Lời mở đầu
1 – Tính cấp thiết của đề tài.
Bảo lãnh Ngân hàng ở nước ta bắt đầu được sử dụng từ những năm 1990, phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng thanh toán quốc tế. Cùng với sự phát triển kinh tế và quá trình hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực, góp phần đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng. Bảo lãnh Ngân hàng không chỉ phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại mà còn phục vụ cho các quan hệ kinh tế giao dịch trong phạm vi nề
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế. Hầu hết các Ngân hàng thương mại ở nước ta đều thực hiện nghiệp vụ này. Tuy nhiên sự phát triển và khởi sắc của nghiệp vụ bảo lãnh trong thời gian qua vẫn chưa thực sự tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó đối với hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế. Mặt khác bảo lãnh còn là nghiệp vụ mới mẻ nên trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc và gây nhiều tổn thất cho Ngân hàng .
Là một đơn vị có nhiều tiềm năng phát triển của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Nam Hà Nội đã thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh phục vụ nhu cầu khách hàng như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn nước ngoài... góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tuy nhiên bảo lãnh còn là nghiệp vụ khá mới mẻ vì vậy việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng ở nước ta còn nhiều vướng mắc. Mặt khác, rủi ro trong hệ thống Ngân hàng thương mại còn cao nhất là đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam do môi trường kinh doanh có nhiều khó khăn đã hạn chế rất nhiều đến nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội, em đã quyết định lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là: “Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm các mục đích sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nội dung và những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội từ đó đưa ra những mặt đạt được, những mặt còn tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lí luận về bảo lãnh Ngân hàng, đồng thời nghiên cứu thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh
Phạm vi nghiên cứu: Các nghiệp vụ của một NHTM là rất đa dạng và phong phú, song do thời gian và thể lượng kiến thức còn hạn hẹp nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội từ 2002-2004 để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đặc biệt sử dụng nhiều tới lý luận và chính sách Marketing, quản trị trong Ngân hàng để rút ra kết luận và những đề xuất.
5. Nội dung nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng về nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Chương 1:
Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh
Của Ngân hàng thương mại
1.1 - Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM.
1.1.1- Khái niệm về bảo lãnh và bảo lãnh Ngân hàng .
Nền kinh tế hàng hoá hiện đại thúc đẩy hoạt động thương mại bùng nổ mạnh mẽ với xu hướng toàn cầu hoá sâu sắc. Cũng vì thế thương mại không chỉ được mở rộng trong nước mà còn vượt ra khỏi lãnh thổ quốc gia. Do vậy rủi ro về thông tin không đầy đủ cho doanh nghiệp là rất lớn, từ đó rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp ứng các hợp đồng đã ký kết là khó tránh khỏi. Hoặc nếu họ có thể tìm hiểu được thông tin thì việc tranh thủ cơ hội kinh doanh và các chi phí phải bỏ ra ngăn cản họ thực hiện điều này. Từ đó gây ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và giảm hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để khắc phục điều này đòi hỏi phải có một sự đảm bảo cho các giao dịch diễn ra an toàn, tăng độ tin cậy giữa các đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó, trong điều kiện kinh tế phát triển, cạnh trạnh quyết liệt thì nhu cầu vốn cũng tăng lên không ngừng. Để hạn chế những rủi ro trên và giành thắng lợi trong cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ buộc phải tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc để tìm hiểu đối tác, điều này nhiều khi vượt ra ngoài khả năng của một doanh nghiệp. Như vậy từ khả năng nền kinh tế xuất hiện nhu cầu có một sự đảm bảo trong các giao dịch, dẫn tới một hình thức giao dịch đảm bảo ra đời với hình thức biểu hiện là sự đảm bảo của một bên thứ ba, có đủ tư cách và năng lực thực hiện nhằm dàn xếp quan hệ, đảm bảo uy tín, đồng thời tạo sự tín nhiệm cho các đối tác. Đó chính là hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh được hiểu một cách khái quát nhất: ''Đó là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những cam kết đối với người yêu cầu bảo lãnh''.
Bảo lãnh hay tín dụng gián tiếp, nói cách khác là “lãnh nợ” là một nghiệp vụ quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Gọi tín dụng gián tiếp vì bảo lãnh là đưa ra những cam kết của Ngân hàng dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo dõi ngoại bảng chứ thực tế không hoặc chưa phải sử dụng vốn ngay để cho vay như tín dụng trực tiếp. Các TCTD nhất là các Ngân hàng lớn chỉ nhờ vào uy tín của mình, cấp chứng thư cam kết cho khách hàng thực hiện các quan hệ tài chính ở trong nước và ở nước ngoài, tạo nguồn thu nhập đáng kể, giúp cho khách hàng của mình có thêm điều kiện để được các đối tác tín nhiệm về mặt tài chính trong quan hệ giao dịch.
Theo điều 2 trong quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng (ban kèm theo Quyết định 283/2000/QĐ - NHNN ngày 25/08/2000 của Thống đốc NHNN Việt Nam quy định: “Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền mà Ngân hàng đã trả thay”.
Quá trình này được thể hiện ở sơ đồ sau:
Bên bảo lãnh
(2)
(3)
Bên được bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh
(1)
Trước tiên, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ký kết một hợp đồng kinh tế hoặc một hợp đồng dân sự. Trong hợp đồng, các bên thường thỏa thuận một điều khoản theo đó một trong các bên phải có một thư bảo lãnh Ngân hàng cho bên kia thụ hưởng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Sự thoả thuận phải rõ ràng, chi tiết, chính xác về các điều khoản, điều kiện kể cả về câu chữ của thư bảo lãnh. Việc này thể hiện qua bước (1) trên sơ đồ.
Bước (2) thể hiện quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Hai bên sẽ ký kết hợp đồng bảo lãnh mà trong đó bên được bảo lãnh chỉ dẫn cho Ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh với các điều khoản và điều kiện như đã thoả thuận với người thụ hưởng. Trong trường hợp Ngân hàng đã phải thanh toán bảo lãnh theo các điều khoản và điều kiện của thư bảo lãnh thì sau đó người được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn lại cho Ngân hàng.
Bên bảo lãnh sẽ phát hành thư bảo lãnh dựa theo sự chỉ dẫn của bên được bảo lãnh và giao cho bên nhận bảo lãnh và thông báo cho bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết, bên nhận bảo lãnh chắc chắn sẽ được bên bảo lãnh trả nợ. Việc này thể hiện qua bước (3) trên sơ đồ.
1.1.2- Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng.
1.1.2.1 - Bảo lãnh Ngân hàng là một quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau.
Thư bảo lãnh là một cam kết phát sinh từ mối quan hệ của nhiều bên, đó là:
- Mối quan hệ hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng (có thể là hợp đồng vay vốn, hợp đồng thương mại, hợp đồng thi công, hợp đồng thiết kế…)
- Mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và Ngân hàng phát hành bảo lãnh thể hiện trên hợp đồng bảo lãnh.
- Mối quan hệ hợp đồng giữa người thụ hưởng bảo lãnh và Ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Như vậy, do sự ảnh hưởng phụ thuộc lẫn nhau của các mối quan hệ trên nên hợp đồng bảo lãnh sẽ không thể tồn tại nếu thiếu các mối quan hệ đó.
1.1.2.2 - Tính độc lập của bảo lãnh.
Một trong những đặc trưng nổi bật của bảo lãnh Ngân hàng là nó mang tính chất độc lập và tách biệt trong các quan hệ thương mại và vay nợ. Sở dĩ nói như vậy là vì mặc dù nội dung của bảo lãnh được xây dựng trên cơ sở nội dung của hợp đồng thương mại, hợp đồng vay vốn hay hợp đồng đấu thầu… Song nếu xét về mặt pháp lý, thư bảo lãnh độc lập và tách rời khỏi cơ sở hình thành ra nó.
Trước hết, tính độc lập được thể hiện rõ nét trong từng mối quan hệ giữa các bên liên quan. Như trên đã đề cập, mối quan hệ giữa các bên là mối quan hệ phụ thuộc, vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả của nhau song do đặc điểm các hợp đồng được hình thành từ những mối quan hệ giữa các đối tượng riêng biệt, đồng thời do được chi phối bởi những mục đích khác nhau nên tính pháp lý cũng như quyền lợi của các bên liên quan hoàn toàn mang tính chất độc lập. Vì vậy, Ngân hàng với vai trò người cung cấp dịch vụ và cam kết thanh toán sẽ phải thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của mình trên cơ sở độc lập về quyền và nghĩa vụ riêng biệt trong hợp đồng.
Bên cạnh đó, tính độc lập của bảo lãnh không chỉ giới hạn ở quan hệ giữa các bên liên quan mà còn thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của Ngân hàng phát hành. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với quan hệ giữa Ngân hàng phát hành và người được bảo lãnh. Một khi các điều kiện bảo lãnh của Ngân hàng được tuân thủ thì Ngân hàng không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để từ chối hay cố tình trì hoãn việc thanh toán. Trách nhiệm này đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện sự cân nhắc và thận trọng trước khi ra quyết định cung cấp bảo lãnh cho một khách hàng nào đó.
Song tính độc lập của bảo lãnh cũng phụ thuộc vào các điều kiện của bảo lãnh, nó là loại bảo lãnh vô điều kiện hay có điều kiện. Nếu là bảo lãnh vô điều kiện, việc thanh toán được thực hiện theo yêu cầu đầu tiên, tính độc lập được đảm bảo.
1.1.2.3. Tính hoàn toàn phù hợp của thư bảo lãnh.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu Ngân hàng thanh toán thì Ngân hàng phát hành có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình phù hợp với những điều khoản và điều kiện của thư bảo lãnh. Ngân hàng phát hành có quyền từ chối thanh toán nếu chứng từ bất hợp lệ hay những điều kiện và điều khoản của bảo lãnh không được đáp ứng. Nếu Ngân hàng không thực hiện đúng trách nhiệm kiểm tra chứng từ của mình tức là vẫn thanh toán khi bộ chứng từ bất hợp lệ thì Ngân hàng sẽ không nhận được bồi hoàn từ người được bảo lãnh. Tuy nhiên nếu bộ chứng từ được đưa đến hoàn toàn phù hợp với các điều khoản quy định trong bảo lãnh và Ngân hàng kiểm tra thấy không có dấu hiệu lừa đảo thì phải lập tức thanh toán ngay cho bên thụ hưởng. Ngân hàng phải hành động một cách trung thực và khách quan, không làm chỗ dựa cho khách hàng của mình để từ chối thanh toán vì nếu như vậy sẽ làm giảm uy tín của chính Ngân hàng.
1.1.3 - Vai trò và chức năng của bảo lãnh Ngân hàng
1.1.3.1- Chức năng của bảo lãnh Ngân hàng .
Chức năng bảo đảm.
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Mục đích của bảo lãnh là cung cấp cho người thụ hưởng một khoản bồi hoàn tài chính cho những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Nhưng khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi thường của Ngân hàng là rất nhỏ. Theo thống kê của các nhà Ngân hàng Mỹ thì chỉ 1% trên tổng số bảo lãnh phát hành tại nước này bị người thụ hưởng yêu cầu thanh toán. Ngoài ra bảo lãnh còn sử dụng cho các thoả thuận phi mua bán như dự thầu, thực hiện hợp đồng… Do vậy bảo lãnh không phải là công cụ thanh toán mà là công cụ bảo đảm.
Chức năng tài trợ.
Đa số các hợp đồng thi công và mua bán lớn đòi hỏi phải dùng tới những khoản vốn lớn trong thời gian khá dài. Người thi công có thể phải yêu cầu từ người chủ công trình một khoản tiền ứng trước. Hoặc trong cuộc đấu thầu, chủ thầu có thể yêu cầu người dự thầu một khoản tiền đặt coc tham gia đấu thầu. Ngân hàng phát hành bảo lãnh như một công cụ tài trợ làm cho chủ thầu được đảm bảm sẽ ứng trước tiền cho nhà thầu và khi dự thầu, nhà thầu thay việc đặt cọc một khoản tiền bằng việc thực hiện bảo lãnh của Ngân hàng. Xét về mặt này bảo lãnh Ngân hàng mang chức năng tài trợ, các điều kiện được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh và đây chính là điều kiện ràng buộc giữa các bên.
Chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng.
Bảo lãnh cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu Ngân hàng thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, đồng thời Ngân hàng cũng có quyền thu hồi lại từ phía khách hàng của mình. Ngân hàng luôn bị một áp lực bồi hoàn bảo lãnh, do vậy lúc này bảo lãnh có vai trò đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hoàn tất hợp đồng đã ký kết. Tuy bên nhận bảo lãnh sẽ được nhận một khoản bồi thường tài chính từ bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng, song điều đó là điều bất đắc dĩ, sự mong muốn của họ là được thực hiện trọn vẹn hợp đồng. Như vậy, bảo lãnh mang ý nghĩa ràng buộc, đốc thúc người được bảo lãnh phải thực hiện hợp đồng hơn là bồi hoàn.
Ví dụ: Trong bảo lãnh dự thầu, chủ thầu yêu cầu người thầu phải có sự bảo lãnh của Ngân hàng nhằm đảm bảo đơn vị thầu sẽ không rút bỏ giữa chừng hợp đồng khi họ đã trúng thầu. Họ không mong đợi gì về khoản bồi hoàn do việc vi phạm của đối tác bởi lúc này họ phải tốn nhiều thời gian và chi phí để tìm đối tác khác vv…
Như vậy, ba chức năng trên của bảo lãnh cho ta thấy rõ tác dụng của bảo lãnh và khi đi nghiên cứu chúng ta có thể phát huy đầy đủ các tác dụng đó, giúp cho việc vận dụng bảo lãnh có hiệu quả hơn.
1.1.3.2 - Vai trò của bảo lãnh.
Đối với Ngân hàng .
Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, NHTM vừa mở rộng được hoạt động của Ngân hàng, qua đó thu phí bảo lãnh, vừa nâng cao được uy tín của Ngân hàng trong nước cũng như trên trường quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực huy động vốn và tham gia thanh toán quốc tế.
Phí bảo lãnh = Tỷ lệ phí (%)*giá trị bảo lãnh*thời gian bảo lãnh
Thực vậy, nghiệp vụ bảo lãnh đem lại một nguồn thu đáng kể cho Ngân hàng, đó là phí bảo lãnh. Hiện nay NHNN Việt nam quy định mức phí bảo lãnh không vượt quá 2%/năm trên giá trị hợp đồng bảo lãnh. Nếu mức phí bảo lãnh tính theo tỷ lệ này thấp hơn ba trăm ngàn thì Ngân hàng thu phí tối thiểu là ba trăm ngàn đồng. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần phải có một khoản ký quỹ nhất định do Ngân hàng yêu cầu (ít nhất là 5% giá trị món bảo lãnh). Đây là nguồn vốn kinh doanh rẻ của Ngân hàng vì số tiền ký quỹ bảo lãnh cũng được hạch toán phí bằng mức tiền gửi trên tài khoản vãng lai (hiện nay là 0,2%/tháng). Khoản phí và số tiền ký quỹ này còn có tác dụng hỗ trợ nghiệp vụ thanh toán góp phần đảm bảo tính thanh khoản cho Ngân hàng .
Đối với doanh nghiệp.
Với doanh nghiệp, bảo lãnh Ngân hàng giúp cho việc đáp ứng kịp thời các yêu cầu về vốn, đảm bảo sự lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cụ thể là, với bên được bảo lãnh, Ngân hàng tạo điều kiện cho bên được bảo lãnh có đủ phương tiện và khả năng thực hiện hợp đồng nhưng lại chưa có được uy tín đối với các bên đối tác có thể tham gia đấu thầu, tham gia giao dịch và ký kết hợp đồng.
Với bên thụ hưởng bảo lãnh, có thể tiết kiệm được thời gian tìm hiểu đối tác, tạo cơ hội kinh doanh hiệu quả, lựa chọn được đối tác tốt nhất, đồng thời yên tâm khi ký kết, thực hiện hợp đồng hạn chế được rủi ro trong giao dịch và bù đắp thiệt hại trong thời gian ngắn nhất.
Trong bảo lãnh, Ngân hàng chỉ đứng ra bảo đảm việc thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp, mọi nghĩa vụ tài chính doanh nghiệp phải trả cho Ngân hàng. Thêm vào đó doanh nghiệp còn phải trả cho Ngân hàng một khoản phí bảo lãnh. Do vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến việc sử dụng khoản vốn vay có hiệu quả nhất, tạo được lợi nhuận lớn nhất. Do vậy, bảo lãnh góp phần thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh, có trách nhiệm hoàn thành hợp đồng đúng qui định, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh lãnh phí trong kinh doanh là cơ sở để nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, bảo lãnh đáp ứng nhu cầu về vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Với các nước có nền kinh tế đang phát triển và chưa phát triển, nhu cầu về vốn ngắn, trung, dài hạn rất lớn. Bảo lãnh Ngân hàng sẽ giúp các doanh nghiệp tìm được các nguồn vốn ổn định với chi phí thấp ở trong, ngoài nước từ đó sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trang bị những dây chuyền công nghệ máy móc thiết bị hiện đại, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm, đủ tiềm năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo công ăn việc làm cho xã hội, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ hai, bảo lãnh Ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn, các khu vực kinh tế trọng điểm phát triển là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển đáp ứng được yêu cầu của chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Thông qua chính sách bảo lãnh cùng với các ưu đãi về điều kiện và tỷ lệ phí bảo lãnh Ngân hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp có đủ điều kiện và khả năng vay vốn để phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng và chiều sâu, bảo đảm cho doanh nghiệp có thể tham gia vào các hợp đồng có giá trị lớn qua đó khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ ba, bảo lãnh Ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế luôn chứa đựng các rủi ro. Ngoài các rủi ro thông thường của hoạt động thương mại trong nước, trong quan hệ hợp tác kinh doanh cũng như hợp đồng xuất khẩu giữa các quốc gia, các doanh nghiệp khác trên thế giới còn có những rủi ro do sự bất đồng về luật pháp, sự thiếu hiểu biết về khả năng hoạt động, mức độ tin cậy giữa doanh nghiệp với các đối tác. Điều đó khiến doanh nghiệp thường không quyết đoán trong việc ký hợp đồng làm trì hoãn việc kinh doanh, cản trở sự phát triển thương mại quốc tế.
Bảo lãnh Ngân hàng sẽ giúp các bên giải tỏa các bế tắc đó để họ có thể yên tâm khi ký kết, thực hiện hợp đồng góp phần hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa các bên, tạo được uy tín với nhau trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, bảo lãnh Ngân hàng còn thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế thông qua các quan hệ hàng - tiền, góp phần tăng tổng sản phẩm quốc dân, ổn định chính trị, xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
1.2. Nội dung của nghiệp vụ bảo lãnh
1.2.1 Các loại bảo lãnh Ngân hàng
Ngày nay trên thế giới áp dụng rất nhiều loại hình bảo lãnh khác nhau. Căn cứ vào các tiêu chí bảo lãnh có thể phân bảo lãnh Ngân hàng thành các loại bảo lãnh sau:
1.2.1.1 Theo mục đích của bảo lãnh
Theo cách phân loại này ng ười ta đã chia bảo lãnh thành các loại sau:
Bảo lãnh dự thầu (Tender guarantee)
“ Bảo lãnh dự thầu” là cam kết của Ngân hàng với chủ thầu về việc Ngân hàng sẽ trả tiền thay trong phạm vi thời hạn và số tiền bảo lãnh nếu bên dự thầu vi phạm quy chế dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ số tiền phạt cho bên chủ thầu.
Bảo lãnh dự thầu thường có 2 loại:
- Bảo lãnh dự thầu xây lắp.
- Bảo lãnh dự thầu cung ứng máy móc thiết bị
Thông thường, đối với những hợp đồng lớn, đặc biệt là những hợp đồng xây dựng, thiết kế hay cung cấp thiết bị thì người chủ công trình thường lựa chọn đối tác thông qua hình thức đấu thầu. Việc đấu thầu bao gồm các bước sau: Gọi thầu, mở thầu và tuyên bố trúng thầu. Trong bộ hồ sơ mời thầu, chủ thầu thường qui định nhà thầu phải nộp một thư bảo lãnh dự thầu với giá trị từ 1% - 3% tổng giá trị ước tính giá bỏ thầu, nhằm xác minh khả năng của người dự thầu trong việc tham gia đấu thầu là nghiêm túc và người tham gia đấu thầu sẽ ký hợp đồng khi họ trúng thầu. Trong trường hợp trúng thầu, các hình thức bảo lãnh cho các công việc tiếp theo như: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh chất lượng công trình… sẽ được sẵn sàng.
Nếu như Ngân hàng đồng ý bảo lãnh, họ sẽ phát hành một thư bảo lãnh dự thầu. Khi xem xét cấp thư bảo lãnh, Ngân hàng phải đánh giá chính xác khả năng về tài chính, kỹ thuật và năng lực thực hiện cam kết với chủ đầu tư của nhà thầu để đảm bảo chỉ có các nhà thầu có uy tín năng lực về chuyên môn và kỹ thuật mới tham gia dự thầu, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư trong việc xem xét đánh giá các đơn vị thầu.
Chủ đầu tư có quyền đòi tiền Ngân hàng theo thư bảo lãnh nếu nhà thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Số tiền và thời hạn bảo lãnh được ghi trong thư phải khớp với đề nghị của bên yêu cầu bảo lãnh nhưng không trái với quy chế đấu thầu. Theo bản tính tự nhiên thì bảo lãnh dự thầu sẽ không có hiệu lực thanh toán khi người được bảo lãnh (tức người tham gia đấu thầu) không trúng thầu. Như vậy thư bảo lãnh sẽ tự động hết hiệu lực khi các bên tham gia dự thầu không trúng thầu. Đôi khi trong thư bảo lãnh dự thầu còn quy định rằng chủ thầu phải trả lại thư bảo lãnh cho nhà thầu khi họ không trúng thầu.
Điều kiện để chủ thầu đòi tiền thư bảo lãnh dự thầu:
- Nhà thầu rút hồ sơ dự thầu trong thời gian còn hiệu lực nêu trong đơn dự thầu.
- Sau khi được chủ đầu tư thông báo trúng thầu, trong thời gian còn hiệu lực của đơn dự thầu mà nhà thầu không ký hợp đồng khi được chủ đầu tư yêu cầu hoặc không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo đúng phần chỉ dẫn cho nhà thầu.
Việc trả tiền theo thư bảo lãnh được coi như là sự đền bù cho chủ đầu tư về thời gian và chi phí để xem xét đánh giá lại hồ sơ dự thầu của các nhà thầu khác. Tiền bảo lãnh dự thầu sẽ được trả lại cho những nhà thầu không đạt kết quả sau khi công bố kết quả trúng thầu không quá 30 ngày kể từ ngày công bố hoặc được trả lại cho ngươì trúng thầu sau khi đã nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance guarantee)
“ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng” là cam kết của Ngân hàng bảo lãnh về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ hợp đồng mà không nộp tiền phạt hoặc nộp không đủ thì Ngân hàng bảo lãnh phải có trách nhiệm trả thay cho khách hàng của mình (bên được bảo lãnh).
Đây là loại bảo lãnh được sử dụng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hoá hoặc dự thầu xây dựng. Nó cung cấp một bảo đảm cho người thụ hưởng bảo lãnh về việc thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh.
Giá trị của bảo lãnh tuỳ theo giá trị của hợp đồng và tuỳ theo tính chất của mỗi thương vụ. Tuy nhiên, giá trị của bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường từ 5% - 15% giá trị hợp đồng cơ sở. Trường hợp đặc biệt trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp số tiền có thể lớn hơn 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ hợp đồng nhưng thời hạn trong thư bảo lãnh được kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng.
Loại bảo lãnh này thông thường được phát hành kèm theo với các phương thức thanh toán khác (như thanh toán thư tín dụng, hoàn trả tiền ứng trước...) để bổ sung hỗ trợ cho nhau. Nếu người thụ hưởng là bên bán (hoặc nhà thầu) thì bảo lãnh sẽ bù đắp được rủi ro khi hàng hoá đã đặt hoặc sản xuất xong, công trình đã khởi công...mà bên đối tác vì một lý do nào đó lại không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo lãnh.
Nếu người thụ hưởng là bên mua (hoặc chủ đầu tư) thì bảo lãnh này sẽ bù đắp một phần rủi ro khi người bán không có khả năng sản xuất hay cung cấp hàng hoá hoặc khi nhà thầu phá vỡ hợp đồng. Số tiền bồi thường này sẽ giúp người thụ hưởng bù đắp những phí tổn do hợp đồng bị bỏ dở và tìm đối tác khác.
Các loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc thiết bị.
Bảo lãnh tiền ứng trước (Advance payment guarantee)
“Bảo lãnh tiền ứng trước” là cam kết của Ngân hàng về việc sử dụng tiền ứng trước của nhà thầu, người nhập khẩu với chủ thầu. Ngân hàng sẽ đứng ra trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng.
Trong đa số các hợp đồng lớn, chẳng hạn xuất nhập khẩu hàng hoá, thầu xây dựng…, người bán (hoặc nhà thầu) thường được người mua (hoặc chủ đầu tư) ứng trước từ 5% - 15% giá trị hợp đồng như là một khoản hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện hợp đồng của họ. Đổi lại, người bán ( hoặc nhà thầu) phải nộp thư bảo lãnh tiền ứng trước để đảm bảo việc hoàn trả lại tiền ứng trước trong trường hợp người bán (nhà thầu) không thực hiện đúng hợp đồng cơ sở như không giao hàng, giao hàng không đủ, có hành vi vi phạm hợp đồng mà không hoàn trả tiền ứng trước. Thư bảo lãnh tiền ứng trước có giá trị bằng 5% - 15% giá trị hợp đồng. Thư bảo lãnh tiền ứng trước cũng tuân theo quy tắc cơ bản của thư bảo lãnh độc lập, đó là việc Ngân hàng chỉ trả tiền một khi các điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh được đáp ứng. Trong khi đó, các thư bảo lãnh tiền ứng trước thường không đưa ra điều kiện gì khác ngoài việc yêu cầu người thụ hưởng xuất trình yêu cầu đòi thanh toán.
Mục đích của thư bảo lãnh này nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng, đồng thời đảm bảo cho người bán (hoặc chủ đầu tư) nhận lại khoản tiền ứng trước khi hợp đồng cơ sở bị vi phạm hoặc bị huỷ bỏ.
Số tiền bảo lãnh có giá trị bằng toàn bộ số tiền ứng trước (5% - 15% giá trị hợp đồng). Thư bảo lãnh tiền ứng trước thường có điều khoản khấu trừ. Điều khoản này quy định việc giảm dần số tiền của thư bảo lãnh khi có bằng chứng
về việc đã hoàn thành từng phần việc của hợp đồng cơ sở (giao một phần hàng, hoàn thành một số hạng mục công trình).
Bảo lãnh tiền ứng trước chỉ có hiệu lực khi bên được bảo lãnh đã nhận được tiền ứng trước, bởi vì nếu bảo lãnh có hiệu lực ngay lúc phát hành và bên được bảo lãnh chưa nhận được tiền ứng trước thì có khả năng người thụ hưởng sẽ đòi thanh toán bảo lãnh trong khi họ chưa ứng tiền cho bên được bảo lãnh. Thư bảo lãnh sẽ tự động hết hiệu lực khi hợp đồng cơ sở đã được hoàn tất.
Bảo lãnh tiền ứng trước có 2 loại sau:
- Bảo lãnh tiền ứng trước thi công công trình.
- Bảo lãnh tiền ứng trước sản xuất máy móc, thiết bị, hàng hoá.
Bảo lãnh bảo hành (maintainance guarantee)
“Bảo lãnh bảo hành” là loại bảo lãnh Ngân hàng cam kết với chủ thầu, nhà nhập khẩu trong trường hợp nhà thầu, nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm mà không bồi thường hoặc bồi thường không đủ thì Ngân hàng sẽ phải trả thay trong phạm vi và thời hạn bảo lãnh.
Mục đích của bảo lãnh bảo hành là bảo đảm cho chất lượng sản phẩm trong suốt thời hạn bảo hành của thiết bị. Nó thường được áp dụng trong nhập khẩu thiết bị hay lắp ráp v.v…Như vậy bảo lãnh này có thời hạn hiệu lực bắt đầu ngay từ lúc tiến hành lắp ráp, sử dụng cho đến hết thời hạn bảo lãnh của thiết bị cộng thêm khoảng thời gian hợp lý để người thụ hưởng lập thêm chứng từ yêu cầu thanh toán.
Trong suốt thời gian bảo hành, nếu có bất cứ sự cố gì xảy ra trong phạm vi bảo lãnh của sản phẩm thì người thụ hưởng có quyền lập chứng từ yêu cầu thanh toán bảo lãnh như một khoản tiền bồi thường. Giá trị của thư bảo lãnh này thường rất thấp so với thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng, nó chỉ chiếm khoảng từ 2% - 5% giá tri hợp đồng.
Bảo lãnh chất lượng sản phẩm gồm có 2 loại:
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình.
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng máy móc, thiết bị, hàng hoá.
Bảo lãnh thanh toán (payment guarantee).
“Bảo lãnh thanh toán” là loại bảo lãnh mà trong đó Ngân hàng bảo lãnh cam kết với người thụ hưởng thư bảo lãnh (thường là người bán hoặc nhà thầu) về việc thanh toán tiền theo đúng hợp đồng cơ sở của người được bảo lãnh (thường là người mua hoặc chủ đầu tư). Trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ số tiền theo hợp đồng cơ sở thì Ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người được bảo lãnh.
Bảo lãnh thanh toán nhằm mục đích tránh tổn thất cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền theo đúng hợp đồng.
Số tiền bảo lãnh và thời hạn bảo lãnh là số tiền và thời hạn được hai bên đối tác quy định trong hợp đồng cơ sở. Thông thường số tiền bảo lãnh bằng 100% giá trị hợp đồng cơ sở, còn thời hạn thường do các bên thoả thuận.
Các loại bảo lãnh thanh toán:
- Bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình.
- Bảo lãnh thanh toán tiền đặt cọc máy móc thiết bị.
Bảo lãnh hoàn trả vốn vay (repayment guaranee).
“Bảo lãnh hoàn trả vốn vay của Ngân hàng” là cam kết của Ngân hàng về việc sẽ trả nợ vay (gốc + lãi) nếu bên đi vay không trả đủ hoặc đúng hạn vay của bên cho vay.
Việc bảo lãnh thường xuất hiện trong quan hệ vay vốn, các Ngân hàng thường nhận bảo lãnh cho các bên đi vay trong các trường hợp sau:
- Bảo lãnh mua hàng trả chậm.
- Uỷ thác xuất nhập khẩu.
- Vay vốn của một Ngân hàng khác ngoài hệ thống
- Nhận hàng gia công, nhận hàng thanh lý
1.2.1.2 Theo bản chất của bảo lãnh.
Theo tiêu thức này người ta chia bảo lãnh thành 2 loại:
Bảo lãnh kèm chứng từ hay bảo lãnh có điều kiện (conditional guarantee or Accessory guarantee).
Là loại bảo lãnh mà khi yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh trả tiền thì người thụ hưởng phải xuất trình kèm theo một số chứng từ hoặc chứng nhận của một bên thứ ba phát hành xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh. Chứng từ của một bên thứ ba có thể là một chứng nhận thẩm định của một công ty kiểm định độc lập, một phán quyết của toà án...
Đặc điểm nổi bật của loại bảo lãnh này là người hưởng nếu muốn được trả tiền (bồi thường thiệt hại) phát hành phải xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của toà án chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của đối tác. Do những điều kiện xác lập chứng cứ như vậy nên bảo lãnh có điều kiện về bản chất rất tương đồng với nghiệp vụ bảo hiểm. Theo đó người được bảo hiểm (the insured) phát hành phải xuất trình các chứng cứ chứng minh sự tổn thất mới được bồi thường. Mặc dù các điều kiện này không làm vừa lòng đối với người hưởng do việc bồi thường không được thực hiện ngay (on demand) mà phát hành phải qua các thủ tục phát hành pháp lý khác, nhưng p._.hía được bảo lãnh và ng ười phát hành lại hài lòng vì nó đảm bảo tính khách quan, nhưng quan trọng và có ý nghĩa hơn là ngăn ngừa tối đa sự gian lận, lừa đảo của phía nhận bảo lãnh, điều này có thể xảy ra và đã xảy ra rất nhiều trên thế giới và ngay tại Việt Nam. Nhưng cũng do tính chất kém linh hoạt này nên loại bảo lãnh này không được sử dụng phổ biến, đặc biệt là trong thanh toán quốc tế.
Bảo lãnh theo yêu cầu hay bảo lãnh vô điều kiện (unconditional guarantee).
Là loại bảo lãnh mà việc thanh toán sẽ được thực hiện ngay khi Ngân hàng bảo lãnh nhận được yêu cầu đầu tiên bằng văn bản của người thụ hưởng và xem đây như là một mệnh lệnh thanh toán đơn giản, không đòi hỏi phải có một chứng từ nào kèm theo.
Đây là dạng bảo lãnh có tính chất độc lập với các giao dịch khác, kể cả hợp đồng mà theo đó bảo lãnh được phát hành, do vậy nó được gọi theo thuật ngữ chung là independent guarantee. Người phát hành bảo lãnh phải được thực hiện nghĩa vụ của mình ghi trong bảo lãnh ngay khi nhận được yêu cầu (first demand on demand). Người thụ hưởng không cần đưa ra những chứng cứ mô tả mức độ thiệt hại của mình do việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Văn bản yêu cầu thanh toán chỉ là một tuyên bố đơn phương của người thụ hưởng mà không cần có sự xác nhận gì từ phía người được bảo lãnh hay của một bên thứ ba nào.
Loại bảo lãnh này được sử dụng rất phổ biến, nhất là trong thanh toán quốc tế vì sự thuận tiện, lợi thế cho phía ng ười thụ hưởng và phù hợp với tập quán, thông lệ giao dịch của NHTM trên thế giới. Nó bảo đảm an toàn cho người thụ hưởng, tiết kiệm cả về mặt thời gian và chi phí, đồng thời bảo đảm tính độc lập cao nhất cho hoạt động bảo lãnh. Tuy nhiên mặt trái của nó là do việc đòi bồi thường mang tính chủ quan nên có thể xảy ra gian lận, thậm chí lừa đảo nếu người hưởng là đối tác không trung thực. Trong tuyệt đại đa số các trường hợp, Ngân hàng luôn là người phát hành bảo lãnh theo yêu cầu.
1.2.1.3 Theo phương thức phát hành.
Phân loại theo tiêu thức này, bảo lãnh được chia làm các loại sau:
Bảo lãnh trực tiếp (direct guarantee)
“Bảo lãnh trực tiếp” là loại bảo lãnh mà trong đó Ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm bảo lãnh trực tiếp cho bên được bảo lãnh (account party). Người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho Ngân hàng bảo lãnh.
Quá trình thực hiện bảo lãnh trực tiếp diễn ra theo sơ đồ sau:
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng thông báo
Người được bảo lãnh
Người thụ hưởng
(2)
(4)
(1)
(3)
(4)
Cơ sở phát hành một thư bảo lãnh là mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng có thể là một hợp đồng đã được kí chính thức giữa hai bên hoặc có thể một quan hệ trong giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng (như trường hợp bảo lãnh dự thầu). Mối quan hệ này thường được gọi là hợp đồng cơ sở.
Trong hợp đồng cơ sở, các bên thường thỏa thuận một điều khoản theo đó một trong các bên phải có một thư bảo lãnh Ngân hàng cho bên kia thụ hưởng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Sự thoả thuận phải rõ ràng, chi tiết, chính xác về các điều khoản, điều kiện kể cả về câu chữ của thư bảo lãnh. Việc này thể hiện qua bước (1) trên sơ đồ.
Bước (2) thể hiện quan hệ giữa Ngân hàng phát hành và người được bảo lãnh. Người được bảo lãnh chỉ dẫn cho Ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh với các điều khoản và điều kiện như đã thoả thuận với người thụ hưởng. Trong trường hợp Ngân hàng đã phải thanh toán bảo lãnh theo các điều khoản và điều kiện của thư bảo lãnh thì sau đó người được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn lại cho Ngân hàng. Mối quan hệ này được gọi là sự uỷ nhiệm.
Bảo lãnh trực tiếp thường được Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh phát hành. Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng và sẽ thanh toán bảo lãnh cho họ khi các điều khoản và điều kiện của thư bảo lãnh được thoả mãn. Quan hệ này thể hiện ở bước (3) trên sơ đồ.
Đối với người thụ hưởng là người nước ngoài, Ngân hàng phát hành sẽ thông qua quan hệ đại lí của mình yêu cầu một Ngân hàng đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng giữ vai trò Ngân hàng thông báo. Ngân hàng thông báo có nhiệm vụ chuyển thư bảo lãnh và thông báo nội dung các giao dịch cho người thụ hưởng. Quan hệ này thể hiện qua bước (4) trên sơ đồ.
Bảo lãnh gián tiếp (indirect guarantee)
“Bảo lãnh gián tiếp” là loại bảo lãnh mà trong đó Ngân hàng bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh theo chỉ thị của một Ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng (counter guarantee). Người được bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho Ngân hàng phát hành mà chính Ngân hàng chỉ dẫn (instructing bank) chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Trong các hoạt động giao dịch quốc tế, người thụ hưởng thường mong muốn thư bảo lãnh được một Ngân hàng có trụ sở chính tại nước mình phát hành. Vì như vậy sẽ giúp cho người thụ hưởng có những thuận lợi trong việc giao dịch hoặc đòi tiền sau này.
Trong trường hợp này, người được bảo lãnh yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình chỉ dẫn cho một Ngân hàng đại lý có trụ sở tại nước người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh. Quan hệ giữa người được bảo lãnh và Ngân hàng phục vụ mình (hay còn gọi là Ngân hàng chỉ dẫn) là quan hệ hợp đồng bảo lãnh thông thường. Khi chỉ dẫn cho Ngân hàng đại lý phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng thì Ngân hàng chỉ dẫn cũng phải xem xét phát hành một bảo lãnh đối ứng, đây là cam kết của Ngân hàng chỉ dẫn thanh toán cho Ngân hàng đại lý (là người thụ hưởng của bảo lãnh đối ứng) khi Ngân hàng này thực hiện đúng các điều khoản được qui định trong bảo lãnh đối ứng.
Ngân hàng đại lý, sau khi nhận được bảo lãnh đối ứng từ Ngân hàng chỉ dẫn và nội dung đề nghị, sẽ phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Quan hệ giữa Ngân hàng chỉ dẫn và Ngân hàng đại lý là quan hệ hợp đồng bảo lãnh thông thường giữa người được bảo lãnh và Ngân hàng phát hành. Điều này có nghĩa là khi Ngân hàng đại lý đã thanh toán bảo lãnh cho người thụ hưởng thì Ngân hàng chỉ dẫn cũng phải bồi hoàn lại cho Ngân hàng này nhưng thông qua việc thanh toán bảo lãnh đối ứng. Sau khi đã thanh toán bảo lãnh đối ứng, Ngân hàng chỉ dẫn sẽ đòi hoàn từ người được bảo lãnh.
Thời hạn và số tiền của thư bảo lãnh chính là thời hạn và số tiền theo thoả thuận trên hợp đồng cơ sở. Thời hạn của bảo lãnh đối ứng là thời hạn mà Ngân hàng phát hành xuất trình yêu cầu thanh toán đến Ngân hàng chỉ dẫn. Thông thường thời hạn này dài hơn thời hạn của bảo lãnh chính từ 3 - 30 ngày nhằm cho phép Ngân hàng phát hành có thời gian để lập yêu cầu thanh toán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ bồi hoàn theo thư bảo lãnh chính. Số tiền trên bảo lãnh đối ứng cũng tương ứng với số tiền trên bảo lãnh chính.
Vai trò của Ngân hàng thông báo trong loại hình bảo lãnh này hoàn toàn tương tự như trong bảo lãnh trực tiếp, nghĩa là nó chỉ hành động như một đại lý của Ngân hàng phát hành.
Đồng bảo lãnh (syndicated guarantee)
Đối với những hợp đồng có giá trị lớn, khả năng rủi ro cao, một Ngân hàng riêng lẻ không có khả năng thực hiện hay vì những quy định hạn chế và phân tán rủi ro của Chính phủ một nước mà một Ngân hàng riêng lẻ không thể đứng ra phát hành bảo lãnh được. Trong trường hợp đó, Ngân hàng vẫn có thể thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh thông qua việc tham gia vào nghiệp vụ đồng bảo lãnh.
Cơ chế này được thể hiện qua sơ đồ sau:
Ngân hàng 1
NH thông báo
(Advising bank)
Ngân hàng 2
NH phát hành
(issuing bank)
Ngân hàng n
Người được bảo lãnh
(account party)
Người thụ hưởng
(Beneficiary)
(1)
(3)
(3)
(2)
(4)
(4)
Các bước (1), (2), (3) được thực hiện tuần tự như trong bảo lãnh trực tiếp. Tuy nhiên, trong nghiệp vụ đồng bảo lãnh, khi có một yêu cầu phát hành thư bảo lãnh của người được bảo lãnh thì một Ngân hàng sẽ kêu gọi sự tham gia bảo lãnh của các Ngân hàng khác. Nhóm các Ngân hàng này sẽ chọn ra một Ngân hàng bảo lãnh chính để đứng ra phát hành bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ thế chấp cầm cố, thu phí bảo lãnh từ người được bảo lãnh và sau đó sẽ phân chia lại cho các Ngân hàng thành viên theo một tỷ lệ nhất định. Các Ngân hàng này sẽ cam kết chịu trách nhiệm theo từng phần đóng góp của mình thông qua các bảo lãnh đối ứng. Khi Ngân hàng bảo lãnh chính đã thanh toán cho người thụ hưởng thì sẽ có quyền truy đòi các Ngân hàng thành viên đồng bảo lãnh số tiền mà họ đã cam kết bằng bảo lãnh đối ứng.
Loại hình bảo lãnh này thường được sử dụng đối với những dự án liên doanh và việc thi công những công trình đòi hỏi nhiều công ty tham gia thi công.
1.2.1.4 – Các loại bảo lãnh khác.
Thư tín dụng dự phòng.
Thư tín dụng dự phòng thường được sử dụng với mục đích tương tự như bảo lãnh thanh toán nhằm đảm bảo an toàn thanh toán trong trường hợp bên được bảo lãnh có thể không thực hiện hợp đồng cam kết.
Loại thư tín dụng dự phòng thường được sử dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế. Người nhập khẩu thường phải cung cấp tín dụng cho người xuất khẩu dưới dạng tiền đặt cọc, ký quỹ, ứng trước, mở L/C… Các khoản này chiếm tới 10-15% tổng giá trị đơn đặt hàng. Vì vậy cần phải có bảo lãnh bảo đảm trả lại số tiền đó nếu bên xuất khẩu không thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng.
Thư tín dụng dự phòng được áp dụng trong những trường hợp sau:
- Mua bán máy móc và thiết bị toàn bộ.
- Mua bán nguyên vật liệu với khối lượng lớn, thời hạn dài.
- Mua bán đổi hàng, mua bán đối ứng, mua bán lại.
Bảo lãnh vận đơn.
Mục đích của bảo lãnh vận đơn nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng trước sự lợi dụng vận. Số tiền bảo lãnh từ 100-150% trị giá hàng hoá để có thể bù đắp những thiệt hại có thể phát sinh, thường cho tới khi chủ hàng có hàng mới.
Có hai loại bảo lãnh vận đơn:
- Bảo lãnh vận đơn người xuất khẩu là người đề nghị phát hành: trong trường hợp này Ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bồi thường mọi thiệt hại có thể phát sinh đối với họ nếu vận đơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình không kịp thời.
- Bảo lãnh vận đơn người nhập khẩu là người đề nghị phát hành: Ngân hàng cam kết với người chủ vận tải sẽ bồi thường mọi khoản thiệt hại nếu hàng hoá được giao cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc, đến chậm hơn tàu hoặc chủ hàng vận tải được ủy nhiệm nhận hàng không có chứng từ để sử dụng.
Số tiền bảo lãnh có thể 100% - 150% thậm chí 200% giá trị hàng hoá nhằm bù đắp thiệt hại phát sinh cho bên thụ hưởng cho đến khi có hàng hoá mới thay thế.
Bảo lãnh thuế quan.
Mục đích của bảo lãnh này là đảm bảo cho người có trách nhiệm nộp thuế trước những đòi hỏi của cơ quan thuế quan do chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình, như trong trường hợp nhận hàng tạm thời để tham gia hội chợ, nhập máy móc công cụ để lắp ráp công trình xây dựng. Giá trị bảo lãnh do cơ quan thuế quan ấn định trong từng trường hợp cụ thể. Thời hạn bảo lãnh sẽ kết thúc khi hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế.
Bảo lãnh sai sót trong chứng từ nhờ thu.
Theo đề nghị của nhà xuất khẩu Ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bù đắp những thiệt hại phát sinh trong phương thức thanh toán nhờ thu do việc xuất trình chứng từ không phù hợp với những điều khoản của hợp đồng mua bán hoặc số lượng chứng từ thiếu không được gửi tiếp theo.
Bảo lãnh hối phiếu.
Đây là cam kết của Ngân hàng trả tiền cho bên thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn thanh toán mà bên được bảo lãnh không thực hiện đúng các trách nhiệm tài chính như đã quy định. Với hình thức bảo lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm theo chữ ký của đại diện bên đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng chịu trách nhiệm tương ứng với trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi Ngân hàng đã quy định trên hối phiếu.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Một công ty muốn phát hành chứng khoán của mình ra thị trường nhưng quá trình này có thể gặp khó khăn do uy tín của công ty chưa đủ để công chúng tín nhiệm hay mạng lưới cung ứng của nó còn yếu. Do vậy, công ty này sẽ yêu cầu một Ngân hàng lớn, có uy tín đứng ra bảo lãnh cho số cổ phiếu mà họ sẽ phát hành. Ngân hàng sẽ căn cứ vào mục đích của đợt phát hành cổ phiếu, khả năng tài chính, hiệu quả sử dụng vốn, loại hàng hoá dự định sản xuất, quan hệ của công ty với Ngân hàng để quyết định có bảo lãnh hay không. Khi cổ phiếu của công ty đã được Ngân hàng đứng ra bảo lãnh thì các nhà đầu tư trên thị trường sẽ yên tâm và dễ dàng chấp thuận mua cổ phiếu của công ty.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm.
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh Ngân hàng do Ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh đối ứng.
Bảo lãnh đối ứng là một bảo lãnh Ngân hàng do Ngân hàng (Bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (Bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của Ngân hàng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp, khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
1.2.2. Các yếu tố trong bảo lãnh Ngân hàng .
1.2.2.1. Các bên tham gia vào hoạt động bảo lãnh Ngân hàng .
- Người được bảo lãnh: Là người mà Ngân hàng chịu trách nhiệm thanh toán thay cho khi bên này vi phạm hợp đồng ký kết với bên nhận bảo lãnh. Bên được bảo lãnh là bên yêu cầu Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và có trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng đã trả thay khi vi phạm. Nó được quy định cụ thể tại Điều 4 công văn số 283/2000/QĐ-NHNN14
- Bên nhận bảo lãnh: Là người được hưởng bồi thường theo các điều khoản quy định trong thư bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh - Người bảo lãnh (Ngân hàng bảo lãnh) có nghĩa vụ thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình yêu cầu và các chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện của thư bảo lãnh.
- Bên bảo lãnh: Là các Ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng của mình bằng cách phát hành thư bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể chỉ là một Ngân hàng, song cũng có thể là nhiều Ngân hàng đứng ra cùng tham gia hoặc tái bảo lãnh.
1.2.2.2. Nôị dung thư và hợp đồng bảo lãnh của Ngân hàng .
Nội dung thư bảo lãnh:
Một thư bảo lãnh thường bao gồm những nội dung sau:
- Tên gọi bảo lãnh
- Số tham chiếu, ngày phát hành.
- Tên, địa chỉ người thụ hưởng.
- Tên, địa chỉ của Ngân hàng bảo lãnh.
- Đối tượng được bảo lãnh: hợp đồng cơ sở, ngày hợp đồng và các chi tiết có liên quan khác.
- Tên và địa chỉ người ủy nhiệm bảo lãnh.
- Cam kết của Ngân hàng bảo lãnh.
- Số tiền (giá trị) của bảo lãnh.
- Thời hạn của bảo lãnh: ngày giá trị, nơi và ngày hết hiệu lực của bảo lãnh.
- Những diễn đạt có tính đặc thù của bảo lãnh hoặc các điều khoản về thuế, phí.
- Thủ tục và chứng từ đòi tiền (điều kiện thanh toán).
- Yêu cầu hoàn trả bảo lãnh cho Ngân hàng phát hành.
- Luật / quy tắc áp dụng (nếu cần).
Việc sắp xếp các nội dung trên của bảo lãnh tuỳ thuộc vào biểu mẫu bảo lãnh của từng Ngân hàng, hoặc tập quán của từng quốc gia, từng khu vực trên thế giới, hay quy định quốc gia của Ngân hàng phát hành
Nội dung của hợp đồng bảo lãnh:
Một hợp đồng bảo lãnh thường có những nội dung sau:
- Tên, địa chỉ bên bảo lãnh (bên A)
- Tên, địa chỉ bên được bảo lãnh (bên B)
- Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh
- Mục đích, phạm vi, hình thức và đối tượng bảo lãnh
- Điều kiện thực hiện bảo lãnh (đối với bên B)
- Hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh
- Quyền và nghĩa vụ của bên A
- Quyền và nghĩa vụ của bên B
- Giải pháp tranh chấp phát sinh
- Hiệu lực của hợp đồng
1.2.2.3. Phí bảo lãnh.
Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho Ngân hàng do được hưởng dịch vụ này. Phí bảo lãnh phải đảm bảo bù đắp các chi phí bỏ ra của Ngân hàng có tính đến rủi ro mà Ngân hàng có thể phải gánh chịu. Nếu xét bảo lãnh dưới góc độ một sản phẩm dịch vụ thì phí bảo lãnh chính là giá cả của dịch vụ đó.
Phí bảo lãnh có thể được tính bằng số tuyệt đối hoặc trên cơ sở tỷ lệ phí. Phí bảo lãnh theo tỷ lệ phí được tính theo công thức:
Phí bảo lãnh = Số tiền bảo lãnh * Tỷ lệ phí * Thời gian bảo lãnh
Phí bảo lãnh được tính vào chi phí dịch vụ nói chung của Ngân hàng và đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận của Ngân hàng.
1.3. Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh Ngân hàng .
1.3.1. Đối với người thụ hưởng
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng, người thụ hưởng là người được bảo đảm quyền lợi nhiều nhất và bảo lãnh Ngân hàng là một biện pháp hạn chế rủi ro rất có hiệu quả. Tuy nhiên, người thụ hưởng vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro. Đó là:
- Rủi ro do quốc gia của Ngân hàng phát hành: Khi có sự thay đổi thể chế chính trị, luật pháp quốc gia, các quan hệ kinh tế đối ngoại, các chính sách và quy định của các quốc gia về bảo lãnh...có thể làm cho một thư bảo lãnh trở thành không có hiệu lực thanh toán mặc dù có sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
- Rủi ro bất khả kháng: Đó là các rủi ro xảy ra bởi một biến cố mà không thể nào dự đoán hay kiểm soát được như: đình công, chiến tranh, thiên tai...làm gián đoạn nghiệp vụ Ngân hàng và khi Ngân hàng hoạt động trở lại bình thường thì thư bảo lãnh đã hết hiệu lực thanh toán. Như vậy, người thụ hưởng sẽ không được thanh toán nếu không được người bảo lãnh đồng ý.
- Rủi ro do Ngân hàng phát hành: Xảy ra khi Ngân hàng phát hành không nắm vững các quy tắc thống nhất, các tập quán về thương mại và thanh toán quốc tế, không có quan hệ đại lí với các Ngân hàng lớn có uy tín...làm cho việc thanh toán bảo lãnh bị chậm trễ hoặc khi Ngân hàng mất khả năng thanh toán thì người thụ hưởng sẽ không nhận được khoản bồi thường.
- Rủi ro do bản thân người thụ hưởng không có đủ khả năng nắm bắt tính pháp lý của bảo lãnh đã chấp nhận một thư bảo lãnh mà các điều khoản hoặc không đầy đủ hoặc gây bất lợi cho họ.
1.3.2. Đối với người được bảo lãnh
Rủi ro phổ biến thường là do sự lừa đảo. Rủi ro lừa đảo xảy ra khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ giả để nhận thanh toán từ Ngân hàng và khi bị phát giác, người thụ hưởng lại mất khả năng bồi hoàn lại cho người được bảo lãnh, trong khi đó nếu Ngân hàng đã thanh toán bảo lãnh thì người được bảo lãnh phải có trách nhiệm hoàn lại cho Ngân hàng. Việc này xảy ra khi chứng từ giả được đưa đến Ngân hàng nhưng Ngân hàng không phát hiện ra hoặc phát hiện ra nhưng cố tình thanh toán do có thông đồng với người thụ hưởng (tất nhiên các chứng từ phải phù hợp với các điều khoản của thư bảo lãnh vì nếu không Ngân hàng sẽ không nhận được bồi hoàn từ người được bảo lãnh).
Ngoài ra rủi ro do những nguyên nhân bất khả kháng, việc thực hiện cam kết của người được bảo lãnh là không thể. Tuy vậy, người được bảo lãnh vẫn không được quyền từ chối bồi thường cho người thụ hưởng khi đã vi phạm hợp đồng.
1.3.3. Rủi ro đối với Ngân hàng phát hành bảo lãnh
Do người thụ hưởng gây ra: Rủi ro này xảy ra trong trường hợp bộ chứng từ giả được xuất trình mà Ngân hàng không phát hiện ra và đã thanh toán cho người thụ hưởng. Khi đó Ngân hàng sẽ không nhận được bồi hoàn từ người được bảo lãnh mà việc truy đòi người thụ hưởng đôi khi rất khó khăn và có thể không thực hiện được nếu người thụ hưởng đã mất khả năng thanh toán.
Do người được bảo lãnh gây ra: Ngân hàng bảo lãnh cho doanh nghiệp dựa trên tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba, giá trị thu hồi từ việc thực hiện dự án, công trình và đôi khi chỉ dựa trên uy tín của doanh nghiệp làm đảm bảo. Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp cầm cố thường là khó sát với giá trị thực tế của chúng. Do vậy, giá trị vật bảo đảm có thể nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền Ngân hàng nhận bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh vay vốn của nước ngoài, nhập máy móc thiết bị...Và khi Ngân hàng đã thanh toán bảo lãnh, người được bảo lãnh lại không có khả năng bồi hoàn lại cho Ngân hàng thì khi đó Ngân hàng đã gặp phải rủi ro mất vốn, vì lúc này việc phát mại tài sản thế chấp sẽ mất nhiều thời gian, chi phí và số tiền thu được thường không đủ bù đắp cho phần vốn bị mất hoặc khi dự án công trình không mang lại hiệu quả mong muốn mà người được bảo lãnh lại mất khả năng thanh toán.
Do bên thứ ba đứng ra bảo lãnh mất khả năng thanh toán: Việc khách hàng chậm bồi hoàn lại cho Ngân hàng tạo ra một số dư nợ quá hạn bảo lãnh đôi khi rất lớn, dẫn đến tình trạng vốn của Ngân hàng bị chiếm dụng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động Ngân hàng.
Ngoài ra, việc qui định biểu phí bảo lãnh không hợp lý cũng gây ra nhiều tổn thất cho Ngân hàng. Nếu quá cao sẽ làm mất đi những khách hàng có uy tín tốt vì họ sẽ tìm đến một Ngân hàng khác có mức phí thấp hơn. Còn nếu phí quá thấp thì có thể thu từ nghiệp vụ bảo lãnh sẽ không bù đắp chi phí cho nghiệp vụ, do vậy Ngân hàng sẽ bị thua lỗ.
1.4 - Kinh nghiệm ở một số nước về bảo lãnh Ng ân hàng .
1.4.1.Kinh nghiệm về bảo lãnh Ngân hàng của các nước ASEAN
Hệ thống Ngân hàng các nước ASEAN (không kể Việt Nam, Lào và Mianma) được coi là hệ thống Ngân hàng phát triển nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương, khu vực có nền kinh tế năng động nhất Thế giới. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các nước trong khối ASEAN vào khoảng từ 7-8%/năm. Đặc biệt, nền kinh tế của Malaysia và Singapore có tốc độ tăng trưởng từ 10-11%/năm. Hầu hết các nước thuộc khối ASEAN xây dựng Ngân hàng của mình theo mô hình của Mỹ. Điều này thật dễ hiểu vì rằng so với các nước khác trên thế giới, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là nước có hệ thống Ngân hàng phát triển nhất. ở các nước thuộc khối ASEAN, hoạt động của hệ thống Ngân hàng theo mô hình Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Trung ương và các NHTM. NHTM tại các nước ASEAN, giống như tại Hoa Kỳ hoạt động theo lối chuyên doanh chặt chẽ. Nghiệp vụ bảo lãnh được NHTM các nước ASEAN tiếp thu và thực hiện một cách có hiệu quả.
ở Singapore, đối với những thương vụ bảo lãnh có giá trị lớn, các Ngân hàng chỉ chấp thuận bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi có giấy đề nghị đứng ra bảo lãnh của Chính phủ. Đây là hình thức đảm bảo gần như chắc chắn Ngân hàng sẽ không phải hứng chịu rủi ro mất vốn nếu doanh nghiệp bảo lãnh không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Vì khi đó, Chính phủ là người bảo lãnh cho doanh nghiệp vay uy tín của Ngân hàng, cho dù Ngân hàng phải trả thay cho doanh nghiệp thì Ngân hàng cũng sẽ nhận được sự bồi thường của Chính phủ. Tuy vậy trường hợp này rất ít xảy ra ở Singapore.
ở Malaysia, đất nước có những Ngân hàng được xếp vào loại lớn nhất của Thế giới. Tại nước này, đạo luật Ngân hàng được quy định rất chặt chẽ, các NHTM phải ở mức nào đó mới được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Theo luật pháp quy định thì đó phải là Ngân hàng có uy tín trên thị trường tài chính – tiền tệ trong nước và quốc tế, vốn tự có phải lớn. Quy định trên đây nhằm mục đích tránh để Ngân hàng thực hiện tràn lan việc bảo lãnh cho các doanh nghiệp, hạn chế đến mức thấp nhất trường hợp Ngân hàng phải thực hiện bảo lãnh mà không đủ khả năng thanh toán cho bên thụ hưởng bảo lãnh gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Ngân hàng.
ở Inđônêxia là nước đông dân nhất trong khu vực ASEAN và đây cũng là nước có tổng thu nhập quốc dân lớn nhất so với các nước trong khu vực. Hệ thống Ngân hàng của Inđônêxia rất rộng bao gồm nhiều NHTM lớn nhỏ. Công nghệ Ngân hàng của Inđônêxia cũng thuộc loại tiên tiến trong vùng. Với nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM cho doanh nghiệp, luật pháp nước này quy định: doanh nghiệp muốn được Ngân hàng đứng ra bảo lãnh phải là doanh nghiệp lớn mạnh, có uy tín đối với khách hàng và bạn hàng. Việc Ngân hàng đứng ra bảo lãnh chỉ là giải quyết kịp thời khả năng thiếu vốn của doanh nghiệp trong thời gian nhắn hạn. Đạo luật Ngân hàng Inđônêxia chỉ rõ các NHTM không được phép bảo lãnh cho các doanh nghiệp có thời hạn bảo lãnh quá 5 năm. Việc bảo lãnh với thời hạn trên 5 năm phải do Chính phủ xem xét quyết định. Ngân hàng bảo lãnh cũng giống như nghiệp vụ cho vay, thời gian bảo lãnh càng dài hoặc thời gian cho vay càng dài thì rủi ro cho Ngân hàng càng lớn.
Hệ thống Ngân hàng Thái Lan có những Ngân hàng khá mạnh và làm ăn có hiệu quả như: Krung Thai Bank, Bangkok Bank, Thai Farmer Bank… So với các nước trong khu vực thì nghiệp vụ bảo lãnh được dùng muộn hơn. Tuy vậy nghiệp vụ này được các Ngân hàng Thái Lan thực hiện rất nghiêm ngặt và thu được nhiều kết quả to lớn. ở đây các Ngân hàng chỉ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp truyền thống của mình và họ rất am hiểu doanh nghiệp mà họ đứng ra bảo lãnh. Các Ngân hàng Thái Lan nói rằng họ làm như vậy là để tránh mức thấp nhất tình trạng “thả gà ra đuổi”. Điều đáng chú ý nữa là các Ngân hàng muốn tham gia bảo lãnh phải là những Ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường tài chính - tiền tệ trong nước cũng như quốc tế.
1.4.2. Kinh nghiệm về bảo lãnh Ngân hàng ở Trung Quốc.
Về mặt lịch sử Trung Quốc có nhiều điểm giống Việt Nam. Trung Quốc cũng là nước XHCN chuyển sang nền kinh tế thị trường trong thời gian gần đây (bắt đầu từ năm 1978). Do đó trong bước đi đầu vào nền kinh tế thị trường thì Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng có thể học tập được. Tuy nhiên Trung Quốc có nhiều điểm kinh tế xã hội khác với Việt Nam, vì vậy trong chiến lược phát triển kinh tế cũng khác. ở đây ta đề cập đến nghiệp vụ bảo lãnh trong lĩnh vực Ngân hàng để xem xét, sàng lọc kinh nghiệm để áp dụng.
Trước đây công cụ bảo lãnh của định chế tài chính ở Trung Quốc được áp dụng theo luật của nước ngoài. Tháng 3 năm 1987, Ngân hàng nhân dân Trung Hoa với vai trò là NHTW đã ban hành những quy chế bảo lãnh, cho phép các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân được tham gia bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho các doanh nghiệp theo luật Trung Quốc, bao gồm các thành phần hợp tác, kinh doanh và cổ phần.
Nghiệp vụ bảo lãnh có một số quy định sau:
- Người bảo lãnh trước khi nhận bảo lãnh phải nghiên cứu tính khả thi của dự án, điều tra tình hình công nợ hiện thời của người xin bảo lãnh, chuẩn bị mọi giấy tờ cần thiết.
- Người cho vay có quyền yêu cầu người bảo lãnh báo cáo thu nhập và chi tiêu ngoại hối của mình. Người bảo lãnh phải ký kết hợp đồng riêng với cả người vay và người cho vay trước khi bảo lãnh. Trong hợp đồng phải ghi rõ quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia.
Nếu người vay và người cho vay muốn sửa đổi điều gì trong hợp đồng bảo lãnh phải được sự đồng ý của người bảo lãnh, nếu không bảo lãnh sẽ mất giá trị. Trách nhiệm của người bảo lãnh sẽ huỷ bỏ ngay lập tức. Mặt khác, người bảo lãnh có quyền kiện người vay trong trường hợp không trả được nợ và nguồn vốn bảo lãnh bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người cho vay.
SAEC yêu cầu người bảo lãnh phải nộp các giấy tờ bảo lãnh có liên quan từng vụ việc trong vòng 10 ngày sau khi nhận bảo lãnh. Dựa trên số liệu bảo lãnh vay vốn nước ngoài, SAEC có thể nắm được vấn đề khi nào dùng ngoại tệ để trả nợ, trên cơ sở đó họ chú trọng nguồn ngoại tệ ở tầm vĩ mô. Việc quy định chỉ một số cơ quan Ngân hàng mới được quyền bảo lãnh và danh sách bảo lãnh này thay đổi thường kỳ chính là việc quản lý của Nhà nước đối với công tác vay vốn của doanh nghiệp với nước ngoài. Trên cơ sở đó tuỳ theo từng thời kỳ và các chính sách của Nhà nước, các Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ của mình về việc tăng cường hay thu hẹp bảo lãnh vay nợ.
Trung Quốc xác định việc đầu tư trong nước là đầu tư cho các doanh nghiệp của chính nước mình. Do vậy hệ thống Ngân hàng rất hạn chế đối với bảo lãnh vay vốn nước ngoài của các doanh nghiệp và phía nước ngoài trong liên doanh. Vì hạn chế như vậy nên họ yêu cầu thế chấp 100% tổng số vốn bảo lãnh.
Về các nghiệp vụ bảo lãnh khác, Ngân hàng Trung Quốc có quyền bảo lãnh dựa trên quy chế của Ngân hàng trung ương. Tất cả các Ngân hàng đều có thể thực thi được miễn là họ đảm bảo được các yêu cầu (những yêu cầu này gần giống ở Việt Nam). Quy chế bảo lãnh do từng Ngân hàng quy định cụ thể.
Chương 2.
Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại
Nhno&ptnt Nam Hà Nội.
2.1- Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới ảnh hưởng của khoa học công nghệ và toàn cầu hoá, các Ngân hàng không ngừng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và mở rộng thị trường mới trong và ngoài nước. Vì đa dạng hoá và mở rộng thị trường là điều kiện để hạn chế rủi ro và cung cấp cho khách hàng về hình ảnh một Ngân hàng toàn diện. Không ngoài quy luật này, NHNo&PTNTVN đã không ngừng nâng cao công nghệ và trình độ của các cán bộ, đồng thời mở rộng thị trường trên toàn quốc. Đến nay NHNo&PTNTVN đã trở thành Ngân hàng có mạng lưới chi nhánh dày đặc nhất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Gần đây, với tiềm năng và nhu cầu vay vốn rất cao trên địa bàn Nam Hà Nội, Ban lãnh đạo NHNo&PTNTVN đã quyết định thành lập thêm một chi nhánh nữa là NHNo&PTNT Nam Hà Nội theo quyết định 48/QĐ-HĐQT ngày 12/3/2001 và được chính thức khai trương đi vào hoạt động ngày 08 tháng 05 năm 2001 với đội ngũ cán bộ công nhân viên ban đầu là 36 người. Chi nhánh có trụ sở tại tòa nhà C3, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, phạm vi hoạt động chủ yếu là trên địa bàn quận Thanh Xuân và các quận nội thành Hà Nội.
Ngay từ khi mới ra đời, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã không ngừng hoàn thiện các chính sách kinh doanh, tích cực tìm hiểu nhu cầu thị trường và khách hàng, được NHNo&PTNTVN và các Ngân hàng bạn đánh giá là một chi nhánh hoạt động lớn và có hiệu quả cao.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn, trong bốn năm qua NHNo&PTNT Nam Hà Nội luôn đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động đầu tư tín dụng. Vượt qua khó khăn thách thức thuở ban đầu, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã đóng góp một phần lớn vào sự phát triển chung của toàn hệ thống NHNo&PTNTVN trong thời gian qua. Đến nay Ngân hàng đã có 3 chi nhánh cấp hai, 5 phòng giao dịch. Các đơn vị hoạt động có hiệu quả, nguồn vốn bình quân trên 500 tỷ/chi nhánh, trên 50 tỷ/ 1phòng giao dịch; dư nợ bình quân trên 100 tỷ/ chi nhánh và trên 30 tỷ/ 1 phòng giao dịch. Trong những năm tới, Ngân hàng tiếp tục đổi mới và phục vụ ngày càng tốt hơn cho ._.c được các quy định về bảo lãnh. Điều này đã gây không ít khó khăn cho Ngân hàng trong khi tiến hành bảo lãnh cho khách hàng.
Chương 3.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện
z
và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh
tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
3.1. Định hướng kế hoạch kinh doanh năm 2005 của NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
3.1.1- Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2005 của NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Căn cứ vào kết quả đạt được trong năm 2004 và tình hình thực tiễn, những xu hướng triển vọng trong năm tới, kế hoạch hoạt động kinh doanh của Chi nhánh dự kiến năm 2005 với những chỉ tiêu như sau:
- Tổng nguồn vốn đạt 4.100 tỷ đồng, tăng 30% so với 15/10/2004, tăng 23% so với năm trước.
+ Tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng: 40%
+ Tổng nguồn vốn ngoại tệ tăng tối thiểu: 30% so với năm trước
- Tổng dư nợ tăng 40% : đạt 1200 tỷ đồng (Không kể dư nợ cho vay chỉ định của Trung ương).
+ Dư nợ trung, dài hạn tối đa 45% tổng dư nợ
- Nợ quá hạn : dưới 0,5%.
- Thanh toán quốc tế tăng 40% doanh số hoạt động.
- Quỹ thu nhập tăng 10%, đạt 47 tỷ.
- Thu dịch vụ chiếm 16%/tổng thu nội bảng.
- Chênh lệch lãi suất: 0,4%.
- Tiền lương tối thiểu đạt hệ số bằng năm 2004
- Tổ chức, mạng lưới; mở thêm 2 PGD hoặc Chi nhánh cấp III. Tổ chức lại các phòng nghiệp vụ theo quy chế 454. Bổ sung đủ cán bộ chủ chốt.
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, ngoài những chính sách phát triển hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng còn phải tăng cường các hoạt động thu dịch vụ trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh. Việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ tạo cho Ngân hàng có một cơ cấu hoạt động đa dạng mà còn có ý nghĩa trong việc hoàn thành các chỉ tiêu như: huy động vốn, thanh toán quốc tế, quỹ thu nhập và chênh lệch lãi suất.
Thật vậy, việc tăng cường phát triển nghiệp vụ mang lại cho Ngân hàng rất nhiều thuận lợi. Trước hết là giúp Ngân hàng đa dạng hoá được cơ cấu sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nâng cao vị thế cạnh tranh. Bên cạnh đó còn giúp Ngân hàng tăng thêm phần thu phí dịch vụ – một phần thu nhập không thể thiếu đối với mô hình các Ngân hàng hiện đại. Từ đó tăng thêm quỹ thu nhập cho Ngân hàng. Mặt khác, số tiền ký quỹ thu được sẽ đóng góp vào tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng, đặc biệt là số vốn huy động với giá rẻ tăng lên, giúp cho công tác huy động vốn có lợi thế hơn từ đó đưa ra mức lãi suất cho vay thấp, giúp cho chỉ tiêu chênh lệch lãi suất được đảm bảo. Hoạt động bảo lãnh còn được coi là một trong những dịch vụ mang lại thu nhập cao cho Ngân hàng, hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trong nước phát triển và mở rộng các quan hệ ngoại thương.
Tóm lại, việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong Ngân hàng là việc không thể thiếu được đối với NHNo&PTNT Nam Hà Nội cũng như các Ngân hàng thương mại khác trong toàn hệ thống. Như vậy để đạt được những mục tiêu trên ta cần có những định hướng như thế nào để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.
3.1.2 - Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.
Với định hướng phát triển chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội thành một chi nhánh có chất lượng phục vụ tốt, có uy tín cả trong và ngoài nước thì phải không ngừng đổi mới, cải tiến chất lượng nghiệp vụ, củng cố những nghiệp vụ đã có và phát triển thêm một số loại hình nghiệp vụ mới. Cụ thể trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, để đáp ứng kịp thời yêu cầu bảo lãnh của nền kinh tế, nâng cao uy tín nhằm cạnh tranh được với các ngân hàng khác, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã đề ra những mục tiêu phấn đấu như sau:
- Đa dạng hoá thêm các loại hình bảo lãnh. Phát triển thêm một số loại hình bảo lãnh mới.
- Cải thiện chất lượng bảo lãnh theo hướng đơn giản hoá thủ tục bảo lãnh nhưng vẫn đảm bảo an toàn trong hoạt động.
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng chiến lược Marketing thu hút thêm khách hàng mới, chú trọng đến nền kinh tế ngoài quốc doanh để giảm bớt sự mất cân đối do thiếu vắng thành phần này.
- Nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động bảo lãnh, tin học hoá công nghệ ngân hàng trong mọi lĩnh vực hoạt động trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh nhằm đáp ứng nghiệp vụ này một cách nhanh nhất với chất lượng tốt nhất.
- Đào tạo và quản lý tốt đội ngũ cán bộ, đặc biệt bồi dưỡng nâng cao kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh.
3.2 – Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
Bảo lãnh là một loại hình dịch vụ của ngân hàng. Nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng, hoạt động bảo lãnh có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động khác của ngân hàng như cho vay, thanh toán quốc tế, huy động vốn, hỗ trợ cho nghiệp vụ thanh toán, đưa vốn huy động vào kinh doanh, làm tăng vòng quay vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời, bảo lãnh cũng chịu tác động trở lại từ các nghiệp vụ này. Lượng vốn huy động nhiều hay ít, lãi suất cao hay thấp, nội tệ ngoại tệ như thế nào đều ảnh hưởng đến khả năng nhận bảo lãnh, mức phí bảo lãnh ngân hàng áp dụng cho các doanh nghiệp. Chất lượng tín dụng, số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán… có tác động đến số lượng khách hàng xin bảo lãnh, khả năng rủi ro của nghiệp vụ này.
Do vậy, việc mở rộng nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh gắn liền với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh chung của cả ngân hàng. Thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh không những đem lại nguồn thu không nhỏ mà còn thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển, góp phần nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Nhận thức được tính hiệu quả to lớn này của nghiệp vụ bảo lãnh, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã và đang chú trọng đẩy mạnh hoạt động này bên cạnh phát triển nghiệp vụ kinh doanh truyền thống khác của ngân hàng.
Tuy nghiệp vụ bảo lãnh mới được thực hiện nhưng hoạt động này đã có những bước tiến khá vững chắc, tỏ rõ sức mạnh tiềm tàng của nó trong quá trình hiện đại hoá ngân hàng, từng bước hoà nhập vào hoạt động ngân hàng thế giới.
Thực tế cho thấy rằng, bất cứ một hoạt động nào cũng có tính hai mặt của nó. Tuân theo quy luật đó, bảo lãnh ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định song vẫn phải đối đầu với không ít những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện nghiệp vụ. Do vậy để hạn chế rủi ro và phát triển hơn nữa trong nghiệp vụ bảo lãnh, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần tranh thủ thời cơ, lường trước được những khó khăn, tồn tại để tìm ra giải pháp thực hiện những định hướng của mình.
3.2.1. Xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh nhằm tăng tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu của Ngân hàng.
3.2.1.1. Xây dựng chính sách phí bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh mang lại cho Ngân hàng một nguồn thu đó là khoản phí bảo lãnh. Để tăng được tỷ lệ thu phí dịch vụ trên tổng thu của Ngân hàng, NHNo&PTNT Nam Hà Nội phải tăng cường phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Mức phí bảo lãnh tối đa ấn định chung cho toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam là 2%/năm trên số tiền đang được bảo lãnh sản phẩm. Tuy nhiên, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần có chính sách phí linh hoạt mềm dẻo hơn, có thể áp dụng các mức phí trong khoảng tối thiểu và tối đa. Nếu mức phí tối đa được phép tăng lên, Ngân hàng sẽ thuận lợi hơn trong việc áp dụng một chính sách phí hợp lý.
Phí bảo lãnh phải phù hợp với các chính sách khác trong chính sách marketing tổng hợp và các yếu tố rủi ro, thời hạn và số tiền bảo lãnh:
- Với khách hàng bảo lãnh thường xuyên tại Ngân hàng có thể thấp hơn mức phí tối đa tuỳ thuộc mức độ tín nhiệm.
- Với các món bảo lãnh số tiền lớn có đủ tài sản bảo đảm mức phí có thể áp dụng theo mức tối thiểu.
Để xây dựng một chính sách phí hợp lý, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần phải phân biệt giá cả với từng loại khách hàng cụ thể nhưng vẫn nằm trong khung giá cho phép để vừa thu hút khách hàng, nâng cao hình ảnh ngân hàng lại vừa tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Việc phân biệt giá cả có thể được thực hiện theo 4 hướng sau:
+ Phân biệt khách hàng: có nghĩa là tuỳ theo các khách hàng khác nhau mà dịch vụ ngân hàng được cung ứng với mức phí khác nhau. Những khách hàng lớn, làm ăn lâu dài, có tín nhiệm có thể có mức phí ưu đãi.
+ Phân biệt sản phẩm: tuỳ theo tính phức tạp trong dịch vụ cung ứng, chất lượng dịch vụ cung ứng để có mức phí phù hợp.
+ Phân biệt địa điểm: ví dụ, việc rút tiền từ máy trả tiền (ATM) rẻ hơn việc sử dụng lao động của thủ quỹ tại ngân hàng.
+ Phân biệt thời gian: giá cả của một dịch vụ có thể khác nhau ở các thời gian khác nhau trong ngày.
3.2.1.2. Tiếp tục hoàn thiện quy trình bảo lãnh.
Quy trình bảo lãnh của chi nhánh cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng đảm bảo quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh được nhanh gọn, đúng đắn, an toàn cho Ngân hàng và thuận lợi cho khách hàng. Để đạt được điều đó Ngân hàng cần chú ý những điều sau:
- Công việc đầu tiên đó là quy trình tìm kiếm và hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các yêu cầu của bảo lãnh. Điều này thể hiện tính chủ động của Ngân hàng khác với trước đây mang tính thụ động, hơn nữa việc tư vấn phải được chú trọng hơn khác với trước đây là chỉ dừng lại ở việc giới thiệu nghiệp vụ bảo lãnh.
- Chi nhánh cần phải chú ý đúng mức tới khâu thẩm định. Ngân hàng cần tổ chức phòng chức năng chuyên sâu về bảo lãnh và thực hiện mỗi nhân viên phụ trách một nhóm khách hàng để nắm vững tình hìnhdoanh nghiệp một cách cụ thể hơn, bởi đây là khâu quyết định đến tính khả thi của dự án.
- Trong khâu xét duyệt cần thực hiện nhanh gọn để đảm bảo thuận lợi cho khách hàng. Trước khi phát hành khách hàng phải có tiền trong tài khoản để thực hiện việc ký quỹ. Do vậy Ngân hàng cần có sự liên kết thông tin nội bộ trong mạng lưới một cách chặt chẽ giúp cán bộ có thể thường xuyên cập nhật các thông tin trước khi phát hành.
- Sau khi phát hành chỉ cần làm tốt công việc đôn đốc khách hàng, theo dõi việc thực hiện hợp động liên quan đến bảo lãnh của doanh nghiệp, nhất là hợp đồng thi công vay vốn dài hạn, cán bộ tín dụng phải thường xuyên xuống cơ sở để theo dõi.
- Công tác giải toả bảo lãnh hiện nay do chưa có văn bản pháp luật nào quy định, nên mỗi ngân hàng phải tự hướng dẫn về thủ tục giải toả bảo lãnh riêng cho mình. Do đó sự giải toả bảo lãnh chậm sẽ ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh chung của doanh nghiệp. Khi kết thúc các doanh nghiệp thường muốn nhanh chóng nhận lại số tiền ký quỹ để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2.1.3. Thực hiện tốt chính sách đa dạng hoá sản phẩm.
Như đã phân tích ở trên, mặc dù doanh số bảo lãnh có tăng nhanh trong các năm nhưng NHNo&PTNT Nam Hà Nội mới chỉ dừng lại ở một số loại hình bảo lãnh. Mới chỉ áp dụng 4 loại hình bảo lãnh trong nước và hầu như không xuất hiện bảo lãnh nước ngoài, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần phải có những chính sách đáp ứng với nhu cầu trên thị trường. Ví như trong thời gian gần đây trên địa bàn đã xuất hiện các trung tâm giao dịch chứng khoán, đây là cơ hội hiếm có để Ngân hàng xây dựng chính sách về sản phẩm bảo lãnh chứng khoán…
3.2.1.4. Tăng cường quỹ ngoại tệ tạo điều kiện thanh toán với nước ngoài.
Nền kinh tế hiện nay đang trên đà phát triển nên rất cần nhiều ngoại tệ để có thể khơi thông nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tiến hành giao dịch. Song có vay tất phải có trả, các khoản bảo lãnh khi đến hạn sẽ phải thanh toán cho nước ngoài và khi đó việc thu xếp đủ nguồn vốn ngoại tệ thanh toán là một vấn đề nan giải nếu như ngân hàng không dự tính ngay từ lúc phát hành bảo lãnh. Chính vì vậy, với đặc điểm thị trường quốc tế như hiện nay, bảo lãnh L/C trả chậm và vay vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, việc tích luỹ ngoại tệ sẽ giúp cho NHNo&PTNT Nam Hà Nội đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài, thực hiện tốt phương châm hàng đầu do ngân hàng đề ra là “luôn lấy chữ tín làm trọng”. Để có nguồn ngoại tệ kinh doanh, ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề trọng điểm sau:
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng, thu hút doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán quốc tế tại Ngân hàng mình.
- Phát triển các dịch vụ ngân hàng khác để tăng thu ngoại tệ như dịch vụ chi trả kiều hối, dịch vụ đổi tiền ngoại tệ mặt, đổi séc du lịch…
3.2.1.5. Công tác đào tạo và tự đào tạo nhằm nâng cao trình độ thẩm định dự án và phương án bảo lãnh.
Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh xuất phát từ công việc thẩm định của cán bộ Ngân hàng. Để nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh, phòng ngừa rủi ro đòi hỏi ngay từ khi thẩm định dự án và phương án bảo lãnh phải có sự chuẩn xác, vì vậy hơn lúc nào hết NHNo&PTNT Nam Hà Nội phải có ngay chương trình đào tạo một đội ngũ cán bộ về nghiệp vụ bảo lãnh. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngân hàng là lực lượng đông đảo nhất, chiếm đại bộ phận lực lượng lao động của ngân hàng. Họ là những người trực tiếp thực hiện và giải quyết mọi công việc cụ thể của ngân hàng, là người trực tiếp tiếp xúc, giao dịch và cung ứng mọi dịch vụ cho khách hàng. Bởi vậy cũng như các hoạt động khác, đào tạo và tổ chức cán bộ chuyên môn về bảo lãnh là hoạt động cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển. Đào tạo, huấn luyện nhằm trang bị cho các cán bộ, công nhân viên ngân hàng những kiến thức mới nhất trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng như các nghiệp vụ khác cả về lý luận và thực tiễn, tạo điều kiện cho họ nắm bắt được những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và những thay đổi của công nghệ ngân hàng mới, hiện đại ngày nay, có thể vận dụng vào lĩnh vực chuyên môn của mình. Bên cạnh đó còn bồi dưỡng nâng cao ý thức tìm tòi, phấn đấu của cán bộ để từ đó họ có thể vận dụng những kiến thức đã được chuẩn bị một cách sáng tạo trong những dự án, phương án bảo lãnh. Thẩm định một phương án, dự án bảo lãnh một cách chính xác cần thiết phải nghiêm túc, cẩn thận, tránh tình trạng chỉ làm qua loa, hình thức. Tóm lại việc thẩm định một dự án hay một phương án bảo lãnh cũng như thẩm định một món vay thông thường, nếu không có sự chính xác, Ngân hàng sẽ gặp rủi ro đó là phải trả thay cho người được bảo lãnh – một công việc không mong muốn đối với bất cứ tổ chức nào khi quyết định bảo lãnh cho khách hàng, làm mất uy tín và gây ảnh hưởng xấu đến quá trình tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
3.2.3. Các giải pháp phòng ngừa rủi ro trong bảo lãnh
Mặc dù ngân hàng không phải trực tiếp bỏ vốn của mình ra để giải ngân nhưng khi phát sinh thanh toán mà bên xin bảo lãnh không đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ của mình thì rủi ro sẽ thuộc về ngân hàng. Lúc này món bảo lãnh sẽ trở thành một món vay bắt buộc và được coi như một khoản nợ quá hạn. Như vậy, về thực chất thì mức độ rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng cũng tương ứng với mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Thực tế để giảm bớt rủi ro NHNo&PTNT Nam Hà Nội thường phải trích quỹ bảo lãnh theo đúng quy định tối thiểu là 5% số tiền bảo lãnh. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, Ngân hàng cần làm những biện pháp sau: 3.2.3.1. Mở rộng hình thức đảm bảo.
NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần mạnh dạn đưa ra nhiều hình thức đảm bảo như ký quỹ hoặc nhận thế chấp bằng các loại tài sản. Đối với hình thức nhận thế chấp, do đặc điểm hao mòn của tài sản thế chấp sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh đòi hỏi NHNo&PTNT Nam Hà Nội phải định kỳ đánh giá lại giá trị của chúng, căn cứ vào mức trích khấu hao trên sổ sách của doanh nghiệp để tính giá trị còn lại. Định kỳ kiểm tra thực tế tại doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực của các số liệu trên sổ sách, nếu 70% tổng giá trị tài sản thế chấp nhỏ hơn giá trị các khoản bảo lãnh cho doanh nghiệp, thì NHNo&PTNT Nam Hà Nội phải yêu cầu doanh nghiệp thế chấp tài sản đảm bảo đủ mức qui định. Nếu doanh nghiệp chưa thực hiện ngay cần có biện pháp kịp thời như tính lãi trên số còn thiếu hoặc trích tài khoản tiền gửi chuyển sang tài khoản ký quỹ bảo lãnh.
3.2.3.2. Quản lí rủi ro bảo lãnh.
Để công tác bảo lãnh tại chi nhánh thực sự có hiệu quả chi nhánh cần có biện pháp quản lí rủi ro bảo lãnh, phải tổ chức bộ phận theo dõi, tổng hợp thống kê những rủi ro của thị trường, rủi ro từng loại khách hàng, rủi ro từng mặt hàng những rủi ro phát sinh đó rơi vào loại tài sản có nào của Ngân hàng, hệ số rủi ro là bao nhiêu, để từ đó có giải pháp toàn diện xử lý các rủi ro tạo điều kiện cho công tác bảo lãnh của Ngân hàng đạt hiệu quả.
3.2.4. Mở rộng quan hệ với các Ngân hàng khác để đẩy mạnh hoạt động đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Theo hướng dẫn thực hiện quy chế bảo lãnh ngân hàng số 09/HĐQT-05 của NHNo&PTNT Việt Nam ban hành kèm theo quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc NHNN đã quy định tổng số dư bảo lãnh của NHNo&PTNT cho một khách hàng là không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy việc thực hiện các món bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn. Vấn đề đặt ra là phát triển hình thức đồng bảo lãnh, vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các dự án lớn khi mà khả năng về vốn là có hạn, vừa phân tán bớt các rủi ro cho các ngân hàng khác cùng tham gia do có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh, khả năng và hỗ trợ cho nhau giữa các ngân hàng. Để thực hiện được điều này NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần phải đặt ra cho mình một chiến lược về hợp tác phát triển, cụ thể như sau:
- Với các chi nhánh trong hệ thống: Hợp tác chặt chẽ, phối hợp thực hiện các chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, nguồn vốn… tạo nên một sức cạnh tranh thống nhất của hệ thống trên địa bàn.
- Với các ngân hàng bạn: Theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư phát triển, đàm phán làm đầu mối cho vay đồng tài trợ đối vói các dự án lớn vượt khả năng của một ngân hàng.
Đồng thời, bên cạnh việc thắt chặt mối quan hệ với các ngân hàng trong nước, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên Thế giới.
Trên đây là một số giải pháp cho chi nhánh, nhưng để thực hiện được tốt và hiệu quả những giải pháp đó, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần phải có sự hỗ trợ của các cấp cao hơn và sau đây em xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị đối với Chính phủ, NHNN, NHNo&PTNTVN và các ngành có liên quan nhằm khắc phục những khó khăn tồn tại, phát huy những kết quả đạt được và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh trong toàn hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh của NHNo&PTNT Nam Hà Nội nói riêng.
3.3 – Một số kiến nghị.
3.3.1 – Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước.
Một hiện thực khách quan là cho dù hoạt động của cả hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng có thay đổi như thế nào đi nữa cũng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân với các giải pháp nghiệp vụ của mình thì cần phải có một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ.
Hiện nay, hai đạo luật Ngân hàng là Luật NHNN và luật các TCTD đang có hiệu lực trên thực tế nhưng trong từng lĩnh vực cụ thể vẫn thiếu các quy định chi tiết. Mặc dù các văn bản, quy định thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý và đôi khi là quá chặt chẽ và chồng chéo. Do đó khi thực hiện theo các văn bản này, các ngân hàng đã gặp phải không ít những khó khăn.
Trong hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng, các TCTD Việt Nam mới chỉ được điều chỉnh chủ yếu bởi các văn bản pháp quy và các văn bản dưới luật của NHNN và các ngành có liên quan. Điều đó đã làm xuất hiện tình trạng nhiều khía cạnh của nghiệp vụ bảo lãnh chưa được quy định một cách đầy đủ. Mặt khác, hàng loạt các vấn đề phức tạp của nghiệp vụ bảo lãnh cũng không được các văn bản pháp quy hướng dẫn như vấn đề về tư cách chủ thể bảo lãnh của bên thứ ba, giải quyết khi tranh chấp, các mẫu biểu của bảo lãnh chưa thống nhất…
Chính vì vậy, Nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể sớm ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản…
Ban hành luật bảo lãnh sẽ tạo hành lang pháp lý không những cho hoạt động bảo lãnh trong nước mà còn tạo ra căn cứ dẫn chiếu thống nhất cho các ngân hàng khi bảo lãnh trong các giao dịch ngoại thương. Mặt khác các chế độ thể lệ trong ngành ngân hàng hầu hết là các văn bản dưới luật nên nhiều khi thực hiện không được đồng bộ giữa các bộ, các ngành. Luật bảo lãnh ra đời sẽ đảm bảo sự thống nhất giữa các ngành trong thực thi bảo lãnh và các hoạt động liên quan tới bảo lãnh.
Bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp, quy định trong một số bộ ngành khác. Việc tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đỡ của các ngành này.
Cụ thể như sau:
Trong thủ tục công chứng:
Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn về các mẫu giấy tờ để công chứng thì đến nay vẫn chưa có mẫu về cầm cố thế chấp bảo lãnh. Trong khi đó theo hướng dẫn của ngân hàng thì phòng công chứng không xác nhận.
Ngoài ra, ta thấy rằng mức lệ phí công chứng 0,2%/số tiền công chứng là chưa hợp lý vì trong khi công chứng không phải chịu trách nhiệm về rủi ro và những sai lầm trong hợp đồng thế chấp thì ngân hàng phải gánh chịu mọi rủi ro mà phí tối đa của ngân hàng là 2%/năm trên số tiền bảo lãnh.
Do vậy, Bộ Tư pháp chỉ nên quy định mức lệ phí công chứng hợp lý và ban hành mẫu giấy tờ công chứng. Điều này sẽ làm giảm phiền toái cho doanh nghiệp và thuận tiện cho ngân hàng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh.
Về thế chấp tài sản:
- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan đăng ký thế chấp. Quản lý được việc đăng ký thế chấp sẽ tránh được hiện tượng một tài sản được đem thế chấp ở nhiều ngân hàng.
- Hiện nay, Bộ tài chính đã chấp thuận cho các doanh nghiệp được sử dụng các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nếu DNNN bị phá sản thì phần tài sản cũng được xử lý theo luật phá sản của DNNN hiện hành. Thế nhưng, việc thế chấp tài sản của các DNNN chỉ mang tính hình thức, thực tế ngân hàng không phát mại tài sản này được vì Tổng cục Quản lý vốn và tài sản không xác nhận “chấp nhận cho các doanh nghiệp dùng tài sản này để thế chấp” mà chỉ xác nhận “tài sản này thuộc quyền quản lý và sử dụng” mà thôi. Chính vì vậy, nếu rủi ro xảy ra doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng cũng không thể thu hồi được nợ thông qua việc phát mại tài sản trên, dẫn đến ngân hàng phải gánh chịu mọi hậu quả. Trước tình hình đó, các cơ quan hữu quan có thể xem xét và giải quyết theo các hướng sau:
+ Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với DNNN nhưng trong đó Tổng Cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mại các tài sản trên để thu hồi nợ. Nếu không các cơ quan này phải có trách nhiệm đền bù thay cho các doanh nghiệp.
+ Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, xác định rõ quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp đối với tài sản đem thế chấp.
- Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý (các thủ tục hành chính để phát mại tài sản, giải quyết việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản) tạo điều kiện cho tài sản được mua bán, chuyển nhượng dễ dàng, nhanh chóng
Chính phủ các Bộ ngành có liên quan cần thực hiện nghiêm chỉnh quy chế đấu thầu thực hiện hợp đồng theo thông lệ quốc tế đảm bảo chắc chắn những công trình được gọi thầu đã có vốn đầu tư nhằm ngăn ngừa rủi ro về phía ngân hàng do ngân sách thiếu vốn hay chậm thanh toán.
Mặt khác Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần từ nhiều năm nay song trong chính sách với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy không còn bị phân biệt đối xử song chưa thực sự được bình đẳng đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng, bảo lãnh. Về vấn đề này, Nhà nước nên tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế và nhanh chóng hoàn thành quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
Về môi trường kinh doanh:
- Tiếp tục xây dựng một cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tín dụng - tiền tệ và giá cả. Củng cố thị trường vốn và thị trường tài chính hiện có, đồng thời không ngừng đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng loại hình bảo lãnh chứng khoán.
- Cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Khẩn trương thực hiện môi trường đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước. Cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Có chính sách thuế quan và chống buôn lậu nhằm bảo vệ lợi ích người sản xuất và người tiêu dùng trong nước đối với một số ít các mặt hàng chọn lọc. Thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước.
Ngoài ra cần cải cách hệ thống tài chính và thuế, kiện toàn hệ thống NSNN, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ quản lý kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách kinh tế và mở rộng…
3.3.2 – Kiến nghị đối với NHNN.
3.3.2.1 – Cần đa dạng hoá hình thức bảo lãnh.
Cùng với việc cải tiến thủ tục bảo lãnh sao cho đơn giản, chặt chẽ và an toàn thì cần phải từng bước đa dạng hoá hình thức bảo lãnh. Trong thời gian qua, doanh số các loại bảo lãnh (như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn nước ngoài bằng hình thức mở L/C…) còn rất thấp so với tiềm năng của các ngân hàng. Vì vậy trong thời gian tới, một mặt phát triển các hoạt động bảo lãnh truyền thống, mặt khác NHNN nên hướng dẫn cho các ngân hàng sử dụng hình thức bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài, bảo lãnh bằng việc lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ với nước ngoài sao cho bảo đảm các yêu cầu về quản lý ngoại hối và vay nợ với nước ngoài. Đồng thời cần sớm chuẩn bị để ban hành các văn bản hướng dẫn một số loại hình bảo lãnh mới sẽ sử dụng trong thời gian tới như: bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh vận đơn, bảo lãnh hối phiếu… bởi trong khi các công ty chứng khoán mới được thành lập, uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao thì nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng trong khâu phát hành và phân phối chứng khoán đối với các doanh nghiệp là rất quan trọng.
3.3.2.2 – Về phí bảo lãnh và quỹ bảo lãnh.
Theo quy định hiện hành, mức phí bảo lãnh là 2%/năm trên số tiền được bảo lãnh. Theo mức phí này chưa chỉ ra được sự khác biệt về mức độ rủi ro của từng loại bảo lãnh, cũng như chưa thể hiện được chính sách ưu đãi của ngân hàng đối với doanh nghiệp có uy tín với ngân hàng. Vì vậy, NHNN không nên quy định cụ thể về mức phí bảo lãnh trong quy chế mà nên để các NHTM chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. NHNN chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, kiểm tra, giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua quy định về quỹ bảo lãnh, ký quỹ bảo lãnh.
NHNN cần ban hành quy chế cụ thể về bảo lãnh và trích lập quỹ bảo lãnh đối với nghiệp vụ bảo lãnh trong nước, quy định khách hàng phải ký quỹ bảo lãnh, sử dụng quỹ bảo lãnh. Bởi vì hiện nay các NHTM đang vận dụng theo quy chế nghiệp vụ bảo lãnh đối ngoại để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối nội.
3.3.2.3 – Về điều kiện để các liên doanh được xem xét bảo lãnh.
Hiện nay trong thực tế, để có thể tham gia dự thầu, đã có nhiều nhà thầu liên doanh với nhau (tại nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ về việc ban hành quy chế đấu thầu và nghị định số 93/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP quy định nhà thầu nước ngoài tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam) và yêu cầu các ngân hàng xem xét cấp bảo lãnh.
Tuy nhiên trong quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 của Thống đốc NHNN chưa có hướng dẫn loại hình bảo lãnh cho các liên doanh, điều kiện để các liên doanh được ngân hàng xem xét bảo lãnh, địa vị pháp lý của các liên doanh để xin ngân hàng bảo lãnh… Do đó rất khó cho ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu bảo lãnh này. Vì vậy, NHNN cần phải ban hành văn bản, quy chế hướng dẫn để NHNo&PTNT Nam Hà Nội cũng như các ngân hàng khác thực hiện.
3.3.2.4 – Tăng cường kiểm tra, thanh tra để phòng ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm đối với người đi vay.
3.3.2.5 – Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng nhằm cung cấp kịp thời, chính xác theo yêu cầu của các TCTD.
3.3.3 – Kiến nghị đối với NHNo&PTNTVN.
Để thực hiện được các giải pháp đã nêu ở chương II, phát huy hết tiềm năng và hiệu quả hoạt động bảo lãnh của toàn hệ thống NHNo&PTNT nói chung và NHNo&PTNT Nam Hà Nội nói riêng, đề nghị NHNo&PTNT Trung ương nên xem xét và nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Cần phải tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Nghiệp vụ bảo lãnh là lĩnh vực kinh doanh có rủi ro lớn đòi hỏi phải được sự quản lý, chỉ đạo kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên từ Trung ương đến các chi nhánh cơ sở để kịp thời đưa nghiệp vụ bảo lãnh đi vào đúng quỹ đạo, an toàn và phát triển.
Muốn vậy NHNN phải xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ kiểm tra, kiểm toán trong toàn hệ thống ngân hàng. Thực hiện, triển khai các chương trình kiểm tra, kiểm soát thường xuyên để đảm bảo chất lượng, hiệu quả đối với nghiệp vụ bảo lãnh. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hoạt động tự kiểm tra, giám sát tại các cơ sở.
Công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra phải được thực hiện đồng bộ, thường xuyên từ các khâu xem xét, phê duyệt và quản lý sau khi phát hành một món bảo lãnh. Công việc này phải được thực hiện bởi sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và chi nhánh cơ sở. Thực hiện tốt việc này sẽ hạn chế, ngăn ngừa được các khoản bảo lãnh có chất lượng xấu phát sinh.
Tiến hành kiểm tra thường xuyên và xử lý nghiêm các chi nhánh thực hiện sai chế độ uỷ nhiệm, thẩm quyền ký bảo lãnh, các hạn mức và hạn chế tín dụng bảo lãnh đã được Tổng giám đốc NHNo&PTNTVN ban hành.
Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại các chi nhánh. Đề ra quy trình cụ thể quy định trách nhiệm rõ ràng của từng bộ phân kiểm soát. Yêu cầu các chi nhánh thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ, thường xuyên theo các mẫu biểu đã ban hành.
- Không ngừng hoàn thiện quy trình bảo lãnh trên cơ sở đơn giản hoá các thủ tục cấp bảo lãnh sao cho vừa nhanh chóng thuận tiện cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo an toàn khi thực hiện. Bên cạnh đó thường xuyên mở các đợt tập huấn, bổ sung kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh cho các cán bộ NHNo&PTNT.
Đối với món bảo lãnh bằng tín chấp, không nên cho phép bảo lãnh dài hạn vì thời gian bảo lãnh tín chấp càng dài thì càng bất lợi cho ngân hàng về rủi ro lẫn thời gian theo dõi, giám sát.
- Tạo điều kiện để NHNo&PTNT Nam Hà Nội mở rộng quan hệ với các ngân hàng khác tham gia đồng bảo lãnh cho một dự án hoặc một khách hàng lớn với số tiền bảo lãnh lớn và thời hạn bảo lãnh dài. Việc này giúp cho ngân hàng phân tán rủi ro.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36224.doc