lý, lưu trữ và cung cấp thông tin để có thể đáp ứng nhu cầu của các chi nhánh một cách chính xác và kịp thời.
3. Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động bảo lãnh.
Công tác quản trị rủi ro nói chung và rủi ro trong hoạt động bảo lãnh là một nhân tố quan trọng tác động tới chất lượng hoạt động bảo lãnh của Chi nhánh. Bởi vậy, trong thời gian tới chi nhánh cần xây dựng một chương trình quản trị rủi ro bảo lãnh toàn diện:
Xác định hạn mức rủi ro bảo lãnh: Bộ phận nghiệp vụ quản trị rủi ro phải xác định hạn mức rủi ro cho nghiệp vụ bảo lãnh – là mức rủi ro nhất định mà chi nhánh có thể chấp nhận được trong nỗ lực có được lợi nhuận – trên cơ sở sẵn sàng chịu đựng rủi ro và sức mạnh tài chính của Chi nhánh.
Đánh giá rủi ro: Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro liên quan đến hoạt động bảo lãnh; phải có các chốt kiểm tra nằm trong quá trình nghiệp vụ bảo lãnh (hệ thống Kiểm soát nội bộ) để kiềm chế rủi ro bảo lãnh trong hạn mức đã được đề ra. Bên cạnh đó, xây dựng các biện pháp để theo dõi các trường hợp ngoại lệ vượt hạn mức rủi ro bảo lãnh.
Quy trình đánh giá rủi ro bao gồm có bốn yếu tố:
- Nhận biết rủi ro: Nhận biết rủi ro là khâu đầu tiên quan trọng trong quá trình đánh giá rủi ro. Các loại rủi ro bảo lãnh mà Chi nhánh có thể phải đối mặt cần được nhận biết thông qua việc phân tích đặc thù các loại hình bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp.
- Định lượng rủi ro: định lượng rủi ro là việc ngân hàng đề ra và xem xét lại hạn mức rủi ro bảo lãnh, từ đó xác định được loại rủi ro trong hoạt động bảo lãnh cần ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Có ba phương pháp ước lượng cơ bản:
+ Phương pháp thống kê: Bản chất của phương pháp này là dựa trên việc tính toán xác suất xảy ra thiệt hại đối với hoạt động bảo lãnh.
+ Phương pháp kinh nghiệm: phương pháp này được hình thành dựa trên kinh nghiệm của các chuyên gia.
+ Phương pháp tính toán – Phân tích: Phương pháp này dựa trên việc xây dựng đường cong xác suất thiệt hại và đánh giá rủi ro bảo lãnh dựa trên động thái biến thiên của đồ thị toán ứng dụng bằng phương pháp ngoại suy.
- Theo dõi rủi ro: Theo dõi rủi ro là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm soát, nhờ đó có thể theo dõi được mức rủi ro bảo lãnh.
- Kiểm soát rủi ro: Rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục nằm trong hệ thống kiểm soát nội bộ trong các quy trình bảo lãnh nhằm giảm thiểu rủi ro. Cần tìm ra sự cân bằng tối ưu giữa chi phí cho các thủ tục kiểm soát và lợi ích đem lại từ các thủ tục đó, từ đó lựa chọn các thủ tục kiểm soát rủi ro bảo lãnh phù hợp.
4. Tăng cường quỹ ngoại tệ tạo điều kiện bảo lãnh với nước ngoài
Trong sự vận động của thương mại toàn cầu và sự liên kết, hợp tác về kinh tế giữa các nước thì nhu cầu ngoại tệ của các doanh gnhiệp Việt Nam là rất lớn, vừa để khơi thông nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, vừa để tiến hành các giao dịch. Song có vay tất phải có trả. Các khoản bảo lãnh khi đến hạn sẽ phải thanh toán cho nước ngoài và khi đó, việc thu xếp đủ nguồn vốn ngoại tệ để thanh toán là một vấn đề nan giải nếu như ngân hàng không dự tính ngay từ lúc phát hành bảo lãnh. Chính vì vậy, với đặc điểm thị trường quốc tế như hiện nay, bảo lãnh L/C trả chậm và vay vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, việc tích luỹ ngoại tệ sẽ giúp cho Eximbank đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài, nâng cao uy tín của ngân hàng. Để có đủ nguồn ngoại tệ kinh doanh, ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng, thu hút doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán quốc tế tại ngân hàng mình.
- Duy trì và phát triển hiệu quả mạng lưới thu đổi ngoại tệ, rà soát lại các hợp đồng trao đổi, đồng thời thường xuyên kiểm tra các bàn đại lý để tăng nguồn thu ngoại tệ và tránh được hiện tượng tư nhân núp dưới danh nghĩa ngân hàng để kinh doanh ngoại tệ trái với quy định của pháp luật.
- Phát triển các dịch vụ ngân hàng khác để tăng thu ngoại tệ như dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ đổi tiền mặt ngoại tệ, séc du lịch…
5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Một mặt cần kiểm tra giám sát việc tuân thủ những quy định của ngân hàng Nhà nước và của ngân hàng Xuất nhập khẩu trong khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các cán bộ ngân khác. Mặt khác cũng cần thường xuyên giám sát quá trình thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp, đảm bảo việc doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm nếu có, đồng thời có kế hoạch chuẩn bị đáp ứng nguồn vốn trong trường hợp phải trả tiền theo yêu cầu của người nhận bảo lãnh. Ngân hàng cần từng bước hiện đại hoá công tác lưu trữ và quản lý hồ sơ bảo lãnh trên máy vi tính để các cán bộ bảo lãnh có thể kiểm tra các khoản bảo lãnh của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và chính xác.
6. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công cho ngân hàng. Họ là người trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách hàng, tiếp xúc, giao dịch với khách hàng. Đây cũng chính là người tạo ra hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng. Do vây, việc nâng cao năng lực trình độ, ý thức thái độ phục vụ khách hàng là nhân tố quan trọng tác động đến sự lựa chọn sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Đối với hoạt động bảo lãnh hiện nay thì việc cạnh tranh bằng mức phí bảo lãnh là hạn chế do những quy định về phí bảo lãnh của ngân hàng Nhà nước, vì vậy chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ sẽ là yếu tố hàng đầu giúp ngân hàng cạnh tranh thắng lợi.
Công tác đào tạo cán bộ cần tập trung vào các yêu cầu chính sau:
- Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước kết hợp với việc đào tạo tại chỗ. Cần tập trung vào việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, sự hiểu biết về các luật và quy tắc áp dụng trong giao dịch bảo lãnh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động giao dịch với các đối tác nước ngoài. Điều này sẽ giúp ngân hàng hạn chế được các rủi ro không lường trước được do môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp.
- Bồi dưỡng, nâng cao ý thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm khi phục vụ khách hàng. Mọi nhân viên cũng như các cán bộ lãnh đạo phải luôn ý thức được rằng lợi ích của khách hàng cũng chính là lợi ích của ngân hàng. Thái độ nhiệt tình, phục vụ chu đáo, chính xác chính là những yếu tố làm hài lòng khách hàng và tạo ấn tượng tốt về ngân hàng.
- Hình thức đào tạo không chỉ là việc cử đi học mà có thể thông qua các phong trào, hội thi tại đơn vị và giữa các đơn vị giúp cho cán bộ công nhân viên bổ sung kiến thức, tạo ra bầu không khí làm việc sôi nổi, đoàn kết trong ngân hàng, khuyến khích việc tự học, tự nghiên cứu khoa học nâng cao trình độ, có biện pháp khen thưởng, khuyến khích về vật chất và tinh thần xứng đáng cho các cá nhân và tập thể có sáng kiến cải tiến trong công việc.
- Tổ chức, phân công, sử dụng đúng người đúng việc, đảm bảo phát huy hết năng lực bảo lãnh của cán bộ, mạnh dạn sử dụng những cán bộ trẻ có năng lực đặc biệt trong lĩnh vực mới đòi hỏi sự nhanh nhậy và óc sáng tạo. Nội lực của ngân hàng chính là đội ngũ cán bộ công nhân viên. Phát huy hết tiềm năng sẵn có này sẽ đem lại sức mạnh cạnh tranh cho Eximbank trên thương trường.
7. Tiêp tục công tác hiện đại hoá ngân hàng
Bao gồm việc áp dụng các quy trình công nghệ mới hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung, nhất là công nghệ thông tin ngân hàng, nhằm cung cấp cho cán bộ bảo lãnh những nguồn thông tín cập nhật, đầy đủ, chính xác và kịp thời, giúp cán bộ tín dụng có được những thông tin cần thiết trong việc thẩm định và đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên quan tâm đến cơ sở vật chất, kỹ thuật trang thiết bị nhằm nâng cao hình ảnh của ngân hàng và tăng tiện ích cho khách hàng.
III. KIẾN NGHỊ
1. Đối với chính phủ và các cơ quan nhà nước
Mọi hoạt động của các doanh nghiệp, ngân hàng đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Pháp luật quy định càng cụ thể, chặt chẽ thì hoạt động kinh doanh càng ít phát sinh tranh chấp, lừa đảo. Vì vậy, chính phủ cần ban hành luật sở hữu tài sản, các văn bản dưới luật liên quan đến sở hữu tài sản như cấp chứng thư sở hữu, đăng ký, chuyển nhượng, xác nhận…, cũng như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các bộ, ngành cần nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về đấu thầu, quy chế quản lý đầu tư và xây dựng để hạn chế rủi ro như giải ngân vốn đầu tư chậm trễ, không đúng thời hạn và đầy đủ.
Các luật của Việt Nam như Luật dân sự, Luật thương mại, Luật các tổ chức tín dụng đều đề cập và đưa ra khái niệm, định nghĩa về bảo lãnh nhưng vẫn chỉ giới hạn trong việc nêu ra bản chất, nguyên tắc chung của nó. Các cơ quan ban hành pháp luật cần kết hợp với các cơ quan chuyên môn nhu Ngân hàng Nhà nước, Bộ công thương, các ngân hàng thương mại để đưa ra Luật về bảo lãnh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh.
Chính phủ và các bộ ngành cũng cần có các văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về tài sản thế chấp, xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng, đặc biệt là vấn đề tài sản thế chấp của các doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù Bộ tài chính cho phép các doanh nghiệp được sử dụng tài sản thuộc sở hữu nhà nước để thế chấp trong bảo lãnh, nhưng việc thế chấp tài sản hầu như chỉ mang tính hình thức, vì thực tế các ngân hàng không thể phát mại được, gây rủi ro cho ngân hàng. Vì thế Chính phủ có thể xem xét việc xoá bỏ việc thế chấp tài sản đối với doanh nghiệp khi yêu cầu bảo lãnh. Tương tự như hoạt động cho vay, việc ra quyết định cấp bảo lãnh hay không sẽ hoàn toàn dựa vào tính khả thi, độ an toàn của dự án hoặc cho phép thế chấp bằng chính tài sản hình thành trong dự án; cho phép các ngân hàng được phép phát mại tài sản mà doanh nghiệp nhà nước cầm cố, thế chấp theo quy định của pháp luật. Chính phủ cũng cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, xác định rõ quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp với tài sản đem đi thế chấp. Việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về bất động sản, hình thành thị trường bất động sản có sự quản lý của nhà nước cũng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng giải toả nhanh chóng tài sản thế chấp để thu hồi lại vốn.
Chính phủ cần củng cố hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là việc thành lập cũng như phá sản, biến mất của các doanh nghiệp, quản lý một cách hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, ban hành các văn ban luật về kiểm toán kê toán trong doanh nghiệp kinh tế; Thường xuyên giám sát tình hình thực hiện các nguyên tắc kế toán sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh những hành vi gian lận và lừa đảo trong kế toán và báo cáo tài chính cũng như các gian lận trong việc lập các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo bảo lãnh.
Công khai hoá các thông tin tài chính, báo cáo tài chính, tạo ra một môi trường kinh doanh trong sáng, lành mạnh không chỉ trong hệ thống doanh nghiệp mà còn trong hệ thống ngân hàng thương mại.
2. Đối với ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng nhà nước không cần quy định cụ thể về mức phí, hạn mức bảo lãnh trong quy chế mà có thể để các ngânhàng thương mại chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Ngân hàng nhà nước chỉ cần tập trung quản lý vĩ mô, kiểm tra giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua quy định về quỹ bảo lãnh và ký quỹ bảo lãnh.
Ngân hàng nhà nước cần ban hành cụ thể về bảo lãnh và trích lập quỹ bảo lãnh đối với nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, quy định khách hàng phải ký quỹ tại ngân hàng thương mại như thế nào, cũng như việc trích lập quỹ bảo lãnh, sử dụng quỹ, bởi vì hiện nay các ngân hàng thương mại đều vận dụng theo quy chế nghiệp vụ bảo lãnh đối ngoại để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối nội.
Ngân hàng nhà nước cũng cần nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp chính xác, kịp thời theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng. Phát triển Trung tâm Thông tin tín dụng CIC của NHNN: Hệ thống Thông tin tín dụng sử dụng hiệu ứng “đẩy” và hiệu ứng “chặn” để thu hẹp phạm vi lựa chọn khách hàng tín dụng cũng như để giải quyết vấn đề về rủi ro đạo đức. Với hiệu ứng chặn, nó giúp ngăn chặn những khách hàng xấu trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng. Với hiệu ứng đẩy thì ngược lại, nó giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với tín dụng ngân hàng với mức chi phí hợp lý. Đặc biệt nó hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi cơ cấu người vay từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. Như vậy, CIC hoạt động hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh.
3. Đối với Eximbank-ngân hàng bảo lãnh
Ngân hàng cần xây dựng quy trình nghiệp vụ bảo lãnh cụ thể để các chi nhánh có cơ sở thực hiện, cải tiến thủ tục cấp bảo lãnh nhanh chóng thuận tiện cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo an toàn khi thực hiện.
Quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác hiện đại hoá toàn bộ hệ thống, ứng dụng công nghệ hiện đại, thực hiện mối liên qua chặt chẽ giữa các chi nhánh, qua đó dễ dàng cho công tác truyền tin và cập nhật thông tin khi cần thiết, cũng như tạo ra sự hỗ trợ kịp thời giữa các chi nhánh khi có vấn đề xảy ra. Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra kiểm tra hệ thống Eximbank Việt Nam
4. Đối với doanh nghiệp-người được bảo lãnh
Các nghiệp vụ của ngân hàng chính là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong hoạt động bảo lãnh, khi phát sinh rủi ro thì người chịu thiệt chính là các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn, dựa trên nhu cầu của thị trường, lựa chọn đối tác kỹ càng, có tín nhiệm trước khi ký kết hợp đồng. Doanh nghiệp cần nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, năng lực đánh giá dự án về trình độ ngoại ngữ, luật pháp, sự hiểu biết về các quy tắc và thông lệ quốc tế trong giao dịch thương mại quốc tế. Việc tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng trước khi ký kết hợp đồng ngoại thương hay hợp đồng vay vốn nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế được rất nhiều rủi ro. Doanh nghiệp cũng cần nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của ngân hàng về ký quỹ, tài sản thế chấp, và cần có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng và trong cam kết xin bảo lãnh với ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trong hơn mười năm nghiệp vụ bảo lãnh được phát triển tại Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng đã khẳng định được vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường, đem lại thu nhập, góp phần đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ như hiện nay.
Trước tình hình đó, có thể nói, cho đến nay ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam đã phát huy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng, phát huy được vai trò chủ lực của một ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự đổi mới và hội nhập, ngân hàng phải luôn nâng cao cả về chất và lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chuẩn bị một cách tốt nhất cho tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trong bài viết đã đưa ra được phần nào thực trạng hoạt động bảo lãnh và đưa ra được một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam. Nhưng do thời gian tìm hiểu thực tế, trình độ còn hạn chế, và dưới góc độ phân tích của một sinh viên bài viết của em còn có nhiều thiếu sót là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ và bổ sung từ phía thầy cô.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn thầy giáo TS. Bùi Huy Nhượng cùng toàn thể các cô, các chú, các anh, các chị tại Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam – Chi nhánh Long Biên đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đinh Xuân Trình- Giáo trình thanh toán quốc tế - Nhà xuất bản Lao động xã hội-2006
Học viện Ngân hàng - Giáo trình tín dụng ngân hàng – Nhà xuất bản Thống kê 2001.
Học viên Ngân hàng - Quản trị ngân hàng– Nhà xuất bản Thống kê 2001.
Báo cáo kết quả bảo lãnh và kinh doanh của Eximbank Việt Nam các năm 2002, 2003, 2004, 2005 và 2006.
Lê Hồng Tâm, Bàn thêm về vai trò, chức năng của bảo lãnh ngân hàng, Tạp chí Ngân hàng - Số 10 tháng 7/2003.
Lê Hồng Tâm, Các hình thức và nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, Tạp chí Tài chính - số 4 tháng 7+8/2003.
Lê Hồng Tâm, Nghiệp vụ bảo lãnh - nguồn tài trợ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Tạp chí Thương mại - Số 26 tháng 7/2003.
Lê Hồng Tâm, Rủi ro vay vốn ngoại tệ và sự lựa chọn nghiệp vụ bảo lãnh, Tạp chí Thương mại - Số 32 tháng 9/2003.
Lê Hồng Tâm, Về thực trạng bảo lãnh tại các NHTM Nhà nước, Tạp chí Ngân hàng - Số Chuyên đề, tháng 6/2003.
Luật các Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia.
Nguyễn Trọng Thuỳ- Bảo lãnh tín dụng dự phòng và những điều luật áp dụng- Nhà xuất bản Thống kê, 2000.
Quy chế bảo lãnh ngân hàng - Ban hành kèm theo Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN.
Trần Bùi Quốc Huệ, Nhận diện rủi ro trong bảo lãnh xây dựng và giải pháp phòng ngừa, Tạp chí Ngân hàng - Số 8 năm 2004.
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................................................................................................
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28576.doc