1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày một tăng cũng như để đáp
ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những biện pháp
được các nhà quản lý đặc biệt quan tâm hiện nay là công tác kế toán nói chung
cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng.
Trong đó, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được coi là một
khâu trung tâm của công tác kế toán, mở ra hướng đi hết sức đúng
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện việc tổ chức kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đắn cho các
doanh nghiệp. Thực chất chi phí sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất, do
vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo đầu
ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp nhận và làm tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của quá trình sản
xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ
vấn đề đó mức tính giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí
sản xuất bỏ ra theo đúng chế độ của Nhà nước.
Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt thuận
lợi, cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì
vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh, thu lợi nhuận cao thì bên cạnh việc sản
xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu người tiêu dùng,
một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ, phù hợp với
sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết
định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành công nghiệp, hạ
giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm
2
tạo tiền đề cho các doanh nghiệp sản xuất nước nhà có được những sản phẩm có
giá bán cạnh tranh tốt với các doanh nghiệp trong khu vực cũng như trên thế
giới.
Vì lẽ đó trong luận văn này tôi chọn đề tài “Hoàn thiện việc tổ chức kế
toán chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp công nghiệp Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Nghiên cứu về mặt lý luận kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp
tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam trong nền
kinh tế thị trường, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp ứng dụng vào thực tiễn nhằm
nâng cao chất lượng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm phục vụ cho quản lý sản xuất kinh doanh hiệu quả.
3. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu:
Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, so sánh
và khảo sát thực tiễn.
4. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp
tính giá thành sản phẩm.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và
các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1. Những vấn đề chung:
1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất:
Chi phí là phí tổn tài nguyên, vật chất, lao động và phải phát sinh gắn liền
với hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
chi phí lao động trực tiếp và chi phí sản xuất (CPSX) chung.
Hạch toán CPSX sẽ trả lời cho các câu hỏi: các chi phí phát sinh như thế
nào? Theo từng loại chi phí gì? Phát sinh ở dâu? Phát sinh vì mục đích gì? Để
làm gì? CPSX của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn
tại và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nhưng để phục cho quản lý và hạch
toán kinh doanh CPSX phải được tập hợp theo từng thời kỳ: Hàng tháng, hàng
quý, hàng năm phù hợp với kỳ kế hoạch và báo cáo kế toán.
1.1.2. Khái niệm giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm (GTSP) là CPSX tính cho một khối lượng sản phẩm,
dịch vụ hoàn thành nhất định.
CPSX được xác định cho từng loại sản phẩm hoặc một khối lượng công
việc đã hoàn thành theo toàn bộ quy trình sản xuất được gọi là giá thành thành
phẩm hoặc hoàn thành một hay một số công đoạn sản xuất nhất định được gọi là
giá thành bán thành phẩm.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Giữa CPSX và GTSP thường có cùng bản chất kinh tế là hao phí lao động
sống và lao động vật hóa nhưng lại khác nhau về thời kỳ, phạm vi, giới hạn.
4
CPSX là chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp, còn
GTSP là chi phí đầu ra của quá trình sản xuất đó. Nội dung của CPSX và GTSP
vừa có tính riêng biệt vừa có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
CPSX luôn luôn gắn với thời kỳ phát sinh chi phí nhất định, còn GTSP lại
gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã sản xuất hoàn thành.
Mối quan hệ giữa CPSX và GTSP:
CPSX kỳ trước chuyển sang CPSX phát sinh kỳ này
Tổng GTSP hoàn thành CPSX kỳ này chuyển sang kỳ sau
1.2. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất:
1.2.1. Bản chất chi phí sản xuất và ý nghĩa của tập hợp chi phí sản xuất:
Trong nền sản xuất hàng hóa, doanh nghiệp luôn quan tâm đến việc bỏ ra
và thu hồi lại CPSX như thế nào nhằm tái sản xuất.
Tập hợp CPSX có ý nghĩa cơ bản như sau:
- Muốn tái sản xuất mở rộng thì doanh nghiệp phải biết được các khâu cơ
bản như sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó khâu sản
xuất là khâu đầu tiên, cơ bản và quyết định nhất. Vì vậy doanh nghiệp
trong nền sản xuất hàng hóa tồn tại như thế nào phụ thuộc rất lớn vào việc
kiểm soát và sử dụng CPSX có hiệu quả hay không.
- Tập hợp CPSX đúng và đủ, phân loại rõ từng loại chi phí phát sinh ở đâu,
lúc nào và cho đối tượng sản xuất nào phải phù hợp với yêu cầu thông tin
quản trị một cách kịp thời, giúp nhà quản trị hạch toán được vốn cần sản
xuất, quản lý và sử dụng nguồn lực doanh nghiệp có hiệu quả nhất.
1.2.2. Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất:
5
Đối tượng tập hợp CPSX là phạm vi giới hạn mà CPSX cần phải tập hợp,
theo đó thực chất là xác định nơi phát sinh ra chi phí và nơi chịu chi phí. Các căn
cứ để xác định đối tượng tập hợp CPSX là:
- Địa điểm phát sinh chi phí.
- Đặc điểm và công dụng chi phí.
- Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất.
- Đặc điểm sản phẩm sản xuất.
- Cơ cấu tổ chức sản xuất.
- Trình độ quản lý và yêu cầu hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xác định đúng đối tượng tập hợp CPSX sẽ tạo điều kiện thuận lợi tổ
chức tốt kế toán CPSX từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp và phân bổ số liệu, tổ
chức tài khoản, sổ sách kế toán tổng hợp và chi tiết đều phải theo đúng đối
tượng đã được xác định, giúp công tác tính GTSP kịp thời và chính xác.
1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất:
Mục đích của việc phân loại CPSX là nhằm quản lý tốt chi phí theo từng
loại, tạo ra các thông tin chi phí hữu hiệu cho việc ra quyết định tăng, cắt bỏ,…
chi phí thích hợp và không thích hợp cho sản xuất. Do vậy, hiện nay có nhiều
quan điểm phân loại CPSX với nhiều tiêu thức được lựa chọn phân loại khác
nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý ở mỗi nước, mỗi thời kỳ.
1.2.3.1. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung và tính chất kinh tế
của chi phí:
Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ CPSX kinh doanh của doanh nghiệp
được chia thành các yếu tố sau: Chi phí nguyên vật liệu; Chi phí nhân công; Chi
phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ); Chi phí dịch vụ mua ngoài; Chi phí khác
bằng tiền.
6
Phân loại chi phí theo cách này có tác dụng cho biết kết cấu tỷ trọng từng
loại chi phí mà doanh nghiệp đã•chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ cho yêu cầu thông tin
và quản trị doanh nghiệp, để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí, lập dự
toán CPSX kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ
xác định mức tiêu hao vật chất và thu nhập quốc dân.
1.2.3.2. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục:
Người ta còn gọi phân loại theo cách này là Phân loại CPSX theo mục đích
và công dụng của chi phí. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và
công dụng chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau,
mỗi khoản mục chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng,
không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Toàn bộ CPSX phát
sinh trong kỳ được chia ra các khoản mục sau: Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực
tiếp; Chi phí nhân công trực tiếp; CPSX chung; Chi phí bán hàng; Chi phí quản
lý doanh nghiệp; Chi phí khác.
Tác dụng của cách phân loại này là dự toán được các khoản mục chi phí
trọng yếu trong CPSX. Cung cấp số liệu cho công việc xây dựng định mức giá
thành và quản lý GTSP theo khoản mục. Tính toán nhanh GTSP và bán thành
phẩm trong quá trình quản lý chi phí. Phân tích tình hình thực hiện giá thành
theo khoản mục chi phí.
1.2.3.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí được chia làm 2 loại: Chi phí trực tiếp; Chi
phí gián tiếp.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế
toán tập hợp và phân bổ CPSX cho các đối tượng một cách chính xác, hợp lý.
1.2.3.4. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm:
7
Căn cứ vào mối quan hệ tương quan giữa chi phí và khối lượng sản phẩm,
CPSX được chia làm 3 loại: Chi phí khả biến; Chi phí bất biến; Chi phí hỗn hợp.
Cách phân loại này giúp nhà quản trị thấy được những cách thức ứng xử
từng loại chi phí giúp cho nhà quản trị có được cách nhìn và quyết định tốt hơn
khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động.
1.2.4. Trình tự tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất:
Trình tự tập hợp và phân bổ CPSX thường được khái quát qua 3 bước sau đây:
- Bước 1: Tập hợp các yếu tố chi phí đầu vào theo địa điểm phát sinh chi phí,
công dụng của chi phí và theo từng đối tượng tính giá thành.
- Bước 2: Phân bổ các chi phí đã được tập hợp ở bước 1 cho các đối tượng tính
giá thành.
- Bước 3: Tổng hợp CPSX, xác định giá trị sản phẩm dở dang và tính GTSP
hoàn thành.
1.3. Tổ chức tính giá thành sản phẩm công nghiệp:
1.3.1. Chức năng và ý nghĩa của giá thành sản phẩm:
Yêu cầu của sản xuất là một mặt không ngừng nâng cao năng suất lao
động, mặt khác phải luôn hạ thấp GTSP. Giá thành có hai chức năng cơ bản sau:
- Thước đo giá trị:
Với chức năng thước đo giá trị, GTSP cung cấp thông tin cho những
kết luận kinh tế quan trọng không những đối với Nhà nước trong việc xác
định giá dự toán sản phẩm, mà còn cho cả doanh nghiệp trong việc đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, về tính hợp lý của quá trình tái sản xuất
trong doanh nghiệp và bù đắp những tiêu hao vật chất.
- Đòn bẩy kinh tế:
Với chức năng đòn bẩy kinh tế của giá thành giúp cho nhà quản trị tìm
ra các biện pháp để hạ giá thành cũng như thu hút sự tham gia của người
8
lao động vào việc hạ giá thành thông qua các hình thức khuyến khích vật
chất thích hợp.
Ý nghĩa của giá thành khi thực hiện được chức năng của nó, thể hiện:
- Trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ của nền kinh tế thị trường thì GTSP
phản ánh chi phí của những lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự tiêu
hao hợp lý cho sản xuất sản phẩm được hoàn thành. Quá trình tiêu thụ sản
phẩm sẽ thu hồi lại các chi phí này và tái sản xuất. Mọi cách tính toán chủ
quan phản ánh không đúng chi phí tiêu hao tạo ra GTSP sẽ phá vỡ các mối
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh trung
thực, dẫn đến không thực hiện được tái sản xuất.
- GTSP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp. Muốn hạ thấp được GTSP với tỷ lệ hạ giá thành cao đòi hỏi doanh
nghiệp phải tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh tốt, đồng thời bộ máy kế
toán phải tổ chức kế toán tính giá thành chính xác, giảm tối đa chi phí kế toán
nhưng thông tin kế toán về giá thành phải phản ánh kịp thời, tính đúng và đủ.
Điều này giúp doanh nghiệp hiểu rõ thực chất sản xuất của mình, xác định
đúng giá bán ra, tính thuế, tăng tính cạnh tranh sản phẩm trên thị trường và
xác định kết quả kinh doanh trung thực.
1.3.2. Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm:
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, chi tiết sản phẩm, công
việc, lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra, cần phải được tính tổng giá
thành và giá thành đơn vị.
Các căn cứ sau đây để nhận biết đối tượng tính GTSP:
- Đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp.
- Tính chất sản xuất của doanh nghiệp.
- Quy trình công nghệ sản xuất.
9
- Tính chất hàng hóa của sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành được xác định theo các tiêu chuẩn sau:
- Có khả năng kiểm tra, xác định cụ thể từng sản phẩm, công việc.
- Phải đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng giá cả.
1.3.3. Phân loại giá thành sản phẩm:
Để phục vụ cho việc nghiên cứu và quản lý tốt GTSP, kế toán phân biệt
các loại giá thành khác nhau dựa trên một số tiêu thức sau:
Phân loại giá thành theo thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành:
Theo tiêu thức này, GTSP được chia làm ba loại:
- Giá thành kế hoạch: là loại GTSP được tính trên cơ sở CPSX kế hoạch và
sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch
của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm.
- Giá thành định mức: là loại GTSP được tính trên cơ sở các định mức chi phí
hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức
cũng được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm.
- Giá thành thực tế: là loại GTSP được tính trên cơ sở số liệu CPSX thực tế
đã•phát sinh và tập hợp được trong kỳ và sản lượng sản phẩm thực tế đã sản
xuất ra trong kỳ. GTSP thực tế chỉ có thể tính được sau khi kết thúc quá trình
sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Trong đó giá thành định mức được sử dụng rộng rãi trong kế toán quản trị
để so sánh với giá thành thực tế cùng kỳ, từ đó tìm ra chênh lệch, nguyên
nhân của những chênh lệch này, phục vụ cho mục đích quản lý.
Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán:
Theo tiêu thức này giá thành được chia làm hai loại:
10
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): là GTSP bao gồm các CPSX như
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và CPSX chung
tính cho những sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đã•hoàn thành.
- Giá thành toàn bộ: là GTSP bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm cộng
thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó.
Ý nghĩa của cách phân loại này là giúp cho doanh nghiệp quản lý giá
thành tốt hơn đồng thời giúp cho việc ra quyết định, cụ thể:
o Giá thành sản xuất của sản phẩm được tính khi nhập kho thành phẩm hoặc
giao thẳng cho khách hàng, là căn cứ để tính giá vốn.
o Giá thành toàn bộ của sản phẩm được tính khi xác định sản phẩm, công
việc hoặc lao vụ được tiêu thụ, là căn cứ tính lợi nhuận trước thuế của
doanh nghiệp.
1.3.4. Kỳ tính giá thành và các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang:
1.3.4.1 Kỳ tính giá thành:
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành tiến hành công việc
tính giá thành.
Căn cứ xác định kỳ tính giá thành ở doanh nghiệp:
- Đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm.
- Chu kỳ sản xuất sản phẩm.
Trường hợp tổ chức sản xuất nhiều, quy trình sản xuất ngắn và xen kẽ liên
tục thì kỳ tính GTSP thích hợp là vào thời điểm cuối mỗi tháng. Còn nếu chu kỳ
sản xuất đủ dài, sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất của sản
phẩm thì kỳ tính giá thành thích hợp là thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất sản
phẩm.
1.3.4.2. Các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang:
Một số phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang thường được áp dụng:
11
1.3.4.2.1. Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Theo phương pháp này kế toán đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ tính
nguyên vật liệu trực tiếp, còn chi phí nhân công trực tiếp và CPSX chung tính cả
cho thành phẩm chịu.
Phương pháp này áp dụng cho các doanh nghiệp có chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu trong GTSP, sản phẩm dở dang nhỏ và
không chênh lệch giữa các kỳ.
Phương pháp này sẽ được tính theo công thức:
Chi phí
sản phẩm
dở dang
cuối kỳ
Chi phí nguyên
vật liệu trực
tiếp tồn đầu kỳ
Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
tiêu hao trong kỳ
Số lượng
thành phẩm
Số lượng sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Số lượng
sản phẩm
dở dang
cuối kỳ
=
+
+
x
Phương pháp này có ưu điểm là cách tính toán rất đơn giản, khối lượng
công việc tính toán ít nhưng với phương pháp này độ chính xác không cao.
1.3.4.2.2 Đánh giá sản phẩm dở dang theo khối lượng hoàn thành tương đương:
Khi áp dụng phương pháp này, kế toán căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở
dang và mức độ chế biến của chúng để tính khối lượng sản phẩm dở dang ra
khối lượng hoàn thành tương đương, sau đó tính toán từng khoản mục chi phí cho
sản phẩm dở dang theo công thức:
Đối với chi phí bỏ vào một lần ngay từ đầu như chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp thì tính giống công thức nêu ở
mục (1.3.4.2.1).
Đối với các chi phí bỏ dần vào trong quá trình sản xuất như chi phí nhân
công trực tiếp, CPSX chung:
12
Khoản
mục chi
phí tính
cho sản
phẩm dở
dang
Khoản mục chi
phí tồn đầu kỳ
Khoản mục chi phí
phát sinh trong kỳ
Sản lượng
thành phẩm
Sản lượng thành phẩm
quy đổi tương đương
Sản lượng
thành
phẩm quy
đổi tương
đương
=
+
+
x
Trong đó quy đổi sản lượng sản phẩm dở dang ra sản lượng thành phẩm
tương đương theo công thức:
Sản lượng thành phẩm
quy đổi tương đương
Sản lượng sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Tỷ lệ % quy đổi ra thành
phẩm tương đương = x
Khi áp dụng phương pháp này thì kết quả tính toán có mức độ chính xác
cao. Nhưng khối lượng tính toán lớn mất nhiều thời gian vì khi kiểm kê sản
phẩm dở dang cần phải xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang.
Phương pháp này chỉ thích hợp với những doanh nghiệp mà sản phẩm của
doanh nghiệp có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong tổng chi phí sản
phẩm không lớn lắm, khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ nhiều và biến động
lớn so với đầu kỳ.
1.3.4.2.3 Đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí sản xuất định mức:
Theo phương pháp này, cuối kỳ kế toán tiến hành kiểm kê khối lượng sản
phẩm dở dang. Xác định mức độ hoàn thành của sản phẩm dở dang cuối kỳ. Căn
cứ vào định mức chi phí của từng đơn vị sản phẩm để tính chi phí của sản phẩm
dở dang cuối kỳ theo công thức:
Chi phí sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Khối lượng sản phẩm
dở dang cuối kỳ
Định mức chi phí
dở dang = x
13
Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà có thể tính theo định mức chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp hoặc cho toàn bộ khoản mục chi phí.
Phương pháp này chỉ áp dụng thích hợp với sản phẩm đã•xây dựng được định
mức CPSX hợp lý hoặc đã•thực hiện phương pháp tính giá thành theo định mức.
1.3.5. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm:
Hiện nay có rất nhiều phương pháp tính giá thành, các doanh nghiệp sản
xuất có thể lựa chọn một trong các phương pháp sau:
1.3.5.1. Phương pháp tính giá thành giản đơn:
GTSP hoàn thành tính cho từng khoản mục chi phí sẽ được tính theo công
thức sau :
Z = Dđk + C - Dck và J = Z/ S
Trong đó:
Z : Tổng giá thành từng đối tượng tính giá thành
C : Tổng chi phí đã•tập hợp được trong kỳ theo khoản mục
Dđk và Dck : Chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ
J : Giá thành đơn vị từng đối tượng tính giá thành
S : Sản lượng thành phẩm
1.3.5.2. Phương pháp loại trừ chi phí:
Khi áp dụng phương pháp này thì đối tượng kế toán chi phí là toàn bộ quy
trình công nghệ sản xuất còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm chính, sản
phẩm hoàn thành và sản phẩm lao vụ phục vụ cho các phân xưởng không phải là
sản xuất phụ. Khi tính giá thành của các đối tượng tính giá thành thì phải lấy
tổng CPSX đã tập hợp được loại trừ phần chi phí của sản phẩm phụ, chi phí thiệt
hại về sản phẩm hỏng, chi phí phục vụ lẫn nhau trong nội bộ các phân xưởng
phụ. Công thức tính giá thành:
Z = Dđk + C - Dck - Clt
14
Trong đó:
Clt : Chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng chi phí đã tập hợp
1.3.5.3. Phương pháp tính giá thành theo hệ số:
Điều kiện sử dụng: Đối với các doanh nghiệp có đặc điểm sản xuất sử
dụng cùng một số loại nguyên vật liệu, lao động trực tiếp, kết quả sản xuất thu
được đồng thời nhiều loại sản phẩm chính khác nhau. Đối tượng tập hợp CPSX
là toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, không thể tách riêng CPSX ngay từ đầu
cho từng đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm.
Phương pháp tính:
− Bước 1: Trước hết căn cứ vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản phẩm để
chọn sản phẩm đặc trưng làm sản phẩm tiêu chuẩn có hệ số 1, các sản phẩm còn
lại quy đổi chi phí theo chi phí chuẩn, kế tiếp tính tổng sản lượng đã quy đổi
trong kỳ sản xuất. Công thức quy đổi từng loại sản phẩm (SP):
Sản lượng SP quy đổi
theo SP tiêu chuẩn
Sản lượng SP cần quy
đổi theo SP tiêu chuẩn
Hệ số quy
đổi = x
− Bước 2: Xác định giá thành của 1 sản phẩm quy đổi:
Giá thành đơn
vị sản phẩm quy
đổi
Tổng giá thành
Tổng sản lượng sản phẩm quy đổi
=
− Bước 3: Tính giá thành từng loại sản phẩm:
GTSP khác = GTSP quy đổi x Hệ số quy đổi
1.3.5.4. Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ:
Điều kiện sử dụng: Ứng dụng thích hợp cho loại hình công nghệ sản xuất
cùng một quy trình nhưng kết quả là một nhóm thành phẩm cùng loại với nhiều
phẩm cấp, quy cách khác nhau. Đối tượng tập hợp CPSX là toàn bộ quy trình
15
công nghệ sản xuất của nhóm sản phẩm, đối tượng tính giá thành là từng qui
cách sản phẩm trong loại sản phẩm đó.
Phương pháp tính: Kế toán cần xây dựng giá thành định mức hoặc giá
thành kế hoạch cho từng đối tượng tính giá thành và chi tiết theo từng khoản
mục chi phí, sau đó tính tỷ lệ phân bổ chi phí từng khoản mục hợp lý. Các bước
tiến hành như sau:
Tính tổng giá thành của từng quy cách sản phẩm theo giá thành định mức
với sản lượng thực tế, tính theo từng khoản mục rồi tổng hợp lại cho tất cả quy
cách sản phẩm. Đây là số liệu tiêu chuẩn dùng làm căn cứ tính tỷ lệ phân bổ.
Công thức tính từng khoản mục chi phí tiêu chuẩn:
Xác định tỷ lệ phân bổ từng khoản mục chi phí dựa trên chi phí thực tế cả
nhóm sản phẩm với chi phí định mức, nhưng tính riêng cho từng khoản mục.
Công thức:
Chi phí định mức
từng khoản mục
tính theo sản lượng
thành phẩm thực tế
Chi phí định mức từng
khoản mục theo từng
sản phẩm
Sản lượng
thành phẩm
thực tế =
x
Tỷ lệ phân bổ
chi phí cho từng
khoản mục
Chi phí thực tế từng khoản mục
Tổng chi phí định mức từng khoản mục
tính theo sản lượng thành phẩm thực tế
=
Tính chi phí thực tế từng khoản mục có trong từng sản lượng thành phẩm
thực tế. Công thức:
Chi phí thực tế từng
khoản mục tính
theo sản lượng
thành phẩm thực tế
Chi phí định mức từng
khoản mục theo sản
lượng từng sản phẩm
Tỷ lệ phân bổ
chi phí cho
từng khoản
mục
=
x
16
Tổng hợp chi phí thực tế của các khoản mục theo từng sản phẩm để tính giá
thành.
1.3.5.5. Phương pháp tính giá thành theo giá thành định mức:
Theo phương pháp này trước hết phải căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật
hiện hành và dự toán chi phí được duyệt để tính giá thành định mức của sản
phẩm.
Trên cở sở đã tính được giá thành định mức, số chênh lệch do thay đổi định
mức và tập hợp riêng được số chi phí chênh lệch thoát ly định mức. Giá thành
thực tế của sản phẩm sản xuất trong kỳ sẽ tính được theo công thức:
Z thực Z định Chênh lệch do Chênh lệch
tế của sản = mức của sản + thay đổi định + thoát ly
phẩm phẩm mức định mức
1.3.5.6. Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng:
Khi áp dụng phương pháp tính giá thành này kế toán mở ngay cho cho mỗi
đơn đặt hàng hoặc loạt hàng đó một bảng tính giá thành khi có một đơn đạt hàng
hoặc loạt hàng mới đưa vào sản xuất, cuối mỗi tháng căn cứ CPSX đã tập hợp ở
từng phân xưởng, đội sản xuất theo từng đơn đặt hàng hoặc loạt hàng trong sổ kế
toán chi tiết CPSX để ghi sang các bảng tính giá thành có liên quan. Khi nhận
được chứng từ xác nhận đơn đặt hàng hoặc loạt hàng đã được sản xuất hoàn
thành, kế toán ghi tiếp CPSX trong tháng của đơn đặt hàng hoặc loạt hàng còn
đang sản xuất dở dang và chi phí đã ghi trong bảng giá thành đều là chi phí của
sản phẩm dở dang.
1.3.5.7. Phương pháp tính giá thành theo kiểu phân bước:
Phương pháp tính giá thành theo kiểu phân bước có tính nửa thành phẩm:
Theo phương pháp này kế toán giá thành phải căn cứ vào CPSX đã được
tập trung theo từng giai đoạn sản xuất, lần lượt tính tổng giá thành đơn vị nửa
17
thành phẩm của giai đoạn sản xuất trước và kết chuyển sang giai đoạn sau một
cách tuần tự để tính tổng giá thành của nửa thành phẩm của giai đoạn kế tiếp, cứ
thế tiếp tục cho đến khi tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành
phẩm ở giai đoạn công nghệ sản xuất cuối cùng.
Phương pháp tính giá thành theo kiểu phân bước không tính nửa thành phẩm:
Theo phương pháp này kế toán giá thành phải căn cứ vào số liệu, CPSX đã
tập hợp trong kỳ theo từng giai đoạn công nghệ sản xuất, tính toán phần CPSX
của từng giai đoạn đó trong giá thành thành phẩm theo từng khoản mục chi phí
quy định. Sau đó CPSX của từng giai đoạn công nghệ sản xuất nằm trong giá
thành thành phẩm đã•tính được kết chuyển song song từng khoản mục để tổng
hợp tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của thành phẩm.
CPSX từng giai đoạn trong thành phẩm tính toán theo công thức sau:
Dđki + Ci n
Czi = x Stp và Ztp = ∑Czi
Stp + Sdi i=1
Trong đó:
Czi : CPSX của giai đoạn i trong thành phẩm
Dđki : Chi phí sản phẩm dở dang giai đoạn i đầu kỳ
Ci : CPSX phát sinh giai đoạn i
Sdi : Số lượng sản phẩm dở dang của giai đoạn i
Stp : Sản lượng thành phẩm giai đoạn cuối
Ztp : Giá thành thành phẩm hoàn thành
Việc lựa chọn phương pháp tính giá thành phải được xuất phát từ đặc điểm
quy trình công nghệ sản xuất tại doanh nghiệp, mối quan hệ giữa đối tượng kế
18
toán CPSX và đối tượng tính giá thành. Một doanh nghiệp có quy trình sản xuất
giản đơn, đối tượng kế toán CPSX và đối tượng tính giá thành là trùng nhau thì
doanh nghiệp sử dụng phương pháp tính giá thành giản đơn. Nếu doanh nghiệp
tổ chức sản xuất hàng loạt theo từng loại hàng, từng đơn đặt hàng thì doanh
nghiệp áp dụng phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. Nếu doanh
nghiệp sản xuất một loại sản phẩm có nhiều quy cách phẩm chất khác nhau thì
sử dụng phương pháp tính giá thành theo hệ số hoặc tỷ lệ. Ngược lại, khi một đối
tượng tính giá thành bao gồm nhiều đối tượng kế toán CPSX thì doanh nghiệp áp
dụng phương pháp tính giá thành phân bước hoặc tổng hợp chi phí.
Kết luận chương 1:
Chương này đề cập các vấn đề thuộc về lý luận chung của kế toán CPSX
và tính GTSP. Các khái niệm, sự phân loại CPSX và GTSP cũng như mối quan
hệ của chúng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nhằm thấy được tác
dụng của nó trong việc quản lý chi phí có hiệu quả.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Kết thúc cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng tám vĩ đại, nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa ra đời. Để phục vụ quản lý tài chính cho chính quyền non trẻ
này, kế toán lúc bấy giờ là kế toán đơn, chủ yếu là thu chi ngân sách, quốc
phòng. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Miền Bắc Việt Nam
bước vào thời kỳ kiến thiết đất nước, Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh để
điều hành quản lý kinh tế, về kế toán cơ bản vẫn là kế toán đơn. Đến năm 1957,
lần đầu tiên Nhà nước ban hành chế độ kế toán bắt buộc áp dụng ở các doanh
nghiệp quốc doanh. Từ đó đến nay, theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh
tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã nhiều lần bổ sung và thay đổi cho phù hợp,
đáp ứng được mục tiêu quản lý và phát triển kinh tế tài chính của nước nhà.
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển hệ thống kế toán Việt Nam từ
năm 1957 đến nay:
2.1.1. Các thời điểm quan trọng ban hành và thay đổi hệ thống kế toán:
Năm 1957: Chính phủ ban hành chế độ kế toán thống nhất cho các doanh
nghiệp thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Hệ thống kế toán đầu tiên này góp phần
quan trọng đưa công tác quản lý tài chính đi vào kỷ cương, nề nếp và tạo cơ sở
ban đầu để xây dựng hệ thống kế toán Việt Nam sau này.
Năm 1961: Nhà nước sửa đổi, cải tiến hệ thống kế toán ban hành lần đầu
và ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước.
Năm 1967: Liên Bộ Thống Kê và Tài Chính đã ban hành chế độ ghi chép
ban đầu áp dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh và một loạt chế độ tài khoản
20
kế toán, cùng hệ thống các báo cáo thống kê - kế toán. Hệ thống chế độ kế toán
này phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa và xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Miền Bắc.
Năm 1970: Nhà nước tiếp tục ban hành chế độ kế toán và sửa đổi Chương
III của Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước theo yêu cầu mới, mang tính tiêu
chuẩn hóa thống nhất toàn diện đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Năm 1988: Nhà nước ban hành Pháp lệnh kế toán - thống kê nhằm tăng
cường tính chất pháp lý thêm một bước, bao gồm các chế độ kế toán thống nhất
trong nền kinh tế quốc dân và mọi thành phần kinh tế khác nhau.
Các chế độ kế toán ban hành trong thời kỳ này, nhìn chung đã đạt được giá
trị biến đổi của sự phát triển xã hội. Biểu hiện thông tin kế toán được định lượng
có giá trị cung cấp cho nhiều thành phần và đối tượng sử dụng, nhằm kiểm tra
và đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho sự
quản lý thống nhất của Nhà nước và cung cấp thông tin về quá trình hoạt động
cho quản trị doanh nghiệp, đồng thời biểu hiện ban đầu tiếp cận với ngôn ngữ
của thông tin kế toán quốc tế và những chuẩn mực kế toán quốc tế.
Năm 1990: Bộ Tài Chính đã cải tiến và ban hành một hệ thống các chế độ
và văn bản pháp lý về kế toán theo tinh thần kế thừa hệ thống các chế độ kế
toán đã có, đồng thời đổi mới đáp ứng cho thu cầu thay đổi có tính cách mạng
trong cơ chế quản lý, với sự thừa nhận một cách khách quan nền sản xuất hàng
hóa bao gồm nhiều thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế th._.ị trường, kế toán
phải được thay đổi để thích ứng với cơ chế mới này.
Năm 1995: Sự phát triển với tốc độ nhanh của nền kinh tế, hệ thống kế
toán ban hành năm 1990 tỏ ra kém hiệu quả, thậm chí gây khó khăn cho việc
quản lý kinh tế tài chính. Tháng 12/1994, Bộ Tài Chính ban hành thử nghiệm hệ
21
thống kế toán mới và chính thức ký quyết định vào tháng 11/1995 thay thế hệ
thống cũ và áp dụng thống nhất vào đầu năm 1996 cho đến nay.
2.1.2. Cấu trúc cơ bản của hệ thống kế toán:
Hiện nay hệ thống kế toán Việt Nam bao gồm 4 bộ phận cơ bản:
Chế độ chứng từ kế toán.
Hệ thống tài khoản kế toán.
Chế độ sổ sách kế toán.
Hệ thống báo cáo kế toán.
2.1.2.1. Chế độ chứng từ kế toán:
Chứng từ kế toán dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, đồng
thời là phương tiện chứng minh tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế và thông tin
về kết quả của nghiệp vụ kinh tế đó.
Chứng từ kế toán Việt Nam được phân thành 2 loại:
− Chứng từ bắt buộc: Hệ thống chứng từ bắt buộc được áp dụng thống nhất cho
tất cả các đơn vị.
− Chứng từ nội bộ: Hệ thống chứng từ được sử dụng trong nội bộ từng đơn vị,
nó mang tính chất hướng dẫn không bắt buộc phải sử dụng.
2.1.2.2. Hệ thống tài khoản:
Tài khoản kế toán là phương pháp phân loại và hệ thống hóa các nghiệp vụ
kinh tế riêng biệt theo từng đối tượng ghi chép của kế toán, nhằm cung cấp
thông tin cho yêu cầu các đối tượng quản lý khác nhau.
Nhà nước ban hành hệ thống tài khoản kế toán thống nhất gồm tên và số
hiệu tài khoản. Kế toán doanh nghiệp sử dụng kế toán Việt Nam bắt buộc phải
sử dụng đúng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất.
2.1.2.3. Hệ thống sổ sách kế toán:
22
Sổ sách kế toán là hệ thống thông tin đã được hệ thống hóa có xử lý, lựa
chọn các thông tin hữu ích để lập báo cáo, phân tích tài chính. Sổ kế toán là
phương tiện cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng cần những thông tin
khác nhau.
Sổ kế toán được thiết kế gồm sổ tổng hợp và sổ chi tiết. Sổ kế toán chia
làm 2 loại: Sổ bắt buộc và sổ hướng dẫn. Sổ bắt buộc là sổ sách do Bộ Tài
Chính thiết kế mẫu sổ, qui định bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp phải sử
dụng để tổ chức kế toán tại doanh nghiệp; Sổ hướng dẫn là hình thức sổ sách kế
toán không bắt buộc doanh nghiệp phải tuân theo, nhân viên kế toán có thể thiết
kế mẫu sổ cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, sổ
kế toán này mang tính phục vụ cho nội bộ trong doanh nghiệp.
Hiện nay hệ thống kế toán có 4 hình thức ghi sổ kế toán:
Nhật ký chung.
Nhật ký sổ cái.
Chứng từ ghi sổ.
Nhật ký chứng từ.
2.1.2.4. Hệ thống báo cáo kế toán:
Báo cáo kế toán là phương pháp kế toán nhằm tổng hợp cân đối về tài sản,
kết quả kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế khác theo các đối tượng của kế
toán liên quan.
Hiện nay, báo cáo kế toán được chia làm 2 loại:
Báo cáo bắt buộc : Là báo cáo kế toán mà tất cả doanh nghiệp đều bắt
buộc phải lập theo mẫu và phương pháp lập do Bộ Tài Chính quy định
để nộp cho các cơ quan quản lý tài chính của Nhà nước.
23
Báo cáo không bắt buộc: Báo cáo được lập theo nhu cầu thông tin nội
bộ trong doanh nghiệp, các thông tin kế toán này không bắt buộc
doanh nghiệp công khai.
Điểm qua các mốc lịch sử của quá trình phát triển kế toán để khẳng định
rằng kế toán Việt Nam không ngừng phát triển mà còn góp phần quan trọng
trong việc cung cấp thông tin cho việc quản lý của Nhà nước và hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như ngăn ngừa hiện tượng vi phạm các
chính sách tài chính, bảo đảm trật tự kỷ cương và làm lành mạnh hóa các mối
quan hệ kinh tế xã hội.
Hệ thống kế toán Việt Nam ra đời sau luôn kế thừa có chọn lọc những đặc
điểm ưu việt của hệ thống kế toán trước đó, đồng thời bổ sung, cải tiến sao cho
đáp ứng được mục tiêu quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước và phù hợp với sự
phát triển của nền kinh tế theo từng giai đoạn.
2.2. Thực trạng về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở
nước ta:
Kế toán CPSX và tính GTSP là một bộ phận của hệ thống kế toán, để có
các kiến nghị mang tính kế thừa có chọn lọc thì cần thiết phải điểm lại kế toán
chi phí và tính GTSP ở các giai đoạn trước một cách cơ bản.
2.2.1. Các quy định chung của chế độ kế toán về kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm từ năm 1957 đến nay:
2.2.1.1. Từ năm 1989 trở về trước:
Các cơ quan chức năng của Nhà nước quản lý chi phí rất chặt chẽ, thể hiện
có nhiều báo cáo chi phí phải nộp lên cấp trên xét duyệt theo nhiều cách phân
loại khác nhau, nhất là các đơn vị hạch toán kinh tế độc lập thuộc ngành công
nghiệp. Trong đó có GTSP, các CPSX theo yếu tố. Quy định CPSX gồm 8 yếu tố:
1. Nguyên vật liệu chính mua ngoài (có cả bán thành phẩm mua ngoài).
24
2. Vật liệu phụ mua ngoài.
3. Nhiên liệu mua ngoài.
4. Năng lượng mua ngoài.
5. Tiền lương.
6. Bảo hiểm xã hội.
7. Khấu hao TSCĐ.
8. Chi phí khác bằng tiền.
2.2.1.2. Từ năm 1990 đến năm 1995:
Từ năm 1986 theo Nghị quyết của Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam là
chuyển nhanh nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa với nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hoạt động kinh tế khác nhau.
Để đáp ứng nhu cầu thay đổi cơ bản về cơ chế quản lý kinh tế tài chính, Bộ
Tài Chính ban hành hệ thống tài khoản kế toán mới ngày 15/12/1989 theo Quyết
định số 212/TC/CĐKT thay thế hệ thống tài khoản kế toán năm 1970. Tuy
nhiên, xét về kế toán tập hợp CPSX và tính giáù thành sản phẩm công nghiệp thì
không thay đổi cơ bản. Biểu hiện ở chỗ sắp xếp lại tài khoản kế toán gọn hơn,
kết cấu GTSP từ 11 khoản mục nhập lại còn 9 khoản mục chi phí, nhưng tính
chất chi phí và phương pháp hạch toán không đổi. Các báo cáo về CPSX theo
yếu tố vẫn giống như thời kỳ trước.
Có thể nói hệ thống tài khoản kế toán trong giai đoạn này là bước quá độ,
chuẩn bị chuyển sang hệ thống tài khoản kế toán sau này triệt để hơn, phù hợp
với cơ chế quản lý kinh tế thị trường.
2.2.1.3. Từ năm 1996 đến nay:
Để đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế tài chính trong cơ chế nền kinh tế thị
trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa phát triển mạnh mẽ, Bộ Tài Chính
25
ban hành hệ thống tài khoản kế toán mới theo quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT
ngày 01/11/1995 thay thế hệ thống kế toán trước đó. Trong lần thay đổi này, xét
về kế toán tập hợp CPSX và tính GTSP công nghiệp thì có thay đổi cơ bản về
tính chất chi phí, biểu hiện ở chỗ sắp xếp lại tài khoản kế toán hợp lý hơn với
kết cấu GTSP từ 9 khoản mục nhập lại còn 3 khoản mục chi phí theo tính chất
chi phí trực tiếp và gián tiếp, phù hợp với thông lệ kế toán chi phí ở các nước có
nền kinh tế thị trường (Phụ lục 01).
2.2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay:
Để rút ra được những tính chất phổ biến của thực trạng tổ chức kế toán
CPSX và tính GTSP của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện nay, luận
văn xin trình bày 2 doanh nghiệp sản xuất đại diện cho nhóm ngành công nghiệp
sản xuất và công nghiệp chế biến. Trong đó đặc biệt chú ý đến bộ phận kế toán
CPSX và các phương pháp tính phân bổ CPSX chung, xác định chi phí sản phẩm
dở dang, tính GTSP.
2.2.2.1. Tổ chức phòng kế toán tại Công ty xi măng Hà Tiên (Phụ lục 02):
2.2.2.1.1. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất tại Công ty xi măng Hà Tiên:
Công ty xi măng Hà Tiên là nơi cung cấp cho thị trường các loại xi măng
PC 30, xi măng PC 40, xi măng bền xunfát. Đây là sản phẩm mang tính chất
cồng kềnh, khó bảo quản lâu nhưng là mặt hàng thiết yếu trên thị trường . Do đó
để đáp ứng kịp thời cho thị trường đòi hỏi việc sản xuất phải liên tục nên chi phí
bỏ ra để tạo sản phẩm lớn, đều đặn hợp lý trong suốt quá trình sản xuất để đảm
bảo giá thành thấp tránh có sự dao động lớn về giá cả trên thị trường.
Do đặc điểm của sản phẩm của công ty là phải trải qua quá trình sản xuất
phức tạp, qua nhiều công đoạn nên đối tượng kế toán chi phí là theo từng công
26
đoạn sản phẩm hay theo từng phân xưởng vì mỗi một phân xưởng có chức năng
nhiệm vụ hoàn tất một công đoạn của quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm.
Để thuận lợi cho việc tập hợp CPSX và tính GTSP, công ty chia toàn bộ
CPSX thành những khoản mục sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; Chi phí
nhân công trực tiếp và CPSX chung.
2.2.2.1.2. Kế toán chi phí sản xuất tại Công ty xi măng Hà Tiên:
Để tập hợp CPSX toàn công ty, kế toán tiến hành tập hợp chi phí theo từng
khoản mục chi phí theo từng đối tượng kế toán CPSX đã xác định. Sau đó sẽ tập
hợp chi phí toàn công ty.
Các chứng từ sử dụng trong kế toán CPSX là phiếu xuất kho, phiếu chi,
giấy báo nợ, phiếu định khoản, bảng phân bổ vật liệu, bảng phân bổ khấu hao
TSCĐ, bảng phân bổ điện, bảng phân bổ tiền lương.
Sổ kế toán phục vụ cho kế toán chi phí là các loại sổ chi tiết để tập hợp chi
phí theo các đối tượng tập hợp CPSX.
Các loại biểu tập hợp chi phí và tính giá thành.
Sổ chi tiết và các biểu tập hợp chi phí đều được lưu giữ trên máy vi tính.
2.2.2.2. Tổ chức phòng kế toán của Công ty Bia Sài Gòn:
Đối tượng tính giá thành:
Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất sản
phẩm, trên cơ sở đã xác định được đối tượng kế toán tập hợp CPSX là toàn bộ
quy trình công nghệ sản xuất bia; Công ty bia Sài Gòn xác định đối tượng tính
giá thành là các loại bia thành phẩm: bia chai Sài Gòn, bia lon Sài Gòn, bia hơi
Sài Gòn. Đơn vị được sử dụng để tính giá thành là đồng/lít với các loại bia thành
phẩm.
Kỳ tính giá thành:
27
Để đáp ứng yêu cầu quản lý chỉ tiêu GTSP của Công ty, dựa trên đặc điểm
của việc sản xuất diễn ra liên tục với khối lượng lớn, bia thành phẩm được nhập
kho thường xuyên; Công ty bia Sài Gòn xác định kỳ tính giá thành là 1 tháng.
Ngoài ra, để phục vụ cho việc lập Báo cáo tài chính, Báo cáo tình hình sản
xuất; Công ty còn tính giá thành lũy kế theo quý, năm.
Công tác kế toán tính giá thành:
Tại Công ty bia Sài Gòn, kế toán giá thành thực hiện tính giá thành cho bia
thành phẩm tháng trước vào đầu mỗi tháng kế tiếp trên cơ sở vận dụng chương
trình phần mềm cơ sở dữ liệu EXCEL.
Kế toán giá thành sử dụng số liệu trên các Nhật ký – bảng kê TK 621,
622, 627, 154 và Sổ tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp để phục vụ cho
việc tính giá thành các loại bia thành phẩm. Mọi công thức tính toán phân bổ đã
được thiết lập và cài đặt trên máy tính, kế toán chỉ cần nhập những ký hiệu cụ
thể, chương trình sẽ tự động tính toán và phân bổ, điền số liệu vào Bảng tính
GTSP.
Cách lập Bảng tính GTSP của Công ty bia Sài Gòn theo nguyên tắc sau:
- Khoản mục chi phí nguyên vật liệu phát sinh trực tiếp cho đối tượng nào
được tính trực tiếp cho đối tượng đó.
- Khoản mục chi phí nguyên vật liệu phát sinh cho nhiều đối tượng thì tập
hợp và phân bổ cho từng đối tượng theo sản lượng thành phẩm thực tế.
- Khoản mục chi phí về dầu FO, lương, phí sẽ được phân bổ theo phương
pháp hệ số. Các hệ số phân bổ này đã được ghi trên Bảng tính GTSP của Công ty.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm ở nước ta hiện nay:
2.3.1. Đánh giá chung các quy định của chế độ kế toán về kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm:
28
2.3.1.1. Kế toán Việt Nam là một hệ thống kế toán gồm hỗn hợp giữa kế toán
tài chính và kế toán quản trị:
Biểu hiện của kế toán tài chính:
Kế toán Việt Nam từ năm 1957 đến nay qua các giai đoạn phát triển chủ
yếu là kế toán tài chính, phục vụ cung cấp thông tin cho các báo cáo tài chính
của doanh nghiệp, điều này phù hợp trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
không có cạnh tranh.
Về mặt nguyên tắc các thông tin của kế toán tài chính phải công khai, tổ
chức và hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải tuân thủ đúng các chuẩn
mực kế toán quốc gia, chấp hành đúng chế độ kế toán tài chính của Nhà nước
ban hành. Nguyên tắc này thể hiện trong hệ thống kế toán nước ta, bắt buộc kế
toán các doanh nghiệp phải tuân thủ đúng chế độ chứng từ, chế độ sổ sách, hệ
thống tài khoản kế toán thống nhất với chế độ báo cáo kế toán. Mọi hành vi của
kế toán cố tình làm sai về các chế độ nói trên, chẳng hạn như sai mẫu chứng từ,
sổ sách bắt buộc, ... là vi phạm pháp lệnh kế toán. Khi lập các báo cáo tài chính,
kế toán phải tuân thủ theo đúng các quy định của Nhà nước ban hành như về
thời hạn lập, mẫu biểu, phương pháp tính và lập, nơi nộp báo cáo,....
Ngay cả khi xây dựng môn học lý thuyết kế toán hay kế toán đại cương từ
trước đến nay, nội dung chủ yếu được xác định là nguyên tắc chung sử dụng cho
kế toán tài chính, chưa phản ánh đầy đủ lý thuyết của kế toán quản trị và kiểm
toán như đa số các nước trên thế giới. Cần tránh nhầm lẫn đem kế toán tài chính
là kế toán tổng hợp, kế toán quản trị là kế toán chi tiết, thực chất cả kế toán tài
chính và kế toán quản trị đều phải chi tiết và tổng hợp.
Biểu hiện của kế toán quản trị:
Khác với kế toán tài chính, mục tiêu của kế toán quản trị là nhằm giải
quyết các vấn đề thuộc về quản trị trong nền kinh tế thị trường, trọng tâm chủ
29
yếu vào việc quản lý và kiểm soát chi phí có hiệu quả. Chi phí được kế toán
phân thành nhiều loại khác nhau tùy theo quá trình ứng xử nhằm đề ra các quyết
định sản xuất kinh doanh kịp thời và chính xác. Tập hợp CPSX và tính GTSP ở
hệ thống kế toán nước ta chính là nội dung của kế toán quản trị, thông tin chi phí
ứng xử linh hoạt này sử dụng trong nội bộ, có tính bí mật của doanh nghiệp vì có
liên quan đến sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
Các phương pháp phân bổ chi phí cũng như các phương pháp tính giá hàng
tồn kho trong hệ thống kế toán cũng là biểu hiện của kế toán quản trị. Kế toán
quản trị cung cấp nhiều phương pháp phân bổ chi phí và tính giá hàng tồn kho,
trên cơ sở đó nhà quản trị đánh giá ưu, nhược điểm của từng phương pháp và lựa
chọn phương pháp thích hợp để sử dụng cho các quyết định hoạt động quản trị
của mình.
Trong quá trình kế toán chi tiết của hệ thống kế toán biểu hiện mối liên hệ
giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị dựa trên căn cứ các sổ chi tiết và các
báo cáo kế toán. Kế toán quản trị thiết kế lại theo nhu cầu quản trị và tổng hợp
thành các báo cáo đặc thù, sử dụng cho từng mục tiêu quản trị khác nhau.
Các chế độ kế toán, trong đó phần mang tính hướng dẫn chế độ chứng từ
kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo kế toán là thể hiện các thông tin định hướng
của kế toán quản trị. Các chế độ hướng dẫn mang tính định hướng chung theo
nguyên tắc kế toán, các doanh nghiệp vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp với
điều kiện kinh doanh của mình nhằm khai thác thông tin tối ưu nhất.
Các báo cáo kế toán theo quy định của chế độ kế toán là kế toán tài chính,
kế toán quản trị dựa vào các số liệu này làm cơ sở dự toán các chỉ tiêu kinh tế
tài chính cho kế hoạch các năm sau.
30
2.3.1.2. Ưu điểm và những mặt tồn tại của kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở nước ta hiện nay:
Ưu điểm:
So với kế toán CPSX kinh doanh và tính GTSP của các hệ thống kế toán
đã ban hành qua các thời kỳ trước đó, nhất là hệ thống kế toán ban hành năm
1989 thì hệ thống hiện nay phù hợp hơn về việc quản lý CPSX và GTSP trong
nền kinh tế thị trường.
Phân loại chi phí của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong hệ thống kế
toán rõ ràng hơn, chia thành hai loại cơ bản: chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ,
mối quan hệ của hai loại chi phí này đến việc xác định kết quả kinh doanh cuối
kỳ, giúp nhà quản trị doanh nghiệp thấy rõ công dụng và ảnh hưởng của từng
loại chi phí đến lãi lỗ trong kỳ, từ đó có cơ sở quản lý chi phí hiệu quả hơn.
Nội dung của CPSX và GTSP để hạch toán được thu gọn lại còn 3 khoản
mục chi phí phù hợp với tính chất chi phí phát sinh trực tiếp và gián tiếp, giúp kế
toán hạch toán gọn nhẹ và ứng xử nhanh chóng chi phí trong các tình huống kinh
doanh và xây dựng định mức chi phí, lập kế hoạch sản xuất.
Trình tự tập hợp CPSX và tính GTSP có sự kết hợp chặt chẽ giữa quá trình
tập hợp CPSX theo yếu tố với quá trình tập hợp CPSX theo công dụng, nơi sử
dụng và đối tượng phải chịu chi phí trong cùng một quá trình ghi chép kế toán,
tạo điều kiện dễ dàng cho việc lập báo cáo CPSX theo yếu tố trong Bảng thuyết
minh báo cáo tài chính nộp định kỳ theo chế độ kế toán, tài chính quy định hiện
hành.
Đơn giản hóa quá trình tập hợp CPSX và phân bổ chi phí nhưng vẫn bảo
đảm các yêu cầu của công tác kế toán CPSX và tính GTSP một cách chính xác.
Hệ thống kế toán cho phép linh hoạt hơn trong việc sử dụng các phương
pháp tính giá hàng tồn kho và phương pháp hạch toán hàng tồn kho, điều này
31
ảnh hướng đến tính linh hoạt tổ chức thực hiện và ứng dụng phương pháp hạch
toán của kế toán CPSX và tính GTSP, đáp ứng tính đa dạng về quản lý CPSX
của doanh nghiệp.
Với nội dung CPSX và GTSP còn 3 khoản mục chi phí, nên dễ dàng thực
hiện linh hoạt 3 hệ thống kế toán: kế toán CPSX thực tế nghĩa là các đầu vào
của CPSX tính theo giá phí thực tế; Kế toán CPSX thông dụng, nghĩa là chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp tính theo giá phí thực tế,
còn CPSX chung trong kỳ được phân bổ theo số ước tính, đến cuối kỳ điều chỉnh
lại khi có CPSX chung thực tế; Kế toán CPSX định mức, nghĩa là các đầu vào
của CPSX tính theo định mức, đến cuối kỳ điều chỉnh lại khi có CPSX thực tế.
Phù hợp hơn với kế toán chi phí ở các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển về nguyên tắc kế toán, thông lệ phổ biến, làm cho công tác kế toán CPSX
Việt Nam tiếp cận nhanh các phương pháp tổ chức và thực hiện kế toán CPSX,
tính GTSP ở các nước tiên tiến trên thế giới.
Thuận lợi cho việc chuyển đổi kế toán chi phí ở các nước khác sang kế
toán chi phí nước ta khi Bộ Tài Chính có yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam sử dụng hệ thống kế toán doanh nghiệp của Việt
Nam để quản lý tài chính.
Những mặt tồn tại:
Hệ thống kế toán nước ta gồm hỗn hợp giữa kế toán tài chính và kế toán
quản trị, vì vậy chưa phân biệt rõ thông tin chi phí kế toán tài chính và thông tin
chi phí kế toán quản trị, gây khó khăn cho việc sử dụng thông tin chi phí có hiệu
quả cho nội bộ và cho xã hội. Đây cũng là một trong những trở ngại lớn cho
doanh nghiệp Việt Nam có liên doanh với nước ngoài và các doanh nghiệp có
đầu tư 100% vốn nước ngoài tại nước ta, muốn thực hiện hệ thống kế toán Việt
Nam cho việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
32
Hiện nay hệ thống kế toán nước ta bắt buộc thực hiện một hệ thống kế
toán CPSX thực tế duy nhất cho mọi doanh nghiệp sản xuất, cuối kỳ mới kết
chuyển CPSX và tính GTSP hoàn thành trong kỳ, trong khi đó thực tế doanh
nghiệp không phải lúc nào cũng tính GTSP vào cuối kỳ khi có đầy đủ chi phí mà
họ cần ước tính giá thành trong kỳ để hạch toán tiêu thụ sản phẩm, cho việc ra
quyết định nhanh để định giá bán cạnh tranh, bỏ thầu cung cấp sản phẩm,.... Vì
vậy cần phải tăng tính linh hoạt kế toán CPSX với nhiều hệ thống kế toán CPSX
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế hiện nay, nhất là trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài quen với hệ thống kế toán CPSX thông
dụng và kế toán CPSX định mức.
Về phương pháp hạch toán, tài khoản 154 - CPSX kinh doanh dở dang,
trong hệ thống tài khoản kế toán hiện hành dùng để tập hợp CPSX (một loại của
hàng tồn kho) theo phương pháp kế toán kê khai thường xuyên, có nghĩa là tài
khoản này phải phản ánh CPSX một cách liên tục theo quá trình sản xuất và kết
chuyển sản phẩm nhập kho theo thời điểm thực tế phát sinh trong kỳ. Thế
nhưng, quy định của hệ thống tài khoản kế toán lại bắt buộc tài khoản này chỉ
tập hợp CPSX kinh doanh và tính GTSP vào cuối kỳ một lần, điều này không
đúng với tính chất của phương pháp kê khai thường xuyên, nhưng lại phù với
tính chất của phương pháp kiểm kê định kỳ đã quy định ở tài khoản 631 - GTSP.
Vì vậy cần phải mở rộng thời điểm hạch toán tài khoản 154 theo đúng tính chất
của phương pháp kê khai thường xuyên, muốn thực hiện điều này thì phải cho
phép kế toán doanh nghiệp tự chọn hệ thống kế toán CPSX thực tế thông dụng
hay định mức để hạch toán.
Cần làm rõ hơn phạm vi tính vào chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp,
không nhất thiết bắt buộc kế toán hạch toán cả chi phí phụ liệu có giá trị quá
nhỏ vào chi phí trực tiếp từng sản phẩm, điều này sẽ làm tăng khối lượng công
33
việc kế toán chi tiết không cần thiết, nhưng độ chính xác về chi phí trực tiếp thì
không thay đổi đáng kể.
Cần hướng dẫn bổ sung phương pháp hạch toán các khoản thiệt hại trong
sản xuất, vì thiệt hại trong sản xuất là điều kiện khách quan doanh nghiệp nào
cũng có. Theo kế toán hiện hành, các khoản thiệt hại trong sản xuất sau khi trừ
khoản được bồi thường (nếu có), còn lại đều được phép tính vào GTSP, không
phân biệt thiệt hại trong định mức hay ngoài định mức. Điều này chưa phù hợp
trong việc đánh giá trung thực thông tin chí phí sản xuất và làm cho nhà sản xuất
khó thấy đúng nguyên nhân làm tăng CPSX và GTSP, từ đó không thể đề ra
quyết định sản xuất hợp lý. Mặt khác các khoản thiệt hại ngoài định mức là sự
việc xảy ra bất thường ngoài dự kiến của doanh nghiệp, theo nguyên tắc kế toán
phải xử lý vào chi phí hoạt động bất thường, từ đó có biện pháp xử lý chính xác.
Kế toán chi phí của nước ta hiện nay tiên tiến rất nhiều so với hệ thống kế
toán trước đó, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản, thông lệ phổ biến của kế toán
chi phí ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, sự hội nhập này còn quá thận trọng,
chưa toàn diện, chẳng hạn như chưa mở rộng 3 hệ thống kế toán chi phí: thực tế,
thông dụng và định mức, các phương pháp tính chi phí sản phẩm dở dang và
GTSP phát triển mạnh mẽ sau này ở một số nước tiên tiến như phương pháp ước
lượng tương đương để đánh giá sản phẩm dở dang tính theo chi phí nhập trước
xuất trước, phương pháp tính GTSP trên cơ sở hoạt động (Activity - Based -
Costing) chưa được nghiên cứu và vận dụng ở nước ta.
2.3.2. Đánh giá chung về thực trạng tổ chức thực hiện kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay:
2.3.2.1. Đối với doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư trong nước:
34
Đánh giá tổng quát bộ máy kế toán:
- Tùy thuộc vào quy mô, đặc điểm sản xuất, tính chất sản phẩm và trình độ
nhận thức, chuyên môn ở mỗi doanh nghiệp mà công tác tổ chức và thực hiện
kế toán khác nhau.
- Bộ máy kế toán được chia làm nhiều bộ phận kế toán, trong đó đáng lưu ý là
bộ phận kế toán CPSX và tính GTSP thường ít được phối hợp với kế toán
tổng hợp để lên các báo cáo chi phí.
- Một số doanh nghiệp có bộ phận kế toán chi phí hoạt động ổn định, có đội
ngũ nhân viên kế toán chuyên môn cao, sử dụng thành thạo các thiết bị quản
lý hiện đại phục vụ cho công tác kế toán.
- Hầu hết bộ máy kế toán tại các doanh nghiệp được thiết kế phù hợp với việc
thực hiện chức năng của kế toán tài chính.
- Rất ít các doanh nghiệp quan tâm đến công tác phân tích hoạt động kinh
doanh, nhất là phân tích tình hình thực hiện kế hoạch CPSX và hạ thấp GTSP
hoặc phân tích so sánh chi phí kỳ này với kỳ trước để rút ra những thông tin
chi phí cần thiết cho quản lý.
- Phần lớn các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của thông tin
kế toán quản trị hoặc một số doanh nghiệp có sự ngộ nhận kế toán quản trị là
kế toán chi tiết của kế toán tài chính, vì vậy công tác tổ chức kế toán quản trị
tại doanh nghiệp chưa có.
- Phần lớn các doanh nghiệp đều có trang bị máy vi tính hỗ trợ cho công tác kế
toán, số lượng máy ít hay nhiều, có nối mạng hay không, có sử dụng phần
mềm kế toán hay không phụ thuộc vào quy mô và nhận thức của doanh
nghiệp đó. Đánh giá điều này, để thấy nhân viên kế toán nước ta có đủ điều
kiện ứng dụng nhanh kế toán chi phí hiện đại, đa dạng với nhiều phương
pháp tính toán phức tạp có thể thực hiện được tại doanh nghiệp Việt Nam.
35
- Một số doanh nghiệp chưa tuân thủ đúng chế độ kế toán khi hạch toán CPSX
và tính GTSP, chẳng hạn vẫn còn hạch toán lẫn lộn giữa CPSX chung và chi
phí quản lý doanh nghiệp. Việc tính GTSP rất tùy tiện, theo chủ quan cảm
tính của kế toán ước tính giá thành sao cho có lợi nhuận thích hợp, không tính
theo chi phí thực tế phát sinh, điều này xảy ra phần lớn ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, một số ít ở doanh nghiệp nhà nước.
Đối với bộ phận kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:
- Hệ thống chứng từ phục vụ cho thu thập thông tin kế toán chi phí còn đơn
giản chỉ có thể cho phép tổng hợp CPSX một cách tổng quát phục vụ kế toán
tài chính, nhưng rất khó cho phân loại chi phí và ứng xử chi phí theo thông tin
cần cho quản trị.
- Ở các doanh nghiệp lớn, bộ phận kế toán chi phí có xây dựng hệ thống định
mức chi phí cho sản xuất, làm tiêu chuẩn đánh giá chất lượng sản xuất, nhưng
cũng chỉ cho việc tổng hợp cuối kỳ khi sản xuất hoàn thành, chưa so sánh với
chi phí thực tế một cách kịp thời trong sản xuất. Mặt khác số liệu định mức
CPSX thường xây dựng tĩnh ở một mức sản xuất, chưa xây dựng định mức
CPSX linh hoạt cho nhiều mức độ sản xuất khác nhau. Ngược lại, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thường không nhận thức và quan tâm đến định mức CPSX.
- Một số nhân viên kế toán CPSX xác định phương pháp tính chi phí sản phẩm
dở dang chưa phù hợp với điều kiện ứng dụng của phương pháp đó, vì vậy có
ảnh hưởng đến mức độ chính xác của GTSP.
- Có nhiều phương pháp tính GTSP được ứng dụng trong thực tế, trong đó có
những phương pháp tiên tiến nhưng cũng có cách tính mang tính tự phát, chủ
quan theo ý muốn của doanh nghiệp không theo một phương pháp khoa học nào.
- Chưa có các báo cáo kế toán chi phí nội bộ theo cách ứng xử chi phí theo
từng tình huống sản xuất kinh doanh phục vụ cho quản trị.
36
2.3.2.2. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
- Một số doanh nghiệp liên doanh có đăng ký sử dụng hệ thống kế toán của
nước khác như kế toán Mỹ, Pháp, Anh, Singapore, Nhật,….
- Phần lớn doanh nghiệp tổ chức thực hiện kế toán chia ra kế toán tài chính và
kế toán quản trị (tên gọi khác là kế toán chi phí hay kế toán phân tích).
- Tùy thuộc vào tính chất sản xuất, quy trình công nghệ mà mỗi doanh nghiệp
ứng dụng một trong ba hệ thống kế toán chi phí: kế toán chi phí thực tế, kế
toán chi phí thông dụng, kế toán chi phí định mức của hệ thống kế toán nước
ngoài mà doanh nghiệp đăng ký sử đụng, nhân viên thực hiện chủ yếu là
người Việt Nam.
- Ứng dụng nhiều phương pháp xác định chi phí sản phẩm dở dang khác nhau
và dùng nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau. Tất cả điều này được
giải trình tổng quát và chi tiết trong hồ sơ kế toán của công ty vì các công ty
này thường được kiểm toán hàng năm.
- Sử dụng thông tin chi phí cho quá trình đưa ra quyết định sản xuất kinh doanh
trong môi trường cạnh tranh.
- Phần lớn các công ty có xây dựng định mức CPSX và GTSP một cách tổng
quát và chi tiết, ở nhiều mức độ sản xuất khác nhau.
- Theo quy định của thông tư số 60/TC/CĐKT ngày 01/9/1997 của Bộ Tài
Chính, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang nghiên
cứu để thực hiện việc chuyển đổi từ hệ thống kế toán nước ngoài sang hệ
thống kế toán Việt Nam.
2.3.2.3. Yêu cầu chung của công tác tổ chức thực hiện kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay:
37
Từ nhận định hiện trạng kế toán chi phí nói trên, cần đưa ra một số yêu
cầu chung của công tác tổ chức và thực hiện kế toán CPSX và tính giá thành tại
các doanh nghiệp hiện nay như sau:
- Nhận thức đúng tầm quan trọng của thông tin chi phí:
Trong nền kinh tế thị trường, nhận thức đúng và kịp thời thông tin kinh tế
sẽ đem lại thành công cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp nhận thức đúng tầm
quan trọng của thông tin chi phí thì doanh nghiệp mới quan tâm đến công tác kế
toán, trong đó có bộ phận kế toán chi phí.
- Tổ chức lại bộ máy kế toán tài chính:
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng của công tác kế toán, cần phải
nghiêm túc đánh giá lại khâu tổ chức và thực hiện kế toán của doanh nghiệp từ
nhân sự đến thực hiện chế độ kế toán về chứng từ, sổ sách, phương pháp hạch
toán, báo cáo tài chính để rút ra những mặt mạnh, yếu, từ đó tái tổ chức bộ máy
kế toán hợp lý đáp ứng hiệu quả cho quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường.
- Xây dựng bộ phận kế toán quản trị:
Trong cơ chế của nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp bình đẳng trong
kinh doanh và hoạt động theo đúng pháp luật. Tính cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp đòi hỏi những doanh nghiệp này phải nhất thiết xây dựng bộ phận kế
toán quản trị trong hệ thống kế toán của mình nhằm thu thập, xử lý và cung cấp
các thông tin cần thiết cho nhà quản trị ra quyết định thành công. Muốn thực
hiện tốt điều này cần phải có giải pháp đồng bộ, từ hướng dẫn của Nhà nước như
xây dựng kế toán quản trị và tính thực thi tại doanh nghiệp.
Kết luận chương 2:
Nghiên cứu thực trạng tổ chức kế toán CPSX và tính GTSP tại các doanh
nghiệp công nghiệp Việt Nam từ khi hình thành và phát triển đến nay, nhằm
đánh giá đúng những mặt ưu điểm và những mặt còn tồn tại của hệ thống kế
38
toán Việt Nam, từ đó có cơ sở xây dựng một hệ thống kế toán chi phí mang tính
kế thừa có chọn lọc những mặt tích cực và loại bỏ những mặt không còn phù hợp
với cơ chế quản lý kinh tế trong tình hình mới hiện nay.
Trước năm 1995, hệ thống kế toán nước ta có nhiều lần thay đổi, nhưng
nhìn chung về cơ bản quan điểm kế toán CPSX và tính GTSP thì thay đổi không
đáng kể, đó là do các doanh nghiệp quốc doanh có tỷ trọng lớn và giữ vai trò
điều tiết nền kinh tế. Nhà nước vẫn phải can thiệp sâu vào quyết định sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và cần quản lý những khoản chi phí chiếm tỷ trọng
lớn trong CPSX và GTSP.
Từ dầu năm 1996, Bộ Tài Ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0675.pdf