Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam

Lời nói đầu Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, ngành Ngân hàng luôn có một vị trí quan trọng, và vai trò của nó càng vô cùng to lớn hơn trong một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay. Trong đó phải kể đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì nước ta phải trải qua 2 cuộc kháng chiến, sau khi giành được thắng lợi, đất nước được độc lập lúc đó ta mới có điều kiện xây dựng kinh tế. Các doanh nghiệp phần lớn đều bước vào thương trường với kiến thức kinh do

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh ít ỏi, công nghệ nghèo nàn lạc hậu, hơn nữa đất nước ta duy trì chế độ bao cấp quá lâu càng khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trì trệ kém hiệu quả. Điều đó đương nhiên cũng dẫn tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là kém, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự bươn chải làm ăn, nền kinh tế phát triển hơn lên và hoạt động cho vay của ngân hàng thực sự phát huy được hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần phát triển kinh tế đất nước, tạo ra những động lực mới cho cải cách kinh tế, dẫn đến sự hình thành và phát triển đa dạng nhiều loại ngành nghề, hình thức kinh doanh. Đặc biệt trong những năm gần đây theo chủ trương của Chính phủ, ngân hàng đã mạnh dạn cho vay các thành phần kinh tế mới như Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân... tạo điều kiện cho họ phát triển, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các hình thức bảo đảm tiền vay đã đa dạng hơn xưa: người vay có thể bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3; kể cả bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Về phía ngân hàng bao giờ vấn đề hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay cũng phải được đưa lên hàng đầu. Có như thế ngân hàng mới thu hồi được vốn và có lãi, trang trải chi phí; rồi lại tiếp tục sử dụng vốn quay vòng phát huy được hiệu quả. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào tiền vay cũng thu hồi lại được đầy đủ và có lãi, vì có rất nhiều nguyên nhân từ môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của Nhà nước, … và một phần không nhỏ về phía cán bộ ngân hàng đã không xem xét thẩm định tốt dự án trước khi cho vay, vấn đề nắm bắt thông tin thị trường. Người đi vay nhiều khi khai báo không đúng sự thật, khai khống, làm nhiều hồ sơ giả để vay nhiều hơn, xem xét phương án kinh doanh của mình chưa kỹ càng … Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp là những ví dụ điển hình cho hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Ngày nay nó càng trở thành thời sự hơn trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước. Mục đích của đề tài này người nghiên cứu muốn đề cập đến hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực trạng và hiệu quả hoạt động này tại Sở đang diễn ra như thế nào, nghiên cứu và đề xuất khắc phục, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Sở nói riêng và hoạt động ngân hàng cả nước nói chung. Chương I Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại: Định nghĩa: NHTM là một tổ chức kinh doanh mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng (không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành séc), về trách nhiệm là phải hoàn trả số tiền đó và sử dụng số tiền đó để: đầu tư, cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM: Bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ môi giới trung gian. Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản, ngoài ra còn có các dịch vụ khác không tổng kết trên bảng tài sản như bảo lãnh, cho thuê két sắt, tư vấn … Ba nghiệp vụ trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau để hình thành hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào hoạt động ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. *Nghiệp vụ nợ (nghiệp vụ tạo lập vốn): Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng. Về sau khi NHTM đã ổn định các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động. Huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Một ngân hàng không thể hình thành, lớn mạnh và phát triển mà lại không đặt vấn đề huy động vốn lên hàng đầu. NHTM là người đi vay, tài sản nợ bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho ngân hàng, hay ngân hàng đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương(NHTW), các ngân hàng hay tổ chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp … - Tài sản nợ của NHTM tập trung vào 5 nhóm phổ biến: 1) Vốn pháp định hay vốn điều lệ, 2) Tiền gửi không kỳ hạn, 3) Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) Các khoản vay trên thị trường tiền tệ, 5) Các khoản vay của các ngân hàng khác hoặc NHTW. Vốn pháp định là điều kiện bắt buộc ban đầu trước khi ngân hàng được phép khai trương (hay còn gọi là vốn điều lệ) và được ghi rõ trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do ngân hàng Nhà nước công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động. Vốn điều lệ sẽ được bổ sung và tăng dần dưới các hình thức: huy động thêm vốn từ các cổ đông, ngân sách cấp lợi nhuận bổ sung … Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị … cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các Công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy đến khi hoạt động, vốn điều lệ của ngân hàng có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ hay ký quỹ tại NHTW, hoặc đã đầu tư vào một thương vụ nào đó. ở Việt Nam để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của ngân hàng Nhà nước. Nguồn vốn pháp định của mỗi ngân hàng do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định, nghĩa là nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp hoặc có thể do huy động trong xã hội. Việt Nam ta quy định như sau: * Nếu là NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu. * Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định (vốn điều lệ) do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu. * Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của các ngân hàng tham gia liên doanh. Ngoài vốn pháp định (vốn điều lệ), NHTM còn có các quỹ dự trữ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng: Quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi … Toàn bộ các nguồn vốn này được gọi vốn tự có của ngân hàng, nhưng nó lại vô cùng quan trọng vì qua đó mọi người có thể thấy được thực lực, quy mô của ngân hàng và vì nó lại là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Theo đà phát triển, vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có chỉ là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng. Ngày nay các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng dựa trên cơ sở vốn vay mượn (nghiệp vụ kỹ thác, vay các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, phát hành các giấy tờ có giá …) tỷ lệ giữa vốn vay mượn và vốn tự có có thể từ 1/10 đến 1/100. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy mô tài sản có. Vốn tự có càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng có nhiều cơ hội làm ra tiền hơn. Vốn tự có có 3 chức năng: Chức năng bảo vệ (sự bảo đảm thanh toán cho người ký thác khi vỡ nợ, góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động); chức năng hoạt động (xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng); chức năng điều chỉnh (thoả mãn các cơ quan quản lý ngân hàng: xem xét cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư và mua sắm tài sản của ngân hàng). - Nghiệp vụ ký thác: Do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng; theo 2 mục đích: hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ, thứ hai là lấy lãi suất như các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay vào các tài khoản định kỳ (trong trường hợp này thì khách hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để thanh toán chẳng hạn). Ký thác của ngân hàng chủ yếu từ 2 nguồn: Từ doanh nhân và từ dân cư. Luật pháp quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi nhận ký thác và chính nghiệp vụ ký thác còn cung cấp một tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác. Về phương diện pháp lý, NHTM trở thành người bảo quản các số tiền gửi dưới bất kỳ hình thức nào và được quyền sử dụng các số tiền đó trong các nhu cầu hoạt động chuyên môn của mình, nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm hoàn lại vốn trong các điều kiện đã được quy định. Các khoản tiền ký thác được phân loại thành: Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn. - Nghiệp vụ đi vay: Sau khi đã sử dụng hết vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có thể vay ở NHTW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài … Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. * Nghiệp vụ có: Huy động được vốn rồi thì NHTM phải tìm cách để hiệu quả hoá những tài sản này. Hầu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lời, có thu được lãi ngân hàng sẽ trả lãi cho vốn đã vay, thanh toán cho các chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thị trường nợ ngân hàng hoặc là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay. Ngân hàng là chủ nợ và các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM và thường được quy về các nhóm sau: - Dự trữ tiền mặt bao gồm tiền mặt tại kho của ngân hàng và tiền mặt ký gửi tại NHTW. - Đầu tư vào chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu) - Cho vay - Đầu tư vào các loại tài sản (như bất động sản, cơ sở hạ tầng trang thiết bị …) * Nghiệp vụ môi giới trung gian: Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các ngân hàng những chứng khoản thu nhập khá quan trọng. Các dịch vụ ngân hàng sẽ giúp ngân hàng phát triển toàn diện. Hiện nay, để cạnh tranh với nhau các NHTM không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, cung cấp tiện nghi cho khách hàng, tạo thêm những hình thức dịch vụ mới, tạo sự phong phú đa dạng hoạt động kinh doanh.Dịch vụ ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau, chủ yếu là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như sau: - Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một ngân hàng hay ở 2 ngân hàng khác nhau, thông qua các công cụ như séc, lệnh chi, thẻ chi trả. - Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản. - Dịch vụ trả lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp chỉ cần gửi bảng lương qua ngân hàng, theo đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản doanh nghiệp đó và tiến hành chi lương cho những người có tên trong danh sách tiền lương. - Dịch vụ chuyển tiền tự địa phương này sang địa phương khác. - Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi đến như: trả tiền điện, nước, điện thoại, thuê nhà … Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi đi thanh toán các khoản này. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại: Là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở các nước đang phát triển (cả Việt Nam) khi cho vay ngắn hạn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn. Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng của NHTM xét về mặt pháp lý có thể phân thành 3 loại: Cho vay ứng trước, Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền, và cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký). Mỗi loại cho vay có đặc thù riêng, thủ tục pháp lý khác nhau, mức độ an toàn khác nhau. + Cho vay tiền: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả theo thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay tiền cũng được gọi là loại cho vay ứng trước: thông qua sự thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay, dựa trên các phương án kinh doanh người đi vay trình cho người cho vay; bên cạnh đó khoản vay còn được đảm bảo bằng tài sản của người đi vay. Loại cho vay này chứa đựng rủi ro cao vì thiếu cơ sở đảm bảo bằng những hành vi thương mại đã được thực hiện, nghĩa là khách hàng nhận tiền vay sau đó mới đưa tiền đó vào sử dụng. Khách hàng trong trường hợp này có thể sử dụng tiền trái mục đích ghi trên khế ước vay do đó tạo rủi ro cho ngân hàng (rủi ro đạo đức). Loại cho vay này dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: - Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng, nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản. - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của ngân hàng. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ; đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Khi thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. - Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo: Tài sản này có thể là hình thành từ vốn vay ngân hàng, là tài sản của người đi vay hoặc còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ 3. Có các loại đảm bảo tín dụng: * Đảm bảo đối nhân: Là sự cam kết của một hay nhiều người về việc phải trả nợ thay cho ngân hàng thay cho một khách hàng khi khách hàng này không hoàn trả được nợ cho ngân hàng. Người đứng ra bảo lãnh phải thoả mãn các điều kiện sau: có đủ năng lực pháp lý, đủ năng lực tài chính lành mạnh, có khả năng trả nợ thay cho người vay vốn, phải có tài sản thế chấp, cầm cố. Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản pháp lý gọi là hợp đồng bảo lãnh. Hợp đồng đó phải có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân quận, thị xã thuộc tỉnh, thành phố. * Đảm bảo đối vật: Có 2 hình thức là thế chấp tài sản và cầm cố tài sản. Thế chấp tài sản là việc bên vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay. Bên đi vay vẫn tiếp tục sử dụng tài sản thế chấp và chỉ giao cho bên cho vay giấy chủ quyền của tài sản đó. Còn cầm cố tài sản là việc bên đi vay có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu cuả mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. + Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền: Chủ yếu dựa trên cơ sở mua bán các công cụ tài chính (hối phiếu, lệnh phiếu, ký hoá phiếu …) tạo ra nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu. Ngân hàng không phải cho vay mà là được mua một trái phiếu về phương diện pháp lý, việc thu nợ có cơ sở vững chắc. Chiết khấu thương phiếu đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro so với cho vay ứng trước. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền là kết quả của việc thanh toán trước hạn một khoản trái quyền hay 1 chứng phiếu mà quyền sở hữu đã được chuyển giao cho ngân hàng, đó chủ yếu là hình thức chiết khấu thương phiếu và chuyển nhượng khoản cho vay nghề nghiệp. + Tín dụng qua chữ ký (cho vay qua cam kết bằng chữ ký): Ngân hàng không ứng tiền ra mà chỉ cam kết sẽ trả một khoản nợ của khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả được. Chính vì lý do bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình mà người ta gọi là hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng qua chữ ký. Bảo lãnh là đưa ra những cam kết của ngân hàng dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo dõi ở ngoài bảng, chứ thực tế là không (hoặc chưa) phải sử dụng ngay vốn để cho vay như các loại tín dụng thông thường. Có 2 loại: bảo lãnh ngân hàng và tín dụng chấp nhận. Bảo lãnh ngân hàng là hình thức rất quan trọng trong thực tiễn bởi vì nó là điều kiện rất hay phải có để một số người thụ trái được trả chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc. Chẳng hạn như cơ quan hải quan yêu cầu phải có sự bảo lãnh của ngân hàng để cho phép chậm trả, hoặc chính quyền các cấp đòi hỏi phải có bảo lãnh ngân hàng để giao phó đơn hàng. Còn tín dụng chấp nhận, ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính ngân hàng và ngay trước khi hối phiếu đến hạn, khách hàng phải nộp vào ngân hàng số tiền cần thiết để thanh toán. Như vậy ngân hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc. Việc chấp nhận này cho phép chủ nợ có được một chứng từ đảm bảo được thanh toán bởi khả năng thanh toán của ngân hàng đã đứng ra chấp nhận. Ngoài 3 loại cho vay trên, NHTM còn có các loại cho vay khác như cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay cầm cố, hùn vốn kinh doanh, các nghiệp vụ liên kết tín dụng … Nguyên tắc bảo đảm tiền vay, các hình thức đảm bảo tiền vay: Nguyên tắc bảo đảm tiền vay: + TCTD có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm, chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp TCTD Nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được chính phủ xử lý. + Khách hàng vay được TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay TCTD phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn. + TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. + Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. Hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản: Là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. + Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: Các tài sản cầm cố, thế chấp phải hội tụ đủ các điều kiện sau: -Thuộc sở hữu của khách hàng vay. Trường hợp tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì khách hàng vay phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Đối với quyền sử dụng đất khách hàng vay phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp Nhà nước quản lý, sử dụng, doanh nghiệp được cầm cố, thế chấp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước và pháp luật khác có liên quan . -Được phép giao dịch: nghĩa là pháp luật cho phép hoặc không cấm mua, bán, tặng, cho, chuyển nhượng, chuyển đổi, cầm cố, thế chấp và các giao dịch khác. -Không có tranh chấp: tài sản không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ hợp pháp trong quan hệ pháp luật tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Khách hàng vay phải cam kết bằng văn bản với TCTD về việc tài sản cầm cố, thế chấp không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình . -Nếu pháp luật quy định tài sản nào phải bảo hiểm thì khách hàng vay phải mua bảo hiểm tài sản trong thời hạn bảo đảm tiền vay + Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3: Điều kiện tài sản được phép bảo lãnh cũng tương tự như đối với tài sản cầm cố, thế chấp TCTD có quyền lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản (gọi là bên bảo lãnh) để bảo lãnh cho khách hàng vay. Bên bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau: - Có năng lực pháp luật dân sự đối với bên bảo lãnh là pháp nhân; có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự đối với bên bảo lãnh là cá nhân. - Có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện được nghĩa vụ bảo lãnh + Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với TCTD. Điều kiện đối với khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay : -Đối với khách hàng vay: Có tín nhiệm đối với tổ chức tín dụng Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi; có khả năng hoàn trả nợ hoặc có dự án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật . Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án -Đối với tài sản : Phải xác định được quyền sở hữu hoặc được giao quyền sử dụng; giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Nếu tài sản là bất động sản gắn liền với đất thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư, xây dựng theo quy định của pháp luật . Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành, đưa vào sử dụng . Hình thức đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: + TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản: -Điều kiện đối với khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản : Có tín nhiệm đối với TCTD cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản quy định tại điểm này -Đối với khách hàng vay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện trên còn phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay + TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ: TCTD Nhà nước cho vay không có bảo đảm đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế – xã hội và đối với một số khách hàng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ -Trách nhiệm của TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ Thực hiện đúng các quy định của Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ đối với khoản cho vay được chỉ định và tuân thủ các quy định của pháp luật trong quy trình xem xét cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay và thu hồi nợ cả gốc và lãi Tổ chức theo dõi riêng các khoản cho vay theo chỉ định và báo cáo tình hình sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi nợ, kiến nghị xử lý những tổn thất trong các trường hợp không thu hồi được nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 25 NĐ 178/1999/NĐ -CP -Trách nhiệm của khách hàng vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ : Thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng Thực hiện đúng các quy định của Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ khi sử dụng vốn vay đối với khoản vay theo chỉ định Chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tổn thất trong việc sử dụng vốn vay do những nguyên nhân chủ quan của mình gây ra. + TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội: -Tổ chức đoàn thể chính trị xã hội tại cơ sở của Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao Động Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu Chiến Binh VIệt nam được thực hiện bảo lãnh bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn tại các TCTD -Người được bảo lãnh là cá nhân, hộ gia đình nghèo là thành viên của một trong các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội quy định tại điểm trên khi vay một khoản tiền nhỏ tại TCTD để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ -Mức vay tối đa do ngân hàng Nhà nước Việt nam quy định trong từng thời kỳ -Việc bảo lãnh này phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ các nội dung: số tiền vay, mục đích vay, nghĩa vụ của người vay, TCTD cho vay và tổ chức bảo lãnh. Quan niệm về hiệu quả bảo đảm tiền vay: NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, mục tiêu hoạt động thì nhiều và hiệu quả bảo đảm tiền vay là một trong những mục tiêu quan trọng ngân hàng luôn hướng tới. Có thu hồi được nợ cho vay, có lãi; ngân hàng mới tiếp tục có vốn để tái sản xuất, không ngừng nâng cao uy tín và chất lượng của mình trên thương trường, tìm tòi ra những hình thức dịch vụ mới phục vụ khách hàng được tốt hơn; từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển chính là mục tiêu hoạt động ngay từ khi NHTM mới thành lập. Nhưng dù cho ngân hàng có thẩm định dự án vay vốn của khách hàng, đánh giá phương án sản xuất kinh doanh, phân tích tài chính khách hàng tốt đến đâu đi chăng nữa vẫn không thể nói là có sự hoàn hảo, ngoài ra còn kể đến những sự biến đổi thị hiếu, nhu cầu đột ngột của người tiêu dùng, ảnh hưởng thời tiết, những biến động kinh tế trong và ngoài nước chưa thể lường hết được. Bản thân khách hàng khi vay vốn ngân hàng họ không hề có ý định trốn tránh trách nhiệm trả nợ vay của mình đối với ngân hàng nhưng họ bị lâm vào những tình huống bất ngờ, mất khả năng trả nợ cho ngân hàng từ đó trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Hiệu quả bảo đảm tiền vay tốt biểu hiện ngân hàng cẩn thận, có trách nhiệm cao trong hoạt động của mình, tất cả các khâu từ thẩm định, đánh giá, phân tích tài chính cho đến ước lượng trước được những biến động trong tương lai (chỉ là tương đối). Điều này cũng biểu hiện là ngân hàng hiểu khách hàng và công việc của họ có trách nhiệm với khoản cho vay của mình, chịu khó thâm nhập tìm hiểu kỹ thị trường. Thu hồi được nợ cho vay để tái cho vay, tránh được tình trạng thua lỗ, kể cả nguy cơ bị đổ vỡ, tránh gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. Và điều quan trọng nhất là hiệu quả đảm bảo tiền vay tốt thì ngân hàng mới có tiền để trả nợ trả lãi cho những người gửi tiền, cho những tổ chức, đoàn thể, cho các khoản vay từ NHTW và các TCTD khác. Từ đó mới có thể tiếp tục thu hút huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình không ngừng phát triển. Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố,thế chấp là những biện pháp của ngân hàng nhằm thu hồi lại được nguồn vốn của mình,vì phòng khi khách hàng vay không có khả năng hoàn trả lại món nợ vay thì lúc đó ngân hàng còn nắm giữ tài sản cầm cố, thế chấp của họ; ngân hàng có quyền được đem những tài sản đó ra phát mại thu hồi lại khoản đã cho vay. Biện pháp này giảm thiêủ rủi ro cho phía ngân hàng. Hiện nay ở Việt nam có xu hướng tất yếu đang diễn ra là sự phát triển nhanh của hệ thống các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :nhiều doanh nghiệp này rất muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhưng họ lại thiếu vốn tiền mặt . Điều kiện duy nhất dể họ có thể vay vốn từ ngân hàng là phải có tài sản cầm cố, thế chấp.Những tài sản cầm cố, thế chấp này phần lớn thường là tài sản có giá trị sử dụng cao, hoặc nhà cửa, đất đai, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất .Khi nhận những tài sản này ngân hàng cùng với khách hàng định giá chúng cho đến khi hai bên cùng thống nhât được giá trị đảm bảo của tài sản đó .Trước mắt thì ngân hàng rất yên tâm vì giá nhà đất, giá máy móc trên thị trường lúc đó đúng thực là thế,và ngân hàng đã giảm thiểu tối đa rủi ro bằng cách chỉ cho vay một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị của tài sản đó. Nhưng những khó khăn về sau mới xuất hiện: đó là khi khách hàng không có khả năng trả nợ, hết hạn mà cũng vẫn chưa trả ngân hàng đem tài sản đó ra phát mại thì phần lớn thường vào lúc giá trị của chúng trên thị trường bị suy giảm. Như nhà đất chẳng hạn, giá cả loại bất động sản này lên xuống thất thường theo thời gian, theo thị trường,theo quy hoạch; ngân hàng không thể nắm bắt và theo dõi sát sao được sự biến động này,dẫn đến phần ._.lớn khi phát mại ngân hàng phải chấp nhận thu hồi chỉ được một phần nhỏ giá ngân hàng đưa ra ban đầu ; đó là chưa kể đến hàng loạt các chi phí khác ngân hàng phải bỏ ra như chi phí cưỡng chế thu hồi nhà đất trong trường hợp người vay liều lĩnh bất chấp không giao nhà cho ngân hàng, chi phí cho việc cung cấp tạm nơi cư trú cho họ, chi phí cho công chứng,toà án .... Còn đối với thiết bị máy móc dây chuyền sản xuất là tài sản cầm cố, thế chấp; giá trị của những tài sản này cứ bị hao mòn đi một cách vô hình theo sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ .Máy móc sau hiện đại hơn, tinh vi và hiệu quả hơn so với máy móc cũ và vô hình chung đẩy giá trị của máy cũ ngày càng giảm đi. Để đối phó lại các chủ doanh nghiệp phải tận dụng được máy móc từng ngày từng giờ, phát huy hết hiệu quả công suất của máy; đến khi ngân hàng nhận tài sản cầm cố thế chấp để phát mại thì ngay bản thân máy móc đó cũng đã quá sập xệ, hao mòn hữu hình rồi. Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thể chấp không phải chỉ có những khó khăn trên mà ngay trong thực tế còn nhiều vấn đề phát sinh nữa ngay từ trong những văn bản về hoạt động này .Các văn bản chồng chéo lên nhau giữa các Bộ, ngành, Chính phủ và cả Ngân hàng Nhà Nước; thậm chí có nơi xử ký theo kiêủ này, nơi kia xử ký theo kiểu khác vì sự hiểu và vận dụng khác nhau. Nhưng chung quy lại cái thiệt nhìn thấy rõ nhất vẫn là về phía ngân hàng . Nâng cao hiệu quả đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp chính là việc tìm ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động này, tìm giải pháp bình ổn thị trường giá cả, tăng thêm quyền tự chủ hơn nữa cho các NHTM, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui trong hoạt động ngân hàng .Điều này càng thiết thực hơn trong giai đoạn hiện nay khi ngành ngân hàng đang nỗ lực để có một sự biến đổi vượt bậc, một bước cải cách trong toàn hệ thống nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên, hội nhập với khu vực và thế giới . chương ii Thực trạng đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam. khái quát về sở gD I-NHCTVN: Chức năng, nhiệm vụ của Sở GD I-NHCTVN: Có vị trí tại số 10 Lê Lai - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội, một địa điểm thuận tiện cho các hoạt động giao dịch kinh doanh, khu vực dân cư đông đúc, các dịch vụ thương mại phát triển mạnh, nhiều cơ quan lớn, nhiều văn phòng đại diện của các Công ty trong và ngoài nước, trung tâm của thủ đô. Từ nhiều năm qua hoạt động của Sở luôn chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ hệ thống hoạt động Ngân hàng Công thương Việt Nam. Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản luôn đứng đầu toàn hệ thống: nguồn vốn luôn chiếm khoảng 20% trong hệ thống, dư nợ tín dụng, đầu tư luôn đứng một trong hai vị trí dẫn đầu, hạch toán nội bộ cũng luôn dẫn đầu (năm 2001 là 5%). Sở luôn được chọn làm nơi triển khai thí điểm các chương trình, sản phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng Công thương Việt Nam, là đầu mối cho các chi nhánh Ngân hàng công thương trên địa bàn, triển khai các chương trình của NHCTVN với các đối tác và bạn hàng Bộ máy tổ chức của Sở GD I- NHCTVN Ban lãnh đạo Sở gồm : 1 giám đốc, 3 phó giám đốc. Các phòng: 9 phòng nghiệp vụ, 1 phòng giao dịch, 1 tổ nghiệp vụ bảo hiểm (phòng giao dịch và tổ nghiệp vụ bảo hiểm mới thành lập khoảng T4, T5 năm 2001). Tổng số cán bộ của Sở là 261 người. 9 phòng nghiệp vụ là: Phòng cân đối tổng hợp, Phòng kinh doanh, Phòng kế toán-tài chính, Phòng kinh doanh đối ngoại, Phòng tổ chức cán bộ-lao động và tiền lương, Phòng kiểm soát nội bộ, Phòng ngân quỹ, Phòng điện toán, Phòng hành chính quản trị. Dưới đây em xin được trình bày về 3 phòng giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Sở: *Phòng cân đối tổng hợp: Tổ chức huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và dân cư bằng VNĐ hoặc ngoại tệ theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN, trực tiếp điều hành lao động, tài sản tại các quỹ tiết kiệm của Sở, đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, tiền bạc của cơ quan Nhà nước tại các quỹ tiết kiệm theo đúng chế độ hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN. - Lập kế hoạch kinh doanh (hàng quý kết hợp với phòng kinh doanh, theo các chỉ tiêu của NHCTVN giao) - Tổng hợp phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của Sở theo yêu cầu của giám đốc Sở, giám đốc Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn, Tổng giám đốc NHCTVN. - Tổng hợp báo cáo các vấn đề liên quan đến thi đua khen thưởng tại Sở theo đúng cơ chế hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN. - Làm các việc khác do Giám đốc Sở giao. *Phòng kinh doanh: - Thực hiện cho vay, thu nợ ngắn hạn, trung dài hạn bằng VNĐ hoặc ngoại tệ, đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo đúng cơ chế tín dụng của ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN. - Thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp để tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng thanh toán mua hàng trả chậm theo đúng hướng dẫn của NHCTVN. - Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá theo quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc NHCTVN. - Nghiên cứu đề xuất biện pháp giải quyết vướng mắc trong hoạt động kinh doanh tại Sở, phản ánh kịp thời những vấn đề mới phát sinh để báo cáo Tổng giám đốc NHCTVN xem xét, giải quyết. - Phân tích hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn tại Sở, cung cấp kịp thời có chất lượng các báo cáo, thông tin về công tác tín dụng cho lãnh đạo Sở và các cơ quan hữu quan theo đúng quy định của Tổng giám đốc NHCTVN. - Làm một số công việc khác do giám đốc Sở giao. *Phòng kế toán - tài chính: - Thực hiện mở tài khoản và giao dịch với khách hàng theo đúng quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng giám đốc NHCTVN; hạch toán kịp thời, chính xác mọi biến động về vốn, tài sản của khách hàng và ngân hàng tại Sở. - Thực hiện công tác thanh toán qua ngân hàng đối với các đơn vị tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân, đảm bảo kịp thời, chính xác. - Tiếp nhận và xử lý hạch toán kế toán theo đúng quy định các hồ sơ vay vốn của khách hàng, phối hợp với phòng kinh doanh để thu nợ kịp thời, đúng chế độ, các món đã cho vay. - Tính và thu lãi tiền vay, phí dịch vụ; trả lãi tiền gửi cho khách hàng đúng, đầy đủ kịp thời theo chế độ quy định, tổ chức hạch toán kế toán, mua bán ngoại tệ bằng VNĐ; kế toán quản lý tài sản cố định, công cụ lao động, kho ấn chỉ, chi tiêu nội bộ tại Sở theo đúng quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN. - Lập các báo biểu kế toán tài chính, cung cấp số liệu liên quan theo đúng quy định của ngân hàng Nhà nước và NHCTVN. - Tham mưu cho giám đốc, trích lập, hạch toán sử dụng quỹ phúc lợi, khen thưởng tại Sở, phù hợp với chế độ của Nhà nước và của Tổng giám đốc NHCTVN. - Một số công việc khác. 1.2.1. Tình hình huy động vốn tại Sở GD I: Sở luôn là đơn vị có nguồn vốn huy động lớn nhất trong toàn hệ thống, thường xuyên chiếm trên 20% tổng lượng vốn giao dịch trên địa bàn thủ đô. Để đạt được kết quả đó, cùng với chính sách lãi suất chủ động linh hoạt của NHCTVN, Sở luôn phối hợp hài hoà với nhiều yếu tố tích cực như hình thức huy động vốn linh hoạt, hấp dẫn; lãi suất tiền gửi hợp lý cho từng đối tượng khách hàng; đẩy mạnh cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích song song với việc đổi mới phong cách giao tiếp văn minh, tận tình, chu đáo. Triển khai ứng dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác thanh toán nhất là áp dụng 100% quy trình giao dịch tức thời đối với nghiệp vụ huy động tiền gửi dân cư đảm bảo nhanh gọn, chính xác. Đến nay tại Sở đã có hơn 5880 khách hàng đến mở tài khoản giao dịch và 53000 khách hàng tin tưởng đến gửi tiền tiết kiệm VND và ngoại tệ. Điều này chứng tỏ Sở đã thực sự trở thành địa chỉ tin cậy của mọi doanh nghiệp và mọi khách hàng dân cư. Mặt khác, phát huy lợi thế có trụ sở đóng tại trung tâm thủ đô, Sở luôn quan tâm nắm bắt thị trường, mở thêm điểm giao dịch nhằm duy trì mở rộng thị phần huy động và cho vay vốn. Biểu 1. Tình hình huy động vốn của Sở GD I-NHCTVN Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng nguồn vốn huy động 7.779 100% 9.263 100% 11.588 100% I. Phân loại theo đối tượng - Tiền gửi của doanh nghiệp 5.216 67 6.286 68 8.113 71 - Tiền gửi của dân cư 2.563 33 2.997 32 3.409 29 II. Phân loại theo kỳ hạn - Không kỳ hạn 4.137 53 5.236 56 6.903 60 - Có kỳ hạn 3.642 47 4.027 44 4.685 40 III. Phân loại theo đvị tiền tệ - Bằng VND 6.002 77 5.261 75 8.941 77 - Bằng ngoại tệ 1.777 23 2.320 25 2.647 23 (Nguồn: Báo cáo về tình hình huy động vốn của Sở GDI-NHCTVN) Qua bảng trên ta thấy vốn huy động không ngừng tăng qua các năm: năm 1999 tổng nguồn vốn huy động được là 7.779 tỷ đồng, năm 2000 là 9.263 tỷ đồng tức là tăng 1.484 tỷ đồng. Đến ngày 31/12/2001 tổng nguồn vốn huy động (bao gồm cả ngoại tệ quy ra VND) là 11.588 tỷ đồng tăng 2.325 tỷ đồng (tương ứng với 25%) so với năm 2000. Nguồn vốn huy động lớn, tăng trưởng ổn định là điều kiện rất căn bản để Sở chủ động kinh doanh, mở rộng cho vay với các thành phần kinh tế, đồng thời điều chuyển đáng kể về Hội Sở NHCTVN để điều hoà lại cho các chi nhánh thiếu vốn như Sở GD II TPHCM. Cơ cấu nguồn vốn cho thấy tiền gửi của các tổ chức kinh tế vẫn là lớn nhất, chiếm khoảng từ 60-70%, trong đó chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn. Đây chính là lợi thế giúp Sở giảm được chi phí đầu vào vì đây là loại tiền gửi có lãi suất thấp, song nó cũng có thể gây khó khăn cho Sở nếu như khách hàng rút tiền với số lượng lớn. Về tiền gửi của dân cư thì thường chiếm khoảng 40% tổng nguồn vốn huy động với kỳ hạn xác định. Nguồn huy động ngoại tệ (chủ yếu là USD) chiếm từ 22-30% tổng nguồn vốn huy động tạo điều kiện để Sở dần tự đảm bảo được nguồn ngoại tệ để đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các tổ chức kinh tế, hạn chế việc phải mua lại trên thị trường. Ngoài ra Sở còn có vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ theo chương trình hoặc dự án đầu tư như từ nguồn vốn Đài Loan... 1.2.2. Tình hình sử dụng vốn Nguồn vốn huy động được ngoài việc sử dụng để lập quỹ bảo đảm thanh toán (khoảng 4,5%), điều chuyển về Hội Sở khoảng 74%, Sở GD I tiến hành cung ứng vốn trong các lĩnh vực: công nghiệp, thương nghiệp trong đó đối tượng khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh trong nước. Không chỉ thế Sở còn chú trọng mở rộng tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước. Hoạt động đầu tư cho vay của Sở không ngừng được mở rộng. Tính đến ngày 31/12/2001, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn của Sở đạt 2.089 tỷ đồng, riêng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 1.497 tỷ đồng, tăng 251 tỷ đồng so với năm 2000. Gần đây Sở đã mở rộng cho vay đối với mọi đối tượng khách hàng cho tất cả các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt. Song chúng ta có thể thấy dư nợ tăng lên chủ yếu là tăng dư nợ trung dài hạn, đặc biệt đáng chú ý là trong khi nguồn vốn tăng nhanh từ 20-25%/năm nhưng dư nợ cho vay tại Sở lại tăng chậm chỉ khoảng 13%/năm, không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động- trong năm 2001 Sở mặc dù quy mô cho là lớn song Sở mói chỉ sử dụng được khoảng 20% tổng nguồn vốn huy động. Biểu 2: Hoạt động tín dụng của Sở GD I-NHCTVN Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tổng dư nợ 1.107,6 100% 1.246,6 100% 1.497 100% I. Phân loại theo thời hạn - Ngắn hạn 378,35 34 385,88 31 476 31 - Trung, dài hạn 729,25 66 860,72 69 971 69 II. Phân loại theo TPKT - Quốc doanh 983,3 89 1.140,5 91 1.355,2 90,5 - Ngoài quốc doanh 124,3 11 106,1 9 141,8 9,5 III. Phân loại theo đvị tiền tệ - Bằng VND 868 79 996,6 80 1.145,6 76,5 - Bằng ngoại tệ 209 21 250,6 20 351,4 23,5 IV. Phân theo chất lượng TD - Dư nợ trong hạn 1.034,6 93,4 1.185,7 95,12 1.438,9 96,1 - Dư nợ quá hạn 72,96 6,6 60,85 4,88 58,1 3,9 (Nguồn: Báo cáo về hoạt động tín dụng của Sở GD I-NHCTVN) Qua bảng trên ta thấy, dư nợ trung dài hạn có chiều hướng tăng nhanh: năm 1999 là 729,25 tỷ đồng chiếm 65,8% tổng dư nợ, năm 2000 tăng lên là 860,72 tỷ đồng chiếm 69% tổng dư nợ và năm 2001 dư nợ cho vay trung dài hạn là 971 tỷ đồng, tăng 16%, tỷ trọng 64,9% trong tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng còn chưa nhiều: năm 1999 là 378,35 tỷ đồng chiếm 35% tổng dư nợ, năm 2000 thì tỷ trọng này giảm xuống còn 31% tổng dư nợ và năm 2001 với quy mô là 475 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 35,1% trong tỷ trọng. Xét theo thành phần kinh tế, ta thấy tỷ trọng cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh luôn chiếm ở mức cao, năm 1999 là 983,3 tỷ đồng chiếm 89% tổng dư nợ, năm 2000 tăng đến 1.104,5 tỷ đồng, chiếm 91% tổng dư nợ. Và đến năm 2001 là 1.355 tỷ đồng, tăng 215 tỷ đồng nhưng tỷ trọng giảm xuống còn 90% tổng dư nợ đó là do Sở đã tích cực mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đồng thời không ngừng củng cố mối quan hệ với những khách hàng truyền thống. Xét theo đơn vị tiền tệ, dư nợ bằng VND có chiều hướng tăng và dư nợ bằng ngoại tệ giảm xuống. Năm 1999 dư nợ VND là 868 tỷ đồng chiếm 78% tổng dư nợ, năm 2000 dư nợ VND là 996,6 tỷ đồng chiếm 80% tổng dư nợ và cho đến năm 2001 dư nợ VND là 1.145,62 tỷ đồng. Bên cạnh việc cung ứng tín dụng dưới hình thức cho vay là chủ yếu, Sở còn mở rộng cấp tín dụng thông qua hình thức tài trợ uỷ thác và dịch vụ bảo lãnh, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh số bảo lãnh trong năm 2001 là 23,318 tỷ đồng, tăng 59% so với cùng kỳ. Ngoài ra Sở còn thực hiện cho vay từ quỹ tín dụng đào tạo có tác dụng tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu tín dụng đa dạng trong nền kinh tế thị trường, tính đến 31/12/2001 Sở đã cho 174 sinh viên vay với tổng số tiền là 367 triệu đồng tăng 121 triệu đồng so với năm 2000. 1.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh Với chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận mà NHCTVN giao ở mức cao nhất so với các chi nhánh khác, trong khi việc cạnh tranh thông qua lãi suất với các TCTD ngày càng gay gắt, song với sự cố gắng nỗ lực và ý chí quyết tâm của ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên, Sở GD I luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch, thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Lợi nhuận tăng ổn định qua các năm, năm 2001 vừa qua là năm đầu tiên Sở thực hiện cơ chế lãi hạch toán dự thu-dự trả, lợi nhuận hạch toán nội bộ đạt 459 triệu đồng/1 lao động. Biểu 3: Tình hình thu nhập- chi phí của Sở GD I-NHCTVN Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 * Tổng thu 459.652 405.195 572.972 - Thu lãi cho vay 107.216 117.291 22.706 - Thu từ tiền gửi ở TCTD 13.151 14.884 100.749 - Thu từ dịch vu 9.455 7.684 411.960 - Thu từ lãi điều hòa 329.590 280.512 8.600 * Tổng chi 339.441 280.512 458.253 - Trả lãi 327.353 259.623 435.110 - Chi phí nhân viên 3.277 8.325 6.576 - Chi phí khác 8.811 12.564 16.567 * Lợi nhuận 120.209 124.863 114.719 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở GD I-NHCTVN) Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố và thế chấp tại sở gdi –NHCTvn: Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố Theo quy định của thông tư số 06/2000/TT - Ngân hàng Nhà nước 1 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, TSCC gồm 8 loại: + Máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, đá quý. + Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ. + Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác giá trị được bằng tiền, riêng đối với cổ phiếu của chính TCTD phát hành thì TCTD không được nhận làm TSCC. + Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác. + Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật. + Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng Hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của luật Hàng không Dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố. + Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Đối với loại hình doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật (như các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) khi vay vốn nhất thiết phải thực hiện một trong các hình thức đảm bảo nghĩa vụ trả tiền vay như sau: + Thế chấp + Cầm cố + Bảo lãnh của bên thứ 3. Như vậy hoạt động cầm cố tại Sở thực chất là công việc giữa Sở với hệ thống các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay của Sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố là rất ít, Sở rất ngại trong loại hình cho vay này, vì phần lớn là rủi ro cao. Hiện nay Sở đang phát triển mạnh hoạt động cho vay có tài sản cầm cố bảo đảm là sổ tiết kiệm, đặc biệt là càng thích hợp hơn với những người kinh doanh, hộ kinh doanh, xí nghiệp kinh doanh vừa và nhỏ. Thủ tục giao dịch trong loại hình cho vay này rất thuận tiện, nhanh chóng về cả 2 phía: Sở và người vay. Ngân hàng không mất nhiều thời gian thẩm định dự án, xem xét kỹ càng phương án kinh doanh của khách hàng vì sổ tiết kiệm có tính bảo đảm cao, còn người vay có thể nhanh chóng có được một khoản tiền phục vụ kịp thời cho mục đích của mình. Nhìn chung là những khoản tiền người vay muốn vay có bảo đảm bằng sổ tiết kiệm là rất ít so với giá trị của Sở, Sở hoạt động linh hoạt hơn với loại hình này. Ví dụ một cá nhân muốn vay một khoản tiền, Sở sẽ phải lập bộ hồ sơ gồm 3 giấy sau: Biên bản hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, giấy đề nghị xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm. Trong hợp đồng tín dụng khách hàng sẽ phải trình bày chứng minh thư, điện thoại của mình, số tiền mình muốn vay, trình bày mục đích sử dụng tiền của mình, thời hạn vay: thời hạn trả gốc và lãi; trị giá của sổ tiết kiệm. Trên cơ sở hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ lập giấy nhận nợ (chủ yếu là xác nhận lại các thông tin trong hợp đồng tín dụng nhưng ngắn gọn hơn, ngoài ra người vay còn phải khai báo thêm có dư nợ tại Sở hay không. Quan trọng trong giấy nhận nợ là phải có đủ chữ ký của bên nhận nợ, của cán bộ tín dụng, của trưởng phòng kinh doanh và cả chữ ký của giám đốc Sở giao dịch. Cuối cùng ngân hàng sẽ gửi giấy đề nghị xác nhận và phong toả tới nơi đã phát hành sổ tiết kiệm, yêu cầu cơ quan đó phải xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm của người vay tại Sở. Sau khi cơ quan này xác nhận và gửi lại giấy này thông báo cho Sở, lúc đó Sở mới tiến hành cầm cố sổ tiết kiệm và giao cho người vay số tiền vay. Ví dụ cụ thể: Theo hợp đồng tín dụng số 01 ngày 7/2/2002 bà Lê Minh Ngọc, số chứng minh thư 141300062 do công an Hải Hưng cấp ngày 27/9/94, số điện thoại 0913007379 muốn vay số tiền là 30 triệu đồng cho mục đích tiêu dùng, thời giạn 3 tháng (từ 7/2/2002 đến 7/5/2002), lãi suất vay là 0,65% tháng (và bà Ngọc đã chấp nhận mức lãi suất này). Thời điểm trả gốcvà lãi sẽ vào ngày7/5/2002. Giá trị tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm trị giá 6000 USD, theo tỷ giá hôm đó 15.000 VNĐ/1USD. Sở đồng ý cho bà Ngọc vay và đông thời xác nhận trong giấy nhận nợ là trước đó bà Ngọc không có dư nợ tại Sở. Tiếp đó sở gửi giấy đề nghị xác nhận và phong toả tới quỹ tiết kiệm số 05 (là nơi bà Ngọc lập sổ tiết kiệm) thông báo bà Ngọc đã dùng sổ tiết kiệm vào mục đích vay tiền tại Sở, yêu cầu quỹ tiết kiệm 05 xác nhận và phong toả sổ tiết kiệm của bà Ngọc. Quỹ tiết kiệm số 05 đã xác nhận bà Ngọc lập sổ tiết kiệm tại đó và gửi lại giấy đề nghị, xác nhận và phong toả sổ, thông báo đã phong toả sổ tiết kiệm của bà Ngọc (số tài khoản của sổ tiết kiệm bà Ngọc là 11.1.0037300.06; số tiền 6000 USD, ngày gửi 7/1/2002 và số dư đến ngày 7/2/2002 vẫn còn là 6000 USD). Các doanh nghiệp nhỏ như Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn nếu có tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm đứng tên chủ doanh nghiệp do Sở phát hành cũng có thể vay cầm cố sổ tiết kiệm tại Sở giống như trên, cũng với thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, thuận lợi. Nhìn chung hoạt động cầm cố sổ tiết kiệm của Sở đã tạo ra hướng kinh doanh linh hoạt hơn cho cả Sở và khách hàng, nhanh chóng kịp thời cho mục đích kích cầu đầu tư của cá nhân của doanh nghiệp, từ đó tạo ra thuận lợi cho kích cầu xã hội. Thực trạng bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp. Theo tinh thần của thông tư 06, TSTC bao gồm: + Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. + Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp. + Trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ, thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận. + Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Tàu bay theo quy định của luật Hàng không Dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp. + Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Do đặc điểm về khu vực địa lý là trung tâm Hà Nội, nơi tập trung nhiều các doanh nghiệp nên đối tượng khách hàng của Sở vô cùng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước(DNNN), Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, hợp tác xã và tổ sản xuất, Công ty liên doanh … Tuy nhiên hoạt động tín dụng của Sở thường tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế quốc doanh, chính là các DNNN. Phần lớn các DNNN này lớn, làm ăn có uy tín, có hiệu quả, hơn nữa cho vay họ ít rủi ro hơn so với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nơi mà sự phức tạp và rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy hình thức bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I chủ yếu bằng tín chấp chiếm tới 86,99%, hình thức bảo lãnh chỉ là bảo lãnh bằng uy tín của người bảo lãnh mà không có tài sản đảm bảo và do vậy chiếm tỷ lệ không đáng kể. Hình thức cầm cố chủ yếu là cầm cố bằng sổ tiết kiệm tại chính Sở chiếm khoảng 10,31%. Còn hình thức thế chấp tài sản tuy chỉ chiếm tỷ trọng thấp khoảng 1,54% nhưng đây lại là hình thức hữu hiệu nhất để thu hồi vốn cho Sở khi xảy ra rủi ro. Nhưng cái khó cho hoạt động thế chấp của Sở là nhiều khách hàng thế chấp, họ thuộc đủ mọi ngành nghề khác nhau dẫn tới lượng TSTC tại Sở vô cùng đa dạng phong phú về tính năng và hoạt động của từng loại gây khó khăn cho công tác phát mại TSTC tại Sở về sau này. Các loại tài sản được thế chấp tại Sở chủ yếu bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất, các tài sản liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh như dây chuyền máy móc thiết bị, hàng hoá … Các loại tài sản này đều có thị trường chuyên dụng để mua bán, giao dịch, mặt khác việc phát mại các tài sản thế chấp này ngày càng thuận lợi hơn do thẩm định và quản lý dễ dàng, nhu cầu của xã hội tăng, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghệ. Một số tài sản khác được phép thế chấp theo quy định nhưng không thường được chấp nhận do khi phát mại gặp phải nhiều khó khăn về thủ tục và quy trình xử lý cũng như hạn chế về khả năng, trình độ của cán bộ thẩm định. Biểu 4 : Phân loại các loại hình bảo đảm tiền vay tại Sở GD I- 2000. Đơn vị: triệu đồng Hình thức bảo đảm Món vay Doanh số Số món Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1, Thế chấp 50 11,48% 31.000 1,54% 2, Tín chấp 284 65,14% 721.000 86,99% 3, Bảo lãnh 21 4,8% 23.000 1,16% 4, Cầm cố 81 15,9% 204.000 10,31% Tổng 436 100% 1.978.200 100% (Nguồn: Sao kê tài khoản ngoại bảng SGDI – NHCTVN) Các DNNN do sử dụng hình thức đảm bảo bằng uy tín nên không cần phải có TSTC. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động nếu Sở thấy doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, không có khả năng trả nợ cho Sở thì Sở buộc các doanh nghiệp phải thực hiện ký kết hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay. Các DNNQD bắt buộc phải sử dụng hình thức thế chấp hoặc cầm cố để đảm bảo cho khoản vay. Đối với các cá nhân vay vốn, TSTC là một điều kiện bắt buộc không thể thiếu để đảm bảo cho khoản vay. Sở trực tiếp nhận TSTC bằng hiện vật hoặc giấy tờ sở hữu gốc. Nhận thức được tầm quan trọng của TSTC khi có rủi ro xảy ra nên vấn đề thẩm định khả năng đảm bảo của TSTC luôn được Sở coi trọng và coi như là một điều kiện gần như bắt buộc đối với mỗi khoản cho vay đặc biệt là đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Việc thực hiện quy trình định giá TSTC được tiến hành đúng theo quy định của Nhà nước và cuả NHCTVN. Sở sẽ căn cứ vào từng món vay và giá trị TSTC mà sẽ đưa ra mức cấp tín dụng phù hợp, thường là 70% giá trị TSTC. Tuy nhiên có lúc Sở có sự linh hoạt trong cho vay theo tính chất và đặc điểm của từng loại tài sản. Công tác kiểm tra, đánh giá thực trạng TSTC của mỗi khoản vay được các cán bộ tín dụng thực hiện một cách thường xuyên nhằm tránh được các rủi ro đối với TSTC nếu phải phát mại để thu hồi nợ. Ví dụ cho vay thế chấp bằng nhà ở tại Sở: Công ty trách nhiệm hữu hạn Tùng Nam địa chỉ 205 Khâm Thiên - Hà Nội chuyên kinh doanh xe máy, buôn bán tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, làm đại lý ký gửi mua bán hàng hoá. Đầu tháng 1/2002 Công ty có nhu cầu vay vốn để kinh doanh xe máy. Công ty đã lập bộ hồ sơ xin vay gửi đến Sở bao gồm phương án kinh doanh của Công ty, bảng cân đối kế toán mới nhất của Công ty (tháng 11/2001), bảng cân đối phát sinh 2001 của Công ty đến tháng 11/2001, bản hợp đồng tín dụng, giấy đề nghị vay vốn, giấy nhận nợ. Công ty trách nhiệm hữu hạn Tùng Nam có tài khoản gửi Việt Nam đồng số 710A - 02206 tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 4631 ngày 23/9/1999 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp, số đăng ký kinh doanh 073472 ngày 4/10/1999 do Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội cấp. Công ty đã có mối quan hệ với Sở từ rất lâu, đã nhiều lần vay vốn tại Sở và hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đến thời điểm vay vốn lần này là rất tốt. Năm 2000 tổng doanh thu đạt 42 tỷ 832 triệu đồng, lợi tức sau thuế là 12,488 triệu, năm 2001 doanh thu thuần đạt 90 tỷ, lợi tức trước thuế 100 triệu đồng, có các đối tác là các Công ty kinh doanh xe máy trong nước. Cho đến ngày vay vốn lần này tình hình tài chính của Công ty đáng tin cậy: nguồn vốn chủ sở hữu là 711.300.000đ, trong đó 600.000.000 là vốn lưu động, 111.300.000đ là vốn cố định, dư nợ tại sở là 1 tỷ 900 triệu đồng, hàng tồn kho 1 tỷ đồng, giá trị tài sản cố định còn lại là 111.300.000đ. Lợi thế của Công ty có mặt hàng kinh doanh chính là xe gắn máy, văn phòng lại đặt tại 205 Khâm Thiên - Hà Nội nơi đông dân cư đồng thời cũng là 1 trong những thị trường tiêu thụ xe gắn máy chủ yếu của Hà Nội. Nên từ khi thành lập đến nay Công ty làm ăn có hiệu quả, đảm bảo luôn có lãi và thực hiện đúng các nguyên tắc chế độ hạch toán kế toán do Nhà nước Việt Nam ban hành. Mục đích cụ thể của phương án kinh doanh lần này là mua và bán xe gắn máy. Các chi phí gồm: + Chi phí mua hàng hoá, thành phẩm: 6,5 tỷ + Chi phí khác 2,5 tỷ Về tổ chức tiêu thụ: sẽ bán cho các đối tác thường xuyên của Công ty. Hình thức thu tiền: Thu bằng tiền mặt, trị giá theo hoá đơn giá trị gia tăng cụ thể của từng đợt giao hàng. Hiệu quả của phương án: Tổng thu nhập của phương án là chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra của lô hàng, lợi nhuận ròng của phương án là 55 triệu đồng. Nguồn tài chính để thực hiện phương án gồm: Nguồn vốn tự có 1 tỷ đồng, nguồn vốn tự huy động là không có, nhu cầu tài chính thiếu hụt cần phải vay ngân hàng là 4,4 tỷ đồng theo hình thức vay ngắn hạn, có thế chấp và đảm bảo tín dụng bằng thế chấp ngôi nhà số 79 Nguyễn Du - Hà Nội. Công ty đề nghị về nguồn và phương thức trả nợ như sau: Trả hết trong 3 tháng kể từ ngày vay, trả lần đầu sau ngày nhận tiền vay 2 tháng; dự kiến sẽ trả làm 4 lần, mỗi lần 1,1, tỷ. Trên cơ sở xem xét qua tình hình tài chính của Công ty, giấy đề nghị vay vốn và bảng cân đối kế toán của Công ty, xem xét kỹ lưỡng tài sản thế chấp và phương án kinh doanh, kế hoạch trả nợ của Công ty, Sở giao dịch đồng ý cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Tùng Nam vay vốn 4,4 tỷ đồng trong thời hạn 3 tháng (kể từ ngày lập hợp đồng tín dụng 11/1/2002 cho tới 11/4/2002, lãi suất cho vay 0,65%/tháng. Cho vay theo phương thức từng lần, lãi suất vào ngày 25 hàng tháng, gốc trả khi có nguồn thu bán hàng. Cán bộ tín dụng của Sở đã thẩm định và kết luận tình hình tài chính của Công ty là tốt, phương án kinh doanh khả thi, có lãi, tài sản thế chấp đủ là ngôi nhà số 79 Nguyễn Du - Hà Nội được định giá đúng đắn, được Sở địa chính, Uỷ ban nhân dân phường Nguyễn Du xác nhận; nhà mặt phố Chủng loại đất Diện tích Đặc điểm kỹ thuật Vị trí Tỉ lệ % giá trị còn lại của tài sản Đơn giá Giá trị được định giá Nhà 205,1m2 Loại I mức A Đẹp, nơi trung tâm 205,1m2 x 30 triệuđ/m2 = 6153 triệu 189,9m2 x 1 triệuđ/m2 = 189,9 triệu Tường gạch mái bằng = 6342,9 triệu Bảng cân đối kế toán tháng 11/2001-Công ty Tùng Nam Tài sản Mã số Số đầu Số cuối A TSCĐ và đầu tư ngắn hạn 100 I Tiền 110 1 Tiền mặt tại quỹ 111 1,846.311 4,097.990 2 Tiền gửi ngân hàng 112 1,073.559 1,073.559 3 Đang chuyển 113 II Các khoản đầu tư t/c ngắn hạn 120 1 Đầu tư CK ngắn hạn 121 2 Đầu tư ngắn hạn khác 128 3 Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn 129 III Các khoản phải thu 130 1 Phải thu của khách hàng 131 2 Trả trước cho người bán 132 3 VAT được khấu trừ 133 230,406.435 293,027.393 4 Phải thu nội bộ 134 - VKD ở đơn vị trực thuộc 135 - Phải thu nội bộ khác 136 5 Các khoản phải thu khác 138 6 Dự phòng các khoản phải thu khó đòi 139 IV Hàng tồn kho 140 1 Hàng mua đang đi trên đường 141 2 Nguyênliệu, vật liệu tồn kho 142 3 Công cụ, dụng cụ trong kho 143 4 Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 144 5 Thành phẩm tồn kho 145 6 Hàng tồn kho 146 1,700,256.000 2,368,480.247 7 Hàng gửi đi bán 147 8 Dự phòng giảm giá hàng tồn kho 149 V Tài sản lưu động khác 150 1 Tạm ứng 151 2 Chi phí trả trước 152 3 Chi phí chờ kết chuyển 153 4 Tài sản thiếu chờ xử lý 154 5 Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ, ngắn hạn 155 VI Chi sự nghiệp 160 1 Chi sự nghiệp năm trước 161 2 Chi sự nghiệp năm nay 162 B TSCĐ và đầu tư dài hạn 206 I TSCĐ 210 1 TSCĐ hữu hình 211 -Nguyên giá 212 147,121.000 147,121.000 -Giá trị hao mòn luỹ kế 213 (35,821._.găn chặn hoàn toàn mọi sự việc đáng tiếc có thể xảy ra . Bởi vậy Sở cần phải tổ chức kiểm tra chặt chẽ trước trong và sau khi cho vay. Có như vậy mới phát hiện kịp thời những tiêu cực để sửa chữa Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ có thể làm chậm lại hoặc hạn chế phần nào nhịp độ kinh doanh nhưng không vì thế mà Sở coi nhẹ hoạt động này, Sở cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa thực hiện tốt kiểm soát nội bộ vừa không để hoạt động này ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động kinh doanh . Sở cần phải đổi mới thủ tục, phương pháp, biện pháp kiểm soát nội bộ cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế để rút ngắn thời gian nâng cao hiệu quả Kiểm soát nội bộ cũng cần phải kiểm tra kết quả chỉnh sửa sau lần kiểm soát trước đó . Sai lầm bị phát hiện là để sửa chữa, nếu không thì hoạt động kiểm tra, kiểm soát không có ý nghĩa. Việc sửa chữa, chấn chỉnh cũng cần được giám sát chặt chẽ . Kiên quyết loại trừ những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, lợi dụng kẽ hở để gây thất thoát vốn, làm giảm uy tín của Sở Sở phải lựa chọn, đào tạo cán bộ có trình độ, đạo đức để thực hiện công tác này. Hoạt động kiểm soát không thể đạt được kết quả nếu kiểm soát viên không đủ trình độ chuyên môn phân tích, đánh giá hoặc cố tình bỏ qua những sai sót dẫn đến những hạn chế tiêu cực trong thực tế hoạt động cho vay . Hơn ai hết kiểm soát viên phải được đào tạo không ngừng nâng cao phẩm chất trình độ . Các kiến nghị. Kiến nghị với Chính phủ. Kiến nghị chung về hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay: Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không quy định thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh là một điều kiện vay vốn mà khách hàng vay phải thực hiện hoặc được "ưu đãi" miễn thực hiện, mà chỉ nên quy định có tính khuôn khổ pháp luật, tách biệt rõ ràng tín dụng theo thương mại và theo chính sách. Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng, lựa chọn dự án để tự quyết định cho vay cần có bảo đảm hoặc không cần có bảo đảm bằng tài sản. Và thực hiện áp dụng đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử. Đối với tín dụng theo chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng và không cần biện pháp đảm bảo. Khi bị tổn thất do các nguyên nhân khách quan về các khoản vay thì được Chính phủ xử lý. Cụ thể là: - Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành liên quan đến NĐ 178/1999/NĐ - CP như Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính có các thông tư hướng dẫn đồng bộ, kịp thời, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các TCTD mở rộng cho vay đến các thành phần kinh tế một cách an toàn và có hiệu quả (nhất là thông tư hướng dẫn về đăng ký giao dịch bảo đảm theo NĐ 08/2000/NĐ - CP và giao dịch bảo đảm theo NĐ 165/1999/NĐ - CP). - Đề nghị huỷ bỏ điểm 2 điều 7 (tức là huỷ tài sản cầm cố có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ) cho phù hợp với Bộ luật dân sự. -Hướng dẫn thêm 3 nội dung liên quan đến khoản 2 điều 16 của NĐ 165/1999/NĐ - CP như đã để cập trong vướng mắc thứ 4 mục C phần 2.3.1 chương II -Sửa đổi điều 11/NĐ178 về phạm vi bảo đảm tiền vay cho phù hợp với Bộ luật dân sự, tức là "Trong một trường hợp, một tài sản chỉ được dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại một TCTD. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ tại nhiều TCTD nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm" - Đề nghị sửa đổi điều 22.2 trong NĐ 08/2000/NĐ - CP về đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo văn bản cũ thì "Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa những người cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản được xác định theo thứ tự đăng ký", nay nên bổ sung thêm. "Nhưng cơ quan giao dịch bảo đảm chỉ nhận đăng ký giao dịch bảo đảm tiếp nếu thấy giá trị tài sản còn lại có thể còn bảo đảm có thể thực hiện nghĩa vụ tiếp theo". - Đồng thời theo Thông tư 06 cũng cần bổ sung mục 3 chương 2. Văn bản cũ là: "Một trong các nghĩa vụ của khách hàng vay khi cầm cố thế chấp tài sản là thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm" nay cần bổ sung thêm: "TCTD chỉ phát vốn vay cho khách hàng vay khi nhận được bản gốc giấy chứng nhận đăng ký bảo đảm". Có như vậy mới rõ ràng hơn, vừa đề cao trách nhiệm của cơ quan giao dịch bảo đảm khi nhận tài sản cấm cố, thế chấp đăng ký giao dịch bảo đảm, vừa đề cao trách nhiệm của TCTD, phòng chống được những khách hàng lừa đảo. - Trong trường hợp cho vay hợp vốn, có nhiều TCTD cũng cho vay một dự án, cùng nhận một tài sản cầm cố, thế chấp thì việc đăng ký được thực hiện như điều 22.2 đã được bổ sung ở trên. Đồng thời NĐ 08/2000/NĐ - CP cần quy định thêm: "Trong trường hợp này nếu xảy ra tranh chấp phải xử lý tài sản thu hồi nợ thì mỗi bên (mỗi TCTD) sẽ được thu nợ theo tỷ lệ tương ứng phần vốn của mình tham gia trong tổng giá trị tài sản cấm cố, thế chấp ở thời giá của thời điểm xử lý tranh chấp". Kiến nghị về hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố - thế chấp (chủ yếu đối với tài sản thế chấp). *Đơn giản hoá thủ tục công chứng. Nghị định của chính phủ về thủ tục công chứng quy định Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các mẫu giấy tờ để công chứng đến nay vẫn chưa có mẫu hợp đồng thế chấp. Các NHTM quốc doanh, cổ phần … đều có mẫu riêng nhưng không được phòng công chứng chấp nhận. *Quy định rõ ràng hơn về điều kiện TSTC. + Theo Luật dân sự thì TSTC bao giờ cũng là bất động sản, tài sản cầm cố là động sản nhưng ngân hàng nhận thế chấp cả động sản và bất động sản. Vậy luật nên điều chỉnh như thế nào để phù hợp với thực tế. + Theo quy định TSTC phải có chứng từ sở hữu gốc để giao nộp ngân hàng nhưng trên thực tế hơn 80% tài sản của các pháp nhân khu vực KTNQD và 100% KTQD không có giấy chứng nhận sở hữu dẫn đến có sự bất bình đẳng về đảm bảo tiền vay giữa 2 thành phần kinh tế này. Nhà nước cần có nhiều quy chế mới về quyền sở hữu tài sản đặc biệt với các doanh nghiệp Nhà nước. + Điều kiện về TSTC đặc biệt phức tạp với thế chấp bằng quyền sử dụng đất. Nguyên do là hệ thống pháp luật, sự quản lý đất đai còn lỏng lẻo. - Giấy tờ và hồ sơ nhà có nhiều loại: Có nhiều trường hợp có đủ quyền hợp pháp nhưng không đủ giấy tờ hợp lệ, không xác định được giấy tờ có hợp lệ hay không. Nhà nước cần thống nhất hoá các giấy tờ này. - Với loại nhà do Nhà nước quản lý giao quyền sử dụng (Doanh nghiệp và hộ cá thể) - họ không có quyền sở hữu - liệu phải thế chấp như thế nào. Nhà nước có thể chuyển từ sử dụng sang sở hữu hoàn thiện về mặt giấy tờ giúp các thành phần kinh tế đảm bảo thủ tục vay vốn. - Với các hộ nông dân cần vay vốn mà thiếu giấy chứng nhân quyền sở hữu Nhà nước có thể quy định cho phép sử dụng giấy tờ kê khai về quyền sử dụng đất để thế chấp. *Thay đổi thủ tục đăng ký sở hữu TSTC nhằm đơn giản hoá +Quy đinh về thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất cho người mua TSTC một cách thuận lợi, nhất là quy định các loại giấy tờ cụ thể chứng minh về việc mua TSTC,CC để làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhất là trong trường hợp TCTD được bán tài sản chứ không phải là chủ sở hữu tài sản. + Quy định về trách nhiệm thực hiện đăng ký các giao dịch đảm bảo đối với từng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các thủ tục đăng ký, nộp lưu vào hệ thống lưu giữ quốc gia về các giao dịch bảo đảm đã đăng ký làm cơ sở để cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng đất tạo điều kiện cho việc thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, tránh tình trạng tài liệu sở hữu giả, nhiều tài liệu sở hữu hay không có chứng nhận sở hữu. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chưa thực hiện đầy đủ nên gây khó khăn trong việc phát mại TSTC. Đề nghị các cơ quan chức năng thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất để khi thế chấp đảm bảo yêu cầu pháp lý. *Chính phủ cần đưa ra các giải pháp về định giá TSTC sao cho hợp lý cả ngân hàng và cả về phía người vay: + Đưa ra một khung giá "mở" tạo điều kiện cho các TCTD linh hoạt hơn trong việc định giá TSTC không đi quá xa so với quy định của Nhà nước những cũng không bị cố định vào khung giá đó, tránh tình trạng giá theo khung giá của Nhà nước thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường đặc biệt là đối với thị trường bất động sản. Đồng thời Nhà nước cần thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về các chỉ tiêu chung để tránh hiểu lầm giữa các ngân hàng và khách hàng, tránh tình trạng một tài sản được đánh giá khác nhau ở các ngân hàng do không có một chuẩn mức giá trị tài sản. + Quy định chặt chẽ vê công tác hạch toán kế toán của doanh nghiệp để tránh cho việc đánh giá tài sản theo sổ sách kế toán không đúng, các con số thường khác xa so với thực tế. + Từng bước để thành lập một tổ chuyên môn về định giá TSTC. *Quy định lại mức cho vay cho phù hợp với các loại tài sản đem thế chấp. Mức cho vay tối đa không quá 70% là chưa hợp lý vì có những tài sản như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm có thể cho vay đến 100% nhưng vẫn đảm bảo an toàn, nhưng có những tài sản như bất động sản hay động sản giá cả lên xuống bất thường có khi tụt xuống chỉ còn 1/2 giá trị ban đầu nên việc cho vay 70% là quá mạo hiểm. Vậy nên Chính phủ cần quy định mức cho vay tối đa với từng loại tài sản cụ thể hoặc không quy định mà để cho ngân hàng tự quyết định bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. *Cần đưa ra chính sách về xử lý TSTC để hạn chế khó khăn của ngân hàng khi phát mại tài sản: a,Cần có hướng dẫn cụ thể cho những vấn đề phát sinh khi phát mại TSTC qua toà án + Toà án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể để việc công nhận, xử lý tài sản đồng sở hữu trong quá trình xử lý TSTC, tạo điều kiện thuận lợi cho bên nhận thế chấp TSTC và xử lý TSTC để thu nợ. + Đề nghị UBND và toà án nhân dân các cấp căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để giải quyết tranh chấp. + Tiền thi hành án nên nộp ngay vào ngân hàng để khấu trừ số nợ vay ngân hàng sẽ có trách nhiệm báo cáo quá trình nộp tiền thi hành án đến khi dứt điểm cho phòng thi hành án. + Trong trường hợp tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng cầm cố, thế chấp hoặc quy định sau một thời gian nhất định mà TSTC,CC không xử lý được để thu nợ thì TCTD có quyền khởi kiện ra toà án có thẩm quyền để xử lý và có biện pháp cưỡng chế thi hành án đã có hiệu lực, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan công an, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan địa chính, tài chính, tư pháp, cơ quan thi hành án, ngân hàng Nhà nước. Trường hợp bên vay có liên quan đến vụ án hình sự thì cơ quan pháp luật cần tạo điều kiện cho ngân hàng tiến hành phát mại TSTC để thu hồi nợ. b, Thiết lập cơ chế cho vay có bảo đảm bằng TSTC, trong đó gồm các nội dung cơ bản như: + Quyết định nhiều hình thức xử lý TSTC để các bên có thể thoả thuận lựa chọn khi ký hợp đồng như: Bên thế chấp tự bán tài sản hoặc cả 2 bên cùng bán tài sản, hoặc giao cho TCTD bán tài sản, hoặc uỷ quyền cho người thứ 3 bán tài sản, gán nợ bằng TSTC, hoặc thoả thuận bằng các phương án khác. + Nâng cao quyền hạn, tính tự chủ của TCTD được quyền chủ động bán TSTC trong trường hợp TSTC không được xử lý theo hướng tích cực. + Đề ra nhiều phương thức bán tài sản để các bên vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng nơi và điều kiện của các bên. c, Cần xử lý TSTC do vướng mắc các thủ tục pháp lý thủ tục hành chính một cách nhanh chóng. + Toà án nên tổ chức xét xử theo thủ tục khẩn cấp và không đình hoãn phiên xử dù có liên quan đến vụ án khác vì đây là những vụ kiện món nợ ngân hàng được quyền ưu tiên thanh toán. + Phần bản án đã được thi hành không nên có hiệu lực hồi tố vì không đảm bảo quyền lợi cho ngân hàng. + Cần có điều luật quy định việc xét xử vắng mặt vì nếu không rất khó xác định sở hữu để ngân hàng phát mại TSTC để thu nợ. + Thành lập lực lượng cảnh sát tư pháp để cưỡng chế việc thi hành án nếu con nợ không giao nhà cho người mua tại trung tâm đấu giá. + Sau khi được xác nhận có công chứng trong thủ tục thế chấp thì hầu như các tài sản hợp lệ nên chỉ cần ngân hàng xuất trình đủ giấy tờ hồ sơ vay, hồ sơ thế chấp thì ngân hàng có quyền phát mại. + Đối với tài sản ngân hàng đã nhận gán nợ mà không tranh chấp nhưng hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ đề nghị chính phủ chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng hợp thức hoá về mặt pháp lý, hoàn chỉnh hồ sơ để ngân hàng có quyền bán, chuyển nhượng, khai thác nhằm thu hồi vốn của mình. d, Thay đổi cách tính lãi suất trong thời gian chờ xét xử TSTC. Thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc hạn trả nợ, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách lãi suất quá hạn đối với khoản tiền cho vay nhưng từ khi ngân hàng bắt đầu phát mại tài sản cho đến khi hoàn thành thì không có quy định nào về việc tính lãi. Các TSTC có giá trị lớn thời gian phát mại dài. Trong khoảng thời gian này vốn của ngân hàng bị chiếm dụng mà lãi không được tính. Nếu chẳng có quy định cụ thể về điều này, chẳng hạn khống chế về thời gian phát mại với ngân hàng, sau đó ngân hàng phải chịu thời gian kéo dài sau đó. e, Trường hợp bên vay bị phá sản Nhà nước cần quy định rõ thủ tục xử lý TSTC. Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện xử lý TSTC của doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, giải thể một cách cụ thể đảm bảo công bằng giữa các bên. Bởi vì hiện nay số tiền thu được do đấu thầu thanh lý tài sản của tổ chức kinh tế được giành để thanh toán nợ thuế, tiền lương lao động trước rồi mới thanh toán nợ cho ngân hàng. Nếu phần còn lại không đủ để thanh toán nợ cho ngân hàng thì quả là bất hợp lý vì TSTC là tài sản mà tổ chức kinh tế đã thế chấp cho ngân hàng để được vay vốn. Hơn nữa trong hợp đồng thế chấp vay tiền đã được công chứng hay chính quyền sở hữu của ngân hàng. f, Đưa ra trật tự giải quyết tài sản khi bên vay dùng một tài sản để thế chấp cho nhiều TCTD khác nhau. Cần nghiên cứu bỏ quy định một khách hàng vay vốn nhiều TCTD thành quy định nhiều ngân hàng cho vay theo hướng đồng tài trợ và một ngân hàng sẽ đứng ra làm đầu mối. Còn nếu không bỏ thì cần sửa đổi, bổ sung cơ chế và chấn chỉnh lại hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng, từ khâu cập nhật số liệu, cung cấp số liệu đảm bảo kịp thời, chính xác và tin cậy. g, Giảm thuế hoặc bãi bỏ thuế khi phát mại tài sản. h, Thành lập Công ty mua bán TSTC mục tiêu hoạt động không vì lợi nhuận nhưng hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhà nước cấp một phần vốn tự có, đại bộ phận vốn được huy động dưới các hình thức như phát hành trái phiếu dưới sự bảo hộ của Chính phủ. - Tiếp nhận hồ sơ tín dụng khó đòi và tiến hành phân tích khả năng thu hồi từng khoản vay. - Được ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính, Bộ tư pháp làm tư vấn, nhằm tránh cho chính phủ và ngân hàng Nhà nước trực tiếp đem tiền tạo ra sự ỷ lại vì lý đó là một nét xấu trong quản lý kinh doanh. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp trong những trường hợp bất khả kháng. i, Đưa ra các phương pháp, tiêu chuẩn để xác định tổn thất của ngân hàng trong vụ án hình sự (như vụ Tamexco, Epco, Minh Phụng …) j, Ngăn chặn nạn giấy tờ sở hữu giả về tài sản. k, Có chế độ về giải quyết các chi phí mới phát sinh trong quá trình cho vay thế chấp. Nếu chi phí tăng, hoặc phải chi thêm chi phí quản lý dẫn đến số món vay phải giảm, lợi nhuận đương nhiên giảm và ngân hàng đã bỏ lỡ cơ hội có thể thu lợi nhuận. Ngân hàng không trực tiếp chịu tác động của việc tăng chi phí nhưng lại bị ảnh hưởng một cách gián tiếp. Ngoài ra việc thế chấp đối với dây chuyền sản xuất thường xuyên phải đánh giá lại để đề phòng những hao mòn nhất là những hao mòn hữu hình xảy ra hoặc việc sử dụng không đúng hợp đồng của người thế chấp kiểm tra sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình sản xuất đồng thời buộc ngân hàng mất một khoản chi phí đáng kể (có khi phải thuê chuyên gia …) Vậy để giải quyết tốt đẹp khó khăn cho cả ngân hàng và khách hàng, đồng thời giữ mối quan hệ tốt giữa hai bên, nên có một cơ quan thứ ba đứng ra làm trung gian quản lý TSTC vay vốn ngân hàng. Quá trình này thực hiện một cách chuyên môn hoá sẽ làm giảm gánh nặng chi phí xuống và khoản chi phí đó do ngân hàng và khách hàng cùng trả cho cơ quan trung gian đó. Kiến nghị với Nân hàng Nhà nước (NHNN): Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay cầm cố *Đối với hạn chế sự khác biệt của Công văn 869/CV-NNNH1 vói đặc trưng cơ bản của nghiệp vụ cấp tín dụng : NHNN và các cơ quan chức năng sớm ban hành các hướng dẫn về việc cấp tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Trong đó nhất thiết phải quy định chặt chẽ và chi tiết trách nhiệm của tổ chức phát hành giấy tờ có giá, trong đó quy định về việc tổ chức phát hành phải có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền cho TCTD cho vay khi nhận được thông báo của TCTD cho vay rằng bên cầm cố (bên vay) thực hiện không đúng hoặc không đủ nghĩa vụ đối với TCTD cho vay. *Đối với hạn chế thời gian, thủ tục còn phiền hà: trong thời gian tới, các TCTD khi cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của khách hàng cần thiết phải đơn giản hoá quy trình thẩm định và xét duyệt do các khoản vay này có tính an toàn cao. Thủ tục cũ bao gồm 8 bước: Giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng cầm cố chứng từ có giá, biên bản kiểm định, giấy nhận nợ, phương án sản xuất kinh doanh, giấy xác nhận chứng từ có giá, bản gốc chứng từ có giá ngắn hạn, biên bản kiểm tra sử dụng vố vay (sau khi phát tiền vay). Khi sửa đổi nên bớt phương án sản xuất kinh doanh, biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay, biên bản kiểm định và giấy nhận nợ gộp làm một. Như vậy hồ sơ thủ tục sẽ đơn giản hơn. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho vay thế chấp tài sản + Đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước huỷ bỏ điều 11 mục 2 về TSCC trong Thông tư 06/2000/TT - NHNN 1, tức là huỷ bỏ điều "Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại TCTD bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ". + NHNN phối hợp với các cơ quan khác để thành lập một trung tâm chuyên cung cấp thông tin: Qua đó các ngân hàng có thể nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi trên thị trường, cập nhật các văn bản, quy định mới của NHNN cũng như các tổ chức khác, giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng trong nước không phải sử dụng dịch vụ thông tin của các tổ chức nước ngoài, giảm được chi phí và theo đó giảm được lãi suất cho vay. + NHNN sớm trình lên Quốc hội, Chính phủ về việc ban hành Luật thế chấp tài sản và nhữnh văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu tài sản đặc biệt là nhà cửa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sớm hoàn tất cả các giấy tờ có liên quan đến TSTC để tạo điều kiện cho các ngân hàng và khách hàng thuận tiện khi vay vốn. + Sớm xúc tiến việc thành lập công ty mua bán TSTC theo sự uỷ quyền của Chính phủ. + Đưa ra mẫu hợp đồng thế chấp chuẩn chung cho tất cả các TCTD tránh tình trạng không đồng nhất giữa các TCTD và sự không công nhân của công chứng Nhà nước. + Chủ động phối hợp với Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Tổng cục địa chính để nghiên cứu soạn thảo, ban hành một văn bản nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách tắc trong việc giải toả, phát mại TSTC ở các NHTM hiện nay. + Ngoài ra NHNN cần tháo gỡ một số điều bất hợp lý đối với QĐ 217/QĐ - NH1. Điều 91 quy định: "Mỗi lần thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền" nhưng mặc dù ngân hàng có đăng ký nhà ở với Sở địa chính nhưng cả 2 cơ quan này đều không cho đăng ký vì chưa có hướng dẫn của UBND thành phố. Điều 17.1 trong QĐ 217 ghi: "Một TSTC để vay nhiều lần tại một bên cho vay, mỗi lần thế chấp phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và các lần vay sau lập hợp đồng bổ sung phải có chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước". Điều này thực hiện trong thực tế rất phức tạp vì các doanh nghiệp thế chấp hoặc cầm cố để vay vốn ngắn hạn tại ngân hàng thì khoản vay trả là rất nhanh (3 tháng) và thường xuyên nên Công ty phải lập nhiều hợp đồng và khế ước vay vốn. Vì thế nếu phải đưa ra công chứng thì sẽ rất phiền hà và tốn kém cho đơn vị và trên thực tế chưa ngân hàng nào thực hiện được điều đó. + NHNN cần sớm có cơ chế quy định vè thiết lập quỹ bù đắp rủi ro để các TCTD chủ động giải quyết các khoản rủi ro quá hạn. + Quy định tại điều 3 QĐ 48/1999/NĐ - NHNN về việc ban hành quy định về phân loại tài sản có trích lập người sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các TCTD. Trong vòng 15 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm thế chấp tín dụng thực hiện việc phân loại tài sản có trích lập dự phòng để xử lý rắc rối. Nghĩa là quỹ dự phòng chỉ được trích lập ngay từ đầu năm hiện hành căn cứ vào số dư năm trước. Như vậy các khoản nợ quá hạn đã được trích lập từ đầu năm nhưng trong năm đã thu hồi được, nhưng vẫn phải trích lập trong khi các khoản nợ quá hạn phát sinh lại không được trích lập trong năm. Tại điều 6 tỷ lệ lập dự phòng cho tài sản có chưa phù hợp vì hiện nay nợ quá hạn còn cao (10 - 20%) thì mức trích lập dự phòng có thể lên đến hàng trăm tỷ với các ngân hàng lớn và hàng chục tỷ đối với các ngân hàng nhỏ. Trong khi lợi nhuận ngân hàng khó có thể đạt bằng con số đã trích từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước nên: - Trích lập theo từng kỳ với mức tỷ lệ thích hợp khác nhau thay vì trích lập từ đầu năm. - Xem xét lại tỷ lệ quy định về trích lập dự phòng trên cơ sở mối tương quan giữa tỷ lệ quá hạn và số rủi ro có thể xảy ra cần phải xử lý. - Giá trị dự phòng nên trích lập theo từng nhóm tài sản có qua phân loại. + Cho phép thành lập Công ty trực thuộc ngân hàng chịu trách nhiệm tiếp nhận các tài sản do ngân hàng xiết nợ để kinh doanh, đẩy nhanh quá trình khai thác, giải quyết các tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Trên cơ sở đó cung cấp khoản tín dụng mới (chỉ thị 8/1998/CT - NHNN/4 ngày 03/10/1998). + Chính phủ cùng ngân hàng Nhà nước hoạch định chương trình dài hạn và trước mắt để quy hoạch cơ cấu lại hệ thống các TCTD đặc biệt là loại yếu kém để xây dựng trong tương lai gần có một hệ thống ngân hàng Việt Nam lành mạnh, hoạt động có hiệu quả đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Kiến nghị với các Bộ - ngành liên quan. - Bộ Tư pháp cần sớm có thông tư hướng dẫn NĐ 08/2000/NĐ - CP "Về đăng ký giao dịch bảo đảm" và NĐ 165/1999/NĐ - CP về "Giao dịch bảo đảm để tạo điều kiện nhịp nhàng đồng bộ cho việc thực hiện NĐ 178/1999/NĐ - CP" - Thực hiện nhanh chóng việc cấp giấy chứng nhận chủ quyền tài sản đối với các thành phần kinh tế, nhằm tạo điều kiện để các thành phần kinh tế sử dụng TSTC vay vốn tín dụng. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam. + NHCTVN nên xây dựng một biểu giá thích hợp làm căn cứ cho cán bộ tín dụng đánh giá thống nhất cho toàn hệ thống. + NHCTVN nên giao quyền tự quyết hơn nữa cho Sở giao dịch I về việc xử lý TSTC để Sở hoạt động tốt hơn, xử lý các TSTC được nhanh chóng, gọn nhẹ hơn. + Cụ thể hoá và hướng dẫn các quy chế về bán đấu giá TSTC vì: - Quy chế bán đấu giá tài sản ban hành kèm theo NĐ số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chỉnh phủ còn nhiều phức tạp, mâu thuẫn. Quy chế đã mở lối thoát cho các ngân hàng trong việc chủ động bán TSTC để thu hồi vốn mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của người vay, giải quyết được các nút vướng mắc trước đây phải xử lý theo trình tự tố tụng tuy nhiên lại không quy định biện pháp xử lý và quyền của người bán đấu giá trong từng trường hợp khi người thế chấp không đồng ý uỷ quyền cho người bán đấu giá và sẽ không giao tài sản cho người mua khi đã bán đấu giá. - Ngoài ra đối với việc phát mại quyền sử dụng đất, quy chế yêu cầu người thế chấp, người nhận thế chấp phải có đơn xin phép quyền sử dụng đất được cơ quan có thẩm quyền cho phép trong khi luật đất đai cho phép thế chấp quyền sử dụng đất và do đó khi người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình thì đương nhiên ngân hàng được bán đấu giá quyền sử dụng đất. Như vậy, quy chế đấu giá lại một lần nữa vừa mở lối thoát cho các ngân hàng nhưng vừa gây cản trở cho ngân hàng trong việc thực hiện quy chế đặc biệt trong trường hợp người thế chấp không tự nguyện bán quyền sử dụng đất không có quy trình giải quyết. + Hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp quy của Nhà nước và của ngành về việc xử lý TSTC, đặc biệt là quyền sử dụng đất, hướng dẫn việc thi hành đối với từng trường hợp, để ban hành thống nhất trong toàn hệ thống, tránh việc áp dụng khác nhau ở các chi nhánh NHCT do không hiểu hết quy định của các văn bản. + Kiên quyết chỉ đạo các chi nhánh trong việc phát mại xử lý TSTC, những trường hợp có tranh chấp lập hồ sơ để chuyển cho các cơ quan pháp luật xử lý, tài sản phát mại không thu đủ gốc vẫn phải xử lý (vận dụng quyết định 48/QĐ - NHNN ngày 8/2/1999 cua Thống đốc ngân hàng) tránh trường hợp một số nơi sợ trách nhiệm nên vẫn găm giữ không phát mại tài sản + Hiện nay chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua NHCTVN còn nhiều bất cập. Các cán bộ mới sẽ được đưa về Sở giao dịch I theo sự phân công của NHCTVN. Điều này gây sự khó khăn do Sở bởi có bộ phận thừa, bộ phận khác lại thiếu mà NHCTVN không thể nắm hết được dẫn đến tình trạng thiếu người có chuyên môn mà Sở cần. + Trang bị thêm thiết bị như mạng lưới máy tính cho các chi nhánh đặc biệt là Sở giao dịch I vì đây là trung tâm thu hút khách hàng ở Hà Nội nhằm đảm bảo hoạt động thanh toán thông suốt và quản lý chặt chẽ các khoản vay thông qua mạng máy tính,tăng cường mối liên hệ giữa các bộ phận trong một chi nhánh cũng như giữa các chi nhánh với nhau và giữa các NHTM đảm bảo an toàn tín dụng. - Có chính sách chế độ phù hợp với các đơn vị cấp dưới hoạt động có hiệu quả kịp thời theo hướng cũng như nhắc nhở các đơn vị hoạt động kém hiệu quả phải trình bầy lý do và nêu phương án kinh doanh sắp tới nhằm giúp đỡ bổ sung trong kế hoạch kinh doanh của các đơn vị cấp cơ sở. -Nhanh chóng hoàn thiện và đưa vào hoạt động Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC): Trong Miền Nam đã có Công ty này của NHCTVN. ở ngoài Bắc chưa thành lập hẳn Công ty mà mới chỉ là phòng quản lý và khai thác tài sản ; hoạt động chưa thật hiệu quả vì phạm vi nhỏ, khối lượng công việc ít. Hoàn thiện thêm chức năng quản lý các TSTC nữa khi đã hình thành hẳn Công ty, Công ty AMC miền Bắc của NHCTVN sẽ chịu trách nhiệm tiếp nhận các khoản nợ, tài sản do hệ thống NHCT xiết nợ đang bị tồn đọng để kinh doanh (bán, cho thuê, liên doanh liên kết...) là biện pháp khả thi và mang lại hiệu quả cao; bởi vì theo luật các TCTD thì NHTM không có quyền kinh doanh bất động sản, trong khi đó phần lớn bất động sản đang nằm tại Ngân hàng do xử lý các biện pháp đảm bảo tiền vay. Công ty này sẽ gồm 3 đặc điểm: - Có tư cách pháp nhân - Hạch toán độc lập bằng vốn tự có - Trực thuộc NHCTVN Như vậy, với hình thức trên hoạt động của Công ty sẽ giúp NHCTVN quản lý các khoản nợ có vấn đề, đẩy nhanh quá trình xử lý các TSTC, CC để thu hồi vốn, lành mạnh hoá dư nợ tín dụng, nhất là đối với tình hình hiện nay của Sở giao dịch, biện pháp này càng ý nghĩa tích cực. Kết luận Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các NHTM ngày càng chứng minh vai trò quan trọng của mình trong mối quan hệ với tất cả các ngành khác. Tuy nhiên chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM còn chưa cao đang là mối quan tâm không chỉ với các cấp lãnh đạo, các giới quản lý và điều hành của hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội. Hoạt động cầm cố, thế chấp đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn nhưng các văn bản chưa đồng bộ, còn chồng chéo lên nhau, thiếu hoàn chỉnh; có thể coi là "mới mà chưa mới". Chính vì lẽ đó em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu, suy nghĩ hy vọng góp phần vào việc hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố - thế chấp tại Sở GDI-NHCTVN . Nội dung trình bày trong luận văn mong muốn bước đầu đóng góp phần tổng hợp và làm rõ những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ cho vay của NHTM, về tài sản cầm cố, thế chấp và vai trò của chúng; thực trạng tình hình bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố tại Sở GDI-NHCTVN nhằm khẳng định vị trí, vai trò của tài sản cầm cố - thế chấp trong hoạt động ngân hàng, từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị để giải quyết những khó khăn vướng mắc mà Sở đang gặp phải. Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho ngân hàng trong việc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp; và những công việc về sau như xử lý chúng; bổ sung và hoàn thiện cơ chế thích hợp vè bảo đảm tiền vay, cơ chế xử lý TSCĐ, cố định thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay, cho phép ngân hàng xử lý về sau được thuận lợi, dễ dàng, Công việc này liên quan đến nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách,... do vậy đòi hỏi phải có sự quan tâm và đầy đủ đúng mức của Chính phủ, ngân hàng Nhà nước và các ban ngành khác. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú cán bộ trong Phòng kinh doanh của Sở GDI-NHCTVN đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập. Đồng thời cho em gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo-Tiến sĩ Lê Đức Lữ đã tận tình giúp đỡ em để em có thể hoàn thành tốt luận văn này.Nhưng vì là một công trình nghiên cứu khảo sát, thời gian nghiên cứu còn hạn chế, thiếu sót về kiến thức cho nên em rất mong nhận được sự chỉ bảo thêm của các thầy cô giáo và sự đóng góp của bạn bè để đề tài hoàn thiện hơn và có giá trị thực tiễn Mục lục A.Lời nói đầu B.Nội dung Chương I Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại c.kết luận Tài liệu tham khảo Giáo trình “ Lý thuyết tài chính tiền tệ “ – Trường ĐH KTQD Giáo trình “ NHTM“ – NXB thống kê năm 2000 ( GS.TS. Lê Văn Tư) NĐ165/1999/NĐ- CP ngày 19/12/1999 về giao dịch đảm bảo NĐ178/1999/NĐ- CP ngày 29/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng NĐ08/2000/NĐ- CP ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch đảm bảo Bộ luật dân sự QĐ1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng Thông tư liên tịch 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 hướng dẫn việc xử lý đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các TCTD. Thông tư 06/2001/TT-NHNN ngày 4/4/2000 hướng dẫn thực hiện NĐ 178/1999/NĐ-CP. Công văn của NHCT Việt Nam Số 1219/CV-NHCT 5 ngày 1/6/2000 về việc hướng dẫn thực hiện đảm bảo tiền vay Số 1472/CV-NHCT 5 ngày 27/6/2000 về việc bổ sung CV 1219/CV-NHNN5 Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ các năm 1999, 2000, 2001 Tạp chí ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34360.doc
Tài liệu liên quan