mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung; doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riên trong cơ chế thị trường. Thuế có tác động đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo hai khía cạnh: thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành và sủa đổi nhiều luật thuế với mục tiêu khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngoài
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc doanh có hiện trạng sau:
- Thuế chồng chéo làm cho giá cả sản phẩm còn cao.
- Tình trạng thất thu thuế cho ngân sách còn lớn.
- Tình trạng trốn thuế, gian lận thuế còn diễn ra phổ biến.
Ngoài ra, thuế không chỉ là vấn đề vĩ mô mà còn là những vấn đề vi mô rất nhạy cảm. Thuế luôn là vấn đề được Nhà nước; các nhà kinh doanh, nhà đầu tư và người dân quan tâm. Việc sử dụng công cụ thuế là chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước nhưng lại rất cần có sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống sử dụng công cụ thuế là hoàn toàn cần thiết.
Xuất phát từ những đòi hỏi đó, em lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam" làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Khái quát lý luận việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Phân tích thực trạng và đề xuất việc hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với DN công nghiệp ngoài quốc doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là hệ thống thuế đối với DNCNNQD.
Doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh được đề cập ở đây là những doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất kinh doanh công nghiệp mà vốn sở hữu của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm lớn nhất.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng tập trung vào hệ thống thuế với tư cách là một công cụ quản lý. Luận văn không đi sâu nghiên cứu vào các công cụ quản lý khác để tập trung vào mục đích chính của luận văn là công cụ thuế.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn phân tích về quản lý nhà nước thông qua công cụ thuế. Việc sử dụng công cụ này diễn ra trên cả ba phương diện về chính sách thuế, cơ chế quản lý thuế và bộ máy quản lý thuế. Những phương pháp phân tích tác động thuế theo lý thuyết kinh tế học tiên tiến như phân tích về độ trễ của thuế; sự mất trắng của thuế.
- Phân tích thực trạng sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Từ đó, luận văn tổng kết những đánh giá về ưu nhược điểm của hệ thống thuế gồm cả nhược điểm của từng sắc thuế lẫn nhược điểm của hệ thống thuế.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý của Nhà nước đối với các DNCNNQDD ở Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Luận cứ khoa học về sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
Chương 2: Thực trạng sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý của Nhà nước đối với các DN công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
Chương 1
Luận cứ khoa học về sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
1.1. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1. Doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh.
"Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" [31].
Doanh nghiệp công nghiệp là những doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất-kinh doanh theo phương pháp công nghiệp để sản xuất ra hàng hóa dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội. Như vậy, nhiều sản phẩm công nghiệp sẽ không phải chỉ do các doanh nghiệp sản xuất ra.
Tuy nhiên, tùy theo từng lĩnh vực và khía cạnh quản lý còn có những khái niệm về doanh nghiệp sau đây:
- Dưới giác độ quản lý, DN là một đơn vị kinh tế do Nhà nước hoặc các đoàn thể hoặc tư nhân đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Hiểu theo cách này thì các DN bao hàm cả DNNN và DNNQD nhưng không nhấn mạnh đến các DN có yếu tố nước ngoài.
- Dưới giác độ luật pháp, doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế có tên, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đã đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh. Hiểu theo cách này thì DN sẽ bao gồm toàn bộ các loại hình DN kể cả DN có vốn đầu tư nước ngoài. Các hoạt động kinh doanh ở đây được hiểu là việc thực hiện một hoặc một số công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, cách khái quát này lại không nhấn mạnh đến các doanh nghiệp công ích hoặc các DNQD chuyên hoạt động công ích.
Như vậy, DN phải là một tổ chức tiến hành các hoạt động kinh doanh để kiếm lời. Doanh nghiệp có thể có những hoạt động không sinh lời trong những trường hợp cụ thể nào đó nhưng bản chất được thành lập ra là để kiếm lời. Việc phân định giữa doanh nghiệp quốc doanh (DNNN) và DNNQD còn có nhiều quan điểm khác nhau, những khái niệm trên đây hầu như nhấn mạnh hơn về mặt kinh doanh của các doanh nghiệp. Đây chính là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp nhà nước sẽ bao gồm cả các doanh nghiệp công ích và các doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước không hẳn sẽ chỉ là các doanh nghiệp nhà nước sở hữu và kiểm soát 100%, mà sẽ gồm cả những doanh nghiệp hỗn hợp nếu Nhà nước có tỷ trọng vốn lớn nhất và có quyền kiểm soát thực hiện mục tiêu kinh doanh và nghĩa vụ công ích. Chính vì vậy, nếu gọi là DNNN sẽ không phân biệt được chính xác ranh giới giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu hỗn hợp. Ngược lại, DNNQD chủ yếu là các DN kinh doanh nhưng cũng có lúc sẽ làm những công việc công ích. Các DNNQD cũng có rất nhiều hình thức sở hữu, cách kiểm soát và loại hình kinh doanh. Nói đến DNQD và DNNQD là chủ yếu nói đế sự phân định về sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế phát triển đa dạng thì hiểu theo khái niệm đó sẽ khó phân định được các loại hình doanh nghiệp đa sở hữu. Chính vì vậy, để phân biệt DNQD và DNNQD phải xem xét trên nhiều khía cạnh khác của DN, đặc biệt là vấn đề sở hữu và quyền kiểm soát.
Tóm lại, DNCNNQD là một tổ chức kinh tế không thuộc sở hữu hoàn toàn hoặc sở hữu khống chế của Nhà nước, có tên, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong sản xuất kinh doanh công nghiệp.
DNCNNQD là những DNCN không thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc sở hữu khống chế của Nhà nước (Nhà nước sở hữu trên 50%). Ngoài ra, luật còn quy định các doanh nghiệp là DNNN khi Nhà nước sở hữu số vốn lớn gấp đôi sở hữu tư nhân lớn nhất. Tuy nhiên, dưới giác độ nghiên cứu về thuế thì sở hữu khống chế ở đây được hiểu là quyền sở hữu của Nhà nước gắn liền với quyền kiểm soát và sử dụng doanh nghiệp đó như là công cụ điều tiết của Nhà nước. Như vậy, ranh giới DNNQD và quốc doanh sẽ rõ ràng hơn khi Nhà nước có nắm quyền kiểm soát và sử dụng doanh nghiệp đó khi cần thiết hay không. Mục đích chính của sở hữu của Nhà nước cũng là nhằm khống chế và sử dụng doanh nghiệp để điều tiết. Cách hiểu này sẽ nảy sinh vấn đề khi phân định loại hình doanh nghiệp trong hai trường hợp sau:
Một là: Các doanh nghiệp trong đó Nhà nước chiếm tỷ trọng vốn lớn nhất với tư cách là phân chia lợi nhuận đơn thuần và Nhà nước không có mục đích sử dụng doanh nghiệp đó như là công cụ điều tiết.
Hai là: Các doanh nghiệp, trong đó các thành phần kinh tế khác có chiếm phần sở hữu lớn hơn Nhà nước nhưng họ chỉ có mục đích thu lợi nhuận đơn thuần nên Nhà nước vẫn duy trì quyền kiểm soát và điều tiết.
Những tình huống đặc biệt làm nảy sinh ranh giới phân chia DNQD và DNNQD không đơn thuần là tên gọi mà phải phân tích sâu xa hơn về bản chất của những loại hình này. Hai trường hợp trên thực chất là những tình huống cụ thể. Trường hợp thứ nhất, vẫn nên coi là DNQD vì xét theo giác độ luật pháp thì Nhà nước có quyền điều tiết DN này nhưng có thể chưa tiến hành sử dụng làm công cụ điều tiết trong một giai đoạn nào đó. Trong trường hợp thứ hai thì ngược lại, Nhà nước chỉ tận dụng sở hữu vốn của mình tại DN đó để tham gia điều tiết trong từng giai đoạn cụ thể. Về bản chất, thì sở hữu tư nhân lớn nhất vẫn có quyền phủ quyết mặc dù họ có thể chưa sử dụng quyền hợp pháp này. Vì vậy, tiêu chí phân định loại hình DNQD và DNNQD chính là hình thức sở hữu vốn. Quyền kiểm soát sẽ là đặc trưng cơ bản của DNQD nên có thời điểm Nhà nước sử dụng cũng có thời điểm Nhà nước không sử dụng.
1.1.2. Đặc trưng của doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
Trong công nghiệp, doanh nghiệp có nhiều loại hình khác nhau. Nếu căn cứ vào hình thức sở hữu vốn, có doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh (Nay gọi là doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước - DNCNNN) và DNCNNQD. DNCNNQD như phân tích ở trên chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, liên doanh v.v...
Nếu chia theo quy mô của DN, có ba loại DN là DN quy mô lớn, DN quy mô vừa và DN quy mô nhỏ.
Nếu chia theo ngành hoạt động, có các doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp và doanh nghiệp dịch vụ, du lịch, v.v..
Nếu chia theo chức năng hoạt động, có doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh, doanh nghiệp dịch vụ tư vấn v.v...
Tuy nhiên, nội dung của luận văn chỉ đề cập chủ yếu đến các loại hình doanh nghiệp chia theo hình thức sở hữu vốn và ngành hoạt động. Kết hợp hai tiêu chí này sẽ có các loại hình doanh nghiệp sau: DNCNQD, DNCNNQD ( bao gồm DN tư nhân và các loại hình DN hợp tác: DN cổ phần, TNHH nhiều thành viên, hợp tác xã).
Xét theo cách tiếp cận vi mô: Các DNCNNQD có những nét đặc trưng riêng do tính chất hình thức sở hữu của nó quyết định. Hình thức sở hữu Nhà nước cũng có nhiều hình thức từ thấp đến cao và hình thức hợp tác giữa Nhà nước với tư nhân cũng ở nhiều mức độ. Căn cứ vào các đặc trưng về vốn, sở hữu và quyền kiểm soát quản lý để phân biệt giữa DNNN và DNNQD. Khái niệm DNCNNQD ở đây được hiểu là những DN không thuộc quyền sở hữu và chi phối chủ yếu của Nhà nước.
Xét theo cách tiếp cận vĩ mô: DNCNNQD là các DN kinh doanh và DNCNQD là các doanh nghiệp công ích.
Các DNCCNNQD chủ yếu theo đuổi các mục tiêu kinh tế còn các DN công ích ngoài chức năng kinh doanh sẽ còn phải thực thi các mục tiêu kinh tế-xã hội. Sự khác nhau cơ bản ở đây là mục tiêu hoạt động của DN. Mục tiêu kinh tế - xã hội là mục tiêu chính của DN quốc doanh. Xu hướng Nhà nước cũng chỉ cần nắm giữ các DN có vai trò đặc biệt trong nền kinh tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước với nền kinh tế. Trên cơ sở các trình bày trên và quan điểm của các nhà kinh tế học trong nước và trên thế giới có thể đưa ra những đặc trưng cơ bản của hai loại hình doanh nghiệp này như bảng 1.1.
Bảng 1.1: Các đặc trưng của DNCNQD và DNCNNQD
TT
Tiêu chí
Đặc trưng của DNCNNQD
Đặc trưng của DNCNQD
1
Sản phẩm
Hàng hóa cá nhân là chủ yếu
Hàng hóa công cộng là chủ yếu
2
Đối tượng phục vụ
- Người tiêu dùng cụ thể
- Thị trường mục tiêu
- Nhiều đối tượng khác nhau
- Ngành, khu vực KT-XH
3
Mục tiêu hoạt động
- Hiệu quả tài chính
- Lợi nhuận
- Mục tiêu "đơn": kinh doanh
- Phát triển kinh tế-xã hội
- Hiệu quả kinh tế-xã hội
- Hiệu quả tài chính và đóng góp cho ngân sách
- Mục tiêu "kép" giữa xã hội và kinh doanh
4
Ra quyết định
- Trong phạm vi hẹp của người quản lý
- Ràng buộc bởi luật pháp và các nguyên tắc quản lý và triết lý kinh doanh của công ty
- Nhiều người, nhiều cấp tham gia quyết định, chỉ đạo
- Ràng buộc bởi luật pháp, quy chế đối với DNNN và nguyên tắc, triết lý kinh doanh
5
Nguồn lực
Thị trường yếu tố tự do
- Thị trường yếu tố tự do
- Đối tượng chính sách
6
Thanh toán
Thanh toán trực tiếp theo giá cả thỏa thuận
- Đôi khi người sử dụng không phải trả tiền hoặc trả dưới mức giá trị thật
- Người trả tiền (CP) đôi khi lại không phải là người sử dụng
Như vậy, giữa DNCNQD và DNCNNQD có những đặc trưng rất khác nhau đặc biệt là về mục tiêu, cách quản lý sản xuất và kinh doanh. DNCNNQD có mục tiêu chính là lợi nhuận về kinh tế - mục tiêu "đơn", trong khi đó DNCNQD có mục tiêu "kép" vừa phải thực thi mục tiêu hiệu quả xã hội vừa phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Các căn cứ để các DNCNNQD ra quyết định kinh doanh hoàn toàn dựa vào mục tiêu kinh doanh và các yếu tố đầu vào theo như hình sau:
Giá
QSF
Chi phí cố định
Chi phí nguyên vật liệu
Chi phí lao động
Kỹ thuật
Quản lý
Lợi nhuận
Chi phí sản xuất kinh doanh
Hình 1.1: Đặc điểm về mục tiêu và các yếu tố đầu vào của DNCNNQD
Một khía cạnh khác biệt về thứ tự ưu đãi thanh toán khi phá sản của DNCNNQD cũng rất rõ nét. Thông thường các DNCNNQD chỉ sẽ ưu tiên trả các khoản vay nợ theo thứ tự đối với người lao động, Ngân hàng, Quỹ tín dụng, nhà đầu tư, cổ đông. Đặc trưng này thể hiện sự ưu tiên của các khoản thanh toán đối với người lao động sau đó đến các chủ nợ và cuối cùng mới đến các chủ đầu tư. Trong khi đó, các DNCNQD sẽ ưu tiên thanh toán cho người lao động, các cổ đông tư nhân, các khoản vay tư nhân sau đó đến các khoản vay tài chính Nhà nước và cuối cùng là Ngân sách Nhà nước.
Những đặc trưng cơ bản trên đây đã cho thấy DNCNNQD là DN kinh doanh rất nhanh nhạy trong cơ chế thị trường. Để quản lý tốt các DN này, đòi hỏi các cấp, các ngành phải hiểu rõ các đặc trưng này và nắm vũng cơ chế thị trường và các quy luật kinh tế khách quan để vận dụng.
1.1.3. Các chức năng quản lý nhà nước đối với DNCNNQD
Quản lý nhà nước đối với công nghiệp nói chung bao gồm các chức năng cơ bản sau:
1.1.3.1. Chức năng định hướng
Quản lý nói chung là hoạt động hướng đích của chủ thể quản lý, cho nên quản lý nhà nước đối với công nghiệp tất yếu có chức năng định hướng. Đối với nước ta, định hướng phát triển công nghiệp là định hướng XHCN, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Mục tiêu để quản lý các DNCNNQD cũng sẽ theo định hướng này. Nhà nước ta thực hiện chức năng này thông qua đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Chủ trương này là định hướng quan trọng nhất và xuyên suốt quá trình quản lý kinh tế nước ta.
1.1.3.2. Chức năng tạo điều kiện, môi trường và điều tiết
Chức năng định hướng mới chỉ đưa ra các mục tiêu cuối cùng và phác họa hướng phát triển theo mục tiêu đó. Do đó, quản lý nhà nước đối với công nghiệp còn có chức năng tạo ra điều kiện, môi trường cho công nghiệp phát triển. Đồng thời, trong quá trình phát triển phải có những điều chỉnh đúng hướng và đúng tốc độ nhằm phát triển nền kinh tế. Quản lý nhà nước về kinh tế cũng cần phải thực hiện cả chức năng điều tiết. Chức năng này được thể hiện thông qua các chính sách và biện pháp cụ thể của Nhà nước trong từng thời kỳ. Chính phủ sử dụng rất nhiều công cụ quản lý, đặc biệt là công cụ thuế để điều tiết và tạo môi trường thuận lợi cho DNCN. Khi Nhà nước thừa nhận vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh thì tất yếu sẽ tạo điều kiện môi trường cho các DNCNNQD phát triển, tuy nhiên Nhà nước nước sẽ điều tiết các doanh nghiệp này nhằm phát triển theo đúng định hướng đã đề ra.
1.1.3.3. Chức năng điều hòa phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực và giữa các doanh nghiệp
Trong ngành công nghiệp luôn có các mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực và giữa các DN. Đôi khi các mối quan hệ này nổi lên như là những tác động mang tính khách quan, do đó Nhà nước phải đặc biệt chú trọng đến việc điều hòa phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực và giữa các DN. Mối quan hệ này thường xuất phát từ mối quan hệ tương quan của các ngành, các lĩnh vực và các DN biểu hiện thông qua cơ cấu ngành, lĩnh vực và loại hình DN. Nhà nước không thực hiện được chức năng này tất yếu sẽ chịu nhiều phản ứng mang tính khách quan do các đối tượng bị quản lý này tác động trở lại.
1.1.3.4. Chức năng kiểm tra kiểm soát
Việc quản lý nhà nước đối với công nghiệp đòi hỏi phải có đầy đủ các thông tin hai chiều cả từ phía chủ thể và từ phía khách thể bị quản lý. Để đảm bảo cho quá trình quản lý có hiệu quả và đảm bảo định hướng phát triển luôn luôn được thực thi, Nhà nước cần phải có chức năng kiểm tra giám sát đối với lĩnh vực sản xuất - kinh doanh công nghiệp.
Hệ thống chức năng trên có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, đòi hỏi phải được thực hiện đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước đối với công nghiệp, đặc biệt là DNCNNQD.
1.2. Sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1. Hệ thống biện pháp và công cụ quản lý
Quản lý nhà nước đối với công nghiệp, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các biện pháp sau: Biện pháp hành chính - pháp luật, biện pháp kinh tế và biện pháp tổ chức - giáo dục. Nhà nước ta đã tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước bằng cách giảm dần các biện pháp hành chính và tăng cường biện pháp lý thông qua luật. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đang tăng cường các biện pháp quản lý kinh tế và biện pháp giáo dục. Mặc dù, các biện pháp này hỗ trợ đắc lực cho nhau trong một chỉnh thể xã hội nhưng mức độ và cường độ sử dụng các biện pháp này còn tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau. Khi phát triển nền kinh tế thị trường, biện pháp quản lý bằng luật pháp được đặc biệt quan tâm nhằm xây dựng một Nhà nước Pháp quyền. Những biện pháp hành chính sẽ không còn là cơ bản đối với cơ chế quản lý mới. Nhiều luật sư và nhà kinh tế cho rằng luật pháp là công cụ trong quản lý nhà nước chứ không phải là biện pháp. Trên thực tế có thể nhận định rằng luật pháp là biện pháp quản lý, công cụ quản lý là công cụ thuế, công cụ tiền tệ v.v... Dù ở lĩnh vực nào, sử dụng công cụ gì cũng cần phải luật pháp hóa hay nói cách khác, các biện pháp quản lý được thể hiện chủ yếu thông qua việc sử dụng các công cụ đòn bẩy giá cả, tiền tệ tín dụng, tiền lương, đòn bẩy kinh tế khác và đặc biệt là công cụ thuế.
Trong quản lý nhà nước đối với công nghiệp, thuế là công cụ tài chính rất quan trọng. Thuế tác động rất mạnh mẽ đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tác động đến định hướng hoạt động và mở rộng quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp. Xét ở góc độ rộng hơn, thuế là khoản tiền mà người nộp thuế phải trả cho các hàng hóa công cộng. Nhiều nhà kinh tế còn gọi thuế là giá của các hàng hóa công cộng. Nhà nước thu thuế cũng nhằm chi tiêu cho các mục đích kinh tế-xã hội. Mỗi DN và cá nhân đóng góp thuế cũng có phần hưởng lợi từ các hoạt động đó của Nhà nước. Thuế còn có chức năng phân phối các nguồn lực, khuyến khích sử dụng hợp lý các yếu tố đầu vào. Ngoài ra, một phần thuế được thu vào ngân sách lại được đầu tư ngược trở lại cho công nghiệp, nên thuế có đặc trưng rất đặc biệt trong quản lý nhà nước đối với công nghiệp. Thuế cũng có chức năng bảo đảm sự công bằng trong ngành công nghiệp. Đây là công cụ rất nhạy bén và đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà nước đối với DNCNNQD.
Tuy đã thống nhất về vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc can thiệp và điều tiết các hoạt động của hệ thống kinh tế thị trường, nhưng các quan điểm lý thuyết kinh tế thị trường lại rất khác nhau về mức độ và cách thức can thiệp. Quan điểm phổ biến trong kinh tế học nhấn mạnh vai trò can thiệp của Chính phủ như một nhân vật thứ ba. Sự can thiệp của Chính phủ vào cơ chế thị trường được lý giải là cần thiết khi sự vận hành của cơ chế thị trường tự do có những "trục trặc" và nhằm mục đích để điều tiết nền kinh tế theo định hướng công bằng và hiệu quả.
Về nguyên tắc, các Chính phủ có thể can thiệp và điều tiết nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ thuộc bốn nhóm chính sách "cuội nguồn" sau:
(i) Thuế và trợ cấp - nhóm chính sách C1; (ii) Hệ thống luật pháp với hai tính chất hướng dẫn và điều chỉnh - nhóm chính sách C2 và C3; (iii) Hệ thống các cơ quan, tổ chức của Nhà nước hay do Nhà nước lập ra hoặc hỗ trợ tham gia trực tiếp vào hệ thống thị trường như các đối tượng khác - nhóm chính sách C4; và chiến lược - nhóm chính sách C5. Sự can thiệp của Chính phủ vào cơ chế thị trường bằng các nhóm chính sách cội nguồn được minh họa trên sơ đồ 1.1.
Chính phủ
Thị trường hàng hóa
Hãng và công ty
Hộ gia đình
Thị trường yếu tố
C2
C3
C1
$
C1
$
C4
C4
Thỏa mãn
Lợi ích
: Chu kỳ tuần hoàn thứ nhất
: Chu kỳ tuần hoàn thứ hai
Sơ đồ 1.1: Nguyên tắc và công cụ điều tiết kinh tế thị trường
Theo lý thuyết, mục đích điều tiết của các Chính phủ khi can thiệp vào hệ thống kinh tế thị trường là nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối về kinh tế và xã hội. Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường phụ thuộc chủ yếu vào bản chất những vấn đề cần được sửa chữa khi can thiệp, mục đích điều tiết, cách thức và công cụ mà Chính phủ lựa chọn để can thiệp. Về nguyên tắc, các nhóm "chính sách cội nguồn" có thể sử dụng để điều tiết thị trường như là cấp công cụ quản lý đầu tiên.
Chi tiết hơn về vai trò của nhóm chính sách này trong việc khắc phục những "khuyết tật thị trường" và những "phản ứng phụ" của chúng. Những "phản ứng phụ" này của giải pháp chính sách được khái quát trong dạng khiếm khuyết do cơ chế điều hành của Chính phủ. Các cơ quan của Chính phủ sẽ có khiếm khuyết trong quá trình vận hành nền kinh tế vì những tệ nạn tham nhũng, quan liêu v.v... Những nhóm chính sách này sẽ bị hạn chế rất nhiều vì những tệ nạn đó nên khi vận hành nền kinh tế bằng nhóm các công cụ vĩ mô đòi hỏi phải có bộ máy công quyền hiệu quả. Bộ máy công quyền quản lý hoạt động có hiệu quả phải dựa trên những cán bộ cốt cán có phẩm chất tốt và ngược lại chính họ lại là người tạo ra và sử dụng sáng tạo các công cụ này. Các nhóm công cụ chính sách cội nguồn điều tiết nền kinh tế thị trường được trình bày ở bảng 1.2.
Bảng 1.2: Các nhóm công cụ "chính sách cội nguồn" để điều tiết nền kinh tế thị trường
Nhóm chính sách C1
Thuế và trợ cấp
Nhóm chính sách C2 và C3
Khung pháp lý
Nhóm chính sách C4
Kinh tế nhà nước
Nhóm chính sách C5
dự phòng chiến lược
Sản xuất
Tiêu dùng
Cơ chế
Luật
Kinh tế quốc doanh
Hợp đồng Chính phủ
Bảo hiểm
Dự trữ chiến lược
Thuế (Đầu ra, thuế quan
Thuế (Thuế hàng hóa, lệ phí sử dụng)
Hạn chế can thiệp
Khung pháp lý (Luật, hướng dẫn)
Mạng lưới phân phối
Hợp đồng trực tiếp
Bào hiểm nghĩa vụ
Dự trữ quốc gia
Trợ cấp (Bù lỗ, trợ thuế)
Trợ cấp (Hiện vật, tem phiếu, bù giá)
Hỗ trợ, thúc đẩy
Văn bản pháp quy (Kiểm soát, điều tiết)
DNNN
Hợp đồng gián tiếp
Hỗ trợ gián tiếp
Mua cân đối hay bù giá
Mô phỏng thị trường
Đặc khu kinh tế
Trợ cấp khó khăn
Mặt khác, công cụ chính sách cũng rất khác nhau về tính chất, tác dụng, hiệu quả và phạm vi hiệu lực. Những đặc điểm này được sử dụng như những căn cứ để cân nhắc khi lựa chọn và sử dụng một công cụ chính sách. Bảng 1.3 trình bày những đặc điểm cơ bản của bốn nhóm "chính sách cội nguồn". Các công cụ "chính sách cội nguồn" thường được sử dụng làm cơ sở để soạn thảo các chính sách cơ bản phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh cần điều tiết.
Mỗi Chính phủ có quan điểm riêng, cách thức riêng, ưu thuế riêng trong việc lựa chọn và sử dụng công cụ chính sách. Tuy nhiên, những nhóm chính sách cơ bản có bản chất cùng một "nguồn gốc" giống như những "nhánh cây" trong một "cây chính sách". Chính vì vậy, sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách là rất cần thiết.
Bảng 1.3: Đặc điểm của các công cụ chính sách cội nguồn.
Công cụ chính sách
Nhóm C1
Nhóm C2 và C3
Nhóm C4
Nhóm C5
Tính chất
Kinh tế
Phi kinh tế
Cả hai
Cả hai
Tác dụng
Trực tiếp
Gián tiếp
Trực tiếp
Cả hai
Hiệu quả
Tức thì
Lâu dài
Cả hai
Lâu dài
Phạm vi hiệu lực
Trực tiếp vào đối tượng
Toàn bộ hệ thống
Gián tiếp qua đối tác
Hệ thống và đối tượng
Trong hệ thống các "chính sách cội nguồn", DNCNNQD là một công cụ quan trọng có thể sử dụng để điều tiết nền kinh tế thị trường. Việc Chính phủ trực tiếp tham gia cung cấp hàng hóa có thể được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: (i) các DNNN và (ii) các hợp đồng của Chính phủ cho các khu vực tư nhân. Trong trường hợp thứ nhất, có thể coi DNNN là "người sản xuất và bán" hàng hóa, phục vụ cho các thị trường. Còn trong trường hợp thứ hai, các doanh nghiệp đóng vai trò "cung cấp hàng". Sự khác biệt quan trọng giữa việc Chính phủ là người "mua" hay "bán" với những người tiêu dùng và sản xuất thông thường trên thị trường tự do là ở chỗ Chính phủ "mua" không phải là để tiêu dùng và "bán" không phải để kiếm lời cho Chính phủ. Sự khác biệt cơ bản này thể hiện xuyên suốt trong các mục tiêu, chính sách can thiệp và điều tiết vĩ mô của các Chính phủ. Cả hai hình thức này tồn tại như một thực tế ở mọi nền kinh tế, với mức độ khác nhau. Với những vai trò và cách thức can thiệp trên, Nhà nước sẽ thực hiện các chức năng quản lý trực tiếp đối với các DNNQD nói chung và DNCNNQD nói riêng thông qua luật nhằm thể hiện các chính sách điều tiết vĩ mô.
1.2.2. Sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với DNCNNQD
1.2.2.1. Khái quát về thuế
- Khái niệm về thuế
Thuế được hiểu dưới nhiều giác độ khác nhau và mỗi giác độ cho phép nhìn nhận thuế như là một công cụ đa năng trong quản lý nhà nước về kinh tế. Về phương diện pháp luật, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc được luật pháp hóa. Về phương diện kinh tế thuế được coi là một phần thu nhập quốc dân mà người dân phải nộp cho Nhà nước. Về phương diện nghiên cứu lý luận thuế được coi là một phần tài sản (không nhất thiết là thu nhập) phải đóng góp cho Nhà nước chi tiêu để thực hiện các chức năng của Nhà nước. Từ những giác độ khác nhau, khái niệm về thuế được hiểu là: Thuế là một khoản đúng gúp bắt buộc từ cỏc thể nhõn và phỏp nhõn cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được phỏp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đớch cụng cộng.
ở giác độ DN, thuế khoản chi phí bắt buộc phải nộp cho Nhà nước nhằm đảm bảo chi tiêu của Nhà nước và xác lập tính hợp pháp về thu nhập của họ.
Như vậy, khái niệm trên đã phân biệt rõ sự khác nhau giữa thuế; phí và lệ phí. Tính pháp lý của thuế là cụ thể rõ ràng hơn ở chỗ nó thừa nhận tính hợp pháp của thu nhập còn lại sau khi nộp thuế. Mặc dù, thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN nhưng không phải là Nhà nước có thể tùy tiện đặt ra các loại thuế. Vì ngoài các chức năng chung nhằm điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thuế cũng thể hiện sự phân phối thu nhập giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong nền kinh tế nên thuế phải mang tính công bằng và hợp lý.
- Các hình thức thuế
Như đã trình bày về khái niệm thuế, các hình thức thuế cũng rất nhiều loại tùy theo từng giác độ nghiên cứu và tiêu chí phân loại. Thông thường có các cách thức phân loại thuế sau đây:
Phõn loại theo đối tượng chịu thuế
Căn cứ vào đối tượng chịu thuế, cú thể chia cỏc sắc thuế thành ba loại:
Thuế thu nhập; thuế tiờu dựng; thuế tài sản.
Phõn loại theo phương thức đỏnh thuế
Tựy thuộc vào phương thức đỏnh thuế - đỏnh một cỏch trực tiếp hay giỏn tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại: Thuế trực thu là loại thuế đỏnh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Thuế giỏn thu là loại thuế khụng trực tiếp đỏnh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đỏnh một cỏch giỏn tiếp thụng qua giỏ cả hàng húa và dịch vụ.
- Chức năng cơ bản của thuế
Chức năng của thuế cũng có nhiều cách phân loại khác nhau từ chức năng tổng quát đến chức năng cụ thể. Nhìn chung, chức năng của thuế được thừa nhận lâu nay là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, thuế được nhìn nhận với nhiều chức năng chia nhỏ hơn đó là: huy động nguồn thu cho Ngân sách; điều hòa thu nhập; bảo vệ và hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, v.v...
Thực chất, dù có xem xét chức năng của thuế theo khía cạnh nào và góc độ nào cũng vẫn thừa nhận hai chức năng cơ bản và rõ ràng nhất của thuế là:
+ Đảm bảo nguồn thu cho NSNN: Nhà nước tồn tại và phát triển phải có nguồn thu và thuế chính là công cụ thu lớn nhất của bất kỳ Nhà nước nào. Chức năng này đã được hình thành từ xa xưa và được coi là hợp lý nhất so với các hình thức thu khác như phí; lệ phí v.v...
+ Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thức chất chức năng này bao hàm rất nhiều chức năng cụ thể khác như chức năng phân phối lại thu nhập, chức năng hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng v.v...
Căn cứ vào các chức năng của thuế, Nhà nước có thể vận dụng khéo léo các loại thuế. Chức năng của thuế còn phụ thuộc nhiều vào môi trường luật pháp chính trị của nước áp dụng. Thuế được pháp luật hóa nên việc áp dụng công cụ thuế phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Các chức năng của thuế sẽ phát huy tác dụng hay không cũng khó có thể thay đổi một cách nhanh chóng, vì vậy khi ban hành thành luật chính thức nhiều quốc gia đã áp dụng thí điểm nhằm xem xét kỹ những tác dụng của loại thuế mới.
1.2.2.2. Sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với các loại doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
Nhà nước sử dụng các công cụ để quản lý các DN là điều cần thiết. Hiện nay, việc quản lý nhà nước về thuế thể hiện ở chính sách thuế và hệ thống thuế. Chính sách thuế được cụ thể hóa bằng các luật, pháp lệnh và các văn bản chính thức của Nhà nước về thuế. Xu hướng Nhà nước sẽ luật pháp hóa các sắc thuế để nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước thông qua luật pháp. Trước hết, chính sách phát triển kinh tế và phát triển của Nhà nước là tiền đề để hoạch định chính sách thuế của Nhà nước đối với DN công nghiệp. Hiện nay, mục tiêu phát triển kinh tế được các quốc gia rất quan tâm. Phần lớn trong số các quốc gia đều lựa chọn cho mình con đường phát triển kinh tế bằng các công cuộc công nghiệp hóa. Để đạt mục tiêu đó các quốc gia đều xây dựng cho mình các chính sách thuế đặc biệt là xác định hợp lý tỷ lệ động viên GDP vào NSNN với việc phát triển kinh tế của quốc gia mình. Trên cơ sở chính sách thuế, Nhà nước sẽ thực hiện việc quản lý bằng các biện pháp quản lý như luật pháp, hành chính, giáo dục v.v... Đặc biệt là phương pháp quản lý bằng luật pháp ngày càng được phát huy. Cụ thể hóa các chính sách thuế là hệ thống thuế bao gồm các sắc thuế và cơ quan quản lý thuế. Đối với những quốc gia kém phát triển hệ thống thuế sẽ có tỷ lệ các sắc thuế được "luật hóa" thấp hơn các quốc gia phát triển. Quản lý nhà nước về thuế đối với DN sẽ được cụ thể hóa bằng các sắc thuế, cơ chế quản lý thuế và bộ máy quản lý thuế đối với các DNCN. Phát triển công nghiệp là con đường ngắn nhất để phát triển kinh tế thì chính sách thuế p._.hải phản ánh được chính sách này. Nhà nước sử dụng công cụ thuế trong tình hình đó cũng phải nhất quán về quan điểm và cách vận dụng.
Như vậy, quản lý nhà nước thông qua các công cụ chính sách là hoàn toàn có luận cứ lý thuyết và thực tế. Tuy nhiên, dù xem xét ở khía cạnh nào cũng đều phải coi trọng công cụ Thuế trong quản lý nhà nước đối với công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Một số quan điểm cho rằng chính sách quản lý, công cụ quản lý và biện pháp quản lý là như nhau vì đều là các cách thức tác động vào đối tượng bị quản lý. Muốn thực hiện được chính sách đó phải có biện pháp quản lý phù hợp như việc sử dụng biện pháp mệnh lệnh hành chính hay pháp luật và sử dụng các công cụ quản lý thích hợp như tài chính, thuế, tiền lương v.v...
Chính vì vậy, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với DNCNNQD cũng theo mô hình đó.
Nhà nước
Chính sách quản lý
Biện pháp quản lý (mệnh lệnh hành chính, luật, giáo dục)
Công cụ quản lý (Thuế, tiền tệ...)
doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
Sơ đồ 1.2: Mô hình quản lý đối với các DNCNNQD
Như vậy, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với các DNCNNQD chính là Nhà nước phải sử dụng công cụ thuế trên cơ sở xây dựng các chính sách thuế phù hợp với đường lối phát triển kinh tế, từ đó áp dụng biện pháp quản lý thuế bằng hình thức luật, dưới luật, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính. Một hệ thống thuế có thể có nhiều biện pháp quản lý khác nhau nhưng biện pháp quản lý chủ yếu là luật pháp. Ngày nay, biện pháp quản lý thông qua luật ngày càng được phát huy mạnh mẽ không chỉ đối với công cụ thuế mà đối với quản lý nhà nước nói chung.
Như vậy, quản lý nhà nước về thuế là việc xây dựng các chính sách và vận dụng các biện pháp quản lý trên cơ sở tổ chức bộ máy quản lý phù hợp trong lĩnh vực thuế. Tuy nhiên, công cụ thuế được sử dụng trong quản lý nhà nước nhấn mạnh đến việc vận dụng công cụ thuế hơn là nghiên cứu lý luận về thuế. Vận dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước là tập trung chủ yếu vào việc xây dựng hệ thống thuế. Hệ thống thuế bao gồm các chính sách thuế, bộ máy quản lý thuế và cơ chế quản lý thuế. Trong đó, trọng tâm là chính sách thuế mà cụ thể hóa bằng các sắc thuế dưới hình thức luật hay dưới luật. Các sắc thuế thể hiện rất rõ các chính sách thuế của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý thông qua các quy định về những nội dung thuế cụ thể. Đối với các doanh nghiệp các chính sách thuế về doanh thu, lợi nhuận luôn là những chính sách thuế được quan tâm đặc biệt. Nhà nước sẽ vận dụng khéo léo các sắc thuế này nhằm định hướng cho các DNCNNQD phát triển.
Hiệu ứng của việc sử dụng công cụ thuế này rất lớn, đặc biệt là những thay đổi về chính sách thuế của Nhà nước. Những đối tượng chịu thuế có ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế khi bị đánh thuế sẽ gây ra hiệu ứng dây chuyền như điện, xăng dầu v.v... Công cụ thuế "trong tay" Nhà nước có sức mạnh khá lớn và được sử dụng như là công cụ chính để quản lý. Công cụ thuế mang tính chất bắt buộc đối với DNCNNQD nên vận dụng công cụ này đảm bảo quản lý DNNQD tốt hơn các công cụ khác như tiền tệ, tiền lương v.v...
Nhà nước hạn chế hay kích thích sản xuất và tiêu dùng một mặt thì công cụ thuế là hữu hiệu nhất. Các công cụ quản lý khác có ít tác dụng hơn vì không tác động trực tiếp tới cả người sản xuất và người tiêu dùng. Khi bị đánh thuế cả người sản xuất và tiêu dùng phải cân nhắc lại hoạt động của mình theo hướng có lợi nhất cho họ. Sức mạnh của thuế đối với các DNCNNQD nói riêng và doanh nghiệp kinh doanh nói chung là rất lớn vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Thậm chí, khi chính sách thay đổi sẽ làm cho doanh nghiệp phát triển hay phải phá sản. Ví dụ, như thuế nhập khẩu đánh vào mặt hàng A từ 5% tăng lên 10% làm cho nhiều doanh nghiệp phải từ bỏ kinh doanh mặt hàng này ngay khi sắc thuế có hiệu lực. Những lô hàng đã ký hợp đồng và mở tờ khai sau thời điểm đó thường phải chịu thua lỗ lớn. Tác dụng của thuế lúc này là lớn nhất và hiệu lực nhất. Ngược lại, nhiều mặt hàng bị biến động mạnh ngay sau khi Nhà nước thông qua chính sách thuế như xe máy, đất đai... Khi Nhà nước tăng thuế trước bạ và lệ phí đăng ký xe gắn máy thì gần như thị trường xe máy bị xáo trộn. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đua nhau giảm giá thông qua các hỗ trợ khách hàng. Mặt khác, chính sách thuế thay đổi làm cho không ít các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp gặp khó khăn. Nhiều doanh nghiệp sẽ phải từ bỏ kinh doanh mặt hàng này để chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác theo đúng định hướng của Nhà nước. Như vậy, việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với DNCNNQD có ảnh hưởng rất mạnh mẽ và cần được vận dụng hợp lý.
1.3. Tác dụng của thuế đối với Nhà nước và doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
1.3.1. Tác dụng đối với Nhà nước
Thứ nhất: Độ trễ của thuế đối với Nhà nước.
Đối với Nhà nước, thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Thuế gắn liền với khái niệm Nhà nước và tồn tại thống nhất với nhau. Khi Nhà nước muốn chi tiêu phải thu từ nhiều loại thuế khác nhau nếu không sẽ phải huy động vay thêm từ các nguồn khác. Thực chất, các loại thuế khác nhau dù đánh ở khâu nào, tính chất ra sao thì mục đích chung vẫn là tăng thu cho NSNN. Tác động của thuế đối với Nhà nước thể hiện rõ nét nhất ở mức độ thuế thu ổn định theo tổng sản phẩm quốc dân. Do đó, GDP và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế luôn là vấn đề đặt ra cho Nhà nước của mỗi quốc gia. Sự ổn định trong huy động GDP vào ngân sách qua thuế có dao động chậm, thường gọi là độ trễ như sau (đồ thị 1.1)
Giá trị tổng sản phẩm quốc dân
Thời gian
F
F'
Thu nhập quốc dân
Thu thuế
Thu thuế có độ trễ
Đồ thị 1.1: ổn định GDP theo thuế
Nguồn: [37, trang 470]
Chính vì tác động của thuế đối với Nhà nước không chỉ thể hiện ở mức độ áp dụng các sắc thuế và áp thuế suất như thế nào mà còn ảnh hưởng đến mức độ ổn định thu thuế về mặt thời gian. Thậm chí, những dao động này đôi khi làm trầm trọng thêm các tình hình kinh tế xã hội và sự ổn định của Nhà nước. Việc mất ổn định nguồn thu sẽ gây bất ổn chi tiêu và các hoạt động của Nhà nước. Hiệu quả của một hệ thống thuế đối với Nhà nước là sự cân bằng và ổn định, do đó khi sử dụng công cụ thuế Nhà nước luôn chú trọng đến yêu cầu này của hệ thống thuế.
Thứ hai: Thuế gây ra sự mất trắng về thuế.
Trong xã hội, người nộp thuế nhiều không phải là người được quyền sử dụng nhiều hàng hóa công cộng và ngược lại. Khi đánh thuế thì chỉ đánh thuế vào mức thu nhập cao nhưng không có biện pháp đảm bảo cho họ được hưởng nhiều hơn và như vậy sự phân phối qua thuế gây méo mó hơn.
Đường khả năng hữu dụng là đường giới hạn về mức độ thỏa mãn của mọi người trong xã hội về những loại hàng hóa công cộng của các nhóm dân cư. Nhà nước không thể đảm bảo tuyệt đối vừa có công bằng và hiệu quả giữa việc nộp thuế và sử dụng hàng hóa công cộng của các nhóm. Do đó, khi đánh thuế sẽ có những tác động méo mó đối với sự công bằng và độ hữu dụng của các nhóm dân cư trong xã hội (Đồ thị 1.2).
Độ hữu dụng của nhóm 2
Độ hữu dụng của nhóm 1
A
A
I
Đồ thị 1.2: Đường khả năng hữu dụng
Mọi điểm trên đường khả năng hữu dụng đều có hiệu quả nhưng nếu thuế tác động làm cho sự phân phối từ điểm A đến điểm B sẽ gây méo mó.
Nguồn: [37, trang 485-486].
Về lý thuyết, khi đánh thuế thì đường giới hạn ngân sách sẽ tăng bằng đúng mức thuế. Trên thực tế mức thuế nộp sẽ ít hơn do đường bàng quang của người tiêu dùng thay đổi (Đồ thị 1.3).
Sản phẩm Q
Đường bàng quang trước và sau khi đánh thuế
Sản phẩm P
A'
E
E'
E''
F
Đường giới hạn ngân sách trước và sau thuế
Đường giới ngân sách khi đánh thuế sản phẩm Q
Đồ thị 1.3: Dạng đường bàng quan và sự mất trắng
Điểm E* và E" để có mức thỏa dụng như nhau những mức thuế A"E" nhiều hơn mức thuế thực tế người tiêu dùng nộp là AE* một khoản là E*F. Khoản này người tiêu dùng cũng không được lợi thêm so với mức hữu dụng ở điểm E" mà Nhà nước cũng không thu được nên gọi là sự mất trắng.
Nguồn: [37, trang 488-489].
Nếu không đánh thuế thì người tiêu dùng được lợi do mua hàng với giá rẻ. Khi đánh thuế đối tượng chịu thuế thường có phản ứng nên gây ra sự lệch lạc số thuế có thể thu được. Phản ứng của đối tượng chịu thuế có thể là hạn chế tiêu dùng, dùng sản phẩm thay thế v.v... Những phản ứng đó tác động đến mức thu thuế khi đánh thuế. Phần mất mát này Nhà nước không được lợi và người tiêu dùng cũng không được lợi. Đó chính là tính phi hiệu quả của thuế thường gọi là "sự mất trắng". Tác động của thuế đối với Nhà nước còn thể hiện ở việc thuế gây méo mó đối với những hàng hóa công cộng. Các khoản thu để chi cho hàng hóa công cộng chính là từ thuế. Để chi tiêu cho hàng hóa công cộng thì phải từ bỏ sản xuất một lượng hàng hóa tư nhân là tất yếu. Chính vì vậy, đường khả thi sản xuất nằm trong đường giới hạn khả năng sản xuất. Việc đánh thuế làm cho hàng hóa công cộng trở nên đắt tiền hơn và mức hiệu quả của hàng hóa công cộng sẽ nhỏ hơn lúc không bị đánh thuế.
Hàng hóa cá nhân
Hàng hóa công cộng
Đường khả thi sản xuất
Đường giới hạn khả năng sản xuất
Đồ thị 1.4: Đường khả thi sản xuất và khả năng sản xuất do tác động của thuế
Thuế gây méo mó và đường khả thi sản xuất sẽ nằm trong bên dưới đường khả năng sản xuất.
Nguồn: [37, tr. 493].
Do vậy, khi sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước phải tăng cường các biện pháp giảm độ trễ của thuế, hạn chế sự mất trắng và điều hòa hợp lý công bằng và hiệu quả đồng thời kích thích tối đa khả năng sản xuất của xã hội.
1.3.2. Tác dụng đối với các doanh nghiệp
Thuế đối với các DNCN được phân tích ở đây chủ yếu là các DNCNNQD. Thuế được coi là khoản trích nộp ngân sách nhằm hợp thức hóa các hoạt động kinh doanh của DN. Bất kỳ DN nào cũng đều phải nộp thuế theo luật định nhằm đảm bảo hoạt động quản lý của Nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước đối với chính bản thân ngành công nghiệp và DNCN trong ngành đó. Với vai trò trên, thuế luôn luôn có vị trí rất quan trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của DN, kể từ giai đoạn đầu lập dự án kinh doanh đến cả trong quá trình kinh doanh đều phải quan tâm đến các khoản thuế Nhà nước đánh vào công nghiệp. Vị trí của thuế đôi khi được coi là hàng đầu trong những quyết định kinh doanh của DN. Tuy nhiên, để xem xét tác động của thuế đối với DN một cách chi tiết, sẽ phải xem xét tác động của thuế trong từng trường hợp cụ thể như sau:
- Tác động của thuế trong môi trường cạnh tranh.
Trên thị trường cạnh tranh, những nguyên tắc cơ bản để phân tích băng đồ thị là các đường cong cung và cầu của sản phẩm. Trong môi trường cạnh tranh, cân bằng trước khi đánh thuế thể hiện ở điểm Eo khi cung gặp cầu. Cân bằng xảy ra tại điểm cắt nhau của đường cung và đường cầu khi lượng hàng hóa (Qo) được cung cấp với mức giá là Po. (Xem đồ thị 1.5).
Khi Chính phủ đánh thuế, có nghĩa là doanh nghiệp phải đóng thêm phần tiền thuế là t. Nếu doanh nghiệp muốn nhận được đúng giá Po thì phải bán với giá Po+t trước khi nộp thuế. Doanh nghiệp luôn quan tâm đến thu nhập ròng (thu nhập sau thuế). Do đó, doanh nghiệp sẽ sẵn sàng cung cấp lượng sản phẩm nhiều hơn nhưng do chi phí tăng lên khả năng cung cấp sẽ thay đổi. Lúc này đường cầu sẽ dịch lên trên bằng đúng khoản thuế sẽ phải nộp. Khi đường cầu dịch chuyển thì giá cân bằng mới tăng lên. Nếu giá tăng lên đúng bằng thuế là Po+t thì người tiêu dùng phải chịu thuế, mặc dù trên danh nghĩa thuế được đánh vào người sản xuất, nhưng người tiêu dùng buộc phải trả qua giá.
Giá (đôla)
Đường cung sau khi đánh thuế
Đường cung trước khi đánh thuế
E1
E0
Đường cầu
Lượng
Q1
Q0
Giá P1 do người tiêu dùng trả sau khi đánh thuế
Giá P0 trước khi đánh thuế
Giá P2 do công ty nhận được sau khi đánh thuế
Đồ thị 1.5: Tác động của thuế đối với giá và lượng
Thuế làm đường cung dịch lên bằng đúng khoản thuế và làm giảm lượng tiêu dùng và nâng giá mà người tiêu dùng phải trả.
Nguồn: [37, trang 490].
Nhưng khi giá tăng lên thì người tiêu dùng sẽ giảm lượng tiêu dùng và tác động cho đường cầu dịch chuyển xuống. Trong trường hợp trên, giá tăng đúng bằng thuế, do đó toàn bộ gánh nặng thuế do người tiêu dùng phải chịu. Điều này xảy ra khi đường cung nằm ngang hoàn toàn, hoặc khi đường cầu hoàn toàn thẳng đứng (khi các cá nhân luôn tiêu dùng lượng sản phẩm nhất định, bất kể giá như thuế nào). Khi người tiêu dùng chịu thuế họ phải trả giá cao hơn. Trong trường hợp này, Nhà nước đánh thuế vào điểm nào trong quy trình sản xuất hàng hóa đều có kết quả như nhau. Thuế đánh vào nhà sản xuất hay người tiêu dùng đều có tác dụng như nhau là người tiêu dùng phải chịu thuế. Trong trường hợp này giá cả đều tăng lên đúng bằng thuế nên người sản xuất vẫn thu được khoản lợi nhuận như cũ. (Xem đồ thị 1.6).
Giá
Thuế
Đường cầu
A
E1
P1
P0
E0
Đường cung sau khi đánh thuế
Đường cung trước khi đánh thuế
Lượng
Q1
Q0
Giá
Thuế
Đường cầu
B
E1
P1
P0
E0
Đường cung sau khi đánh thuế
Đường cung trước khi đánh thuế
Lượng
Q0 = Q1
Đồ thị 1.6: Độ co của cung và cầu: người tiêu dùng phải chịu thuế.
(A) Đường cung hoàn toàn co giãn; với đường cung hoàn toàn co giãn (nằm ngang), giá tăng bằng khoán thuế; người tiêu dùng chịu toàn bộ thuế. (B) Cầu hoàn toàn không co giãn: với đường cầu hoàn toàn không co giãn, giá tăng bằng khoản thuế; người tiêu dùng chịu toàn bộ thuế.
Nguồn: [37, trang 491].
Ngược lại, có trường hợp mà giá hoàn toàn không tăng; tức là, trường hợp DN chịu toàn bộ thuế. Điều đó xảy ra khi đường cung hoàn toàn thẳng đứng (lượng cung không phụ thuộc vào giá) hoặc khi đường cầu hoàn toàn nằm ngang (cầu hoàn toàn co giãn). Trong trường hợp này, việc Nhà nước đánh thuế vào các điểm khác nhau sẽ có tác động như nhau là DN phải chịu hoàn toàn thuế do giá bán không tăng. Tuy nhiên, nếu Nhà nước đánh thuế vào người sản xuất hay người tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đến cách tính thuế. Thuế sẽ được tính toán và quyết toán giữa Nhà nước và DN khi đánh thuế thông qua DN. Thuế trực thu hay gián thu đều có tác dụng như nhau trong trường hợp này vì giá bán không thay đổi. (Đồ thị 1.7).
Giá
Đường cầu
C
E1
P0 = P1
Đường cung (trước và sau khi đánh thuế)
Lượng
Q0 = Q1
Giá
Thuế
Đường cầu
D
E1
Q1
Q0
E0
Đường cung sau khi đánh thuế
Đường cung trước khi đánh thuế
Lượng
P0 = P1
Đồ thị 1.7: Độ co của cung và cầu: người sản xuất phải chịu thuế.
(C) Đường cung hoàn toàn không co , giá hoàn toàn không tăng, gánh nặng thuế do người sản xuất chịu. (D) Đường cầu hoàn toàn co giãn (nằm ngang), giá hoàn toàn không tăng; gánh nặng thuế do người sản xuất chịu.
Nguồn: [37, trang 492].
Đường cung và cầu thay đổi sẽ làm cho giá thay đổi ở mức cao hơn giá Po nhưng thấp hơn giá Po+1. Phần giá tăng lên (mức độ người tiêu dùng phải chịu thuế), phụ thuộc vào hình dạng của đường cung và đường cầu. Đường cầu càng dốc, hoặc đường cung càng phẳng, thì người tiêu dùng càng phải chịu thuế nhiều. Đường cầu càng phẳng, đường cung càng dốc, thì người sản xuất càng phải chịu thuế nhiều hơn. Độ dốc của đường cầu bằng độ co của cầu. Độ co của cầu cho biết tỷ lệ biến động của lượng hàng hóa được tiêu dùng do tỷ lệ thay đổi giá cả hàng hóa đó. Tương tự, do độ dốc của đường cung bằng độ co của cung. Độ co của cung cho thấy tỷ lệ biến đổi lượng hàng hóa cung cấp do thay đổi giá cả của hàng hóa đó. Do đó, khi đường cung thẳng đứng không co, còn khi đường cung nằm ngang thì có độ co vô hạn.
Như vậy, đường cầu càng co nhiều và đường cung càng co ít, thì người sản xuất càng phải chịu gánh nặng thuế nhiều hơn. Khi đường cầu càng co ít và đường cung càng co nhiều thì người tiêu dùng càng phải chịu gánh nặng thuế cao.
- Tác động của thuế trong môi trường độc quyền.
Khi không đánh thuế, nhà độc quyền sẽ chọn mức sản lượng mà có chi phí sản xuất thêm sản phẩm (chi phí cận biên) bằng doanh thu thêm (doanh thu cận biên). Để tăng tối đa lợi nhuận, nhà độc quyền định chi phí cận biên bằng thu cận biên. Đường cầu, đường doanh thu cận biên và chi phí sản xuất cận biên sẽ quyết định giá cả sản phẩm. Khi DN cố gắng bán nhiều hơn nhưng không muốn bán hàng hóa với giá quá thấp. Khi DN phải hạ thấp giá bán họ cân nhắc đến lợi nhuận để tối đa hóa. Nhà độc quyền chọn Qo là mức sản lượng bán ra, tại đó đường chi phí cận biên và đường thu nhập cận biên giao nhau và định giá là Po. Tại mức giá Po, DN định giá bán cao hơn mức giá cũ nhưng không cao bằng khoản thuế đã nộp. Như vậy, DN và người tiêu dùng đều phải chịu thuế. Thể hiện rõ về tác động của thuế trong môi trường độc quyền được trình bày trên đồ thị 1.8.
A
Giá
Lượng
Cầu
Q1
Thuế
P0
P1
Thay đổi giá
Chi phí cận biên sau thuế
Chi phí cận biên trước thuế
Thu nhập cận biên
B
Giá
Lượng
Cầu
Q0
Thuế
P0
P1
Thay đổi giá
Chi phí cận biên sau thuế
Chi phí cận biên trước thuế
Thu nhập cận biên
Q1
Đồ thị 1.8: Đánh thuế trong môi trường độc quyền
(A) với đường cầu và cung trực tuyến, giá của người tiêu dùng tăng lên đúng bằng nửa thuế, người tiêu dùng và người sản xuất chung gánh nặng thuế, (B) với các đường cầu luôn co giãn, giá tăng hơn thuế.
Nguồn: [37, trang 499].
Thuế có thể coi là một khoản tăng chi phí sản xuất, tức là dịch lên trên đường chi phí cận biên, điều đó sẽ làm giảm sản lượng xuống Q1 và tăng giá lên P1.
- Tác động của thuế đối với doanh nghiệp sản xuất.
Trước khi đánh thuế, doanh nghiệp có giá là Po và tăng giá chi phí cận biên (MC). Doanh nghiệp tăng tối đa lợi nhuận của mình bằng cách định giá bán cận biên (khoản thu được do sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm ) bằng với chi phí cận biên (chi phí thêm do sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm). Chính phủ đánh thuế với mức thuế trên mỗi đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp. Chi phí để doanh nghiệp sản xuất ra thêm một đơn vị sản phẩm sẽ là MC" = MC + t, đó là chi phí sản xuất cận biên cộng với thuế; Do đó doanh nghiệp sẽ giảm sản xuất của mình xuống Qo". Nhưng khi tất cả các hãng giảm sản xuất của họ thì giá sẽ tăng lên. Điểm cân bằng mới gồm giá P1 và sản lượng là Q1, ở đó giá mới bằng chi phí sản xuất cận biên cộng với thuế.
Giá
Sản lượng
Q0
Thuế
P0
P1
Chi phí cận biên sau thuế
Chi phí cận biên trước thuế
Q1
Q0
Đồ thị 1.9: Tác động của thuế đến chi phí cận biên. Thuế dịch chuyển chi phí cận biên hữu hiệu lên.
Nguồn: [37, tr. 495].
Như vậy, khi sử dụng công cụ thuế Nhà nước xem xét những tác động đối với doanh nghiệp trên cơ sở độ co giãn của cung và cầu, chi phí và doanh thu cận biên cũng như môi trường kinh doanh của xã hội. Tùy vào bản chất của từng loại thuế trực thu hay gián thu Nhà nước sẽ đánh thuế đối với doanh nghiệp đó theo hình thức thuế khoán hay thuế lũy tiến, biện pháp quản lý bằng kinh tế, hành chính hay giáo dục v.v...
Chương 2
Thực trạng sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
2.1. Hệ thống thuế áp dụng cho doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh và bộ máy quản lý thuế ở nước ta hiện nay
Trong quá trình đổi mới hệ thống thuế ở Việt Nam, Nhà nước đã cải tiến hệ thống thuế đối với các DNCNNQD gồm 7 loại thuế: Thuế thu nhập doanh nghiệp; Thuế môn bài; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế giá trị gia tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế tài nguyên và Thuế xuất nhập khẩu.
Hệ thống thuế này áp dụng thống nhất, đối với các DNCNNQD nó đã khuyến khích các thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn. Từng bước xây dựng hệ thống thuế chủ yếu góp phần điều tiết các hoạt động kinh tế và dần dần xóa bỏ sự ưu tiên cho các DN công nghiệp kinh doanh của Nhà nước.
Trên cơ sở đó, bộ máy quản lý thuế đối với thành phần kinh tế này đã được tổ chức lại. Hiện nay, bộ máy quản lý thuế nằm trong Bộ Tài chính gồm 3 cơ quan trực thuộc chính: Tổng cục Thuế, Kho bạc và Tổng cục Hải quan.
Nói chung, Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ có chức năng thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính, ngân sách, kế toán và kiểm toán
Để thực hiện được chức năng quản lý thu thuế, Bộ Tài chính đã tổ chức các cơ quan trực thuộc và xây dựng cơ chế quản lý từ cấp trung ương tới cấp địa phương.
Bộ Tài chính
Tổng cục thuế
Kho bạc Nhà nước TƯ
Tổng cục Hải quan
Cục thuế (tỉnh, thành phố)
Kho bạc Nhà nước (tỉnh, thành phố)
HQ tỉnh, liên tỉnh, thành phố
Chi cục thuế (Quận, huyện) trong đó có các đội thuế phường, xã hoặc liên phường, xã
Kho bạc Nhà nước (Quận, huyện)
Chi cục HQ cửa khẩu, đội kiểm soát và tương đương trực thuộc HQ Tỉnh, Thành phố
Sơ đồ 2.1: Bộ máy quản lý thuế Việt Nam.
Bộ Tài chính phân định rõ quyền quản lý thuế và quyền thu tiền thuế cho Tổng cục Thuế và Kho bạc Nhà nước. Các DNCNNQD xác định số thuế phải nộp và quyết toán thuế với cơ quan quản lý địa phương nơi DN hoạt động nhưng phải trực tiếp nộp thuế tại Kho bạc Nhà nước tại các địa bàn đó. Phương thức quản lý này rất rõ ràng và tránh tình trạng câu kết gian lận thuế. Riêng đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải quan có cán bộ tính thuế và xác định thuế cho các DNCNNQD.
2.2. thực trạng sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
2.2.1. Tình hình phát triển DNCNNQD ở Việt Nam trong thời gian qua
Trong thời kỳ đất nước bị chia cắt từ 1954 đến 1975, ở Miền Bắc đã kiên quyết xóa bỏ các DNCNNQD cho nên các DN này không phát triển. ở Miền Nam, DNCNNQD rất phát triển nhưng lệ thuộc Mỹ. Năm 1975, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước ta bước vào giai đoạn xây dựng CNXH và DNCNNQD lại có cơ hội phát triển trở lại vào đầu những năm 80. Sau Đại hội Đảng VI, DNCNNQD đã phát triển không ngừng và chứng minh được tính hiệu quả và vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Số lượng các cơ sở kinh doanh công nghiệp ở Việt Nam
TT
Các loại cơ sởsản xuất
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
1
DNNN
6.025
5.790
5.790
5.821
5.991
5.900
5.700
2
DNNQD
62.371
61.371
59.046
61.545
61.722
62.722
68.330
3
DN có vốn nước ngoài
540
666
881
959
1.012
1.012
1.233
Tổng số
68.936
68.936
65.717
68.325
68.725
69.634
75.263
Nguồn: [32, trang 140; 41, trang 14-58].
Do chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thành phần kinh tế NQD đã tăng nhanh về số cơ sở sản xuất. Đặc biệt là chỉ số tăng giá trị sản xuất công nghiệp rất cao đã đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đến 2002, DNNQD là 68.330, trong đó gồm 28.927 cơ sở sản xuất công nghiệp. Với quy mô phát triển như vậy đòi hỏi có sự quản lý của Nhà nước là tất yếu và sức mạnh của thành phần kinh tế này có được cũng phần nào nhờ vào chủ trương phát triển của Nhà nước về kinh tế.
Tuy nhiên, các DNNQD lại phân bổ theo cơ cấu không hợp lý kể cả theo vùng địa lý và theo ngành nghề. Những ngành nghề có vai trò then chốt về khoa học công nghệ, và vốn lớn có rất ít các DNCNNQD. Các DNNQD do mới được chú trọng phát triển nên còn rất nhỏ bé so với tiềm năng phát triển. Các thành phố lớn, đặc biệt là thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh có 27.901 cơ sở chiếm hơn 40% trong tổng số và trở thành phố đầu tầu về công nghiệp của cả nước. DNNQD có tiềm năng lớn thể hiện rất rõ qua tốc độ tăng trưởng những năm gần đây (Bảng 2.2.)
Bảng 2.2: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (Đơn vị: %)
Tiêu chuẩn phân loại
1995
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
14,5
12,5
11,5
15,8
14,2
14,5
Khu vực kinh tế trong nước
14,5
7,6
7,1
14,2
15,4
11,7
+ Kinh tế Nhà nước
11,9
7,7
7,2
16,0
15,4
11,7
Trong đó: Trung ương
13,6
8,2
6,0
11,07
13,1
12,6
Địa phương
12,6
6,9
4,3
14,9
11,8
9,8
+ Kinh tế ngoài quốc doanh
16,9
7,5
10,8
18,4
20,3
19,1
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
-
24,4
21,0
18,6
12,1
14,6
Nguồn: [33, trang 66].
Số liệu bảng trên cho thấy DNCNNQD đã có sự tăng trưởng mạnh và kéo chỉ số tăng trưởng chung của cả nước lên hơn 14%. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng khoảng 20% và năm 2002 là 19,1% gấp hai lần so với tốc độ tăng trưởng của khu vực quốc doanh. Trước đây DNNN luôn có chỉ số tăng trưởng lớn nhất và là đầu tầu kéo chỉ số tăng trưởng chung của cả nước nhưng đến nay DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN tư nhân đang đóng vai trò đó.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đang sắp xếp lại các DNCN Nhà nước nên chỉ số tăng trưởng của thành phần này có phần suy giảm. Đặc biệt là các DN có vốn đầu tư nước ngoài đang có mức tăng trưởng rất cao trong thời gian qua đã phát triển chậm lại chỉ ở mức 12,1% năm 2001 và 14,6% năm 2002. Sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khu vực kinh tế này cũng cần có sự quản lý của Nhà nước để phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN. Sự phát triển của DNCNNQD được phản ánh rõ nét hơn qua các con số thống kê (bảng 2.3.)
Bảng 2.3: Giá trị tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành
(Đơn vị: ngàn tỷ đồng)
TT
Thành phần kinh tế
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
1
Kinh tế Nhà nước
92
109
127
144,4
154,9
173,1
197
2
Kinh tế ngoài quốc doanh
137
163,4
186,7
217
245
271
298,1
Gồm có:
Kinh tế tập thể
23
-
-
32,1
35,5
39,9
-
Kinh tế tư nhân
7,1
-
-
12,3
13,4
15,6
-
Kinh tế cá thể
82,5
-
-
122,2
135,4
162,3
-
Kinh tế có vốn nước ngoài
9,9
-
-
13,8
15,5
18,8
-
Tổng số
229
272
314
361
399.9
444.1
495.1
Nguồn: [33, trang 58].
Từ những năm 90, khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện cho DN tư nhân phát triển thì cơ cấu giá trị tổng sản phẩm trong nước theo thành phần kinh tế đã thay đổi. GDP của thành phần kinh tế NQD đã chiếm vị trí quan trọng. Với quy mô và tốc độ tăng trưởng như trên, thành phần kinh tế NQD đã đóng góp không nhỏ vào GDP trong những năm gần đây, khoảng 60% tổng sản phẩm xã hội, trong đó kinh tế nước ngoài chiếm 29%, tư nhân chiếm 23,5% và các thành phần kinh tế khác là 7,5%. Do đó, cần phải có chính sách khuyến khích và quản lý kinh tế NQD để phát huy vai trò to lớn của thành phần kinh tế này. Mặc dù, các thành phần kinh tế NQD phát triển đa dạng và nhanh hơn trong những năm gần đây nhưng tiềm năng chưa được khai thác hết.
Tình hình phát triển của DNCNNQD trong những năm gần đây đã tăng theo xu thế chung nhưng vẫn còn hạn chế. Một phần do chủ trương của Nhà nước muốn duy trì vai trò chủ đạo của DNNN nên sự phát triển DNCNNQD còn hạn chế. Mặt khác, ngành công nghiệp đòi hỏi có vốn lớn và công nghệ cao vượt quá tiềm lực hiện có của các DNNQD nên các DN này khó vượt lên trong quá trình phát triển. Năm 2001, cơ cấu giá trị tổng sản phẩm của DNCNQD và DNCNNQD thể hiện rõ trên biểu đồ 2.1.
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế trong công nghiệp năm 2001
Nguồn: [33, trang 58].
Mức độ đóng góp của các DNNQD vào NSNN cũng rất lớn. Tính bình quân hàng năm từ 1999 - 2001, thành phần KTNQD đã tăng mức đóng góp cho ngân sách khoản 11,6%, thành phần có vốn đầu tư nước ngoài tăng hơn 20%, bình quân của tất cả thành phần KTNQD là 16,8% ( biểu đồ 2.2.)
Biểu đồ 2.2: Mức tăng thu thuế và phí hàng năm vào NSNN 1999 - 2001.
Nguồn: [35, trang 1].
Trong những năm gần đây, KTNQD phát triển mạnh và có mức độ tăng cao hơn kinh tế quốc doanh, đặc biệt là kinh tế nước ngoài. Thực trạng bất bình đẳng ở đây là các khu vực đóng góp nhiều cho NSNN không đồng thời là khu vực có giá trị sản lượng cao và tốc độ phát triển cao. Mức độ thu thuế ở thành phần kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao làm cho gánh nặng thuế trực tiếp nghiêng dần về các thành phần kinh tế này nhằm xóa dần sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước đây. Đặc biệt là khu vực kinh tế cá thể có giá trị tổng sản lượng khá cao nhưng mức đóng góp cho ngân sách rất thấp. Trong những năm gần đây, tỷ lệ đóng góp cho NSNN tăng cao nhất vẫn là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tăng khoảng 20%.
Riêng đối với khu vực công nghiệp, mức độ tăng thu cho ngân sách cũng rất cao. Toàn bộ khu vực KTNQD tăng thu cho ngân sách 10,5% nhưng riêng trong công nghiệp lại là 14,8%. Thu thuế từ các hộ cá thể và hợp tác xã công nghiệp chỉ đạt 5% trong khi đó các DNCN nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân đạt trên 19% do đó kéo mức tăng bình quân chung lến 14,8%. Qua quá trình phát triển đó, DNCNNQD ở Việt Nam đã bộc lộ những đặc trưng riêng có của mình, như: DNCNNQD phần lớn là các DN vừa và nhỏ, DN nghiệp phát triển không đồng đều, trình độ quản lý còn yếu kém, trình độ sản xuất còn lạc hậu và đặc biệt là quan hệ sản xuất trong các DNCNNQD ở trình độ thấp.
DNCNNQD là các doanh nghiệp vừa và nhỏ là do nước ta vừa chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp có tính chất cào bằng nên xuất thân của các ông chủ các DNCNNQD ở mức thấp. Nhiều DNCNNQD xây dựng cơ nghiệp từ hai bàn tay trắng nên dù có mức độ tăng trưởng cao cũng không thể đủ lớn mạnh để cạnh tranh trên trường quốc tế. Mặt khác, do việc đổi mới tư duy và chính sách ở nước ta diễn ra có lộ trình chậm hơn các nước khác, nên các DNCNNQD cũng phát triển dần theo lộ trình đó. Trong 15 năm đổi mới, các DNCNNQD hình thành và phát triển theo tiến trình từ thấp đến cao nên phần lớn các DNCNNQD là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc trưng này là một tất yếu khi các DNCNNQD ở nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
DNCNNQD ở nước ta phát triển không đồng đều vì xuất phát điểm của các DN rất khác nhau và môi trường kinh doanh ở nước ta còn chưa ổn định nên điều kiện kinh doanh của các DN cũng rất khác nhau. Bên cạnh đó, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cũng như xu thế toàn cầu hóa ngày càng làm cho khoảng cách về trình độ phát triển của các DN tăng thêm. DNCNNQD mới thành lập nếu nắm bắt được xu thế đó sẽ phát triển rất nhanh, tuy vậy cũng có DNCNNQD đang chuyển mình từ cơ chế quản lý cũ nên trình độ phát triển rất thấp. ở các nước tư bản phát triển, các DN lạc hậu và kém phát triển này không có cơ hội phát triển nên bị phá sản, vì thế các DN này chỉ xuất hiện ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam cũng là nước đang chuyển đổi nên tất yếu sẽ có DN cũ có trình độ phát triển thấp và do đó khoảng cách về trình độ phát triển của DNCNNQD là khá cao.
Bên cạnh đó, các DNCNNQD ở nước ta còn có đặc trưng là quan hệ sản xuất ở các doanh nghiệp này rất lộn xộn và có trình độ thấp. Nhiều DNCNNQD chỉ trả đủ tiền công trực tiếp cho người lao động. Hầu hết các DNCNNQD chưa đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho người lao động. Bản thân người lao động cũng không có ý thức đúng đắn._. chọn. Nhiều đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế sẽ được cân đối khi xét chọn điểm đánh thuế, điểm miễn giảm thuế và mục tiêu động viên vào ngân sách trong năm hay thời kỳ đó. Tránh hiện trạng nhiều cơ quan có quyền cho phép miễn giảm thuế gây tiêu cực và khó kiểm soát. Nhiều diện được miễn giảm thuế do các cơ quan ngoài bộ máy quản lý thuế cho phép làm cho Bộ Tài chính khó dự kiến đầy đủ và chính xác nguồn thu. Nhiều diện đối tượng chịu thuế được ưu đãi nhưng vẫn không được hưởng thực sự do không có sự cân đối về mặt tổng thể. Chính vì vậy, khi đã tính toán được các chỉ tiêu định lượng phản ánh gánh nặng thuế đối với từng đối tượng chịu thế và đối tượng nộp thuế sẽ phải cân đối xem chỗ nào cần đánh thuế trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nội dung và phương pháp tính
Phương pháp tính và áp thuế suất mới sẽ có những cân đối hợp lý trên cơ sở giải quyết bài toán liên ngành trong nền kinh tế. Mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Bộ Tài chính đề ra hàng năm phải huy động từ 20% - 21% GDP vào ngân sách quốc gia, thu thông qua thuế đất từ 18% - 19% GDP thì biện pháp phân bổ mức đóng góp giữa các ngành nghề, các sản phẩm hay các đối tượng chịu thuế là hết sức phức tạp. Ngành nghề nào cũng muốn phát triển theo định hướng, mặt hàng nào được phép khuyến khích, đối tượng nào được miễn giảm thuế phải được giải quyết bằng giải pháp tổng thể. Hiện trạng manh mún thiếu đồng bộ và lộn xộn trong các biện pháp khuyến khích như miễn giảm thuế, miễn tiền thuê đất ở từng địa phương, từng loại thuế không thể kích thích đầu tư hay phát triển kinh tế. Chính vì vậy, việc hoạch định chính sách và áp thuế suất phải tính toán trên cơ sở liên ngành cụ thể như sau:
Bước 1: Tính toán các chỉ số gánh nặng thuế cho từng loại ngành hàng, mặt hàng theo công thức:
+ Công thức tính chỉ số gánh nặng thuế tuyệt đối:
Ka = (3.1).
Ka: Chỉ số gánh nặng thuế tuyệt đối.
i: Đối tượng chịu thuế.
Ti: Chỉ số huy động thuế đối của đối tượng chịu thuế i vào ngân sách.
Pi: Chỉ số lợi nhuận của đối tượng chịu thuế i.
n: Số lần chịu thuế.
+ Công thức tính chỉ số gánh nặng thuế tương đối:
Kb = (3.2)
Kb: Chỉ số gánh nặng thuế tương đối
i,j: Đối tượng chịu thuế
Ti: Chỉ số huy động thuế đối tượng i
n: Là số lần chịu thuế của đối tượng i.
Tj: Chỉ số huy động thuế tương ứng của đối tượng j.
m: Là số lần chịu thuế của đối tượng j.
Bước 2: Lập phương án cân đối thuế liên ngành theo công thức:
Mức huy động GDP vào ngân sách
=
(3.3).
Trong đó:
Tj1....Tjn: Thuế lần thứ nhất đến lần thứ n cho đối tượng i.
i: Đối tượng chịu thuế, n là số lần chịu thuế của đối tượng i trong ngành.
j: Ngành sản xuất, m là số ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Bước 3: Xác định những sản phẩm, ngành hoặc đối tượng cần hỗ trợ và khuyến khích những điểm phải bù trừ trong hệ thống thuế.
Nếu hỗ trợ thuế cho sản phẩm thứ nhất trong ngành i thì sẽ cân đối khoản thu thêm thuế ở sản phẩm thứ mấy, ngành nào để không bị mất cân đối. Tình trạng giảm thuế bất ngờ bằng các chế độ miễn giảm thuế lộn xộn. Đặc biệt, khi có các chỉ số về gánh nặng thuế tương đối và gánh nặng thuế tuyệt đối sẽ cân đối trên tổng thể về các mức thuế suất đặt ra cho mỗi sản phẩm hay mỗi ngành.
- Hiệu quả của phương pháp tính vá áp thuế suất mới
Thứ nhất: Tránh tình trạng thuế suất áp dụng mất công bằng, tránh phải sửa đổi bổ sung thuế suất liên tục gây bất ổn.
Thuế suất luôn là vấn đề gây phản ứng mạnh mẽ nhất đối với đối tượng nộp thuế. Đối với các nước tư bản phát triển, việc Chính phủ tăng thuế suất thậm chí gây biểu tình trong dân chúng. Thậm chí nhiều nhà lãnh đạo phương Tây trong các cuộc tranh cử đã dùng chiêu bài hạ thuế suất để lấy lòng dân chúng. Khi sử dụng công cụ thuế, Nhà nước ta cũng nên hạn chế tối đa việc thay đổi thuế suất để tránh sự bất ổn trong xã hội như các nước khác. Mặt khác, cần áp dụng thuế suất có căn cứ khoa học và công bằng ngay từ khi xây dựng luật thuế sẽ đảm bảo cho sự ổn định của luật thuế đó trong khoảng thời gian dài tạo đà cho phát triển kinh tế. Thuế suất công bằng hơn cũng làm cho sự di chuyển vốn và lao động giữa các ngành được xã hội hóa cao hơn và tránh được những khiếm khuyết điều tiết vô hình của nền kinh tế thị trường.
Thứ hai: Khuyến khích và hỗ trợ thuế đúng nơi, đúng chỗ tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng thực sự.
Khi thuế suất được tính toán công bằng và có hiệu quả sẽ tạo cho môi trường đầu tư thực sự thông thoáng. Những biện pháp nhất thời như giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế v.v... không có tác dụng lớn khi các nhà đầu tư chưa quan tâm và ngược lại trong lúc lựa chọn đầu tư kinh doanh các nhà đầu tư luôn quan tâm mạnh mẽ nhất đến hệ thống thuế áp dụng hơn là chú trọng đến một sắc thuế đơn lẻ. Chính vì vậy, cách áp dụng thuế suất trên thực tế là sự cân đối mang tính công bằng và hiệu quả nhất trong cả một hệ thống thống nhất. Nếu Nhà nước thực hiện được công tác này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động kinh doanh phát triển trên nền tảng một hệ thống thuế thông thoáng và hiệu quả trong môi trường đầu tư và kinh doanh hợp lý.
Thứ ba: hạn chế tình trạng miễn giảm thuế và cạnh tranh thu hút vốn đầu tư lộn xộn.
Trong môi trường kinh doanh đầu tư, các vùng và địa phương ở nước ta đã liên tục được trung ương phân quyền lớn hơn nhưng kèm theo đó là tình trạng lộn xộn trong công tác thu hút vốn đầu tư. Các địa phương thi nhau miễn tiền thuê đất, miễn giảm thuế nhưng tình trạng các khu công nghiệp chưa được các nhà đầu tư quan tâm còn có nhiều lý do mà trong đó có lý do về hệ thống thuế trên phạm vi cả nước. Các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn về chính sách thuế, môi trường đầu tư kinh doanh, thủ tục pháp lý hơn là những chi phí đầu tư cố định ban đầu. Vì vậy, để tránh tình trạng lộn xộn này Nhà nước cần nhanh chóng cải cách hệ thống thuế thống nhất tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh doanh thống nhất.
- Điều kiện áp dụng phương pháp tính và áp dụng thuế suất mới
Để áp dụng thành công phương pháp tính và áp thuế suất này, Nhà nước cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công tác này. Trước hết, Nhà nước nên quy định những chỉ tiêu cần báo cáo thống kê phục vụ cho công tác nghiên cứu chính xác các chỉ số ảnh hưởng của thuế. Đặc biệt là công tác điều tra tính toán khoản thuế hữu dụng cho mỗi loại sản phẩm hàng hóa và ngành hàng sản xuất kinh doanh. Phân định rõ những ưu tiên nào cần thông qua thuế và thông qua ở sắc thuế nào, điểm nào trong hệ thống thuế. Những ưu tiên đó thể hiện bằng thuế suất sẽ được cân đối với hạng mục nào trong hệ thống thuế. Từ những số liệu và công tác thu thập số liệu đó, Nhà nước mới tổ chức tính toán và áp dụng phương pháp mới trong hệ thống thuế.
Thứ hai là: Tổ chức hoặc phân công bộ phận tham mưu để nghiên cứu và phân tích các chỉ số liên quan. Chức năng chính của Tổng cục Thuế là quản lý thuế nhưng công tác nghiên cứu và tư vấn có thể thực hiện bằng việc tổ chức các chương trình hoặc dự án nghiên cứu. Khi đạt kết quả sẽ thực hiện nghiệm thu đề tài. Nhà nước cũng có thể lập ra các phòng ban hoặc giao cho Tổng cục Thuế thực thi việc phân tích và tư vấn cho Chính phủ các thông tin về thuế và tác động của hệ thống thuế.
3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống hóa đơn chứng từ, cơ chế thu nộp thuế và cơ chế giảm giá
- Những căn cứ thay đổi hệ thống hóa đơn chứng từ và cơ chế giảm giá
Hiện nay hệ thống hóa chứng từ của nước ta vẫn chưa ổn định. Hóa đơn mua bán hàng hóa thiết kế chưa phù hợp cả về kích cỡ và nội dung. Hiệu quả pháp lý của hóa đơn quá hẹp và thấp nên người tiêu dùng thường không lấy hóa đơn trong khi đó các doanh nghiệp lại trao đổi mua bán hóa đơn. Do đó Nhà nước nên thừa nhận hóa đơn bán hàng là những giấy bảo hành mang tính pháp lý cao nhất, hạn chế nạn tự ý in các loại giấy bảo hành và những lời hứa bảo hành vô thưởng vô phạt của các công ty và các nhà kinh doanh. Thậm chí, Nhà nước khuyến khích cơ chế lấy hóa đơn bằng việc hoàn thuế qua giá cho người tiêu dùng và thừa nhận những thẻ căn cước của mọi người như là thẻ giám giá đặc biệt. Nếu người dân đi mua hàng có mang theo giấy chứng minh thư để viết hóa đơn sẽ nhận được giảm giá thông qua thuế là 2 - 3% thị mọi người dân sẽ luôn luôn lấy hóa đơn tài chính và như vậy buộc người bán hàng sẽ thực thi nghiêm túc chế độ sử dụng hóa đơn chứng từ. Nội dung của hóa đơn tài chính nên thiết kế cỡ nhỏ cho phù hợp với các loại máy in với đầy đủ các nội dung sau:
+ Người bán hàng, mã số thuế (hoặc số CMT), địa chỉ, điện thoại.
+ Người mua hàng, mã số thuế (hoặc số CMT), địa chỉ
+ Phương thức thanh toán, và hình thức thanh toán
+ Hàng hóa, số lượng, đơn giá, đơn vị tính và thành tiền.
+ Mức thuế giá trị gia tăng và mức khấu trừ.
+ Số tiền bằng chữ, ngày tháng, đơn vị phát hành.
Với những thông tin trên cả người bán hàng và người mua đều có quyền lợi, như vậy Nhà nước rất dễ quản lý công tác quản lý hóa đơn chứng từ đối với các đơn vị kinh doanh. Thực chất các biện pháp này là trao quyền giám sát việc nộp thuế cho người mua (người thực sự phải trả thuế GTGT) đối với các nhà kinh doanh (người nộp hộ cho người tiêu dùng và thu hộ cho Nhà nước).
Nguyên lý thiết kế hóa đơn là phải phù hợp với sắc thuế và bộ máy quản lý thuế. Việc sử dụng hóa đơn cho nhiều sắc thuế phải đảm bảo tính linh hoạt và bao quát cho các loại thuế. Chính vì vậy, khi áp dụng cơ chế thẻ giảm giá và luật thuế mới cần phải có những thay đổi trong mẫu hóa đơn tài chính.
- Nội dung của cơ chế thẻ giảm giá và thay đổi mẫu hóa đơn tài chính
Kích thước hóa đơn có thể đa dạng theo các cỡ hay khổ giấy in hóa đơn trên các máy bán hàng siêu thị và máy in văn phòng (có thể là khổ 4cm, 6cm, 12cm và 21cm). Hiện nay, kích thước hóa đơn tài chính thiết kế cho doanh nghiệp nhiều hơn là cho người tiêu dùng mặc dù là hóa đơn thuế giá trị gia tăng. Người tiêu dùng rõ ràng sẽ thờ ơ với chứng từ hóa đơn đó khi không có quyền lợi thiết thực. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo quản cũng khó khăn khi kích thước hóa đơn bị nhỡ cỡ. Kích thước hóa đơn đỏ là 18,5cm x 25cm nhỏ hơn khổ A4 và hóa đơn tự in là 14,5cm x 18,5cm to hơn phiếu thu và phiếu chi nên khi kẹp vào hồ sơ bị gấp nhàu nát các phần giấy thừa. Vì vậy, hóa đơn nên được thiết kế và bổ sung nội dung như hình 3.1.
Hóa đơn bán hàng
Liên: ............
Ngày, tháng.
Số hóa đơn
Đơn vị bán, địa chỉ, điện thoại, mã số thuế
Họ tên người Mua, địa chỉ, mã số thuế, số chứng minh thư...
Hình thức thanh toán:
Tên hàng, số lượng, đơn giá, thành tiền.
Số tiền:
Thuế GTGT
Chiết khấu cho người Mua:
Cộng tiền thanh toán
(Ngày tháng, chữ ký, và dấu...)
Hình 3.1: Mẫu hóa đơn tài chính.
Nội dung được bổ sung 2 điểm là: Mã số thuế cho người mua là các đơn vị kinh doanh, số chứng minh thư là cho người tiêu dùng cá nhân. Chiết khấu cho người mua sẽ ghi tỷ lệ chiết khấu theo quy định giảm giá cho người mua là người tiêu dùng cá nhân, còn các doanh nghiệp đã được khấu trừ khi hạch toán thuế đơn vị mình. Giả định thuế GTGT 10%, giảm giá 5%, Nhà nước thu được 5% thay vì sửa đổi thuế các nhóm mặt hàng từ 10% xuống 5%.
Với cơ chế này, người tiêu dùng sẽ phải lựa chọn việc lấy hóa đơn giảm 5% giá, được đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng khi có tranh chấp xảy ra và có chế độ bảo hành tối thiểu do Nhà nước quy định theo nhóm hàng. Nếu không có hoặc không mang chứng minh nhân dân khi mua hàng sẽ chịu thuế 10%. Ngược lại, nếu người bán hàng ghi giá trị hóa đơn thấp hơn giá trị thật hay không xuất hóa đơn thì quyền lợi người mua bị xâm hại nên tự người mua sẽ yêu cầu người bán thực hiện nghiêm chỉnh việc ghi và xuất hóa đơn bán hàng. Người bán hàng cũng không thể thu thập được số lượng lớn số chứng minh thư hay chữ ký của người mua hoặc khó có thể ghi một số chứng minh thư của một người mua cho nhiều tờ hóa đơn.
- Những ưu điểm của cơ chế thẻ giảm giá và mẫu hóa đơn mới
Trong cơ chế thẻ giảm giá này người tiêu dùng có chứng minh thư nhân dân xuất trình thì các doanh nghiệp sẽ phải giảm giá theo quy định của Nhà nước. Việc quyết toán thuế đối với Nhà nước sẽ do doanh nghiệp thực thi nhưng không thể khai gian lận khi đã phát hóa đơn. Nếu doanh nghiệp muốn trốn tránh xuất hóa đơn cho khách hàng thì quyền lợi của khách hàng bị xâm phạm nên khách hàng sẽ không chấp nhận. Khách hàng nào mua hàng có hóa đơn sẽ được Nhà nước bảo hộ quyền lợi thông qua Hội người tiêu dùng bằng hình thức coi chính tờ hóa đơn là giấy bảo hành. Khi có cơ chế này cũng sẽ loại bỏ hẳn tình trạng lộn xộn trong các cam kết bảo hành và phát hành phiếu bảo hành tràn lan như hiện nay của người bán.
Việc giảm giá này được người bán ghi trên hóa đơn bán hàng, hàng tháng báo cáo với cơ quan thuế theo mẫu biểu báo cáo về "hóa đơn đầu ra". Bên cạnh đó, cơ quan thuế vẫn tiến hành quyết toán thuế như trước đây nhưng sẽ được xem xét việc ghi hóa đơn nếu thấy sai đơn vị bị truy thu thuế như bình thường mà không được giảm trừ. Việc tính toán về thuế sẽ do cơ quan quản lý thuế và doanh nghiệp thực hiện do đó không gây phiền phức cho khách hàng.
Về phía người tiêu dùng cũng không bị phiền hà khi mang chứng minh thư theo người vì đó là giấy tờ tùy thân. Nếu họ quên hoặc có những mặt hàng có giá trị thấp họ không cần giảm trừ thì sẽ chấp nhận mua hàng với giá cao hơn. Về phía người tiêu dùng không dành thời gian hay làm thủ tục gì với cơ quan thuế nên hoàn toàn không gây phiền hà cho họ. Thậm chí, có những người không quan tâm đến những hàng hóa tiêu dùng có giá trị thấp thì vẫn giao dịch mua bàn bình thường.
3.2.1.3. Xây dựng hệ thống thuế đơn giản và thống nhất
Xu thế chung của các nước trong khu vực và trên thế giới, hệ thống thuế của các quốc gia sẽ đơn giản hơn và thống nhất hơn không chỉ ở riêng mỗi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Luật thuế nên có ít mức thuế suất hơn và đơn giản hơn trong cách tính toán. Khoảng cách về các mức thuế suất sẽ ít và đối tượng nộp thuế sẽ rộng hơn nhưng cũng được bình đẳng hơn. Hệ thống thuế nên thống nhất trên các mặt như đối tượng nộp thuế, điều kiện nộp thuế, cách tính toán thuế và các điều kiện ưu đãi hay miễn giảm thuế. Về mức thuế và thuế suất phải có căn cứ khoa học như kiến nghị mục 3.2.1.1. Về chế độ khai báo và nộp thuế nên thực hiện theo cơ chế tự nguyện trên cơ sở áp dụng các biện pháp kinh tế. Hạn chế các biện pháp ưu đĩa miễn giảm thông qua thuế nhằm nâng cao tính độc lập của từng sắc thuế. Chuyển dần những hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng nộp thuế thành các chương trình hỗ trợ độc lập nhằm tăng cường sự bình đẳng của thuế đối với mọi đối tượng. Hiện nay, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách thuế bước hai theo các xu hướng này như xóa bỏ khấu trừ thuế đầu vào không có hóa đơn GTGT, áp dụng biểu thuế suất thống nhất giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ngoài nước, giữa người có quốc tịch nước ngoài và người có quốc tịch Việt Nam, giảm thuế suất và các mức thuế suất. Tuy nhiên, những giải pháp này vẫn cần được thí điểm và tiếp tục cải cách nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế ở nước ta.
3.2.1.4 Từng bước đổi mới và cải thiện hệ thống kế toán, kiểm toán
Công tác kế toán và hạch toán ở nước ta vẫn còn nhiều vướng mắc, thậm chỉ rất khó hòa nhập với hệ thống kế toán và kiểm toán của quốc tế, do đó làm cản trở tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế. Do công tác quản lý thu thuế dựa rất nhiều vào hệ thống kế toán và kiểm toán, nên cần phải xây dựng hệ thống kế toán thống nhất và kiểm toán đáng tin cậy mới nâng cao được hiệu quả của công tác quản lý thuế.
Mặt khác, Tổng cục thuế phải nỗ lực hơn nữa trong công tác quản lý và thu thuế. Nâng cao hiệu quả của công tác thu thuế vừa bồi dưỡng được cán bộ trong ngành trong công cuộc hiện đại hóa ngành thuế. Tin học hóa, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ và đổi mới công tác kiểm toán, kế toán, phương pháp phân tích nghiên cứu là một loạt các biện pháp thống nhất có tác động tương hỗ lẫn nhau. Nhà nước không thể làm mất cân đối một nội dung nào cả. Các phương pháp phân tích kinh tế tiên tiến ngày nay về thuế có thể xem xét trên nhiều giác độ. Dưới giác độ phân tích kinh tế học hiện đại, công cụ thuế đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế.
3.2.1.5. Phân cấp quản lý thuế thành thuế quốc gia và thuế địa phương
Bền cạnh vấn đề tuyên truyền và đào tạo về các luật thuế, Nhà nước ta cấn giúp đỡ các doanh nghiệp tăng cường việc thực hiện luật pháp. Nếu cao chủ trương "sống và làm việc theo luật pháp", lấy đó làm gốc cho việc xây dựng một xã hội có kỷ cương, một Nhà nước pháp quyền và con người văn minh. Đặc biệt là trong quản lý thuế phải luôn coi trọng yếu tố pháp lý. Luật pháp hóa các nguồn thu bất hợp lý, phân cấp quản lý thuế thành cấp trung ương và cấp địa phương. Thuế quốc gia do trung ương quản lý và thu thuế; thuế địa phương do địa phương được quyền quản lý và thu thuế. Nhà nước chỉ tạo khuôn khổ pháp lý cho các địa phương áp dụng các loại thuế địa phương. Trước mắt, một số loại thuế trực thu như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, hoặc thuế gián thu như thuế thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên, thuế xuất nhập khẩu phải trở thành nguồn thu chính của ngân sách quốc gia. Một số loại thuế hàng hóa như thuế môn bài, thuế tiêu thụ đặc biệt cho phép địa phương thu. Khi cân đối ngân sách địa phương bị thiếu hụt mới phân bổ và hỗ trợ từ ngân sách trung ương. Thực hiện chế độ tạo khung thuế suất cho phép các địa phương linh hoạt trong việc thu thuế và tạo quỹ địa phương. Khuyến khích các địa phương tự cân đối thu chi. Nhà nước nên dành ngân sách trung ương nhiều hơn cho phát triển các công trình trọng điểm, các chương trình quốc gia.
3.2.1.6. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, xây dựng chế độ đãi ngộ tương xứng và chế độ thưởng phạt nghiêm minh
Muốn thực hiện thành công công tác quản lý thuế phải rà soát xem xét về cơ cấu tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý. Thành công và thất bại phần lớn phụ thuộc vào con người. Mọi biện pháp, chế độ cải tiến ở trên rất cần có đội ngũ cán bộ thuế tinh thông về nghiệp vụ và chuẩn mực về đạo đức, Cơ chế tốt cần phải có đội ngũ cán bộ tốt và có đội ngũ cán bộ tốt mới tạo ra những cơ chế vận hành tốt. Những hạn chế và vướng mắc lâu nay trong công tác thuế không thể giải quyết bằng các chính sách thiếu tình và lý. Nhà nước phải có đội ngũ các nhà quản lý giỏi, đạo đức tốt, phẩm chất tốt và kiên định mới tạo ra thể chế hoàn thiện. Công tác này đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên liên tục đi đôi với việc cải tiến chế độ đãi ngộ và chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Trong quá trình công tác mang nhiều trọng trách phải có sự đãi ngộ tương xứng. Công tác quản lý là công việc lao động phức tạp có hàm lượng trí tuệ cao nên không thể xem thường. Bên cạnh những quyền lợi được nâng cao cũng cần có những chế độ nghiêm khắc đối với các cán bộ sai phạm. Kết hợp chặt chẽ các chế độ này mới bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ có đủ tư cách và tạo ra bộ máy quản lý nhà nước vững vàng.
3.2.2. Những giải pháp bổ trợ việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh
3.2.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền và hướng dẫn công tác thuế
Trên thực tế công tác tuyên truyền hướng dẫn về các sắc thuế mới luôn luôn được coi trọng. Khi các sắc thuế được ban hành mà đối tượng chịu thuế điều tiết chưa hiểu sẽ sinh ra nhiều phản ứng hay thực hiện không đúng luật thuế. Hiện nay, công tác hướng dẫn và đào tạo về thuế GTGT và thuế TNDN cần đẩy mạnh hơn nữa. Mặc dù nước ta đã thực thi luật thuế này nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về hai luật thuế trên dẫn đến có nhiều sai phạm. Đặc biệt là thuế GTGT có nhiều sai phạm nghiêm trọng trong việc xin hoàn thuế. Thậm chí, Tổng cục thuế phải tổ chức các lớp học và phổ biến thường xuyên cho các DN nhằm nâng cao hiệu quả của hai luật thuế này. Mỗi lớp học như vậy sẽ nâng cao công tác tuyên truyền và hướng dẫn nhưng nhiều DN không thực thi hoặc thực thi không đúng đúng yêu cầu do ý thức chấp hành chưa tốt. Công tác tuyên truyền hướng dẫn hầu như vẫn bị xem nhẹ do ý thức chấp hành luật pháp chưa cao và thiếu đồng bộ. Nhiều sự việc xảy ra trầm trọng mới được tổ chức học tập hay tập huấn trong khi đó đáng lẽ ra các lớp học này cần thiết phải được tổ chức sớm hơn, thậm chí có những cuộc gặp gỡ trước khi có những quy định mới.
3.2.2.2. Tích cực tiếp thu các kinh nghiệm về việc sử dụng các công cụ thuế
Tổ chức nhiều đoàn khảo sát kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là các nước láng giềng hoặc các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhằm học hỏi kinh nghiệm. Việc tham gia khảo sát và học tập kinh nghiệm không chỉ chú trọng đối với các cán bộ trong ngành thuế mà khuyến khích các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia. Thậm chí, khuyến khích mọi người dân có điều kiện đi học tập và du lịch nước ngoài nhằm năng cao nhận thức về cuộc sống nói chung và lĩnh vực thuế nói riêng ở các nước phát triển. Việc thực thi bất kỳ chính sách thuế nào cũng cần phải có sự ủng hộ và ý thức chấp hành tốt của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Khi mọi tầng lớp dân cư đều nhận thức được hành vi ứng xử hợp lý và không hợp lý sẽ tạo điều kiện tốt nhất để các chính sách thuế đi vào cuộc sống.
3.2.2.3. Tăng cường các chế tài phạt vi phạm đối với các DNCNNQD
Nhà nước nên đưa ra các chế tài thực hiện đối với một số chức danh quản lý DNCNNQD như giám đốc, trưởng phòng nhằm thực hiện đúng và nghiêm túc luật pháp, đặc biệt là các luật thuế. Nếu đảm nhận chức vụ giám đốc, bắt buộc phải có bằng đại học khối kinh tế trở lên hoặc cấp độ trưởng phòng phải có bằng cao đẳng khối kinh tế trở lên. Tác dụng của giải pháp này là đã coi giám đốc là một nghề hơn là một ông chủ sở hữu. Người quản lý phải có đầy đủ năng lực pháp lý và tiêu chuẩn phân cấp cũng như uy tín nghề nghiệp mới đảm trách cương vị giám đốc. Nếu chủ sở hữu không đủ điều kiện phải đi thuê giám đốc và người quản lý. Nếu các nhà quản lý hay giám đốc vi phạm pháp luật sẽ bị tước quyền làm thuê và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành động của mình.
Nhà nước đưa ra các mức tiền phạt nặng hơn cho các sai phạm về luật thuế đối với các cá nhân thay cho trách nhiệm tập thể. Quyết định mức độ vi phạm nghiêm trọng bằng các bản án nghiêm khắc. Cải tiến cơ chế xử án nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện án phạt.
Hiện nay, những vi phạm về thuế sẽ bị phạt gấp 3 lần số thuế trốn và bị truy thu thuế. Nếu bị phạt hành chính thì mức cao nhất là 50 triệu đồng. Tuy nhiên, cơ chế để xác định sự vi phạm và người thi hành pháp luật còn nhiều bất cập dẫn đến sự câu kết vi phạm.
3.2.2.4. áp dụng các phương pháp phân tích nghiên cứu kinh tế tiên tiến
Công tác nghiên cứu và phân tích ảnh hưởng của hệ thống thuế đến các mặt của đời sống xã hội, các tổ chức, cá nhân cần được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt là những phương pháp phân tích kinh tế học tiên tiến. Những phương pháp phân tích định lượng chính xác sẽ giúp ích nhiều hơn trong việc sử dụng công cụ thuế. Những phương pháp phân tích kinh tế này cần có bộ phận phụ trách và kinh phí thực hiện. Nhà nước nước nên hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ ngành thuế có những kiến thức kinh tế sâu sắc. Những giải pháp kinh tế tối ưu nên được chú trọng và đã ngộ xứng đáng. Thậm chí, Nhà nước tuyển lựa những chuyên viên tư vấn kinh tế giỏi cho đi đào tạo về phân tích chính sách thuế nhằm cung cấp những thông tin về phân tích ảnh hưởng của thuế cho các cơ quan quản lý thuế và Chính phủ. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu và Tổng cục Thống kê nâng cao hiệu quả của các con số thống kê nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và phân tích. Trong thời gian tới, Nhà nước có thể cho phép những đề án chuyên sâu phác họa những yêu cầu xây dựng nên phần mềm phân tích kinh tế tiên tiến để nâng cao chất lượng thông tin cho quản lý nhà nước về thuế. Việc nghiên cứu xem xét công cụ quản lý thuế dưới nhiều góc độ và quan điểm khác nhau là rất cần thiết, thậm chí là những gốc độ nghiên cứu khác biệt. Trên cơ sở có nhiều các nhìn và nhiều phương pháp nghiên cứu mới có thể có những đánh giá chính xác về công cụ thuế. Những phương pháp phân tích kinh tế tiên tiến là những cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn rất tốt khi đã có những quốc gia phát triển áp dụng. Nhà nước tận dụng được những phương pháp này chắc chắn có được hiệu quả cao với chi phí dành cho nghiên cứu và thí điểm thấp.
Kết luận
Từ việc giải thích các nội dung về doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh và công cụ thuế, luận văn đưa ra những luận điểm về việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Luận văn cũng phân tích về quản lý nhà nước thông qua công cụ thuế. Việc sử dụng công cụ này diễn ra trên cả 3 phương diện về chính sách thuế, cơ chế quản lý thuế và bộ máy quản lý thuế. Chính sách thuế có hai cấp độ chính là chủ trương chính sách và hệ thống các sắc thuế cụ thể. Luận văn đưa ra những phương pháp phân tích tác động thuế theo lý thuyết kinh tế học tiên tiến như phân tích về độ trễ của thuế; sự mất trắng của thuế.
Trên cơ sở những luận điểm đã trình bày ở trên, luận văn đã đi sâu phân tích việc sử dụng công cụ thuế đối với DNCNNQD ở Việt Nam cả về chính sách, bộ máy và cơ chế. Trước hết, luận văn tập trung vào phân tích tình hình phát triển ngành công nghiệp và tình hình thu thuế nói chung, từ đó luận văn mới đi sâu phân tích từng khía cạnh riêng có của doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích khá tỉ mỉ về tác động của hệ thống thuế đối với Nhà nước là chủ thể quản lý và doanh nghiệp là đối tượng bị quản lý nhằm có những cách nhìn và đánh giá toàn diện. Cuối cùng, luận văn tập hợp những phân tích đánh giá về những ưu nhược điểm của hệ thống thuế ở nước ta đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh.
Để có những giải pháp mang tính khả thi, luận văn đưa ra bốn quan điểm đổi mới về điểm đánh thuế, vận dụng thuế linh hoạt, kết hợp hài hòa thuế trực thu với thuế gián thu và luật pháp hóa tất cả các nguồn thu của Ngân sách. Giải pháp của luận văn tập trung vào hai nhóm giải pháp lớn là giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế hiện có, giải pháp bổ trợ cho việc thực hiện công cụ thuế. Những giải pháp này được trình bày theo các khía cạnh về cơ sở lý luận và thực tiễn, nội dung, hiệu quả và điều kiện áp dụng giải pháp. Hơn nữa, các giải pháp này không gây tốn kém về chi phí và công sức của Nhà nước. Với hệ thống các giải pháp trên được áp dụng đồng bộ đảm bảo góp phần hoàn thiện công cụ thuế trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và cố gắng tìm tòi, nghiên cứu nhưng luận văn khó tránh khỏi sai sót. Rất mong thầy cô và bạn đọc quan tâm góp ý hoàn thiện.
danh mục tài liệu tham khảo
Lê Văn ái (2000), Giáo trình Thuế nhà nước; Trường Đại học Tài chính - Kế toán, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1996), Tài liệu học tập Văn kiện Đại hội VIII của Đảng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1992), Những quan điểm cơ bản về kinh tế của Đại hội VII, Nxb giáo dục chính trị, Hà Nội.
Bộ Tài chính (1998), Những văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế giá trị gia tăng, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2001), Lịch sử Tài chính Việt Nam, tập 1.
Chính phủ (1998), Pháp lệnh về tài chính kế toán, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Chính phủ (1998), Nghị định số 28/1998/NĐ-CP quy định chi tiết việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ngày 11/5/1998.
Chính phủ (1998), Quyết định số 4-L/CT Công bố luật thuế khoáng sản (có bổ sung) Ngày 28/4/1998.
Chính phủ (1998), Quyết định số 75/1998/QĐ-TTg quy định về mã số nộp thuế cho các đối tượng nộp thuế ngày 4/4/1998.
Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng XHCN và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Hãng PRICE WATERHOUSE COOPERS (1998), Giáo án thuế GTG...
Lê Văn Châu (1998), Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam (1999), Nhịp cầu giao thương Việt Mỹ, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1992), Văn kiện Đại hội Đảng VII.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996), Văn kiện Đại hội Đảng VIII.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1998), Các quy định pháp luật về kinh tế ngoài quốc doanh.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001), Văn kiện Đại hội IX.
Nhà xuất bản Pháp lý (1992), Các văn bản pháp luật kinh doanh đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và công ty, Tập 1.
Nhà xuất bản Sự thật (1987), Văn kiện Đại hội Đảng VI.
Nhà xuất bản Tài chính (2001), Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi bổ sung.
Quách Đức Pháp (1999), Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Luật thuế doanh thu, (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Luật thuế lợi tức và thuế thu nhập đặc biệt, (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN VN, (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bổ sung và sửa đổi thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế XNK (1993), (đã được thông qua kỳ họp quốc hội thứ 9 lần thứ 3 ngày 14/7/1993).
Luật thuế khoáng sản (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. (1997),
Luật Ngân sách Nhà nước, sửa đổi và bổ sung ngày 20/5/1998.
Luật Doanh nghiệp (1999).
Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê công nghiệp - 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2002), Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp 01/4/2001, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính (8/2000), Thuế Việt Nam qua các thời đại lịch sử.
Thời báo Kinh tế Việt Nam (2002), Báo động gian lận thuế GTGT, số 58, Công nghiệp trước thách thức, số 84, Thuế vẫn vướng, số 86, Ngăn chặn hoàn thuế GTGT, số 113, Dự toán Ngân sách năm 2003, số 143, Bình đẳng cho kinh tế tư nhân, số 146, các doanh nghiệp bị "sốc" vì thuế, số 152.
Thời báo Kinh tế Việt Nam (2003), Tốc độ tăng trưởng công nghiệp Việt Nam, số 6.
JOSEPH E. STILITZ (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
www.mof.org.vn/.
www.vneconmy.com.vn/.
www//http/worldbank.org/.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2681.doc