Hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán bằng tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Nam Hà Nội

lời mở đầu Với chủ trương phát triển nền kinh tế mở cửa, nhằm nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ kinh tế ngoại thương giữa nước ta với các nước không ngừng tăng lên cả về chất và lượng, kết quả đó phải kể đến những đóng góp không nhỏ của hệ thống ngân hàng nói chung và của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNTVN) nói riêng với một trong những chức năng quan trọng là thanh toán quốc tế (TTQT). Thanh toán

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán bằng tín dụng chứng từ (L/C) tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín dụng chứng từ (TDCT) hiện nay có vai trò quan trọng chiếm trên 70% khối lượng TTQT của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Thực tế đang phát sinh nhiều khó khăn vướng mắc cả về cơ chế chính sách và kỹ thuật nghiệp vụ gây thiệt hại về vật chất và uy tín cho cả nhà xuất nhập khẩu và Ngân hàng. Chính vì vậy việc nghiên cứu xây dựng hệ thống các giải pháp TTQT bằng thư TDCT đang là vấn đề bức xúc và trung tâm chú ý của các nhà khoa học cũng như các nhà doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả và hạn chế tối đa rủi ro và mất an toàn trong nghiệp vụ TTQT. Mặc dù mới thành lập được bốn năm nhưng NHN0&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã xây dựng được một quy định và quy chế nghiệp vụ chặt chẽ, không ngừng đổi mới và nâng cao nghiệp vụ thanh toán phục vụ tốt cho khách hàng, đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu của khách hàng. Cùng với chính sách kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng thông thoáng của Chính phủ, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển. Do đó hình thức thanh toán L/C ngày ngày phải được hoàn thiện và phát triển hơn. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, em đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán bằng L/C tại NHN0 & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội - Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp. 1. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Hoạt động TTQT đặc biệt là phương thức TDCT tại một đơn vị Ngân hàng trong đó lấy NHN0 & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội làm thực tế nghiên cứu của đề tài. Doanh số TTQT tại ngân hàng này có thể được đánh giá ở mức bình quân của một NHTM hoạt động trong địa bàn đô thị loại I. Hoạt động trong 4 năm qua an toàn, chất lượng tốt, bên cạnh đó còn một số tồn tại về quy trình nghiệp vụ, về quản lý và tiến hành làm hạn chế hiệu quả kinh tế của ngân hàng và doanh nghiệp. Nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện cả về rủi ro đã và có thể xảy ra đối với hoạt động TTQT bằng L/C của NHN0 & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội rút ra các bài học kinh nghiệm và xây dựng hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán TDCT. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đối tượng nghiên cứu là của luận văn là hoạt động TTQT bằng phương thức TDCT. Phạm vi nghiên cứu là hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại chi nhánh NHN0 & TPNT Nam Hà Nội. Thời gian nghiên cứu 4 năm từ khi thành lập năm 2001 đến hết năm 2004. 3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài. Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản là phương pháp phân tích, đánh giá, thống kê, tổng hợp, so sánh đồng thời sử dụng các bảng biểu qua các số liệu thu thập được qua nhiều năm để minh hoạ. Cùng với việc tham khảo các tài liệu theo sự hướng dẫn nghiên cứu của TS. Nguyễn Văn Dương và cũng cố gắng tìm hiểu, độc lập suy nghĩ của bản thân, em hi vọng khoá luận sẽ đạt kết quả nhất định đúng như mục đích nghiên cứu. 4. Bố cục luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục kí hiệu viết tắt luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về TTQT và TDCT - Chương 2: Thực trạng chất lượng nghiệp vụ TTQT bằng phương thức TDCT tại chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội. - Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán TDCT tại chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội. Lời cảm ơn Khoá luận tốt nghiệp với đề tài: " Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thanh toán bằng TDCT tại NHN0 & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội" của em đã được hoàn thành trong thời gian thực tập tại trụ sở chính C3 - Phương Liệt - Thanh Xuân - Hà Nội. Trong suốt quá trình thực tập và thực hiện khoá luận này em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng TTQT - chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội. Đặc biệt em vô cùng biết ơn thầy giáo - TS. Nguyễn Văn Dương là người đã giành cho em những giúp đỡ trực tiếp, toàn diện và vô cùng quý báu trong việc định hướng, triển khai và hoàn thiện khoá luận này. Em xin chân thành cảm ơn!. Sinh viên Trần Thị Bích Thảo Chương 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về TTQT và TDCT 1.1. Hoạt động TTQT và vai trò của nó trong hoạt động XNK của một quốc gia. 1.1.1. TTQT và sự tồn tại khách quan trong xuất nhập khẩu và chu chuyển vốn giữa các nước. Trên thế giới, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc lập thường xuyên phải tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ thuật… trong đó quan hệ kinh tế thường chiếm vị trí quan trọng và là cơ sở cho các mối quan hệ quốc tế khác. Trong quá trình tiến hành các hoạt động nêu trên tất yếu nảy sinh những nhu cầu chi trả, thanh toán tiền tệ giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực hiện các hoạt động TTQT. Về xuất nhập khẩu, sau khi kí hợp đồng người mua chắc chắn nhận được hàng hợp đồng và người bán chắc chắn được thanh toán tiền hàng đã giao cần có sự đảm bảo của người thứ ba theo đúng luật lệ và thông lệ, tập quán quốc tế - đó là Ngân hàng. Về chu chuyển vốn, sự vận động của tiền tệ dù dưới hình thức nào thì cũng không thể thực hiện bằng tiền mặt trực tiếp mà phải thông qua các nghiệp thanh toán trên tài khoản của ngân hàng. Vì vậy TTQT ra đời là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan. Khi các doanh nghiệp được mở rộng các hoạt động giao dịch với nước ngoài cả về xuất khẩu và nhập khẩu thì lúc đó Ngân hàng phải đáp ứng được nhu cầu thanh toán và trở thành đối tác có uy tín của các nhà xuất nhập khẩu. Vai trò quan trọng của Ngân hàng không chỉ thể hiện qua việc cung cấp vốn cho các nhà xuất nhập khẩu trong nước mà còn phải thể hiện được là Ngân hàng thanh toán có uy tín tại Việt Nam cho các hoạt động xuất nhập khẩu. Vậy trước hết chúng ta cần phải hiểu khái niệm về TTQT là gì? Chúng ta có khái niệm về TTQT như sau: TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức cá nhân nước khác hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế thông qua mối quan hệ giữa các định chế tài chính ngân hàng có liên quan. Tuy nhiên khác với hoạt động thanh toán nội địa, trong quan hệ thanh toán quốc tế không chỉ đòi hỏi các chủ thể tuân thủ những quy định pháp lí quốc gia, mà còn phải tuân thủ cả những quy định pháp lý các hiệp định hiệp ước quốc tế, cũng như tập quán và thông lệ ở mỗi nước có quan hệ đối tác. Khác với thanh toán trong nước, TTQT có các đặc điểm riêng như sau: Chủ thể tham gia hoạt động TTQT ở các quốc gia khác nhau. Mỗi giao dịch TTQT có liên quan tới tối thiểu là hai quốc gia, thông thường là ba quốc gia. Hoạt động thanh toán liên quan đến hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do tính phức tạp đó các bên tham gia thường lựa chọn các quy phạm pháp luật mang tính thống nhất và theo thông lệ quốc tế. Đồng tiên dùng trong TTQT thông thường tồn tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán (Sec, hối phiếu, chuyển khoản, thẻ…) có thể là đồng tiền của nước thứ 3, nhưng thường là loại ngoại tệ được tự do chuyển đổi. Ngôn ngữ sử dụng trong TTQT phổ biến là Tiếng Anh. TTQT đòi hỏi trình độ chuyên môn, trình độ công nghệ tương xứng với trình độ quốc tế. 1.1.2. TQTT là hoạt động quan trọng của NHTM trong điều kiện hội nhập kinh tế. Từ khi đàm phán hợp đồng về những điều kiện thanh toán, giao hàng đến khi chấm dứt hợp đồng kể cả quá trình khiếu nại các bên vi phạm đều có các hoạt động liên quan đến giao dịch và thanh toán qua ngân hàng. Bởi vậy TTQT như một mắt xích không thể thiếu trong sợi dây truyền hoạt động, TTQT vừa là khâu mở đầu vừa là khâu kết thúc của một giao dịch mua bán hàng hoá dịch vụ, là cầu nối giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau. TTQT hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế ngoại thương, nhất là trong tình trạng lừa đảo ngày càng gia tăng việc hoàn thiện và phát triển hoạt động của Ngân hàng, nó không chỉ là một dịch vụ thuần tuý trong hoạt động kinh tế mà nó còn bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác của Ngân hàng. Hoạt động TTQT giúp cho Ngân hàng thu hút thêm được khách hàng có nhu cầu vay vốn và thanh toán, trên cơ sở đó Ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình. Mặt khác hoạt động TTQT giúp cho Ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó tạo được niềm tin và uy tín đối với khách hàng. Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng đẩy mạnh được hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp tạo ra quá trình quản lý vốn khép kín tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý vốn tín dụng, tránh rủi ro do sử dụng vốn vay sai mục đích. Hoạt động TTQT giúp cho Ngân hàng phát triển các nghiệp vụ như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác, tăng thu nhập từ dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh giữa các Ngân hàng. Đối với hoạt động của Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT mà nhất là hình thức tín dụng chứng từ có vị trí quan trọng. Nó không chỉ thuần tuý là dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một mặt không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng như trong điều kiện hội nhập kinh tế. 1.1.3. Vai trò của TTQT đối với hoạt động xuất nhập khẩu. TTQT là khâu then chốt cuối cùng để khép kín một chu trình mua bán hàng hoá hoặc trao đổi dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau TTQT là cầu nối trong mối quan hệ kinh tế đối ngoại, trong điều kiện ngày này nếu không có hoạt động TTQT thì sẽ không thể phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu. TTQT có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại được thể hiện trên các lĩnh vực sau: Một là: TTQT là một trong những nhân tố quyết định tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu. Việc tổ chức, TTQT được tiến hành nhanh chóng, an toàn chính xác sẽ làm cho các nhà sản xuất yên tâm và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển, đặc biệt là hoạt động ngoại thương. Ngoại thường phát triển tạo điều kiện cung cấp thị trường đầu vào cho sản xuất (tiến hành thông qua hoạt động nhập khẩu) tạo điều kiện tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất và cải tiến sản phẩm về chất lượng, mẫu mã. Về yếu tố đầu ra của sản xuất, ngoại thương phát triển sẽ mở rộng thị trường đầu ra cho sản xuất trong nước, do khả năng tiêu thụ lớn hơn nên nhu cầu lớn hơn và đa dạng. Điều đó tạo điều kiện để mở rộng sản xuất. Hai là: TTQT thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn đầu tư giữa các nước TTQT nhanh, chính xác, thuận tiện, đúng luật sẽ thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lưu chuyển vốn của các bên tham gia, mở rộng và củng cố quan hệ hợp tác buôn bán làm ăn giữa các nước. Có như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu mới thực sự phát huy tác dụng của nó trong phát triển kinh tế của mỗi nước. TTQT giúp cho quy mô hoạt động của Ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, hoà nhập với cac Ngân hàng trên thế giới góp phần nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Nguồn tài trợ từ Ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh tế - xã hội. Ba là: TTQT là công cụ thực hiện chính sách quản lý xuất nhập khẩu và ngoại hối của một quốc gia. TTQT làm giảm rủi ro trong kinh doanh. Thông qua hoạt động TTQT, Ngân hàng có thể quản lý việc sử dụng vốn vay và giám sát được tình hình kinh doanh của khách hàng, việc kinh doanh đa năng là phương sách hiệu quả để phân tán rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng. Tình hình thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu của một nước được ghi chép lại, phản ánh trên cán cân mậu dịch của nước đó. Nhìn vào cán cân mậu dịch, Nhà nước có thể quản lý được hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc những gì, giá trị bao nhiêu, tình hình ngoại thương đang xuất siêu hay nhập siêu…. Bốn là: TTQT là một phần thu nhập dịch vụ quan trọng của Ngân hàng thương mại (NHTM). Ngoài việc nguồn vốn huy động tăng, tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng, thông qua hoạt động TTQT Ngân hàng còn tạo ra nguồn thu đáng kể từ thu phí dịch vụ thanh toán, tài trợ xuất khẩu, mua bán ngoại tệ… Tóm lại, có thể nói rằng kinh tế đối ngoại có mở rộng được hay không một phần là nhờ vào hoạt động TTQT có được tốt hay không. TTQT tốt sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển sản xuất trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng hàng hoá. Vì vậy việc nghiên cứu thực trạng để có biện pháp hực hiện nghiệp vụ TTQT có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phục vụ tốt hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động TTQT. 1.1.4.1. Tỷ giá hối đoái và chính sách thu chi ngoại tệ của quốc gia. Trong hoạt động TTQT, đơn vị tính toán không phải chỉ là đơn vị tiền tệ sử dụng trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau. Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để so sánh, quy đổi từ đồng tiền của nước này sang đồng tiên của nước khác. Để giải quyết vấn đề này, người ta đã đề cập đến tỉ giá hối đoái. Tỷ giá là sự so sánh giá trị của các đồng tiền với nhau, nói cách khác tỉ giá là giá cả của đơ vị tiền tệ một nước được biểu hiện bằng đơn vị tiền tệ nước khác. Sự biến động của tỉ giá hối đoái tăng (có nghĩa là đồng tiên trong nước trở nên có giá trị tương đối tăng lên so với các đồng ngoại tệ) thì khối lượng hàng hoá nhập vào nước đó có xu hướng tăng lên, xuất khẩu có xu hướng giảm xuống làm giảm nguồn thu ngoại tệ của Ngân hàng. Và ngược lại nếu tỉ giá hối đoái giảm xuống (tức đồng tiền trong nước trở nên có giá trị tương đối giảm xuống so với các đồng ngoại tệ) thì khối lượng hàng hoá nhập khẩu vì tỉ giá hối đoái nước đó có xu hướng giảm xuống và xuất khẩu có xu hướng tăng lên làm tăng nguồn thu ngoại tệ của ngân hàng. Trong quá trình chuẩn bị đàm phán, kí kết các bên luôn luôn phải chú ý đến yếu tố tỉ giá hối đoái, cần phải lựa chọn đồng tiền thanh toán và dự đoán những biến động của nó để hạn chế thấp nhất những rủi ro mà tỉ giá hối đoái mang lại. Đồng thời tận dụng những biến động của nó để làm lợi cho mình, khách hàng của mình. Một nước thiếu hụt dự trữ ngoại tệ dẫn đến hạn chế khả năng thanh toán của Ngân hàng. 1.1.4.2. Tình trạng xuất nhập khẩu của từng quốc gia. Một yếu tố có tác động to lớn đến TTQT của mỗi quố gia là tình trạng xuất nhập khẩu của nước đó. Nếu một nước có nền kinh tế tự cung tự cấp thì chắc chắn là hoạt động kinh tế cũng không phát triển được, ngược lại nếu phát triển hoạt động ngoại thương thì TTQT cũng theo đó mà phát triển. Tuỳ theo trình độ sản xuất của mỗi nước và nguồn nguyên liệu của nó, khi có trình độ sản xuất cao thì những sản phẩm sản xuất ra có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước, thậm chí là đem xuất khẩu. Nhưng nếu thiếu nguồn nguyên vật liệu thì nước đó buộc phải nhập khẩu những thứ nguyên liệu cần thiết cho các hoạt động sản xuất, chế biến của mình. 1.1.4.3. Sự ổn định chính trị xã hội. Tình hình chính trị xã hội của mỗi quốc gia có ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động kinh tế của quốc gia đó bao gồm cả nội thương và ngoại thương. Khi chính trị xã hội ổn định, Chính phủ vững mạnh thì kinh tế sẽ được quan tâm chú ý hơn, rủi ro sẽ được giảm thiểu. Nhưng khi chính trị xã hội không ổn định, phản kháng bạo loạn xảy ra liên miên là tác nhân gây ra những rủi ro lớn cho hoạt động kinh tế. Các doanh nghiệp nhiều khi đã phải chịu mất trắng bởi vì sự thay đổi nhà cầm quyền đôi khi đi liền với những quýêt định đình chỉ các hoạt động ngoại thương cũng như TTQT và điều này khiến các bên tham gia không thể thực hiện được hợp đồng. Chính vì thế khi tiến hành hoạt động ngoại thương điều trước tiên là nên tránh những nơi có tình trạng chính trị xã hội không ổn định vì tình trạng này luôn luôn đi liền với rủi ro rất lớn. 1.1.4.4. Sự ổn định của các chính sách kinh tế vĩ mô và tính hoàn thiện của hệ thống luật quốc gia. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có mục đích và điều tiết các hoạt động kinh tế có liên quan đến nước đó. Dĩ nhiên, những chính sách này luôn luôn nhằm mục tiêu đem lại lợi ích tốt nhất cho quốc gia. Sự ổn định và tính đúng đắn của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ và TTQT. Chẳng hạn như chính sách thuế của Nhà nước, khi thuế nhập khẩu cao thì hiển nhiên là lượng hàng hoá nhập khẩu vào trong nước giảm đi đáng kể và hoạt động TTQT sẽ không đạt hiệu quả cao. Các chính sách về ngoại hối của Chính phủ nếu không đúng đắn sẽ gây ảnh hưởng xấu cho các Ngân hàng và gián tiếp cho TTQT gặp khó khăn. Tóm lại, các chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia tác động trực tiếp đến từng hoạt động kinh tế của quốc gia đó, trong đó có ngoại thương và TTQT nên để hoạt động TTQT đạt hiệu quả cao thì phải chú trọng đến vấn đề này. 1.1.4.5. Năng lực thanh toán của Ngân hàng. Các Ngân hàng muốn thực hiện tốt vai trò của mình thì trước tiên phải có nguồn ngoại tệ đầy đủ, lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của khách hàng để thực hiện thanh toán. Thêm vào đó, Ngân hàng phải có được uy tín và vị thế trên phạm vi quốc tế, bởi vì nếu Ngân hàng không được tin tưởng trên trường quốc tế sẽ gây e ngoại cho các bên mua bán, và khi đó sẽ mất thêm thời gian và chi phí. Ngân hàng cũng luôn phải tạo điều kiện tốt nhất cho người nhập khẩu trong việc cấp tính dụng hay bảo lãnh các hợp đồng ngoại thương, các điều kiện về lãi suất, tỉ lệ kí quỹ, điều kiện để được vay vốn… Để hoạt động xuất nhập khẩu và TTQT tiến hành được dễ dàng để hoàn thành được vai trò của mình. Một điều tối quan trọng là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các nhân viên Ngân hàng phải đủ để phát hiện ra những thiếu sót, sai khác trong hợp đồng, chứng từ hàng hoá… để đảm bảo lợi ích của khách hàng và của Ngân hàng. 1.1.5. Luật và tập quán quốc tế trong TTQT. Nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt các nghiệp vụ trong TTQT, tránh những bất đồng giữa các bên trong quan hệ thanh toán quốc tế các quốc gia cùng với các tổ chức quốc tế và giữa các quốc gia với nhau đã tiến hành việc kí kết các hiệp định, thảo ước và có liên quan. Đây là những văn kiện mang tính pháp lý quốc tế quan trọng điều chỉnh mối quan hệ thanh toán. * Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ. (Uniform custom and Practice for Ducumentary Credit - UCP 500) Phương thức thanh toán TDCT được chỉ dẫn thực hành bởi các quy tắc tập hợp thành "Quy tắc và thực hành thống nhất về TDCT". Tuy chỉ là những quy định của phòng thương mại Quốc tế (International chamber of commerce - ICC) một tổ chức phi chính phủ lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong các lĩnh vực thương mại, ngân hàng nhưng bản Quy tắc này đã được coi như luật Quốc tế trong giao dịch tín dụng thư. Đây là tài liệu không thể thiếu của mọi doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là cán bộ làm công tác TTQT của Ngân hàng thương mại (NHTM). * Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên Ngân hàng theo tín dụng chứng từ (Unifrom Rules for Bank to Bank Reimbursement under Documentary credit - URR 525) Tuy không thiết thực và thông dụng bằng UCP 500, nhưng với sự phát triển của nghiệp vụ TTQT với tính chuyên môn hoá ngày càng cao, URR 525 đang có xu hướng được áp dụng rộng rãi. URR 525 chính là sự mở rộng và chi tiết hoá điều khoản 19 của UCP 500. * Quy tắc thực hành tín dụng dự phòng quốc tế. (International Standby Practices - ISP 98). Cho đến ngày 31- 12 - 1998 giao dịch tín dụng dự phòng vẫn được áp dụng theo UCP 500, ISP 98 là một tài liệu do ICC ban hành, quy định các quy tắc thực hành về tín dụng dự phòng, được xuất bản năm 1998 và có hiệu lực từ 1-1-1999, ISP 98 được phát triển từ UCP 500f f. Do UCP 500 chủ yếu áp dụng cho các thư tín dụng thươg mại nên khi thực hành. Cùng với UCP 500, ISP 98 là một lựa chọn mới cho các bên liên quan áp dụng khi giao dịch bằng thư tín dụng dự phòng. Trên thực tế các bên vẫn có thể dần chiếu UCP 500 nếu muốn. ISP 98 đưa ra các dạng thư tín dụng dự phòng như sau: - Performance standby: tín dụng dự phòng nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. - Advance payment standby: tín dụng dự phòng hoàn trả. - Bid bond/Tender bond standby: tín dụng dự phòng đấu thầu. - Conuter standby: tín dụng dự phòng tài chính. - Direct payment standby: tín dụng dự phòng trực tiếp. - Insurance standby: tín dụng dự phòng bảo hiểm. - Commercial standby: tín dụng dự phòng thương mại. * URC 522: Uniform rules for collection - Quy tắc thống nhất về nhờ thu, sửa đổi năm 1995, số xuất bản 522 của ICC sẽ được áp dụng tất cả nhờ thu khi mà các quy tắc là một bộ phận cấu thành nội dung của "chỉ thị nhờ thu" và ràng buộc các bên liên quan trừ khi mà các quy tắc là một bộ phận cấu thành nội dung của "Chỉ thị nhờ thu" và ràng buộc các bên liên quan trừ khi có sự thoả thuận khác rõ ràng hoặc trừ khi trái với những quy định trong luật của địa phương, một bang hay quốc gia hoặc quy chế mà bỏ qua được. Các Ngân hàng sẽ không có nghĩa vụ phải tiến hành nhờ thu hoặc bất cứ chỉ thị nhờ thu nào hoặc các chỉ thị liên quan sau này. Nếu một Ngân hàng vì một lý do nào đó không chịu tiến hành nhờ thu hoặc bất cứ chỉ thị liên quan nào mà Ngân hàng này nhận được thì Ngân hàng này cần phải thông báo ngay cho bên ra chỉ thị nhờ thu bằng đường viễn thông, nếu không có thể thì hoặc bằng các phương tiện khẩn cấp khác. 1.2. Các điều kiện và phương tiện trong TTQT. 1.2.1. Các điều kiện trong TTQT. Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà đôi bên phải đề ra giải quyết và thực hiện, được quy lại thành những điều kiện gọi là điều kiện TTQT. Nghiệp vụ TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT, những điều kiện này được thể hiện ra trong các điều khoản thanh toán của các hiệp định thương mại, các hiệp định trả tiền kí kết giữa các nước, các hợp đồng mua bán ngoại thương giữa người mua và người bán. Các điều kiện TTQT bản thân nó chỉ có tính kĩ thuật nghiệp vụ thuần tuý, song khi vận dụng lại nhằm đạt được những lợi ích về kinh tế nhất định cho người sử dụng nó. Do đó việc vận dụng các điều kiện TTQT là một cuộc đấu tranh gay gắt, phức tạp để giành lấy phần chủ động và thuận lợi giữa các bên có liên quan. 1.2.1.1. Điều kiện về tiền tệ. Điều kiện về tiền tệ là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán trong hợp đồng ngoại thương, đồng thì quy định cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động trong TTQT khi tiến hành thanh toán, bên nào cũng muốn dùng đồng tiền của nước mình trên thị trường tiền tệ thế giới, không dùng đến ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Có thể tránh được nguy hiểm do tỉ giá tiền tệ nước ngoài biến động xảy ra. Như vậy các bên phải thoả thuận với nhau và phải ghi trong hợp đồng về việc sử dụng đồng tiền nào để thanh toán bằng đồng tiền của một bên hay đồng tiền mạnh của nước nào đó. 1.2.1.2. Điều kiện về đảm bảo hối đoái. Điều kiện đảm bảo hối đoái nhằm đảm bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập tiền tệ từ hợp đồng ngoại thương, hạn chế tối đa những tổn thất gây ra bởi sự biến động thường xuyên của tỷ giá hối đoái trên thị trường. Có hai phương pháp chủ yếu để xác định điều kiện đảm bảo: Một là: Đảm bảo hối đoái theo một đơn vị tiền tệ. Theo phương pháp này, người ta lựa chọn một đơn vị tiền tệ tương đối ổn định, từ đó xác định quan hệ tỷ giá với đồng tiền thanh toán để đảm bảo giá trị của đơn vị tiền tệ thanh toán. Hai là: Đảm bảo hối đoái theo một "sổ tiền tệ" khi áp dụng phương pháp này, các bên phải thoả thuận số lượng và số loại tiền tệ được đưa vào "Sổ tiền tệ" và phương pháp xác định tỷ giá của ngoại tệ đó so với đồng tiền được đảm bảo vào lúc kí kết hợp đồng và lúc thanh toán. Từ đó tiến hành điều chỉnh lại tổng giá trị của hợp đồng thương mại đã kí kết. Ngoài 2 phương pháp xác định điều kiện đảm bảo hối đoái này, người ta cũng có thể sử dụng điều kiện đảm bảo vàng. Tuy nhiên phương pháp này trong thực tế ngày nay rất ít được sử dụng. Trong kinh tế thị trường, nhằm phòng tránh rủi ro hối đoái và để kinh doanh thu lợi nhuận, các nhà xuất nhập khẩu và ngân hàng thường áp dụng các nghiệp vụ giáo dục: Spot, Forward, Swap, Option… trên thị trường hối đoái. 1.2.1.3. Điều kiện địa điểm thanh toán. Trong TTQT giữa các nước, bên nào cũng muốn trả tiền tại nước mình, lấy nước mình làm địa điểm thanh toán vì có những đặc điểm lợi sau: - Có thể đến ngày trả tiền mới phải chi tiền ra, đỡ đọng vốn hoặc có thể thu tiền về nhanh chóng nên luân chuyển vốn nhanh. - Ngân hàng nước mình thu được thủ tục phí dịch vụ. - Có thể tạo được điều kiện nâng cao được địa vị của thị trường tiền tệ nước mình trên thế giới, trong thanh toán ngoại thương địa điểm thanh toán có thể ở nước ngoài nhập khẩu, hoặc ở nước ngoài xuất khẩu hay ở nước thứ ba. Nhưng trong thực tế, việc xác định địa điểm thanh toán là do sự thương lượng của hai bên quyết định. 1.2.1.4. Điều kiện về thời gian thanh toán. Điều kiện về thời gian thanh toán có quan hệ với việc luân chuyển vốn, phí, lợi tức có khả năng tránh được những biến động về tiền tệ thanh toán, do đó nó là vấn đề thường xảy ra tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng TTQT. Trong TTQT điều kiện thời gian thường có 3 quy định sau: - Trả tiền trước: là trả toàn bộ hay một phần số tiền hàng sau khi kí hợp đồng hoặc sau khi bên xuất khẩu nhận được đơn đặt hàng của bên nhập khẩu. - Trả tiền ngay: khái niệm trả tiền ngay bao gồm nhiều cách trả tiền khi toàn bộ giá trị đã được thanh toán trong khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị xong hàng để bốc lên tàu cho đến lúc hàng đã đến tay người mua. Trả tiền khi nhận được điện báo của người xuất khẩu là hàng đã sẵn sàng bốc lên tàu để chở đi. Trả tiền khi nhận được điện báo của thuyền trưởng là hàng đã bốc xong lên tàu tại cảng đi. Trả tiền khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá vài ngày, người nhập khẩu phải có sự đảm bảo trả tiền dưới hình thức chấp nhận hối phiếu bảo đảm của Ngân hàng. Trả tiền sau khi nhận hàng hoá tại cảng. - Trả tiền sau: là sau khi giao hàng tại một thời gian nhất định, người xuất khẩu. Thời gian trả tiền sau dài hay ngắn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. 1.2.1.5. Điều kiện về phương thức thanh toán. Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất trong các điều kiện TTQT. Các phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế bao gồm: - Phương thức chuyển tiền. - Phương thức nhờ thu - Phương thức TDCT. Song xét cho cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của nhà xuất khẩu là thu tiền nhanh, đầy đủ và đúng, từ yêu cầu của nhà nhập khẩu là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và thời hạn. 1.2.2. Các phương tiện sử dụng trong TTQT. Để tiến hành các nghiệp vụ TTQT được thuận tiện, có hiệu quả trong thương mại quốc tế thường sử dụng các phương tiện thanh toán thích hợp. Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mối quan hệ thương mại, quan hệ thanh toán, có thể lựa chọn và sử dụng một trong những phương tiện thanh toán như: Hối phiếu, lệnh phiếu, séc, thẻ thanh toán.. - Hối phiếu (Bill of Exchange) Hối phiếu là một mệnh lệnh thanh toán vô điều kiện, trong đó người nhập khẩu phải trả một số tiền cụ thể đúng thời hạn xác định trực tiếp cho hoặc theo lệnh của người xuất khẩu. - Lệnh phiếu (Promissory note) Lệnh phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả số tiền nhất định cho người hưởng lợi tại một địa điểm và thời hạn quy định. Lệnh phiếu do con nợ kí phát khi trả tiền cho người hưởng lợi tại một địa điểm và thời hạn quy định. Lệnh phiếu do con nợ kí phát khi trả tiền cho người hưởng lợi do tính thụ động trong tính toán nên lệnh phiếu ít được sử dụng trong TTQT hơn hối phiếu. - Séc trong TTQT (Check) Séc là tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng kí phát ra lệnh cho Ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người đó hoặc trả cho người cầm séc theo một số tiền nhất định. - Thẻ thanh toán là phương tiện hiện đại do Ngân hàng cung cấp cho khách hàng (gọi là chủ thẻ) dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt khi có nhu cầu. Nói một cách đơn giản, thẻ thanh toán là một tấm Card được chế tạo bằng nhựa có băng từ hoặc một chip vi mạch điện tử có bộ nhớ để lưu thông tin, số liệu về chủ thể, hạn mức tín dụng của thẻ, thời hạn hiệu lực, số thẻ, số PIN (mã số bí mất). 1.3. Phương thức thanh toán TDCT. Một trong những phương thức TTQT hiện nay đang được sử dụng rất phổ biến đó là phương thức TDCT, vì nó đảm bảo lợi ích cho các bên trong thanh toán. Nội dung của phương thức này thực hiện theo "Quy tắc thống nhất và thực hành về tín dụng chứng từ do ICC ban hành" (Mới nhất là UCP 500 có hiệu lực từ ngày 1-1-1994). Trong phương thức TDCT này, Ngân hàng không chỉ là người trung gian thu hộ chi hộ mà còn là đại diện bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu, đảm bảo cho bên xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đã cung cấp. Đồng thời, đảm bảo cho bên nhập khẩu nhận được số lượng, chất lượng hàng hoá tương ứng với số tiền mà họ phải thanh toán. 1.3.1. Khái niệm. * Thư tín dụng. Thư tín dụng là sự cam kết của Ngân hàng mở thư tín dụng để trả tiền cho người bán theo yêu cầu của người mua khi người bán đáp ứng các yêu cầu quy định trong thư tín dụng. * Phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức TDCT là một thoả thuận mà trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng phát hành thư tín dụng: Issuing Bank) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng (Người xin mở thư tín dụng: Applicant) cam kết hay cho phép một Ngân hàng khác (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) chi trả hoặc chấp nhận hối phiếu do người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng (Beneficiary) ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho Ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng (Letter of Credit: L/C). 1.3.2. Công cụ của phương thức TDCT. Thư tín dụng là một phương tiện quan trọng của phương thức TDCT. Đó là một văn bản pháp lý, trong đó Ngân hàng mở L/C đứng ra cam kết trả tiền cho người bán nếu người bán thực hiện đúng và đầy đủ những điều quy định trong L/C. 1.3.3. Các loại thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán. - Thư tín dụng có thể huỷ nang (Revocable L/C): là loại L/C mà Ngân hàng phát hành và người mua lúc nào cũng có thể tự ý sửa đổi hoặc huỷ bỏ nó mà không cần báo trước cho người bán biết (trong trường hợp họ chưa giao hàng). - Thư tín dụng không thể huỷ._. ngang (Irrevocable L/C): là loại L/C mà Ngân hàng mở khi phải chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán trong hiệu lực của L/C nếu chưa có sự đồng ý của các bên có liên quan. Do có tính chất như vậy mà L/C này có khả năng đảm bảo quyền lợi cho người bán nên nó được ưu chuộng trong TTQT. - Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Irrevocable confirmed L/C): là loại L/C không thể huỷ bỏ, được một ngân hàng đứng ra đảm bảo cùng với Ngân hàng phát hành trả tiền cho thư tín dụng đó. Ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm trả tiền cho người hưởng trong trường hợp Ngân hàng phát hành bị phá sản hay gặp các rủi ro khác nên không có khả năng thanh toán. - Thư tín dụng tuần hoàn (Irrevocable - Revolved L/C): Đặc trưng của loại tín dụng này là sau khi người hưởng sử dụng xong khoản tiền thì trị giá L/C được tự động tăng lên bằng giá trị ban đầu của nó trong thời gian quy định và hưởng lợi có quyền sử dụng tiếp. - Thư tín dụng giáp lưng (Back to Back L/C): Sau khi nhận L/C do người nhập khẩu mở cho mình hưởng, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác với nội dung gần giống L/C ban đầu. - Thư tín dụng đối ứng (Recirpocal L/C): là loại L/C chỉ có giá trị hiệu lực khi có một L/C khác của đối tượng được mở ra loại L/C này cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ khoản tiền họ đặt cọc cho người xuất khẩu trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã mở ra. - Thư tín dụng trả chậm (Deferred L/C): là loại L/C mà Ngân hàng mở sẽ thanh toán dần dần giá trị của L/C cho người hưởng lợi theo quá trình thanh toán nghĩa vụ giao hàng của họ loại này thường áp dụng trong các hợp đồng giao hàng dần dần. - Thư tín dụng ứng trước (Packing L/C or Red claused L/C): là loại tín dụng chứng từ mà trong đó quy định một khoản tiền trả trước cho nhà xuất khẩu vào một thời điểm xác định trước khi chứng từ hàng hoá được xuất trình. 1.3.4. Các bên tham gia thanh toán TDCT. - Người xin mở thư tín dụng: là người mua, người nhập khẩu hàng hoá hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác (The Applicant). - Người mở thư tín dụng: là Ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, cấp thư tín dụng cho người nhập khẩu (Issuing Bank). - Người hưởng lợi thư tín dụng: là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định (Bene ficiary). - Ngân hàng thông báo thư tín dụng: là Ngân hàng ở nước ngoài hưởng lợi (Ad vising Bank). 1.3.5. Quy trình nghiệp vụ thanh toán TDCT. Ngân hàng mở L/C (Issuing Bank) Ngân hàng thông báo L/C (Adrising Bank) (2) (5) (6) Người nhập khẩu (Applicant) Người xuất khẩu (Beneficiary) (4) (8) (7) (1) (6) (5) (3) Sơ đồ quy trình nghiệp vụ. (1): Trên cơ sở hợp đồng thương mại, người nhập khẩu viết đơn yêu cầu mở thư tín dụng (L/C) gửi đến Ngân hàng của mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. (2): Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, Ngân hàng sẽ lập một thư tín dụng và thông báo qua Ngân hàng đại lý của mình ở nước xuất khẩu để thông báo viết mở thư tín dụng và chuyển thư đó đến người xuất khẩu. (3): Khi nhận được thông báo này, Ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc của thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu. (4): Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì đề nghị Ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng. (5): Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C xuất trình thông qua Ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư xin thanh toán. (6): Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thầy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu. (7): Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu va chuyển toàn bộ chứng từ cho người nhập khẩu sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán. (8): Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền. * Lợi ích của thư tín dụng. - L/C tạo khả năng tài trợ cho người xuất khẩu và nhập khẩu Ngân hàng phát hành đã đưa ra một cam kết trả tiền chắc chắn cho người xuất khẩu cho dù tỉ lệ kí quỹ mở L/C của người nhập khẩu là bao nhiêu. Qua việc phát hành L/C, ngân hàng tài trợ cho người nhập khẩu uy tín và tài chính có thể mua được hàng, đồng thời cho người xuất khẩu uy tín và tài chính có thể mua được hàng, đồng thời cho người xuất khẩu khả năng thu được tiền. - L/C là một phương thức tài trợ cho xuất khẩu vì người bán sẽ nhận được tiền hàng thanh toán trước khi hàng tới cảng đến người xuất khẩu và người nhập khẩu được tài trợ từ ngân hàng về thời gian thanh toán thuận lợi cho mình cũng như những tư vấn bổ ích. - Giảm hoặc loại bỏ yếu tố rủi ro tín dụng thương mại khi sử dụng L/C không huỷ ngang có xác nhận. Người xuất khẩu không phải lo về sự trung thực và khả năng thanh toán của người nhập khẩu. - Mở rộng khả năng cung cấp hàng hoá cho người nhập khẩu một khi người xuất khẩu chỉ đồng ý bán hàng trên cơ sở thanh toán trước hoặc trên cơ sở tín dụng thư. - Thư tín dụng cung cấp hành lang pháp luật cho thương mại quốc tế. Khi các bên lựa chọn phương thức thanh toán L/C trong hợp đồng thương mại là áp dụng UCP 500 thì tất cả các bên tham gia của thư tín dụng phải tuân thủ 49 điều quy định trong UCP 500 của ICC. Trong đó có điều khoản quy định rõ trách nhiệm của ngân hàng mở, ngân hàng xác nhận (điều 9), ngân hàng thông báo (điều 7) và quy định về tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ (điều 13). - Đảm bảo kiểm tra chứng từ trước khi gửi tới người nhập khẩu. Người nhập khẩu được đảm bảo rằng chứng từ mà họ yêu cầu theo L/C phải được xuất trình phù hợp với những điều khoản và điều kiện của L/C. Người nhập khẩu được đảm bảo rằng chứng từ xuất trình sẽ được kiểm tra bởi kỹ năng chuyên môn của Ngân hàng. Ngân hàng nhập khẩu chỉ chịu trách nhiệm trả tiền cho Ngân hàng thư số tiền thanh toán cho người bán khi bộ chứng từ hàng hoá hoàn toàn phù hợp với những điều khoản và điều kiện của L/C. 1.3.6. Nội dung của L/C. Thư tín dụng là một chứng thư, trong đó Ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là được hình thành trên cơ sở hợp đồng thương mại, nhưng khi ra đời lại độc lập hoàn toàn với hợp đồng thương mại. Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại gồm những điều khoản sau đây: * Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C. - Số hiệu: Tất cả thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng của nó, tác dụng của số hiệu là để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng. Số hiệu thư tín dụng còn được dùng ghi vào các chứng từ có liên quan. - Địa điểm mở L/C: là nơi mà Ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp. - Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của Ngân hàng mở thư tín dụng với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem xét việc mở L/C có đúng hạn như đã thoả thuận trong hợp đồng hay không. * Tên, địa chỉ những người có liên quan đến phương thức L/C. Những người có liên quan đến phương thức TDCT nói chung được chia làm hai loại: Các thương nhân và các ngân hàng. Các thương nhân thường bao gồm: những người nhập khẩu, là những người yêu cầu mở L/C, người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C. Các ngân hàng tham gia trong phương thức TDCT gồm: ngân hàng mở L/C và ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận... - Ngân hàng mở L/C (Opening Bank hay Issuing Bank) là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận, lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự lựa chọn trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của Ngân hàng mở L/C. + Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C và thông báo L/C cùng việc gửi bản gốc cho người xuất khẩu. + Sửa đổi bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C, của người xuất khẩu đối với L/C đã được mở nếu có sự đồng ý của họ. + Kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, nếu xét thấy các chứng từ đó phù hợp với những quy định trong L/C và không mâu thuẫn với nhau thì trả tiền cho người xuất khẩu, ngược lại thì từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm kiểm tra xem chứng từ có phù hợp vớiL/C hay không chứ không chịu trách nhiệm pháp lý về kiểm tra tính pháp lý bên trong của chứng từ, mọi sự tranh chấp về tính chất bên trong của chứng từ là do người xuất khẩu và nhập khẩu tự giải quyết. + Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp rủi ro thuộc về các bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lũ lụt, động đất, hoả hoạn. + Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm, ngân hàng tự hưởng phí mở L/C. - Ngân hàng thông báo (Advising bank): thường là Ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước ngoài xuất khẩu Quyền và Nghĩa vụ của Ngân hàng thông báo như sau: + Sau khi nhận được thông báo L/C của Ngân hàng mở L/C, Ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung của L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. + Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn nội dung thông báo đã nhận, không chịu trách nhiệm phải dịch nguyên văn, diễn giải thông báo đó bằng tiếng địa phương. + Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu, ngân hàng phải chuyển ngay nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới Ngân hàng mở L/C. + Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do sự chậm chễ hoặc mất mát chứng từ trên đường đi đến Ngân hàng mở L/C, miễn là Ngân hàng chứng minh đã gửi nguyên vẹn bộ chứng từ đó qua đường bưu điện. - Ngân hàng trả tiền (Negotiating Bank hoặc Paying bank). Là ngân hàng mở L/C và có thể là Ngân hàng khác mà Ngân hàng mở L/C uỷ nhiệm. - Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank) là ngân hàng đứng ra xác nhận cho Ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của Ngân hàng đó. * Số tiền trên thư tín dụng. Số tiền trên thư tín dụng vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ và thống nhất với nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải ghi rõ ràng. * Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà Ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C tính từ ngày mở đến ngày hiệu lực L/C. * Thời hạn trả tiền của L/C. Thời hạn trả tiền của L/C (Date of Payment): là thời hạn trả tiền ngay hay trả về sau. Điều khoản này hoàn toàn phụ thuộc vào hợp đồng. Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu kí phát hối phiếu. * Thời hạn giao hàng. Thời hạn giao hàng (Date of Delivery) cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định, thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời gian hiệu lực của L/C. * Những nội dung về hàng hoá, vận tải. Những nội dung về hàng hoá như: tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu... cũng được ghi vào thư tín dụng. Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình là một nội dung then chốt của thư tín dụng, vì bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mở L/C phải dựa vào đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu nếu bộ chứng từ phù hợp với những quy định trong thư tín dụng. Về chứng từ, ngân hàng mở L/C thường yêu cầu người xuất khẩu thoả mãn các điều kiện sau: - Các loại chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình, các loại chứng từ nhiều hay ít phụ thuộc vào yêu cầu của người nhập khẩu và các yêu cầu đó thường được thoả thuận trong hợp đồng. - Số lượng chứng từ mỗi loại. - Yêu cầu kí phát của Ngân hàng đó như thế nào. Sự cam kết trả tiền của Ngân hàng mở L/C là nội dung cuối cùng của thư tín dụng đồng thời ràng buộc trách nhiệm của Ngân hàng mở L/C. 1.3.7. Ưu nhựơc điểm của phương thức L/C. * Ưu điểm: Tín dụng chứng từ tạo được sự nhân nhượng, có thế chấp nhận được về thương mại giữa lợi ích đối kháng của người mua và người bán bằng cách đối chiếu thời gian giao hàng và thời gian thanh toán. - Đối với người xuất khẩu: họ được đảm bảo chắc chắn rằng, sau khi giao hàng và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo đúng điều kiện trong L/C thì được thanh toán tiền hàng. - Đối với người nhập khẩu: được đảm bảo chắc chắn rằng khi mình trả tiền thì sẽ được nhận hàng (loại trừ trường hợp hàng hoá không giống như chứng từ). - Đối với Ngân hàng: Tiến hành nghiệp vụ này, Ngân hàng thu được một khoản lợi ích như thủ tục phí, ngoài ra Ngân hàng còn huy động thêm một khoản tiền gửi (khi có kí quỹ) phục vụ cho hoạt động của các nghiệp vụ khác như: cho vay xúât nhập khẩu, bảo lãnh, xác nhận... * Nhược điểm: - Đối với người xuất khẩu: họ được đảm bảo chắc chắn rằng, sau khi giao hàng và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo đúng điều kiện trong L/C thì được thanh toán tiền hàng ngay. Người xuất khẩu vẫn có lợi hơn vì không những được Ngân hàng mở L/C bảo đảm thanh toán mà còn nhận được tiền nhanh hơn khi được ngân hàng chiết khấu chứng từ. + Đối với người nhập khẩu ở chừng mực nào đó không có lợi vì khi yêu cầu mở L/C, họ phải kí gửi một số tiền hoặc vay Ngân hàng, do vậy vốn lưu động sẽ bị ứ đọng. Thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ là giao dịch trên giấy tờ. Những chứng từ đổi lấy hàng hoá mà những dữ kiện ghi trên chứng từ chỉ là thông tin bên ngoài, nên không thể kiểm tra hàng hoá một cách chi tiết. Nhược điểm lớn nhất của phương thức này là phải thanh toán theo quy trình rất tỉ mỉ, máy móc đòi hỏi các bên tiến hành hết sức cẩn thận, nhất là khâu lập và kiểm tra chứng từ cũng có thể trở thành nguyên nhân bác bỏ việc thanh toán. Bộ chứng từ là căn cứ duy nhất để Ngân hàng tiến hành việc trả tiền nên người bán có thể giả mạo chứng từ hoặc thay đổi chứng từ xuất trình. Nếu người mua không có thiện chí với người bán họ có thể tìm ra lỗi nhỏ trên chứng từ để từ chối thanh toán mặc dù người bán giao hàng đúng chất lượng, số lượng, thời gian đã ghi trong hợp đồng. Chương 2 Thực trạng chất lượng nghiệp vụ thanh toán TDCT tại chi nhánh NHN0 & PTNT - Nam Hà Nội 2.1. Giới thiệu chung về NHN0 & PTNT Việt Nam và chi nhánh Nam Hà Nội 2.1.1. Giới thiệu chung về NHN0 & PTNT Việt Nam Hiện nay, NHN0 & PTNT là một trong bốn NHTM quốc danh lớn của Việt Nam. Có thể nói, đây là NHTM lớn nhất cả nước về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Ngày 26-03-1988 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 53/HĐBT thành lập các ngân hàng chuyên doanh trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp ra đời trong bối cảnh kinh tế - xã hội hết sức khó khăn. Vào những năm 1980 do hậu quả của hơn 30 năm chiến tranh, chính sách cấm vận của Mỹ và đóng cửa biên giới với Trung Quốc từ năm 1979, cùng với cơ chế tập trung, bao cấp nền kinh tế đã rơi vào khủng hoảng. Năm 1990 là năm đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình đổi mới của ngành ngân hàng. Tháng 5-1990 Pháp lệnh Ngân hàng ra đời khẳng định hệ thống ngân hàng 2 cấp. Ngày 14-11-1990 được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên NHN0 Việt Nam thành NHN0 & PTNT Việt Nam. NHN0 & PTNT hoạt động theo mô hình Tổng Công ty 90, là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một NHTM, NHN0 & PTNT được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Qua hơn 15 năm phát triển và trưởng thành một chặng đường không dài với biết bao gian nan thử thách, NHN0 & PTNT đã đạt được những thành tựu đáng kể, đó là: Ngân hàng thực hiện thành công việc chuyển đổi từ Ngân hàng trong cơ chế bao cấp sang NHTM kinh doanh đa năng trong cơ chế thị trường định hướng XHCN giữ vị trí chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn. Từ dư nợ vài trăm tỷ đồng tới cuối năm 2004 dư nợ cho vay hộ nông dân đạt trên 140.000 tỷ đồng, trong đó cho vay 9 triệu hộ trên tổng số 10 triệu hộ nông dân Việt Nam . Từ một Ngân hàng hoạt động thuần tuý trong nước tới nay NHN0 & PTNT đã trở thành một Ngân hàng có vị thế trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, chiếm trên 10% doanh số TTQT của hệ thống Ngân hàng NHN0 & PTNTVN cũng mở rộng kinh doanh đa năng trên 100 chi nhánh cấp I tại các tỉnh thành phố và 7 công ty độc lập hoạt động có hiệu quả. Hoạt động này chính là hướng thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ NHTM hiện đại. Cùng với quá trình phát triển của ngành, đội ngũ cán bộ nhân viên NHN0 & PTNTVN đã trưởng thành nhanh chóng với số lượng đông nhất 28.000 cán bộ nhân viên. Từ năm 1991 NHN0 & PTNTVN đã triển khai nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, trong đó hoạt động TTQT là nòng cố từ 2 Sở giao dịch, đến nay đã triển khai trong toàn bộ các chi nhánh cấp I. Công nghệ và thiết bị Ngân hàng hiện đại cùng với đội ngũ nhân viên giỏi chuyên môn nghiệp vụ đã giúp Ngân hàng phát triển nhanh chóng và vững chắc các nghiệp vụ kinh doanh đôí ngoại. Lực lượng khách hàng xuất nhập khẩu qua ngân hàng ngày càng tăng và được đáp ứng tất cả nhu cầu về ngoại tệ và thanh toán. 2.1.2. Chi nhánh Hà Nội quá trình xây dựng và trưởng thành. Ngày nay, nền kinh tế thị trường đang diễn ra sôi nổi và gay gắt. Sự cạnh tranh giành giật thị phần, khách hàng diễn ra ở mọi nơi, mọi ngành, mọi lĩnh vực. Ngành Ngân hàng đương nhiên cũng không nằm ngoài vòng quay đó. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tìm mọi biện pháp có thể để mở rộng mạng lưới của mình ở khắp nơi. Trước tình hình đó Chi nháng Ngân hàng Nam Hà Nội trực thuộc NHN0 & PTNT Việt Nam ra đời với trụ sở chính tại C3 Phương Liệt - Thanh Xuân - Hà Nội. Ngày 12-03-2001 chi nhánh được thành lập và khai trương vào ngày 8-05-2001. Chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu sau: - Nhận tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. - Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn của mọi tổ chức và dân cư với nhiều hình thức khác nhau. - Cho vay hợp vốn, đồng tài trợ, thu xếp nguồn vốn cho các dự án và các chương trình đầu tư. - Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế: chuyển tiền, nhờ thu, mở và thanh toán L/C phục vụ khách hàng trong và ngoài nước. - Được đặt quan hệ đại lý với nước ngoài và mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài. Căn cứ vào nhiệm vụ trên, đến nay hoạt động TTQT của NHN0 nói chung và của Chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội nói riêng đã không ngừng phát triển đa dạng với quy mô ngày càng được mở rộng. Bởi vậy hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng hoạt động TTQT phải được xem là nội dung quan trọng đối với hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội. Đến nay, Chi nhánh Nam Hà Nội đã có 3 chi nhánh cấp 2 và 5 phòng giao dịch có trụ sở trên tất cả các quận của thành phố Hà Nội. Mô hình hoạt động của chi nhánh Nam Hà Nội được bố chí theo cơ cấu sau: Chi nhánh cấp 2 và phòng giao dịch Phòng kế toán - ngân quỹ Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ Phòng hành chính - nhân sự Phòng thanh toán quốc tế Phòng nguồn vốn - kế hoạch tổng hợp Phòng thẩm định Phòng kinh doanh Ban giám đốc Có thể nói chi nhánh ra đời trong một hoàn cảnh khá thuận lợi. Đó là nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động đúng với năng lực. Hơn nữa, chi nhánh còn có sự trợ giúp vô cùng to lớn của NHN0 & PTNT. Mặc dù mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm nhưng chi nhánh cũng đã thu được một số thành công nhất định. 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Năm 2001, ngay từ khi thành lập chi nhánh đã xác định công tác huy động vốn và hoạt động trọng tâm. Với nhiều điều kiện của một ngân hàng đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội, chi nhánh đã năng động tìm các biện pháp huy động tiền gửi dân cư, tận dụng mọi mối quan hệ để thu hút các đơn vị, tổ chức kinh tế có nguồn vốn lớn, rẻ. Thực hiện dịch vụ thu chi tiền mặt tại chỗ đối với các đơn vị có thu chi lớn và thường xuyên. Ngoài ra chi nhánh còn tăng cường tìm kiếm, tiếp cận để phục vụ các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Do vậy, tốc độ tăng tài sản của chi nhánh rất nhanh và ổn định cao, thể hiện: Nguồn vốn năm 2001 là 635 tỷ đồng, năm 2002 đạt 1.000 tỷ đồng, đến năm 2003 đạt 2.550 tỷ đồng tăng 1.550 tỷ đồng đạt 185% kế hoạch năm. Năm 2004 đạt 3.700 tỷ đồng tăng 45% so với năm 2003. Bảng 2.1.2.1. Tổng nguồn vốn huy động năm 2004 Đơn vị: Triệu VND STT Chỉ tiêu Năm 2004 Tăng giảm so với năm 2003 TĐ % Tổng nguồn vốn 3.784,272 1,233,986 48,4% 1 Cơ cấu nguồn vốn theo đồng tiền 3.784,272 1,233,986 48,4% - Nguồn vốn nội tệ 3,061,582 959,789 45,7% - Nguồn vốn ngoại tệ QĐNVĐ 722,690 274,188 61,1% 2 Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn 3,784,272 1,233,986 48,4% - Nguồn vốn không kỳ hạn 720,120 407,628 130,4% - Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12T 1,444,878 805,016 125,8% - Nguồn vốn có kỳ hạn từ 12T trở lên 1,619,274 132,977 8,9% TĐ: + NV có KH từ 12T đến < 24T 1,033,795 (45,546) -4,2% + NV từ 24T đến dưới 60T 585,479 178,523 43,9% 3 Cơ cấu NV theo tự lực 3,784,272 1,233,986 48,4% - Nguồn huy động hộ TW 432,819 (772) -0,2% - Nguồn huy động tại địa phương 3,351,453 1,234,758 58,3% + Nội tệ 2,665,636 1,005,408 60,6% + Ngoại tệ 685,815 229,348 50,2% 4 Phân loại theo NV 3,784,272 1,233,986 48,4% - Tiền gửi dân cư 1,121,080 265,458 31,0% TĐ: Ngoại tệ quy VNĐ 318,321 136,712 75,3% - Tiền gửi TCTD 1,224,447 373,804 43,9% TĐ: Ngoại tệ quy VNĐ 268,029 (111,971) -29,5% - TG TCKT, TCXH 1,026,121 727,751 243,9% Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2004 phòng TTQT - NHN0 & PTNT Nam Hà Nội Năm 2004, tổng nguồn vốn là 3,784 tỷ tăng 1, 234 tỷ so với năm 2003 tốc độ tăng trưởng là 48%. Thực hiện chỉ thị của TGĐ tăng cường huy động vốn trong quý IV/2004 nguồn vốn bình quân đã tăng thêm 152 tỷ so với 15-10-2004. Trong đó: - TG dân cư tăng 265 tỷ so với năm 2003 tăng 31%, tỷ trọng đạt 30%, so với KH đạt 86%. - Nguồn vốn TCTD theo chỉ đạo của NHTW đã giảm dần trong quý 3 chỉ tăng lên trong quý 4, mức tăng 374 tỷ tương đương 43,9%. - Nguồn vốn địa phương: 3,351 tỷ so với KH đạt 116%. Nguồn nội tệ: so với năm 2003 tăng 60%. Nguồn ngoại tệ: tăng 229 tỷ so với năm 2003, tốc độ tăng cũng khá cao nhưng so với KH giao chưa đạt vì KH 2004 giao quá cao (tăng 90%)> Việc mở rộng mạng lưới đã có tác dụng tăng thêm nguồn tiền gửi không kỳ hạn của KH trong năm. Đạt được kết quả đó là do sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo, các phòng chức năng và toàn thể cán bộ công nhân viên của chi nhánh đã hăng hái thu hút khách hàng, đổi mới phong cách phục vụ, không ngừng hoàn thiện và nâng cao các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cung ứng do khách hàng. 2.1.2.2. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ Về hoạt động mua bán ngoại tệ, trong những năm qua tuy tình hình khan kiếm ngoại tệ luôn xảy ra song chi nhánh đã tích cực tìm nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Mua bán ngoại tệ đã mang lại lợi nhuận đáng kể trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh. Các ngoại tệ mà chi nhánh mua bán chủ yếu là: USD, GBP, UER, JPY, CHF, SEK và AUD. Bảng 2.1.2.2. Kết quả hoạt động mua bán ngoại tệ Đơn vị: USD Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2004 so với năm 2003 Số tiền Số tiền Số tiền Tăng giảm % tăng giảm - Mua ngoại tệ 23,160,316.00 47,888,972.00 77,403,422.97 29,514,450.60 62% Trong đó kết hối 10,625,166.00 32,320,128.42 - - Bán ngoại tệ 23,006,784.00 49,577,403.36 90,679,452.99 41,102,049.36 83% Trong đó bán cho Sở giao dịch 8,000,000.00 19,109,943.02 32,846,307.64 13,736,364.62 72% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại năm 2002, 2003, 2004 của phòng TTQT - NHN0 & PTNT Nam Hà Nội) Như vậy doanh số mua bán ngoại tệ năm 2004 đạt hơn 168 triệu USD. Trong đó doanh số mua ngoại tệ đạt 77,4 triệu USD tăng 29,5 triệu USD so với năm 2003. Còn doanh số bán ngoại tệ đạt 90,6 triệu USD tăng 41,4 triệu USD (83%) so với năm 2003. Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, chi nhánh đã gặp phải khó khăn đó là chi nhánh có thể mua ngoại tệ từ các ngân hàng và từ các tổ chức song số ngoại tệ này chỉ bán được cho các tổ chức sản xuất nhập khẩu là khách hàng trực tiếp tham gia hoạt động thanh toán tại chi nhánh và cho các ngân hàng trong cùng hệ thống. Có lẽ đây chính là nguyên nhân dẫn đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh mới chỉ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, những nhà xuất nhập khẩu cần loại ngoại tệ mà họ thanh toán tiền hàng phục vụ cho hoạt động TTQT, còn nó chưa thực chất là kinh doanh ngoại tệ để thu lợi nhuận theo đúng nghĩa. Đối với hoạt động TTQT, tuy mới đi vào hoạt động được gần 4 năm song do chi nhánh đã tuân thủ chặt chẽ các quy trình, kỹ thuật, thao tác nghiệp vụ về tiếp nhận, quản lý, kiểm tra xử lý bộ hồ sơ thanh toán nên ít để xảy ra các sai sót cũng như rủi ro trong thanh toán. Năm 2004, hoạt động TTQT của chi nhánh khá nhộn nhịp, đáp ứng đầy đủ kịp thời các nhu cầu của khách hàng về xuất nhập khẩu, góp phần tích cực tăng trưởng nguồn vốn, tín dụng, nội ngoại tệ và mở rộng nguồn thu dịch vụ. 2.2. Thực trạng chất lượng nghiệp vụ thanh toán TCTD tại NHN0 & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội 2.2.1. Một số nét về nghiệp vụ TTQT tại chi nhánh Để thực hiện tốt nghiệp vụ TTQT chi nhánh Nam Hà Nội đã hội đủ các điều kiện: - Có số lượng cán bộ hiểu biết ngoại ngữ (Anh văn) và nghiên cứu TTQT đáp ứng được yêu cầu công việc. Nhân tố con người là điểm sáng của phòng TTQT, là ưu thế của chi nhánh Nam Hà Nội so với các chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Chi nhánh có đội ngũ nhân viên trẻ tuổi và rất năng động hầu hết đều được đào tạo chính quy ngân hàng. Các anh chị phòng TTQT, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo phòng rất am hiểu nghiệp vụ, cẩn trọng và giỏi tiếng Anh, góp phần không nhỏ trong TTQT nhanh chính xác, tạo uy tín ngày càng tăng đối với khách hàng. Thái độ phục vụ nhiệt tình cởi mở, văn minh, lịch sự, sẵn sàng tư vấn cho khách hàng và các chi nhánh trực tiếp hoặc qua điện thoại, fax là điểm nổi bật tại phòng TTQT chi nhánh Nam Hà Nội. - Có trang bị và sử dụng công cụ phương tiện cần thiết. Phòng TTQT được trang bị khang trang và khá hiện đại, máy tính được nối mạng SWIFT, có máy in, điện thoại… góp phần không nhỏ tới chất lượng nghiệp vụ TTQT. Về mặt tổ chức và nhiệm vụ đối với cán bộ TTQT. * Về mặt tổ chức: Phòng TTQT của chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội gồm có: Một trưởng phòng, 1 phó phòng và 7 nhân viên trẻ, năng động, có khả năng phụ trách trực tiếp thanh toán L/C, nhờ thu, chuyển tiền. Phòng TTQT do giám đốc Nguyễn Văn Dương điều hành. * Nhiệm vụ chung đối với cán bộ làm công tác thanh toán - Nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, thể lệ, nội quy công tác hiện hành có liên quan của Nhà nước, của ngành về công tác TTQT. - Thực thi đúng các văn bản về TTQT, ghi chép hạch toán chính xác kịp thời khách quan các sự việc phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán, xuất nhập khẩu, tình hình quan hệ giao dịch với ngân hàng đại lý, tín nhiệm thanh toán cho thương nhân nước ngoài. - Tổng hợp đầy đủ số liệu về công việc mình phụ trách, lập báo cáo lên cấp trên theo đúng chế độ quy định (hàng tháng, hàng quý, tổng kết năm) - Chấp hành đúng nguyên tắc bảo mật, an toàn trong TTQT và chịu trách nhiệm hoàn toàn về phần tiến hành công việc được giao. Ngoài làm nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp phòng TTQT còn có nhiệm vụ: - Thực hiện theo luật của Tổng Giám đốc trong các dịch vụ TTQT. - Đào tạo hướng dẫn cán bộ của chi nhánh trong cùng hệ thống. * Trách nhiệm của từng cán bộ làm công tác TTQT - Thanh toán viên: Công việc được giao trực tiếp, tiếp nhận xem xét và giải quyết hồ sơ của khách hàng theo các quy định nghiệp vụ trong văn bản, thanh toán viên không ngừng nhiệm vụ trình độ nghiệp vụ của mình. - Kiểm soát viên: Kiểm tra hồ sơ do thanh toán viên chuyển đến và ký vào chứng từ đã kiểm soát. - Lãnh đạo phòng TTQT (trưởng phòng): Chịu trách nhiệm giải quyết hồ sơ sau khi đã có chữ ký của thanh toán viên và kiểm soát viên. - Phó giám đốc: Được uỷ quyền là người chịu trách nhiệm cuối cùng về pháp lý hồ sơ công việc, phê duyệt hoặc không phê duyệt hồ sơ của cấp dưới và phải ra quyết định xử lý. 2.2.2. Tổng quan chung về hoạt động thanh toán kèm chứng từ tại chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội TTQT nói chung và thanh toán kèm chứng từ nói riêng bao giờ cũng là một nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng phức tạp. Hơn nữa hoạt động này cũng luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ này đòi hỏi các thanh toán viên phải có trình độ, hiểu biết, cẩn thận và tỉ mỉ. Chi nhánh Nam Hà Nội là chi nhánh đi sau trong hoạt động TTQT song chi nhánh cũng thu được một số kết quả, chúng ta có thể theo dõi ở bảng sau: Bảng 2.2.2. Số lượng khách hàng tham gia hoạt động TTQT Năm 2002 2003 2004 Số lượng khách hàng (đơn vị) 41 60 96 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại phòng TTQT Năm 2001 là năm hoạt động đầu tiên của chi nhánh nên số lượng khách hàng còn ít, chỉ có 18 đơn vị. Song năm 2002 tăng lên khá nhiều với 41 đơn vị tăng 128%. Đây thực sự là một kết quả đáng mừng cho một chi nhánh mới hoạt động. Năm 2003 với đà tăng trưởng của năm 2002 số lượng khách hàng là 60, tăng 19 đơn vị. Vậy năm 2002 và 2003 đã tạo một bước ngoặt lớn cho hoạt động thanh toán của chi nhánh. Đến năm 2004, cả khách hàng và ngân hàng đều đã trở nên rất quen thuộc với nhau, số lượng khách hàng có xu hướng tăng nhanh so với các năm trước, đã tăng 36 đơn vị tăng 60%. Ngoài việc thu hút thêm nhiều khách hàng, chi nhánh cũng đã từng bước triển khai các phương thức thanh toán kèm chứng từ để phục vụ khách hàng. Trong phương thức TDCT chi nhánh đã cung cấp cho khách hàng nhiều loại L/C như không hu._.o đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT, học tạp được kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động TTQT. - Cử những cán bộ có nănglực đi học tập những kinh nghiệm của các ngân hàng trên thế giới mà có quan hệ với NHN0 cũng như chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội tạo được niềm tin và uy tín đối với các khách hàng và bạn hàng trong nước cũng như trên thế giới. - Hàng năm nên tổ chức các kỳ thi sát hạch về nghiệp vụ và tổ chức thi tuyển công khai, nghiêm túc để có thể tuyển chọn được những cán bộ có năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm. - Không chỉ hoàn thiện về mặt tri thức, nghiệp vụ, cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế cũng cần phải chú trọng đén phong cách giao dịch với khách hàng. Điều này sẽ giúp Ngân hàng thu hút thêm khách hàng mới và củng cố vững chắc hơn mối quan hệ với các khách hàng đã có. 3.2.3. Phòng ngừa rủi ro trong thanh toán TDCT. Trong các loại hình kinh doanh của cơ chế thị trường thì kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Nhưng rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu được càng lớn. Chính vì vậy, để có thể tồn tại trước những biến động của thị trường đòi hỏi Ngân hàng phải thận trọng đề phòng rủi ro. Tuỳ thuộc vào từng loại rủi ro khác nhau mà chi nhánh có những giải pháp khác nhau. Chẳng hạn, với loại hình rủi ro trong thanh toán ngân hàng phải thường xuyên theo dõi tình hình, kinh tế, chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. thông qua hệ thống đại lý của NHN0 để điều tra, khai thác thông tin về tình hình tài chính, khả năng giao hàng, tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong việc kí kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế. Thêm vào đó, để hạn chế bớt thiệt hại của các bên đối tác chính phủ nên cùng ngân hàng thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng khi có rủi ro xảy ra thì quỹ bảo hiểm sẽ bảo hiểm: 70% đến 80%, do vậy nhà xuất khẩu Việt Nam chỉ chịu 30% rủi ro về thanh toán với nguyên nhân rủi ro dân tộc và 20% với nguyên nhân chính trị. Để tránh rủi ro về tỉ giá, ngân hàng cần dự trự đa dạng ngoại tệ, dự báo chính xác về sự biến động tỉ giá trên cơ sở đó mà thay đổi kết cấu sao cho có lợi nhất. Mặt khác nhằm tạo thêm doanh lợi cho các nhà xuất khẩu, đồng thời áp dụng kỹ thuật hối đoái bảo hiểm rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngân hàng nên phát huy hơn nữa nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn. Nghiệp vụ này giúp đỡ nhà nhập khẩu được mua bán ngoại tệ theo một tỉ giá đã định sẵn trong tương lai. Ngoài ra ngân hàng nên tăng cường áp dụng mua bán ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách trả trước VND thu ngoại tệ có tính phí thời gian, đồng thời bán trước ngoại tệ cho doanh nghiệp nhập khẩu thu lại VND sau. Nghiệp vụ mua bán kỳ hạn này giúp đỡ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu được sử dụng VND theo mức phí ngang bằng với lãi suất vay từ quỹ bình ổn hối đoái của NHTM. Tuy nhiên ngân hàng vẫn cần, đưa ra mức rủi ro cho phép trong thanh toán quốc tế. Chẳng hạn trong trường hợp khách hàng mở L/C bằng vốn tự có gặp khó khăn tạm thời về khả năng chủ động về vốn trong thanh toán do quá trình vận chuyển hay giao hàng không đúng lịch, do trục trặc trong khâu chuyển vốn, thu tiền bán hàng…) dẫn đến sự lệch pha giữa kế hoạch thanh toán và kế hoạch chuẩn bị nguồn vốn. Mặt khác, khách hàng không thể vay vốn tại ngân hàng vì chưa kí hợp đồng tín dụng trước khi mở L/C. Như vậy, dù đã kiểm tra kỹ trước khi mở L/C về khả năng thanh toán, tình hình thị trường, định mức kí quỹ… thì việc nhận nợ vay bắt buộc vẫn có thể xảy ra. Trong trường hợp này khách hàng phải chịu lãi suất phạt, ngân hàng vẫn giữ tiền ký quỹ và bộ chứng từ hàng hoá, nếu cần có thể phát mại lô hàng để thu hồi vốn vay. Vấn đề này cần được xem xét như một rủi ro và ngân hàng cho phép ở một mức độ nào đó trong TTQT. 3.2.4. Hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán. Với xu hướng phát triển như hiện nay của nền kinh tế, công nghệ là một trong những yếu tố then chốt giúp cho sự tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh của bất kỳ tổ chức kinh tế nào. Chính vì vậy, chi nhánh trước hết phải không ngừng đổi mới trang thiết bị làm việc, tích cực áp dụng những công nghệ mới nhất của ngành Ngân hàng để có thể đáp ứng được những nhu cầu thanh toán của khách hàng. Một khó khăn của ngân hàng là máy móc thiết bị phục vụ thanh toán quốc tế còn ở mức sơ khai. Trong khi đó, các phương tiện vật chất thiết bị ngân hàng là yếu tố hữu hình mà khách hàng có thể nhận biết được tính hiện dại của ngân hàng. Thể hiện ở cấu hình trụ sở giao dịch, các phương tiện thanh toán như mạng máy tính máy móc tahnh toán phục vụ khách hàng. Các phương tiện này trở thành nhân tố chính cho các ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo độ tin cậy và cung cấp thông tin cho khách hàng, giúp việc xử lý các nghiệp vụ của nhân viên tiếp xúc diễn ra nhanh chóng, hiệu quả. Hiện nay, tại chi nhánh trang thiết bị máy tính tuy đã được trang bị tương đối đầy đủ nhưng có thể thấy là thiếu đồng bộ. Nhiều máy tính được trang bị từ những ngày mới thành lập cho đến nay có rất nhiều vấn đề trục trặc nhưng vẫn chưa được thay đổi. Hơn nữa, sự phát triển của hoạt động thanh toán kèm chứng từ tất yếu phát sinh những nhu cầu giao dịch mới, trong khi đó phần mềm sử dụng lại không có sự thay đổi nào. Vậy nên chi nhánh cần sớm đầu tư, nâng cấp hệ thống máy tính hiện nay. Để giải quyết vấn đề này chi nhánh có thể kêu gọi, nhận sự tài trợ từ các tổ chức khác. Một vấn đề nữa là vấn đề lưu trữ tài liệu ở chi nhánh. Trong phòng TTQT, tài liệu hồ sơ được dể ngay ở bàn làm việc, ở ngăn kéo, bàn máy vi tính. Đây là phòng hàng ngày phải tiếp nhận một lượng hồ sơ, chứng từ không nhỏ, nhất là hoạt động thanhtoán kèm chứng từ khi số hồ sơ lại càng nhiều mà mỗi bộ hồ sơ đều được lưu lại. Nhưng hiện nay hồ sơ được lưu trữ ở các ngăn tủ rất bình thường, có khi để nguyên trên bàn không cất đi, mỗi khi tìm hồ sơ lưu nhân viên lại ngồi dò tìm từng hồ sơ. Để giải quyết dùng cho các phòng ban. Do vậy NHN0 nên quan tâm tới việc đổi mới công nghệ theo các tiêu chuẩn quốc tế với trang thiết bị hiện đại và có trình độ tự động hoá cao, thực hiện chương trình hiện đại hoá, trước hết là củng cố và tăng cường cơ sở hạ tầng cho tin học Ngân hàng, bao gồm thiết bị, phần mềm kỹ năng vận hành theo kịp trình độ thế giới. Bên cạnh đó khai thác triệt để thanh toán qua mạng WIET, đầu tư mạng ATM theo điều kiện thực hiện những giao dịch, nhanh chóng, chính xác, chi phí thấp góp phần tăng hiệu quả kinh doanh và phục vụ khách hàng nhanh chóng. 3.2.5. Tăng cường công tác tiếp thị khách hàng theo hướng tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách ưu đãi khách hàng xuất khẩu và sử dụng sản phẩm NH. Việc mở rộng quan hệ với khách hàng có ý nghĩa thiết thực tới nghiệp vụ thanh toán quốc tế cũng như các nghiệp vụ khác. Chi nhánh cũng cần có những chính sách ưu đãi hợp lý để thắt chặt hơn mối quan hệ khách hàng và ngân hàng để thắt chặt hơn mối quan hệ khách hàng và ngân hàng. Để lôi kéo và giữ vững được khách hàng, ngân hàng cần xây dựng chiến lược khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt, không phân biệt thành phần kinh tế, áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, đáp ứng đến mức cao nhất các yêu cầu của khách hàng. Mục tiêu của việc xây dựng một chính sách hợp lý là xây dựng và củng cố uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, tạo cho khách hàng yên tâm và tin cậy giao dịch TTQT qua chi nhánh. Vì vậy để thực hiện tốt chính sách này, trước hết chi nhánh phải chủ động tìm kiếm khách hàng mới. Ngân hàng không nên chỉ chú trọng thu hút những khách hàng lớn mà còn tập trung vào những đối tương khách hàng vừa và nhỏ nhưng rất đông đảo là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay mới được thành lập. Đó là những khách hàng ít được các ngân hàng quan tâm, ưu đãi nên chi nhánh chỉ cần chào mời, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình thì họ sẽ dễ dàng lựa chọn sử dụng dịch vụ TTQT. Còn đối với những khách hàng lớn, có tiềm lực kinh tế, kinh doanh an toàn, có uy tín cao, luôn được nhiều ngân hàng săn đón, chào mời, do vậy để họ trở thành khách hàng của mình, cần phải đến tận nơi tìm hiểu nhu cầu của họ trên cơ sở điều chỉnh và giới thiệu những sản phẩm thích hợp. Với sự tận tình, chu đáo của các nhân viên là điều kiện tốt để thu hút khách hàng. Ngân hàng có thể gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của ngân hàng bằng cách ngoài vai trò là trung gian thanh toán còn thực hiện hoạt động cho vay sản xuất và thu gom hàng xuất đối với doanh nghiệp xuất khẩu và cho vay thanh toán đối với doanh nghiệp nhập khẩu. Chỉ khi ngân hàng coi lợi ích của khách hàng thật sự là lợi ích của mình thì ngân hàng mới trở thành người bạn đáng tin cậy của khách hàng và giữ vững được mối quan hệ trung thành với khách hàng. Ngoài ra tổ chức khách hàng cũng là biện pháp có hiệu quả cao, không những tạo ấn tượng tốt về chi nhánh mà còn góp phần hạn chế những rủi ro trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán của mình. Với những khách hàng lớn, ngân hàng nên cung cấp cho họ những thông tin về nghiệp vụ, các hình thức thanh toán mới nhất với những khách hàng nhỏ, ngân hàng sẽ giúp họ phòng tránh rủi ro. Với những khách hàng mới, ngân hàng cung cấp cho họ những kiến thức cơ bản, hướng dẫn họ lập một bộ chứng từ hoàn hảo. Hơn nữa hội nghị khách hàng cũng là dịp để ngân hàng và khách hàng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ, để khách hàng bày tỏ những băn khoăn, khúc mắc của mình đối với sự nghiệp thanh toán của ngân hàng. Qua đó ngân hàng có thêm cơ hội để nâng cao chất lượng nghiệp vụ của mình. Vì vậy chính sách khách hàng phải được cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn xếp loại khách hàng và các hình thức ưu đãi. Những đối tượng khách hàng được ưu đãi là: ã Khách hàng có quan hệ truyền thống tốt, các bạn hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng. ã Các doanh nghiệp lớn, sản xuất có hiệu quả, khoản vay trả đúng hạn. ã Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng trở thành bạn hàng lâu dài Chi nhánh cũng có thể ưu tiên cho sử dụng vượt quá số dư trong tài khoản giao dịch, cho vay ưu đãi, ký quỹ mở L/C thấp hơn hoặc không cần kí quỹ… Để củng cố thêm nguồn ngoại tê, ưu tiên cho những khách hàng có thời gian gửi dài, số tiền gửi nhiều chi nhánh cũng phải thực hiện chính sách quảng cáo về mình một cách hợp lý để gây dựng niềm tin ban đầu với khách hàng tiềm năng này có thể được thực hiện qua việc sử dụng các tờ quảng cao, mời khách hàng tham dự hội nghị khách hàng. Chi nhánh có thể nắm bắt kịp thời hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp để đề ra những chính sách phù hợp như hỗ trợ doanh nghiệp trong những tình huống khó khăn. Trong thời điểm hiện tại, quy mô hoạt động của chi nhánh chưa cho phép mở một trung tâm tư vấn riêng thì vai trò tư vấn của các nhân viên trong chi nhánh là rất quan trọng. Đối với hoạt động thanh toán kèm chứng từ, hoạt động tư vấn có thể tập trung vào các vấn đề như: giá cả, thời gian thanh toán, địa điểm thanh toán, đồng tiền thanh toán… Tư vấn giúp cho khách hàng hiểu về bạn hàng, về hoạt động của họ tạo cho khách hàng tâm lý yên tâm, hài lòng khi sử dụng dịch vụ của chi nhánh từ đó có thể tăng giao dịch cho chi nhánh. 3.2.6. Phát triển hoạt động Marketing trong ngân hàng. Cạnh tranh để tồn tại trở thành quy luật ngẫu nhiên đối với hoạt động ngân hàng. Là một ngân hàng chưa được biết đến nhiều trên thị trường trong nước và bạn bè quốc tế, với số lượng khách hàng chủ động, để có thể giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt NHN0 & PTNT Nam Hà Nội phải đề ra một chiến lược cho riêng mình, trong đó khai thác triệt để những thế mạnh sẵn cho riêng mình, trong đó khai thác triệt để những thế mạnh sẵn có và hạn chế tối thiểu những điểm yếu củaNgân hàng. Một trong những chiến lược đó là chiến lược Marketing. Trước hết ngân hàng phải có chính sách để ngày càng hoàn thiện các sản phẩm ngân hàng nói chung và chất lượng nghiệp vụ thanh toán nói riêng, mở rộng các hình thức thanh toán kết hợp với kinh doanh ngoại tệ. Bên cạnh đó chính sách về giá, cụ thể trong TTQT là biểu phí hợp lý cũng hết sức quan trọng. Chi nhánh có thể áp dụng biểu phí cố định của NHN0 hoặc thay đổi để đảm bảo lợi nhuận, an toàn và tính cạnh tranh. Về công tác tiếp thị, ngân hàng cần liên tục đưa ra các chương trình tài trợ các sự kiện lớn của đất nước, quảng cáo qua truyền hình, truyền thanh, các báo, tạp chí, trên mạng Internet hướng dẫn rõ ràng cụ thể mọi hoạt động dịch vụ của ngân hàng đặc biệt là hoạt động TTQT. Song song với hình thức quảng cáo là hoạt động khuyến mãi. Đối với các khách hàng lần đầu tham gia TTQT tại ngân hàng như mở L/C hoặc thanh toán L/C với tỉ trọng lớn, ngân hàng có thể nghiên cứu giảm phí để tạo khả năng cho khách hàng làm quen và gây ấn tượng tốt với khách hàng mới. Tiến hành lập hồ sơ những khách hàng thường xuyên quan hệ với ngân hàng, đối với khách hàng lớn và truyền thống, ngân hàng nên tổ chức thăm hỏi chúc mừng trong các dịp lễ tết hoặc có các dịch vụ đi kèm miễn phí để tạo mối quan hệ gần gũi giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng cũng nên thường xuyên phát hành báo cáo thường niên gửi đến các khách hàng để họ hiểu rõ tình hình kinh doanh của ngân hàng từ đó tạo dựng được niềm tin và mối quan hệ bền vững. Hơn nữa, định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng để nắm bắt được nhu cầu qua đó phân loại, rút ra được cách thức phục vụ từng loại khách hàng. Mặt khách, chi nhánh cần có biện pháp khuyến khích để động viên toàn bộ cán bộ, nhân viên tích cực tham gia thực hiện công tác marketing để thu hút ngày càng nhiều khách hàng tiềm năng cho mình. 3.2.7. Thành lập một Website riêng cho chi nhánh Ngân hàng. Hiện nay tại Việt Nam, Internet được sử dụng ngày càng rộng rãi. Internet đã đến với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trường học, tới cả các tầng lớp dân cư và được cập nhật thường xuyên. Do vậy, thành lập một Website, chi nhánh có thể đăng tải mọi thông tin cần thiết về chi nhánh cho khách hàng như vị thế của chi nhánh, các sản phẩm dịch vụ mà chi nhánh cung cấp… Bởi ngân hàng mới đi vào hoạt động, cho dù có tốc độ phát triển cao song sẽ có nhiều khách hàng chưa biết tới ngân hàng hoặc còn thắc mắc ngân hàng này hoạt động, cho dù có tốc độ phát triển cao song sẽ có nhiều khách hàng chưa biết tới ngân hàng hoặc còn thắc mắc ngân hàng này hoạt động như thế nào, hiệu quả ra sao. Qua dịch vụ Internet mà các doanh nghiệp sử dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, họ sẽ tiếp cận được các thông tin về tính an toàn, hiệu quả trong TTQT của chi nhánh và tìm đến tham gia thanh toán. Qua đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng mới đến với chi nhánh. Mặt khác, qua dịch vụ Internet rất sâu rộng này ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn lớn. Vì vậy cùng với công tác Marketing, chính sách khách hàng thì đây cũng là giải pháp thiết hực thu hút lượng lớn khách hàng đến với chi nhánh và tham gia thanh toán tại chi nhánh. 3.2.8. Củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài. Hệ thống ngân hàng đại lý có vai trò quan trọng trong việc mở rộng và phát triển hoạt động TTQT, phát triển ngân hàng đại lý là nhiệm vụ hàng đầu mang tính chất mở cửa cho hoạt động Ngân hàng bước ra khỏi phạm vi quốc gia. Để phát triển hoạt động TTQT, NHN0 & PTNT Nam Hà Nội cần tiếp tục phát triển hệ thống đại lý, đặc biệt với những nước có quan hệ thương mại như: Nhật Bản, Mĩ, Trung Quốc, các nước ASEAN, các nước EU…. Thông qua hệ thống ngân hàng đại lý mà tìm hiểu thông tin về các đối tác trong hợp đồng của khách hàng cũng như của hệ thống NHN0, khai thác nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng đại lý để bổ sung nguồn vốn ngoại tệ ít ỏi nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn ngoại tệ ít ỏi nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn ngoại tệ của khách hàng. Đồng thời, tích cực tranh thủ sự trợ giúp của ngân hàng đại lý để đào tạo cán bộ, tổ chức hội thảo về nghiệp vụ TTQT và để tiếp cận nhanh với các công nghệ trên thế giới. 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thanh toán L/C. 3.3.1. Đối với Nhà nước. * Ban hành hệ thống quy chế pháp lý điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Hoạt động cấp tín dụng xuất nhập khẩu thông qua phương thức L/C khá phổ biến ở nước ta, hơn 70% giá trị thanh toán thông qua mở L/C trả ngay, trả chậm đối với doanh nghiệp nhập khẩu hay thông báo, xác nhận, chiết khấu L/C đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Do đó, nhu cầu về các văn bản pháp lý đi điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng xuất nhập khẩu theo các hình thức TTQT là rất cần thiết mà cụ thể là điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng L/C. Trên phương diện quốc tế, hoạt động thanh toán bằng L/C được điều chỉnh bởi UCP 500 do ICC ban hành. Trên phương diện quốc gia, cho đến nay, hệ thống NHNN kinh doanh ngoại hối nên có văn bản hướng dẫn chung của NHNN áp dụng UCP 500 vào thực tiễn TTQT của Việt Nam để có một hành lang tập quán thống nhất nhằm tránh hiện tượng vận dụng ECP rất khác nhau giữa các ngân hàng. Trong những năm gần đây một số ngân hàng nước ngoài vận dụng UCP không đúng đắn đã bị ngân hàng Việt Nam từ chối thanh toán nhưng khi đàm phán thương lượng, họ không nhận sai về phía họ mà còn nêu ra rằng: cũng trường hợp tương tự ngân hàng khác của Việt Nam lại thanh toán do không nắm vững pháp lý quốc tế, lại đi hỏi các ngân hàng bạn. Mỗi ngân hàng một quan điểm khác nhau. Cuối cùng, ngân hàng nước ngoài bao giờ cũng đúng, rủi ro cho các ngân hàng Việt Nam và thiệt hại, kiện tụng trong nước lẫn nhau. Vì thế, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần sớm có những văn bản pháp luật cụ thể hướng dẫn sử dụng UCP 500 để bảo vệ các doanh nghiệp và ngân hàng trong nước khi tham gia vào quan hệ thanh toán L/C. Trong các văn bản đó, cũng cần quy định cụ thể mối quan hệ giữa trách nhiệm và nghĩa vụ của khách hàng và ngân hàng trong thanh toán L/C để có thể đơn giản hoá thủ tục mà vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Đồng thời cần phải chỉ rõ bản chất chiết khấu L/C xuất khẩu của ngân hàng. Đây là phương thức cho vay của ngân hàng được đảm bảo bằng tín dụng thư. UCP 500 chỉ đề cập vấn đề chiết khấu nếu ngân hàng phát hành quy định trên L/C (Available with any bank by negotiation) và coi chiết khấu là miền truy đòi mà không đề cập đến vấn đề chiết khấu tự do. Phòng thương mại Quốc tế - ICC cho rằng, các ngân hàng chiết khấu được quyền bảo lưu từ khi là ngân hàng xác nhận của thư tín dụng đó. Tuy nhiên điều đó còn tuỳ thuộc vào luật pháp của từng quốc gia. Do đó, pháp luật Việt Nam nên đưa ra quy định ngân hàng chiết khấu L/C xuất khẩu được phép bảo lưu nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình ngân hàng tiến hành nghiệp vụ, đồng thời đảm bảo nhu cầu đáp ứng của nhà xuất khẩu. Một vấn đề nữa trên thực tế đã gây rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là việc sử dụng giấy tờ giả về tài sản thế chấp, cầm cố giao cho ngân hàng để làm thủ tục vay vốn hoặc vượt quá giá trị tài sản, bất động sản thế chấp hay dùng một bất động sản thế chấp nhiều nơi đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới mô trường tài chính - tín dụng của Nhà nước. Trước tình hình này, Nhà nước cần phải ban hành những văn bản pháp lý về xử phạt, phát mại tài sản thế chấp cầm cố, các văn bản chi tiết cụ thể việc đăng kí sở hữu và chấp giấy chứng nhận sở hữu nhà đất cho các tổ chức, cá nhân. Các văn bản pháp luật hiện hành về lĩnh vực kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động TTQT nói riêng cũng như các lĩnh vực có liên quan cần phải được thống nhất trong một nguồn luật để tránh sự trồng chéo và mâu thuẫn lẫn nhau. * Cải thiện cán cân thương mại. Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn trong nước, cải cách chính sách xuất nhập khẩu, khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu và kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu. Đồng thời hoàn thiện các chính sách thuế quan chống buôn lậu, quản lý hạn ngạch nhằm hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước đã sản xuất tốt. Hơn nữa tận dụng lợi thế là thành viên của APEC, Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là các hoạt động thương mại vào các thị trường lớn và nhanh chóng xúc tiến việc gia nhập WTO. Một mặt, khai thác tốt các tiềm năng, nguồn lực sẵn có để cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng tỉ trọng hàng gia công, đồng thời giảm tỉ trọng hàng thô nhằm từng bước xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh, hàm lượng công nghệ cao. Mặt khác đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu đi đôi với xác định các mặt hàng chủ lực để đầu tư thích đáng, từ đó xác định và phát triển thị trường trọng điểm và mở rộng thị trường mới. Song song với các hoạt động này, Nhà nước cần tiến hành mở rộng hợp tác nước ngoài cũng như quản lý tốt các khoản vay nợ nước ngoài. Trong hoạt động ngoại thương, các ngân hàng cũng như doanh nghiệp phải chịu rất nhiều rủi ro, vì vậy Nhà nước nên nghiên cứu thiết lập các quỹ hỗ trợ, bảo hiểm cho hoạt động xuất khẩu. Đồng thời có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu bằng công cụ quản lý vĩ mô như thuế, lãi suất, giảm thủ tục hành chính. Những giải pháp trên góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ nhằm khắc phục tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của đất nước, tạo thuận lợi hoạt động TTQT của các ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước (NHNN). * Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiến tới thành lập thị trường hối đoái Việt Nam. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một trong những điều kiện quan trọng để ngân hàng mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng và phục vụ nhu cầu TTQT của Ngân hàng. Để hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng làm cơ sở cho việc hình thành thị trường hối đóai hoàn chỉnh ở Việt Nam NHNN cần thực hiện các giải pháp sau: - Đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các phương tiện TTQT trên thị trường. Ngoài giao dịch chủ yếu là USD hiện nay, các ngoại tệ khác (EUR, GBP, JPY…) cũng cần được mở rộng giao dịch song song khuýên khích nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, hối phiếu ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của ngân hàng. - Đa dạng hoá các hình thức mua bán ngoại tệ. Hiện nay các hình thức giao dịch ngoại tệ của NHTMVN nói chung và NHNN và PTNT nói riêng mới chỉ là giao hàng, hoán đổi. Trong thời gian tới NHNN cần có chính sách khuyến khích và định hướng phát triển nghiệp vụ vay mượn ngoại tệ, nghiệp vụ tiền gửi qua đêm trên thị trường tiền gửi liên Ngân hàng. Ngoài các thành viên hiện tại là NHNN và các NHTM quốc dioanh, cũng cần mở rộng đối tượng tham gia thị trường liên ngân hàng như: Ngân hàng cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các nhà môi giới… tạo cho thị trường phát triển về lượng cũng như về chất. * ổn định tỷ giá hối đoái. Việc mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức TDCT đòi hỏi phải có sự ổn định của tỉ giá hối đoái. Vì vậy, NHNN cần phải có chính sách điều hành tỉ giá linh hoạt, bám sát cung cầu trên thị trường. Đồng thời tránh những điều chỉnh bất ngờ với biên độ lớn nhằm tạo sự ổn định trong tỷ giá hối đoái để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. * Nâng cao vai trò thanh toán bù trừ của NHNN. Hiện nay NHNN mới chỉ là trung tâm thanh toán bù trừ cho các ngân hàng trong nước. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong TTQT, đặc biệt là các ngân hàng chưa có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng rãi, NHNN nên đóng vai trò trung gian TTQT khi cần thiết. Thực tế ở Việt Nam chưa có tài khoản LORO (tài khoản của ngân hàng nước ngoài mở tại Việt Nam) do VND chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi, đồng thời uy tín của các ngân hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế. Do đó, các ngân hàng ở Việt Nam không thể ghi nợ tài khoản của ngân hàng nước ngoài khi được ngân hàng nước ngoài thanh toán. NHNN có thể dùng uy tín của mình thu hút các ngân hàng nước ngoài mở tài khoản ngoại tệ và tiến hành thanh toán bù trừ với ngân hàng trong nước. Với hình thức này, các ngân hàng Việt Nam sẽ chủ động trong quá trình thanh toán, đồng thời hạn chế rủi ro, giảm được chi phí trung gian. Hơn thế nữa, NHNN có thể mở rộng nguồn vốn ngoại tệ, phát triển thị trường ngoại hối trong nước. Để có thể áp dụng và phát triển hình thức này cần có sự kết hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các công cụ kinh tế vĩ mô và các chính sách ngoại giao của Nhà nước. 3.3.3. Đối với NHN0 & PTNTVN. Trực thuộc NHN0 & PTNTVN, chi nhánh Nam Hà Nội trong những năm đầu hoạt động đã có những cố gắng của riêng mình. Song để phát triển và thành công hơn nữa chi nhánh cần có sự hỗ trợ, giúp thêm của NHN0 & PTNTVN. Cụ thể là: Hoạt động TTQT là hoạt động rất cần có kỹ thuật hiện đại, để có những kỹ thuật ấy chắc chắc sẽ cần một sự đầu tư không nhỏ, vì vậy rất cần sự hỗ trợ của NHN0 & PTNTVN. Hoạt động TTQT phát triển còn phụ thuộc vào mạng lưới ngân hàng đại lý. Để giúp cho quá trình TTQT được diễn ra một cách nhanh chóng và thuận lợi thì cần có mạng lưới của hệ thống NHN0 & PTNTVN được mở rộng hơn nữa để giúp cho hoạt động TTQT đạt hiệu quả cao. Hệ thống NHN0 & PTNTVN có khả năng để thành lập các bộ phận chuyên ngành nghiên cứu tình hình TTQT nói chung cũng như thanh toán TDCT để phân tích thông tin trên thị trường trong và ngoài nước. Từ đó, có thể hỗ trợ tư vấn để chi nhánh có thể tư vấn cho khách hàng, để hoạt động TDCT ngày càng phát triển. 3.3.4. Đối với khách hàng. Hoạt động thanh toán TDCT là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro đó không chỉ đơn giản là sự cách biệt về địa lý mà do căn cứ thanh toán chỉ dựa trên chứng từ mà các bên tham gia xuất trình. Đây là điểm yếu nhất mà không một phương thức thanh toán nào có thể khắc phục được. Khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng thì hầu hết những bộ chứng từ mở L/C tại ngân hàng đều do nhân viên phòng TTQT lập. Một lượng không nhỏ các doanh nghiệp tham gia hoạt động TTQT không có sự hiểu biết cần thiết về các quy định, quy trình nghiệp vụ cụ thể của phương thức thanh toán. Không ít các trường hợp, doanh nghiệp khi đến mở L/C làm hộ. Để giải quyết khó khăn này, các doanh nghiệp cần có sự đào tạo chuyên môn đối với nhân viên phụ trách lĩnh vực này. Sự tín của ngân hàng đối với khách hàng là một trong những thuận lợi cho mọi khách hàng đến giao dịch tại Ngân hàng. Một khách hàng có mối quan hệ giao dịch thường xuyên và chấp hành đúng mọi quy định của Ngân hàng chắc chắn sẽ có những ưu tiên nhất định từ phía ngân hàng. Do đó trong mọi giao dịch của mình, khách hàng nên thực hiện một cách nhanh nhất và tốt nhất những nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng. Đó cũng chính là một đảm bảo cho quyền lợi của khách hàng trong tương lai. Kết luận TTQT theo phương thức TDCT có vai trò ngaỳ càng quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch TTQT của các Ngân hàng nói chung và của chi nhánh Nam Hà Nội nói riêng. Chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội tuy mới hoạt động trong lĩnh vực thanh toán kèm chứng từ được hơn 3 năm nhưng cũng có được một số thành công. Chi nhánh dần chiếm được lòng tin của khách hàng, không ngừng mở rộng và hoàn thiện phương thức thanh toán TDCT. Bên cạnh đó uy tín của chi nhánh ngày càng được mở rộng và củng cố trên thị trường tài chính tín dụng trong và ngoài nước. Việc xem xét nghiệp vụ thanh toán TDCT của chi nhánh Nam Hà Nội là một nội dung quan trọng. Với nhận thức đó nhằm vận dụng những kiến thức đã được học vào thực tế, luận văn đã giải quyết những vấn đề lý luận và thực tế sau: 1 - Khái quát tầm quan trọng của hoạt động TTQT đối với hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia. 2 - Khoá luận đã đề cập đến phương thức TTQT, đặc biệt là phương thức thanh toán TDCD đưa ra các ưu điểm và hạn chế. 3 - Về mặt thực tế khoá luận đã vận dụng lý thuyết vào phân tích đánh giá chất lượng thanh toán TDCT tại chi nhánh NHN0 & PTNT Nam Hà Nội. 4 - Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng tình hình thanh toán TDCT tại chi nhánh luận văn đã đề xuất việc xây dựng chiến lược kinh doanh đối ngoại và xây dựng hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán TDCT tại một NHTM Nhà nước. Nghiên cứu về giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng TDCT đã được đề cập trong đề tài nghiên cứu khoa học nhưng việc tiếp cận và xem xét một cách cụ thể trong một đơn vị cụ thể vẫn luôn là trung tâm chú ý của khoa học ứng dụng. Tuy nhiên, với kiến thức lý thuyết cơ bản trong trường Đại học và thời gian thực tế còn quá ít. Chính vì vậy tuy em đã có nhiều cố gắng trong việc tìm tòi tài liệu nhưng khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô. Một lẫn nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Dương và các anh chị phòng TTQT đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thiện khoá luận này. Hà Nội, tháng 5 năm 2005 Sinh viên Trần Thị Bích Thảo Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình TTQT trong ngoại thương - PGS.Đinh Xuân Trình 2. Giáo trình kinh tế ngoại thương - Bùi Xuân Lư. 3 - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính của Frederic Myhkin trường Đại học Columbia (Mỹ). 4. Giáo trình TTQT - Nguyễn Thanh Trúc Phó chủ nhiệm khoa tiền tệ tín dụng quốc tế Học viện Ngân hàng. 5. Giáo trình TTQT và tài trợ xuất nhập khẩu - NXB Thống kê. 6. Quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ TTQT trong hệ thống NHN0 & PTNTVN. 7. Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương của Vũ Văn Tửu Trường Đại học ngoại thương. 8. Quy trình thực hành thống nhất về TDCT (UCP 500), Phòng Thương mại quốc tế. 9. Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ TTQT - NHN0 & PTNTVN. 10. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại năm 2002, 2003, 2004 phòng TTQT chi nhánh Nam Hà Nội. 11. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2004, mục tiêu giải pháp hoạt động kinh doanh năm 2005. 12. Tạp chí Ngân hàng: - Số 4, 8 năm 2002. - Số 5, 10 năm 2003. - Số 9 năm 2004. Mục lục Danh mục kí hiệu viết tắt. NHN0 & PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam NHNN : Ngân hàng nhà nước TDCT : Tín dụng chứng từ TTQT : Thanh toán quốc tế QLKD : Quản lý kinh doanh L/C : Letter of credit NHTM : Ngân hàng thương mại ICC : Phòng thương mại quốc tế - International Chamber of Commerce UCP : Uniform Customs And Practice For Documentary Crredits URC : Uniform Rules For Collection ISBP : International Standard Banking Practice URR : Unifrom Rules for bank to bank Reimbersement under ducumentary credit KH : Kế hoạch TG : Tiền gửi TT : Thanh toán ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28850.doc
Tài liệu liên quan