Lời mở đầu
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất nước phải trải qua. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá.
Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả.
Một trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được khơi động mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là TTCK.
Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy để có một TTCK hợp lý, đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này.
Nhằm góp phần vào lĩnh vực phát triển của TTCK của Việt Nam. Em chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài là: " Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK Ngân hàng Công thương”.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Cô giáo PGS - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo và các cán bộ phòng Phân tích của CTCK Công thương đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I
Những lý luận chung về công ty chứng khoán
và các hoạt động kinh doanh của công ty
1.1. Tổng quan về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK. ở Việt Nam theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK 3 ngày 13/10/1998 của Uỷ ban chứng khoán nhà nướccông ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán nhà nướccấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành đến người đầu tư và tạo cho chứng khoán có tính thanh toán cao. Thông qua đó để huy động nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bố vào nơi sử dụng có hiệu quả. Do đó chúng ta có thể nói chức năng nhiệm vụ của công ty chứng khoán như sau:
- Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp lệnh hoặc khớp giá)
- Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (khoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt một cách dễ dàng)
- Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh đóng vai trò nhà tạo lập thương trường)
1.1.3. Vai trò
Các công ty chứng khoán có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế cũng như trong hoạt động chứng khoán hay nói cách khác, các công ty chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên TTCK
* Đối với tổ chức phát hành:
Mục tiêu tham gia vào TTCK của công ty phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán vì vậy thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
* Đối với nhà đầu tư:
Thông qua hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên đối với TTCK sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng khoán với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp, sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.* Đối với TTCK
Đối với TTCK , công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính:
(1) Góp phần tạo lập giá cả điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Cáac công ty chứng khoán là những thành viên của thị trường, do đó họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá các các công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
2) Góp phần làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính, TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới tạo ra cơ chế trao đổi trên thị trường. Trên thị trường cấp 1 do cải thiện các hoạtđộng như bảo lãnh, phát hành chứng khoán hoá, các công ty chứng khoán không những huy động được một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán trao đổi trên thị trường trên thị trường cấp 2.
Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp nhà đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động có thể làm tăng tính thanh khoán của những tài sản tài chính.
3). Đối với cơ quan quản lý thị trường: Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành các chứng khoán mở, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các tài chính, cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tài chính phát hành thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tài chính chuyên nghiệp trên TTCK, các nhà phát hành đối với cơ quan quản lý thị trường và đối với TTCK nói chung.
1.1.4 Mô hình hoạt động của công ty chứng khoán
Hiện nay, có ba loại hình tài chính cơ bản của công ty chứng khoán, đó là: công ty hợp doanh, công ty TNHH, công ty cổ phần:
a. Công ty hợp doanh
Là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên
Thành viên của công ty chứng khoán hợp doanh bao gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp doanh. Các thành viên hợp doanh chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia vào điều hành công ty họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty.
* Công ty hợp doanh thông thường không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
b. Công ty cổ phần:
* Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu các công ty là các cổ đông.
* Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp
* Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
c. Công ty TNHH
* Thành viên của công ty trách nhiệm phải chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
* Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu. Do có những ưu điểm của loại hình công ty cổ phần và công ty TNHH so với công ty hợp doanh, vì vậy hiện nay chủ yếu các công ty chứng khóan được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH và công ty cổ phần.
1.2. Các hoạt động của Công ty chứng khoán
1.2.1. Các hoạt động chính
1.2.1.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán, bán chứng khoán cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch taih SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng của mình các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành những người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
Kỹ năng của người môi giới chứng khoán được thể hiện trên các khía cạnh:
- Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng đối tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng (cung ứng dịch vụ mua, bán) người môi giới phải đặt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động dịch vụ tài chính và phải được thực hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng.
- Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng, nhưng tựu trung có thể được gộp vào nhóm 6 phương cách sau: những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các chiến dịch viết thư; các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen.
- Kỹ năng khai thác thông tin: một trong những nguyên tắc trong hàng nghề môi giới là phải hiểu khách hàng, biết được khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược khách hàng thích hợp.
1.2.1.2. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc các Công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên phân tích tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:
+ Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
+ Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực hiện của khách hàng).
+ Theo đối tượng hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…. Và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán …v.v.).
Nguyên tắc cơ bản của tư vấn:
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra, để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (Hiệu quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuân lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản như sau:
+ Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá chị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường .
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng.
Trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
+ Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu.
1.2.1.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Để thực hiện thành công các đợt chào bán hàng chứng khoán ra công chúng, đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các Công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các Công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của Công ty chứng khoán.
Như vậy, nghiệp vụ sau bảo lãnh phát hành là việc Công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh - TCBL) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có Công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư nhưng thông thường việc Công ty chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các Công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác.
Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến Công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành, Công ty chứng khoán phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được uỷ ban chứng khoán thông qua. Công ty chứng khoán có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh, hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giưã nghiệp đoàn và tổ chức phát hành.
Khi uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, Công ty chứng khoán (hoặc hiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là:
+ Bán riêng cho tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí.
+ Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành.
+ Bán rộng rãi ra công chúng.
Đúng đến ngày theo hợp đồng Công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán cho tổ chức phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo lãnh.
1.2.1.4. Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có 2 loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh.
Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, công ty chứng khoán đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình đọ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Yêu cầu đối với công ty chứng khoán
- Tách biệt quản lý: các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người; quy trình nghiệp vụ; vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
- ưu tiên khách hàng: công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty chứng khoán có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
Góp phần bình ổn thị trường: Các công ty chứng khoán hoạt động tự doanh nhằm góp phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các công ty chứng khoán phải dành một tỉ lệ % nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các công ty chứng khoán có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
- Hoạt động tạo thị trường: khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường (Market – Makers) sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh.
- Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh:
Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao dịch, lệnh của hộ có thể thực hiện với bất kỷ khách hàng nào không được xác định trước.
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai Công ty chứng khoán hay giữa Công ty chứng khoán với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC.
1.2.1.5. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho Công ty chứng khoán thay mặt quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận theo yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng; rủi ro có thể chấp nhận….)
Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát bao gồm các bước sau:
+ Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác.
+ Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa khách hàng và Công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư.
+ Thực hiệp hợp đồng quản lý: Công ty chứng khoán thực hiện đầu tư vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính Công ty.
1.2.1.6. Lưu ký chứng khoán:
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì trong giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khón (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
+ Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi công ty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản.
1.2.2 Các nghiệp vụ hỗ trợ
1.2.2.1. Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý tổ chức):
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, Công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãI, cổ tức chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
1.2.2.2. Nghiệp vụ tín dụng:
Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, Công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ (margin purchase).
Cho vay kỹ quỹ là hình thức cấp tín dụng của Công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các loại chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do Công ty chứng khoán ứng trước thanh toán. Đến ký hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho Công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì Công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
1.2.2.3. Nghiệp vụ cầm cố chứng khoán cho vay
ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép Công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý đầu tư. Theo đó, Công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vồn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
1.3 Chất lượng hoạt động của CTCK
1.3.1 Khái niệm chất lượng hoạt động
Các CTCK cũng là một doanh nghiệp do đó chất lượng hoạt động được thể hiện ở hiệu quả kinh doanh của công ty đó. Đối với CTCK thì được thể hiện ở hiệu quả của các nghiệp vụ kinh doanh của công ty đó và được thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá sau.
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá
Tất cả các doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều phải đặt ra những mục tiêu cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó trước hết doanh nghiệp phải xác định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với sự biến động của thị trường. Đồng thời phải tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy hiệu quả kinh doanh là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó đạt được hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường dựa trên các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
1.3.2.1. Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn:
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động trong quá trình kinh doanh, thể hiện ở hệ số sinh lời của vốn kinh doanh:
Hệ số sinh lời của VKD
=
Tổng lợi tức các hoạt động
Tổng vốn bình quân của các hoạt động
Chỉ tiêu trên cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó có tác động khuyến khích và quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong các khâu của quá trình kinh doanh.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh:
HQSD chi phí KD
=
Doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần
Tổng chi phí kinh doanh
Vớí chỉ tiêu này sẽ phản ánh doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí kinh doanh thì sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần.
Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần
Sức sinh lời của CPKD =
Tổng chi phí kinh doanh
ý nghĩa của chỉ tiêu này: Cứ một đồng chi phí kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản:
Hiệu quả sử dụng của tài sản lưu động:
Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần
Khả năng sinh lời của TSLĐ =
Tổng giá trị tài sản lưu động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản lưu động bình quân vào sản xuất kinh doanh thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định:
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định được đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu nhưng chủ yếu sử dụng những chỉ tiêu sau:
Tổng doanh thu
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định =
TSCĐ bình quân
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu:
Tổng lợi tức các hoạt động
Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu =
Tổng vốn chủ sở hữu bình quân
Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được đánh giá bằng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
1.3.2.2. Chỉ tiêu định tính.
Chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh là những chỉ tiêu không thể lượng hoá được bằng con số. Chỉ tiêu này thường được đánh giá bởi thị trường, các nhà phân tích, đặc biệt là khách hàng. ở công ty chứng khoán chỉ tiêu định tính được nói đến là vị thế và uy tín của công ty trên thị trường. Điều này thể hiện ở định hướng hoạt động của công ty có phù hợp với tình hình thị trường, điều kiện thực tế của chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu của khách hàng hay không, chất lượng nhân sự trong công ty, vị trí địa lý của trụ sở công ty có thuận lợi về giao thông, có ở trung tâm hay không, đặc biệt là có chiến lược marketing phù hợp, từ đó công ty tạo ra được cách thức để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng...
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì các chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các công ty càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi một công ty đạt được những tiêu chuẩn định tính cũng đồng nghĩa với việc tình hình kinh doanh của công ty rất có hiệu quả, có vị thế cạnh tranh cao trên thị trường và đạt được các tiêu chuẩn định lượng.
Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ tiêu định lượng là tiền đề, là cơ sở để đạt được chỉ tiêu định tính, ngược lại chỉ tiêu định tính tác động trở lại để hoạt động kinh doanh của công ty thêm hiệu quả.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của công ty chứng khoán.
1.4.1. Nhân tố khách quan
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của một công ty. Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty nào cũng luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì nó quyết định sự sống còn của công ty. Hoạt động kinh doanh của công ty lại chịu chi phối bởi rất nhiều các yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài công ty và chính vì thế hiệu quả kinh doanh của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố này.
Là một mắt xích quan trọng của thị trường, những biến đổi của thị trường đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Nó có thể tạo cho công ty những nguy cơ hoặc cơ hội kinh doanh. Thị trường chịu sự tác động của các chính sách kinh tế chính trị xã hội của một quốc gia và tình hình kinh tế của toàn cầu. Những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội ổn định, vững mạnh sẽ tạo được lòng tin đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế cùng với hoạt động tài chính tiền tệ. Vấn đề thu nhập quốc dân của một quốc gia và thu nhập bình quân đầu người chính là những yếu tố tác động đến nhu cầu về số lượng hàng hoá, dịch vụ, về chủng loại, chất lượng, về thị hiếu... Trên cơ sở đó, hoạt động kinh doanh của các công ty nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng sẽ gặp nhiều thuận lợi. Các nhà đầu tư sẵn sàng hơn trong việc tham gia vào thị trường, các công ty cũng sẵn sàng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ làm tăng qui mô của thị trường nên những công ty biết đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sẽ là những công ty làm ăn có hiệu quả. Trong môi trường này, sự tăng trưởng, các chính sách kinh tế, lạm phát, biến động tài chính tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Ngược lại những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội bấp bênh, kém ổn định, xung đột xảy ra liên miên gây ra những cơn sốt, cú sốc, sức ép thị trường... thì các công ty chứng khoán cũng khó có thể hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các công ty tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời điều chỉnh các hoạt động k._.inh tế theo hướng không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh doanh của riêng bản thân công ty mà còn phải quan tâm đến hiệu quả của toàn xã hội. Cùng với điều này, thì nội dung của các chính sách quản lý kinh tế, chính sách quản lý về chứng khoán và TTCK có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mọi hoạt động kinh doanh chứng khoán đều phải nằm trong khuôn khổ của các quy định này. Chính vì thế, một chính sách quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán, dẫn đến sự phát triển của TTCK và toàn bộ nền kinh tế, trái lại, một chính sách cứng nhắc, thiếu hợp lý sẽ gây nhiều trở ngại cho sự phát triển của toàn bộ thị trường nói chung và đến sự phát triển của một công ty nói riêng.
Là một chủ thể quan trọng của TTCK, thì sự phát triển của TTCK cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Một khi TTCK phát triển, có nghĩa là hàng hoá trên thị trường đa dạng và phong phú, nó sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư và các công ty có điều kiện để đầu tư, để có sự lựa chọn phù hợp nhất. Tuy nhiên, với một hệ thống bao gồm nhiều loại hàng hoá sẽ phát sinh những khó khăn đối với các nhà đầu tư khi tự quyết định sự lựa chọn của mình. Vì vậy, nhất thiết nhà đầu tư sẽ cần đến công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, khi TTCK phat triển sẽ xuất hiện nhiều loại rủi ro khó lường trước, do đó công chúng cũng như công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, khi TTCK phát triển, công ty chứng khoán muốn tồn tại, phát triển và cạnh tranh được với các công ty chứng khoán khác thì công ty không những buộc phải có những thay đổi cho phù hợp với thị trường mà còn phải tiếp tục hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng và từ phía bản thân công ty.
Những nhà kinh doanh của các công ty chứng khoán là những người có trình độ hiểu biết nhất định về TTCK, có thể làm những công việc khác nhau nhưng không phải bất cứ độ tuổi nào cũng tham gia được. Họ tham gia vào lĩnh vực này với những mục đích khác nhau và nắm trong tay những thông tin trái ngược nhau. Chính vì thế môi trường văn hoá xã hội sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của công ty cả theo chiều hướng tiêu cực và tích cực.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Sản phẩm của công ty chứng khoán là các dịch vụ cho kinh doanh nên yếu tố cạnh tranh sẽ thể hiện ở mức độ thực hiện dịch vụ nhanh chóng, thoả mãn nhu cầu khách hàng. Muốn vậy, công ty phải áp dụng kỹ thuật công nghệ phù hợp, từ đó nâng cao được năng suất, chất lượng và giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng vòng quay vốn lưu động, tăng lợi nhuận.
Không phải ngẫu nhiên mà trong cùng một môi trường kinh doanh, cùng chịu một chế độ quản lý mà kết quả kinh doanh của các công ty lại khác nhau. Mà chính bởi có sự khác nhau về các nhân tố nội tại giữa các công ty. Nhân tố nội tại chính là cơ sở vật chất, mục tiêu phát triển, uy tín của công ty, mạng lưới khách hàng, khả năng của ban lãnh đạo, trình độ của cán bộ công nhân viên..., tất cả các yếu tố này đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Vì vậy, để có thể đẩy mạnh và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty phải biết tận dụng những thế mạnh cũng như hạn chế những điểm yếu của công ty mình.
1.4.2. Nhân tố chủ quan
Vốn phản ánh quy mô, tiềm lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn thường là những doanh nghiệp có qui mô lớn, phạm vi hoạt động rộng. Và cũng chính vì thế, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc rất nhiều về vốn. Bên cạnh đó, trong công ty con người luôn đóng vai trò trung tâm. Mức độ hiệu quả công việc của từng người sẽ ảnh hưởng tới hệ thống bởi vì tổng hợp hiệu quả của các cá nhân sẽ được hiệu quả chung của công ty. Một công ty hoạt động có hiệu quả khi các cá nhân trong công ty có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tính tự giác, kỷ luật cao, đồng thời các thành viên trong công ty phải có mối quan hệ bình đẳng, hoà hợp, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu chung toàn công ty. Thực tế cho thấy, những công ty mạnh trên thị trường đều là những công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, tác phong khoa học và tính kỷ luật cao. Cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên thì vấn đề về các nhà quản trị
ChươngII
Thực trạng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán Công thương
2.1. Hoạt động của TTCK Việt Nam thời gian qua.
Năm 2003, TTCK Việt Nam trải qua một thời gian chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhiều nhân tố mang tính vĩ mô như tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn do quá trình hội nhập quốc tế ban đầu cùng những thách thức rất lớn do cạnh tranh đưa lại. Tăng trưởng kinh tế trong nước chưa thể hiện mức độ bền vững nhất định; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đủ mạnh, trong đó đáng lưu ý nhất là khu vực dịch vụ có xu hướng giảm trong cơ cấu của GDP; bên cạnh đó, nhập siêu ở mức tương đối cao trong khi những biến động mạnh trong khu vực thị trường nhà đất, vàng và ngoại tệ diễn ra trong suốt năm 2003; hiệu quả đầu tư chưa cao do mức dộ thất thoát trong vốn đầu tư còn nhiều.
Mặc dù vậy, có thể nói, năm 2003 đã đánh dấu một bước chuyển mình mới của TTCK VN sau hơn 3 năm đi vào hoạt động. Các hoạt động của thị trường tiếp tục diễn ra suôn sẻ với sự tham gia của trên 16.000 tài khoản ( tăng trên 19% so với năm 2002 ). Tính đến tháng 4/2004 đã có 24 cổ phiếu được niêm yết trên TTCK với tổng mức vốn hóa thị trường đạt trên 2.500 tỷ VND; trên 119 triệu trái phiếu được niêm yết với tổng giá trị niêm yết đạt trên 11,9 ngàn tỷ VND. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM (TTGDCK Tp.HCM) đã tổ chức thành công 247 phiên giao dịch với tổng giá trị giao dịch đạt gần 3.000 tỷ VND, tăng trên 177% so với năm 2002 trong đó giao dịch trái phiếu đạt gần 2.500 tỷ VND, chiếm trên 83% tổng giá trị giao dịch trên thị trường. TTGDCK Tp.HCM đã đưa vào áp dụng thành công một số giải pháp kỹ thuật, cho phép các nhà đầu tư đa dạng hóa các loại hình và phương thức giao dịch của minh; đồng thời tạo các tiền đề hết sức cơ bản trong việc tiến tới chuẩn hóa một số các loại hình nghiệp vụ của thị trường. Công tác quản lý thị trường tiếp tục được cải thiện đảm bảo khả năng vận hành và quản lý thị trường một cách hiệu quả. Bên cạnh đó các tổ chức trung gian trên thị trường không ngừng tự hoàn thiện mình, xây dựng và cung cấp dịch vụ tiện ích cho các nhà đầu tư, các tổ chức, đặc biệt tập trung vào một số nghiệp vụ có thế mạnh. Các tổ chức niêm yết nói chung đã thực hiện khá tốt các nghiệp vụ và yêu cầu về công bố thông tin.
Năm 2003 cũng là năm có rất nhiều các sự kiện quan trọng đã diễn ra tác động không nhỏ đến TTCK VN, có thể kể ra đây hàng loạt các sự kiện như: một số cổ phiếu mới được niêm yết tạo thêm hàng hóa cho thị trường; một số các CTCK mới ra đời và đi vào hoạt động; lần đầu tiên chúng ta tổ chức một tuần lễ chứng khoán hết sức quy mô nhằm cổ động mạnh mẽ việc tham gia vào TTCK của các nhà đầu tư; sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm kích thích sự năng động và hiệu quả của thị trường như điều chỉnh biên độ, chia nhỏ lô giao dịch, đưa vào sử dụng các loại lệnh mới ATO…;Chính phủ cho phép nới rộng tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài đối với cổ phiếu, không hạn chế đối với trái phiếu và sự tham gia rất mạnh của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong những tháng cuối năm 2003…Bên cạnh đó sự kiện hết sức quan trọng đó là việc Chính phủ thông qua chiến lược phát triển TTCK VN đến năm 2010 và ban hành nghị định 144 về chứng khoán và TTCK thay thế nghị định 48 của Chính phủ và trở thành văn bản có tính pháp lý cao nhất điều chỉnh các hoạt động cuẩ TTCK VN. Nghị định mới này đã thực hiện thay đổi một cách khá toàn diện về mặt nội dung cũng như phạm vi áp dụng và tạo ra hướng đi mới hết sức cụ thể trong công tác quản lý, điều hành và phát triển TTCK cũng như đối với sự tham gia của các tổ chức cá nhân vào thị trường.
2.2 Giới thiệu về Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam
2.2.1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Căn cứ theo Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 01/11/1999 về việc cho phép các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán là điều kiện tiền đề cho việc thành lập công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Theo các văn bản này, các ngân hàng thương mại chỉ được phép thành lập công ty chứng khoán độc lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Xét về điều kiện, Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã hội tụ đầy đủ các điều kiện thành lập công ty chứng khoán của một ngân hàng thương mại. Đề án thành lập và dự thảo điều lệ công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt, chấp thuận cho Ngân hàng Công Thương Việt Nam thành lập công ty chứng khoán; đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân sự chuẩn bị cho hoạt động kinh doanh chứng khoán; hoàn thành hồ sơ xin Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Tên giao dịch quốc tế: Incombank Securities Co.Ltd. (Viết tắt là IBS)
Thành lập theo quyết định số 126/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 01/09/2000 của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Giấy phép hoạt động số 07/GPHĐKD ngày 06/10/2000 do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104000012 ngày 04/10/2000 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp. Trụ sở chính: Số 306 Bà Triệu - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Điện thoại: 84.4.9741764 – 84.4.9741054. Fax: 84.4.9741760
Email: ibs-ho@hn.vnn.vn
Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh: Số 153 Hàm Nghi, Quận I, TP.Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 84.4.9140200. Fax: 84.4.9140201. Email: ibs-hcm@hcm.vnn.vn
Vốn điều lệ: 55 tỷ đồng Việt Nam
2.2.2 Các lĩnh vực kinh doanh
Với số vốn điều lệ 55 tỷ VND, IBS được cấp giấy phép hoạt động cả 5 nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, đó là môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương là công ty trực thuộc, hạch toán độc lập của Ngân hàng Công Thương Việt Nam; thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được tổ chức theo mô hình chủ tịch Công ty và Giám đốc được qui định tại luật Doanh nghiệp, là công ty TNHH một thành viên. Bộ máy lãnh đạo công ty gồm chủ tịch công ty và phó giám đốc, trong đó phó giám đốc trực tiếp phụ trách hoạt động tại chi nhánh TPHCM. Công ty chính thức đi vào hoạt động ngày 16 tháng 11 năm 2000. Tháng 10 năm 2002 Công ty Chứng khoán Công thương được cải tổ thành lập 6 phòng ban ở Hà Nội với 37 nhân viên. Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh gồm 4 phòng ban với 20 nhân viên. Với việc sắp xếp bố trí lại các phòng ban như trên công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tạo ra một mô hình mang tính đột phá so với các công ty chứng khoán khác trên thị trường.
Chủ tịch công ty
Giám đốc
Kế toán lưu ký
Phòng môi giới
Văn phòng
Phòng kinh doanh
Phòng môi giới
Phòng tự doanh, phát hành
Tư vấn niêm yết
Kế toán lưu ký
Kiểm soát
Văn phòng
Chi nhánh TP.HCM
2.2.3 Cơ cấu tổ chức của Công ty Chứng khoán Công Thương Việt Nam
Sơ đồ 3
*Phòng môi giới
Đại diện giao dịch của Công ty, môi giới chứng khoán. Trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng. Tư vấn, cung cấp thông tin thường xuyên về từng phiên giao dịch, thông tin tài khoản và các thông tin liên quan tới chứng khoán, TTCK cho khách hàng. Tiếp nhận và xử lý lệnh mua, bán chứng khoán. Tổ chức thực hiện giao dịch OTC (khi được phép). Tiếp thị trực tiếp đến nhà đầu tư chứng khoán. Làm các dịch vụ hỗ trợ khách hàng có liên quan đến nghiệp vụ môi giới. Quản lý các đại lý nhận lệnh và các đầu mối phát triển dịch vụ của công ty, trên các địa bàn khác nhau. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ, kiến nghị phương hướng nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới liên quan đến hoạt động môi giới.
*Phòng tự doanh phát hành
Kinh doanh chứng khoán cho công ty. Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Phân tích thị trường và đề xuất các phương án tự doanh chứng khoán cho Giám đốc Công ty. Tổ chức tự doanh chứng khoán theo đúng quy trình tại trụ sở chính và lập báo cáo, phân tích đánh giá kết quả hoạt động tự doanh toàn Công ty. Phối hợp các bộ phận trong Công ty thực hiện công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường và triển khai các sản phẩm dịch vụ mới có liên quan. Đại lý bảo lãnh phát hành. Tìm kiếm, thiết lập, duy trì quan hệ và xây dựng mạng lưới khách hàng sử dụng dịch vụ đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ có liên quan. Tổ chức triển khai các hợp đồng đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ khác có liên quan được ký kết với khách hàng.
* Phòng tư vấn, phân tích
Nghiên cứu, phân tích chứng khoán và TTCK. Tư vấn đầu tư, tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoávà tư vấn tài chính. Làm đầu mối công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường. Quản lý danh mục đầu tư. Nghiên cứu, phân tích. Nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Nghiên cứu, phân tích tình hình thị trường, ra các bản tin phân tích, bình luận về chứng khoán và đánh giá các động thái của thị trường. Xây dựng hồ sơ doanh nghiệp. Dự thảo các kế hoạch kinh doanh năm, quý, báo cáo tổng kết toàn Công ty. Tư vấn đầu tư chứng khoán, chú trọng tư vấn mang tính trung, dài hạn, giá trị đầu tư lớn, trên cơ sở hợp đồng có thu phí. Tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoá và tư vấn tài chính. Cung cấp thông tin chứng khoán và TTCK cho khách hàng và trong nội bộ Công ty. Đầu mối công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường cho Công ty. Xây dựng triển khai các phương án tiếp thị, tìm kiếm đối tác tiếp nhận các dịch vụ của Công ty. Quản lý danh mục đầu tư. Thực hiện quản lý danh mục đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng.
*Phòng kế toán tài chính và lưu ký
Quản lý tài chính, hạch toán kế toán, thanh toán giao dịch, lưu ký chứng khoán, ngân quỹ. Quản lý tài chính. Dự thảo kế hoạch tài chính năm, quý trình Giám đốc Công ty phê duyệt và giám sát kết quả thực hiện kế hoạch được duyệt. Tổ chức quản lý nguồn vốn của công ty, tham mưu cho Giám đốc quản lý tập trung vốn của Ngân hàng công thương Việt Nam cấp, vốn tự có bổ sung, bảo toàn vốn đúng chế độ và giám sát các chi nhánh thuộc công ty sử dụng vốn hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định của pháp luật. Giám sát về mặt tài chính trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch mua sắm tài sản, quản lý trang thiết bị, tài sản của Công ty. Tham mưu cho Giám đốc công ty các vấn đề về phân phối lợi nhuận, sử dụng các quỹ, thu chi tài chính. Tham mưu cho Giám đốc công ty về xây dựng đơn giá tiền lương, thanh toán tiền lương, thưởng...Hạch toán kế toán, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty. Theo dõi biến động tài khoản tiền gửi, tiền vay của Công ty gửi ở các tổ chức tín dụng.
Phối hợp với các phòng ban có liên quan trong việc hạch toán kế toán quản lý, điều hành vốn. Tổ chức kế toán giao dịch, hạch toánvà quản lý tình hình hoạt động tài khoản tiền gửi, chứng khoán lưu ký của khách hàng mở tại Công ty. Thanh toán giao dịch. Tham mưu cho Giám đốc Công ty trong việc tổ chức thanh toán tập trung tại trụ sở chính và thống nhất trong toàn công ty gắn với quá trình điều hành vốn theo đúng chế độ hiện hành, đảm bảo mỗi khoản thanh toán an toàn, kịp thời, chính xác. Tham gia thanh toán bù trừ với trung tâm giao dịch chứng khoán, thanh toán với các ngân hàng liên quan.
*Lưu ký: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ lưu ký, tiếp thị về lưu ký đối với cá nhân và pháp nhân. Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư chứng khoán liên quan đến hoạt động lưu ký chứng khoán. Tổ chức thực hiện hoạt động lưu ký thống nhất từ trụ sở chính, chi nhánh và các đại lý giao dịch của Công ty. Quản lý kho lưu ký. Ngân quỹ, thực hiện nhận và trả tiền, chứng khoán chứng chỉ của khách hàng. Thu và chi tiền mặt nội bộ Công ty theo đúng quy trình thu chi tiền mặt và chứng chỉ có giá hiện hành. Nộp và lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng thương mại. Quản lý an toàn két tiền mặt. Công tác báo cáo, kiểm tra, kiểm soát và các nhiệm vụ khác. Lập và tổng hợp các báo cáo tài chính kế toán, lưu ký, thống kê của toàn công ty theo đúng chế độ báo cáo thống kê của Nhà nước, NH Công thương Việt nam, UBCKNN và các ban ngành liên quan. Định kỳ hoặc đột xuất tiến hành kiểm tra công tác tài chính, lưu ký của trụ sở chính và các chi nhánh để kịp thời phát hiện sai sót và có biện pháp khắc phục, xử lý. Tổ chức thực hiện cơ chế, quy chế, quy trình nghiệp vụ của công tác tài chính, kế toán, lưu kývà hệ thống tài khoản kế toán theo phân cấp phù hợp với quy định pháp luật và của Bộ tài chính, đáp ứng yêu cầu phát triển nghiệp vụ kinh doanh của Công ty. Tổng hợp và cung cấp số liệu cho Ban điều hành Công ty định kỳ hoặc đột xuất để chỉ đạo hoạt động kinh doanh.
*Phòng kiểm soát
Kiểm tra việc ghi chép sổ sách kế toán. Kiểm tra cách tính toán, đối chiếu hoá đơn với ghi chép vào sổ.
*Văn phòng Công ty
Phòng hành chính - tổng hợp. Tổ chức cán bộ và đào tạo quản lý lao động và tiền lương. Tổng hợp chương trình công tác của các phòng, ban. Bố trí, sắp xếp chương trình làm việc hàng tuần của Ban điều hành Công ty. Bố trí thư ký trong các cuộc họp theo yêu cầu của Giám đốc. Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ theo đúng quy định của pháp luật. Phối hợp với các bộ phận liên quan tổ chức các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của Công ty. Bố trí phương tiện đi lại phục vụ hoạt động chung của công ty. Tổ chức đón tiếp, bố trí nơi ăn ở và phương tiện đi lại cho khách đến làm việc với Công ty khi Giám đốc yêu cầu. Thực hiện công tác lễ tân, tạp vụ. Tổ chức thực hiện công tác an ninh, bảo vệ, giữ gìn an toàn tài sản và an ninh trật tự toàn Công ty.
Quản trị - tin học: Xây dựng kế hoạch mua sắm tài sản và triển khai thực hiện việc mua sắm thiết bị, phương tiện làm việc của công ty theo đúng quy định. Tổ chức bảo dưỡng tài sản cố định theo định kỳ. Xây dựng và hướng dẫn thực hiện nội quy, sử dụng trang thiết bị của cơ quan. Quản lý hệ thống tin học, gồm cả phần cứng và phần mềm, hệ thống mạng máy tính của Công ty. Tổ chức cán bộ và đào tạo. Tham mưu cho ban điều hành xây dựng bộ máy tổ chức nhân sự; sắp xếp, phân công lao động giữa các đơn vị trong công ty đảm bảo phát huy tốt năng lực của từng cá nhân, đáp ứng yêu cầu công tác kinh doanh. Giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch đào tạo, quy hoạch cán bộ, làm thủ tục đề bạt cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của Giám đốc Công ty. Quản lý lao động và tiền lương. Tham mưu cho ban điều hành công ty về chính sách, chế độ tiền lương đối với người lao động. Tham mưu cho Giám đốc công ty trong việc tuyển dụng, ký kết, huỷ bỏ hợp đồng lao động theo đúng Luật lao động và các quy định về quản lý lao động của Công ty.
2.2.4 Môi trường cạnh tranh
Sự góp mặt của CTCK Ngân hàng Công thương đã nâng tổng số CTCK lên 12 trong đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH. Các CTCK đều hoạt động ổn định tuân thủ các quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK, các quy định của ủy ban chứng khoán nhà nước. Các kết quả kinh doanh có chiều hướng tốt lên, hầu hết có lãi sớm hơn so với dự kiến. Các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính cho biết tính đến hết ngày 31/12/2003 các CTCK đều có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đảm bảo.
Cạnh tranh gay gắt trong thị trường nhỏ với tốc độ phát triển tương đối chậm ( theo ước tính của TTGD hiện có khoảng 16.000 nhà đầu tư trên thị trường ); dẫn đến nhiều hoạt động cạnh tranh không lãnh mạnh. Ví dụ, mặc dù đã có sự thõa thuận giữa các CTCK về việc không tiếp tục giảm phí môi giới, VCBS vẫn sử dụng các hình thức khuyến mãi như dự đoán tỷ số bóng đá để miễn giảm phí giao dịch nhằm thu hút các nhà đầu tư từ các CTCK khác.
Hiện nay cơ cấu doanh thu của các CTCK đã có sự thay đổi đàng kể. Nếu như trong thời gian đầu, doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của CTCK và tiếp đến là các hoạt động tự doanh, môi giới thì đến quý I/2004 doanh thu từ hoạt động tự doanh và môi giới chiểm tỷ trọng đáng kể. Tính đến cuối thánh 12/2003 số lượng tài khoản của các nhà đầu tư mở tại các CTCK lên tới 16.000 trong đó tài khoản của các nhà đầu tư cá nhân là chủ yếu.
2.3 Thực trạng các hoạt động kinh doanh của Công ty
Sự kiện trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh khai trương và đi vào hoạt động tháng 7/2000 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh hình thức gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng, giờ đây các doanh nghiệp và nhà đầu tư còn có thể huy động và đầu tư vốn trực tiếp thông qua TTCK. Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương là công ty thứ 7 đi vào hoạt động trên thị trường. Ban đầu Ngân hàng Công Thương dự tính chấp nhận thua lỗ trong ba năm, nhưng thực tế hoạt động cho thấy kết quả kinh doanh khá khả quan, công ty liên tục làm ăn có lãi và tăng trưởng cao. Có được điều này là do sự năng động nhạy bén của ban lãnh đạo công ty cũng như đội ngũ nhân viên của các phòng ban. Mặt khác công ty cũng nhận được sự hỗ trợ về con người, phương tiện vật chất kỹ thuật của Ngân hàng Công Thương Việt Nam và sự quan tâm quan tâm chỉ đạo của Chính phủ tới thị trường.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm
(đơn vị tính: triệu đồng)
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Doanh thu
6.583
16.000
Chi phí HĐKD
1.300
6.700
Chi phí QLDN
2.800
3.200
LN + Lãi vay
2.483
6.100
Lợi nhuận
1.400
2.400
5.700
Nguồn: IBS
Trong đó đối với từng hoạt động được thể hiện như sau:
2.3.1 Phòng môi giới
Làm trung gian thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán theo yêu cầu của khách hàng. Tư vấn giúp khách hàng đưa ra những quyết định mua, bán hợp lý. Cung cấp kịp thời tới khách hàng những thông tin giao dịch chứng khoán sau từng phiên giao dịch, thông tin về tài khoản cá nhân khách hàng, thông tin về các tổ chức niêm yết. Ngoài ra còn tổ chức các buổi thuyết trình, bình luận xu thế biến động của thị trường, tổng hợp diễn biến giao dịch trong tuần. Thực hiện lệnh mua bán chứng khoán thông qua hệ thống các đại lý, qua điện thoại, fax...Vì vậy số tài khoản của khách hàng mở tại công ty tăng hàng năm. Tính đến cuối năm 2003 số tài khoản của khách hàng mở tại công ty là 2.000 tài khoản chiếm khoảng 10% số lượng tài khoản trên toàn thị trường. Trong đó có nhiều tài khoản của các tổ chức cá nhân có vốn đầu tư lớn và giao dịch thường xuyên.
Bảng thống kê số lượng tài khoản qua các năm
Đơn vị: tài khoản
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Số lượng tài khoản
263
620
1000
(Nguồn IBS)
Để thực hiện nghiệp vụ này, công ty có đội ngũ các nhân viên môi giới chứng khoán trên sàn của công ty (trụ sở chính và chi nhánh) và hai đại diện giao dịch nhận lệnh và nhập lệnh của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng các trang bị về cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ thống máy tính, mạng thông tin, bảng điện tử)
Hoạt động với tư cách đại diện trung gian nên công ty được hưởng hoa hồng môi giới. Tiền hoa hồng thường được tính phần trăm (%) trên tổng giá trị mỗi giao dịch. Hiện nay, theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, phí giao dịch khách hàng phải trả cho công ty chứng khoán tối đa là 0,45% giá trị giao dịch đối với giao dịch cổ phiếu, 0,15% đối với giao dịch trái phiếu. Tuy nhiên trong chính sách khách hàng của công ty hiện nay đang thực hiện chế độ ưu đãi về hoa hồng môi giới cho các khách hàng có doanh số giao dịch lớn trong tháng (từ 100 triệu đồng trở lên). Doanh thu qua các năm cũng tăng và biến động cùng với xu thế của thị trường. Năm 2001 hoạt động môi giới nhộn nhịp, nhưng sang các năm 2002, 2003, thì hoạt động trầm lắng xuống. Đầu năm 2004 thị trường khởi sắc trở lại, với những động thái mang tính tích cực.
Kết quả hoạt động kinh doanh của phòng môi giới:
(đơn vị tính triệu đồng)
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Doanh thu từ môi giới
807
520
300
(Nguồn IBS)
2.3.2 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
Cùng với tăng nhanh doanh số của các hoạt động ở các nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành. IBS vẫn hết sức chú trọng các hoạt động dịch vụ tư vấn doanh nghiệp, coi đây là mục tiêu chiến lược lâu dài và căn bản. Đã có khoảng 50 tổ chức doanh nghiệp được IBS chăm sóc thường xuyên và cung cấp dịch vụ liên quan (tư vấn chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, tư vấn định giá hoặc tái thẩm định giá trị doanh nghiệp, tư vấn hoàn tất cổ phần hoá, tư vấn làm trung gian đấu giá phát hành, tư vấn niêm yết, tư vấn đầu tư, lưu ký và thực hiện quyền cổ đông, can thiệp vay cầm cố thế chấp...).
Tư vấn cho tổ chức phát hành: Hoạt động tư vấn cho tổ chức phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tài chính đến xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn về các loại chứng khoán phát hành hay giúp tổ chức phát hành cơ cấu lại tài chính, hỗ trợ các công ty trong quá trình cổ phần hoá chuyển đổi hình thức sở hữu và phát hành cổ phiếu ra công chúng. Những thành công bước đầu trong việc triển khai dịch vụ tư vấn doanh nghiệp đã giúp công ty tự tin đẩy mạnh nghiệp vụ này trên toàn quốc. Đặc biệt, được sự hậu thuẫn mạnh từ phía NHCTVN cũng như sự tín nhiệm cao của khách hàng, Công ty đã khẳng định được vị thế của mình trong hoạt động tư vấn doanh nghiệp. Điều này được khẳng định trong thời gian rất ngắn từ quý III đến nửa đầu quý IV/2003, Công ty đã ký được 10 hợp đồng tư vấn doanh nghiệp tạo nguồn thu khoảng 500 triệu đồng.
Tư vấn cho khách hàng: Là hoạt động tư vấn cho khách hàng có nhu cầu tham gia TTCK trong việc đưa ra quyết định liên quan tới mua, bán chứng khoán.
Ngoài ra, nghiệp vụ tư vấn còn bao gồm việc đưa ra các thông tin phân tích, nhận định (dưới dạng các ấn phẩm sách, báo, bản tin) của công ty về diễn biến thị trường và từng loại chứng khoán.
Công ty đã tuyển dụng và đào tạo những chuyên gia phân tích tài chính, phân tích thị trường, đồng thời kết hợp với các chuyên gia tín dụng của ngân hàng Công Thương Việt Nam trong việc đánh giá tài chính doanh nghiệp.
Cùng với môi giới, nghiệp vụ phân tích được triển khai ngay từ đầu và đến nay đã tạo được sự tín nhiệm không nhỏ đối với khách hàng.
Mục đích của hoạt động phân tích là cung cấp cho khách hàng những thông tin và những nhận định riêng của nhà phân tích về từng công ty và cổ phiếu niêm yết trên TTCK, từ đó giúp các nhà đầu tư xác định được mức giá và thời điểm mua bán hợp lý. Ngoài ra còn giúp khách hàng tạo lập danh mục đầu tư hợp lý tuỳ thuộc vào yêu cầu nhằm tối đa hoá lợi nhuận trong giới hạn rủi ro thấp nhất. Hiện nay hoạt động phân tích của công ty được tiến hành dựa trên hai phương pháp chính: phân tích cơ bản (dựa trên tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết) và phân tích kỹ thuật (dựa trên đồ thị biến động giá và khối lượng các cổ phiếu trên thị trường).
Hai phương pháp phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản được tiến hành độc lập với nhau. Tuy nhiên việc kết hợp cả hai phương pháp này cũng đem lại hiệu quả cao do chúng có thể bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
Mức phí cho hoạt động tư vấn sẽ được thoả thuận giữa khách hàng với công ty. Hiện tại, để thực hiện chính sách tiếp thị, công ty không thu phí đối với hoạt động tư vấn. Nhưng dự kiến cuối năm 2004 sẽ thu phí đối với hoạt động này.
2.3.3 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty là giúp các tổ chức phát hành chuẩn bị các điều kiện cần thiết (tư vấn về cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp, trung gian tín dụng), thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán (lập hồ sơ xin phép niêm yết, thăm dò thị trường); thực hiện việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành cho công chúng đầu tư.
Theo quy định hiện nay việc bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam chỉ áp dụng phương thức “cam kết chắc chắn”, nghĩa là công ty cam kết sẽ phân phối toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có thực hiện phân phối được hết ra công chúng hay không. Để thực hiện nghiệp vụ này, xu hướng của công ty là sẽ kết hợp với các công ty chứng khoán và các tổ chức tín dụng khác hình thành tổ hợp bảo lãnh để chia sẻ trách nhiệm, hạn chế rủi ro.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành sẽ đem lại cho công ty phí bảo lãnh phát hành (hiện nay, phí bảo lãnh phát hành tối đa theo quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là 3% tổng giá trị bảo lãnh phát hành) và lợi thế là thu hút các cổ đông của tổ chức phát hành lưu ký cổ phiếu tại công ty. Bộ phận bảo lãnh đã thực hiện được 20 đợt với tổng giá trị bảo lãnh 2000 tỷ đồng. Doanh thu từ bảo lãnh phát hành cũng có sự chuyển hướng tích cực như năm 2002 chỉ là 80 triệu đồng, nhưng năm 2003 con số này đã lên tới hơn 5,1 tỷ đồng. Đây là một bước tiến quan trọng của công ty trong việc chiếm lĩnh thị trường và công tác tiếp thị bảo lãnh phát hành.
2.3.4 Phòng tự doanh
Nghiệp vụ tự doanh của công ty là nghiệp vụ mua bán chứng khoán với nguồn vốn của công ty nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ mua bán và sở hữu chứng khoán. Với nghiệp vụ này, công ty có thể tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung, trên thị trường phi tập trung (mua bán các loại chứng khoán chưa niêm yết), góp vốn vào các doanh nghiệp đang trong quá trình cổ phần hoá, ngoài ra công ty còn có thể thực hiện mua bán các giấy tờ có giá như: thương phiếu (hối phiếu, lệnh phiếu), tín phiếu kho bạc.
Kết quả hoạt động của bộ phận tự doanh:
(đơn vị tính triệu đồng)
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Doanh thu từ tự doanh
30
145
1.900
(Nguồn IBS)
2.3.5 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Là nghiệp vụ giúp khách hàng quản lý vốn thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo tiêu chí vì quyền lợi của khách hàng với phương châm phân tán rủi ro, đảm bảo nguồn doanh lợi.
Để thực hiện nghiệp vụ này, giữa công ty và khách hàng sẽ ký hợp đồng trong đó khách hàng uỷ thác cho công ty một số vốn và công ty sẽ thực hiện quản lý số vốn đó với các điều khoản cụ thể theo yêu cầu của khách hàng (ví dụ về danh mục chứng khoán khách hàng lựa chọn hay đơn thuần khách hàng chỉ yêu cầu về tỉ suất lợi nhuận mà danh mục đầu tư đem lại cho khoản vốn mà khách hàng bỏ ra). Nghiệp vụ này sẽ đem lại khoản phí quản lý danh mục đầu tư cho công ty. Từ chỗ chỉ hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn điều lệ được ._.y ngại lên sàn giao dịch, vì vậy trong hơn 100 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết thì chỉ có 21 công ty niêm yết. Diễn biến giá trên thị trường rất phức tạp, khó dự đoán. Thời gian đầu giá tăng liên tục nhưng khối lượng bán lại rất ít, ngược lại khi thị trường xuống dốc liên tục giá giảm thì lại bán ra nhiều mà không mua. Điều này làm cho các công ty chứng khoán thực sự khó khăn. Đồng thời, khi thị trường hoạt động tẻ nhạt, kém sôi động cũng tác động không ít đến tâm lý của nhân viên công ty. Cảm giác buồn tẻ trên sàn giao dịch đã phần nào khiến các nhân viên mất đi cảm giác hào hứng và hăng say làm việc. Mặt khác, mặc dù khung pháp lý cho hoạt động của TTCK đã được ban hành nhưng vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, mới chỉ có nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động về chứng khoán và TTCK. Một số điểm liên quan đến phát hành chứng khoán chưa được quy định rõ như: việc phát hành và niêm yết chứng khoán của các ngân hàng thương mại cổ phần... Bên cạnh đó, các quy định về công khai sản xuất- kinh doanh, cơ cấu sở hữu, bộ máy quản trị của doanh nghiệp chưa được áp dụng một cách rộng rãi, hoạt động kinh doanh của hầu hết các công ty chứng khoán và các chủ thể khác tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường đều bị thua lỗ mà chưa tìm ra biện pháp khắc phục.
Theo đánh giá của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thì IBS là thứ 7 trong 14 công ty chứng khoán. Số cán bộ ít song đạt lợi nhuận cao, trong khi các công ty chứng khoán khác đang bị thua lỗ. Với 55 tỷ vốn điều lệ được cấp ban đầu, công ty vẫn chưa triển khai tất cả các nghiệp vụ được phép do thiếu vốn và thiếu người. Công ty cần vốn để thực hiện các kế hoạch và đề án kinh doanh đã đề ra. Khi tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, nếu không đủ vốn, các công ty chứng khoán phải liên kết để thực hiện hợp đồng bảo lãnh, trong đó, công ty nào có vốn điều lệ lớn sẽ đóng vai trò “cầm chịch”. Thực tế cho thấy, vốn càng lớn thì càng có lợi và sức cạnh tranh càng cao. Do vậy, hiện tại, IBS vẫn còn thiếu vốn, đây cũng là một khó khăn của công ty. Mặt khác, IBS vẫn có hệ thống cán bộ công nhân viên còn quá mỏng. Toàn công ty có 57 cán bộ công nhân viên ở cả trụ sở chính tại Hà Nội và chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Khi Nhà nước mở thêm Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội nghĩa là công việc về đại thể sẽ tăng gấp đôi, trong đó có 3 người phải nhập lệnh hàng ngày tại sàn. Cùng với điều đó, khi mạng lưới chi nhánh mở rộng cần cán bộ làm việc tại chi nhánh và quản lý các đại lý nhận lệnh, khi chuyển giai đoạn cần cán bộ để mở rộng các phòng và bổ sung cán bộ cho các bộ phận hiện mới bắt đầu triển khai. Với số lượng cán bộ công nhân viên như hiên nay, thực sự IBS gặp rất nhiều khó khăn.
IBS là công ty chứng khoán trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Nhưng cho đến nay, IBS vẫn chưa được cư xử như đối với chi nhánh cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần là một công ty TNHH một thành viên.
3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu những điều kiện thuận lợi, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân dẫn tới điều đó, chúng ta thấy rằng IBS cần phải có những biện pháp để khắc phục khó khăn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
3.2.1 Đa dạng và phát triển đồng bộ các hoạt động
Một đặc trưng của CTCK là các bộ phận hoạt động tương đối độc lập, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Trái lại, giữa các hoạt động của Công ty có mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau rất nhiều. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động, IBS không còn cách nào hơn là phải thực hiện đa dạng hoá, phát triển đồng đều các hoạt động của mình, tạo nên một sức mạnh tổng hợp cho công ty. Chất lượng hoạt động được nâng cao, Công ty sẽ tạo được uy tín trên thị trường, hoạt động kinh doanh có điều kiện phát triển hơn và do đó có thể nâng cao tiềm lực về vốn. Ngược lại, uy tín và tiềm lực vốn của Công ty có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển, thực hiện tốt hơn nữa các hoạt động.
Là một trong những công ty có số vốn điều lệ lớn hiện nay (55tỷ đồng) cộng với sự hỗ trợ của ngân hàng mẹ, IBS có đủ điều kiện và khả năng để thực hiện tất cả các hoạt động.
Đối với tất cả các hoạt động đã triển khai, IBS cần tiếp tục thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động. Đồng thời phải tập chung nghiên cứu thị trường để triển khai mở rộng các hoạt động chưa thực hiện chưa thực hiện.
Về hoạt động tư vấn đầu tư, hiện nhu cầu khách hàng đối với hoạt động này là rất lớn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đa số các nhà đầu tư trên thị trường hiện này là những nhà đầu tư nhỏ, không chuyên, còn đang rất bỡ ngỡ trước lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Vì vậy, họ rất cần có lời khuyên từ những người có kiến thức rộng hơn và nhiều kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK để giúp họ đưa ra được quyết định đầu tư đúng đắn nhất. Bên cạnh những khách hàng đã và đang tham gia TTCK, còn một khối lượng lớn khách hàng tiềm ẩn chuẩn bị tham gia đầu tư vào TTCK thì những kiến thức về chứng khoán và TTCK của họ rât hạn chế do đó IBS cần sớm đưa ra kế hoạch cụ thể để tư vấn cho khách hàng được tốt hơn.
3.2.2 Xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực.
Như đã phân tích, để phát triển hoạt động của CTCK điều quan trọng nhất là vốn và nhân lực. Hiện nay IBS có vốn điều lệ 55 tỷ đồng. Do đó đào tạo và sử dụng nhân lực là một trong những chính sánh hàng đầu mang tính chiến lược trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của công ty. Do tính non trẻ của thị trường nên hầu hết các nhân viên của công ty đều từ ngành ngân hàng chuyển sang, số nhân viên còn lại đa số mới ra trường, số nhân viên đã có kinh nghiệm từ những thị trường tiên tiến rất ít. Trước thực tế này, Công ty phải tìm cách khai thác mọi nguồn nhân lực, kết hợp và tận dụng các mô hình đào tạo và nguồn tài trợ khác nhau để phục vụ cho công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhân viên của Công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau
- Cử cán bộ tham gia các công trình đào tạo và khoá huấn luyện ở trong và ngoài nước về phục vụ cho Công ty.
- Phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, tận dụng nguồn tài trợ để tổ chức các khoá học, nâng cao trình độ cho nhân viên tại chính công ty.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các nhân viên tự túc đi học tập và nghiên cứu sau đó về phục vụ Công ty.
- Thực hiện các công trình tự nghiên cứu, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, phổ biến kiến thức trong nội bộ Công ty.
- Có các chính sách hỗ trợ việc thuyên chuyển, điều động để phát huy các thế mạnh của từng cá nhân trong Công ty.
- Chuẩn hoá các tiêu chuẩn về nhân viên của Công ty, về bộ máy nhân lực, từ đó có những hình thức khen thưởng thích đáng
- Hàng năm trích lập quỹ đào tạo để phục vụ cho các mục đích về đào tạo nguồn nhân lực trong giai đoạn tiếp theo.
Trong chính sách nhân lực, Công ty nên quan tâm thực hiện chính sách "hoà nhập". Đó là việc kết hợp hài hoà giữa lợi ích khách hàng và lợi ích Công ty thông qua sự tôn trọng và hỗ trợ những sáng tạo, năng động của các đơn vị kinh doanh như phòng giao dịch, các chi nhánh, bộ phận hoạt động. Một lý do của chính sách "hoà nhập" là do những biến động trên TTCK nhiều khi không lường trước được nên các đơn vi kinh doanh cần được trao quyền tự quyết trong phạm vi nhất định và không gây ảnh hưởng xấu đén các hoạt động dài hạn của công ty. Điều này giúp Công ty bắt được những cơ hội đến nhanh chóng và chánh được rủi ro khi có sự thay đổi bất thường của TTCK.
Nếu xây dựng được hệ thống chuyên trách phân tích thị trường, Công ty sẽ tránh được sự trùng lập lãng phí và tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí trong qúa trình nghiên cứu, phân tích và sử dụng lượng thông tin một cách có hiệu quả nhất.
3.2.3 Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý:
Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một công ty chứng khoán. Với phương châm phục vụ: “Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của IBS” thì một giải pháp về khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của IBS trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành thị phần với công ty chứng khoán khác.
Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ với nhau. Một chính sách khách hàng hợp lý bao gồm:
Chính sách giá cả hấp dẫn: Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, các mức phí của công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà công ty theo đuổi. Mức phí đưa ra phải phù hợp từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút thêm khách hàng mới. Để thực hiện điều này, công ty có thể tiến hành phân tổ khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Ví dụ, đối với khách hàng có uy tín, thường xuyên có những giao dịch với giá trị lớn sẽ được hưởng mức phí ưu đãi.
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi IBS cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới, cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà...
Chủ động tìm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước mà còn nhằm vào cả các nhà đầu tư nước ngoài, không những nhằm vào các nhà đầu tư cá nhân mà còn nhằm vào các tổ chức. Thực hiện được chính sách này, tức là tìm được khách hàng mới, công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn, có cơ hội tốt trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho khách hàng mới, từ đó có cơ sở thực hiện các nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư... cho khách hàng để tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao uy tín của mình.
Bảo đảm phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo chính là một nghệ thuật giữ khách hàng hiệu quả nhất. Thái độ của nhân viên có thể tạo nên hình ảnh của công ty trong khách hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách hàng. Ngoài ra, các cán bộ nhân viên còn phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cẩn thận không để mắc sai sót, nhầm lẫn tạo sự an tâm, tin tưởng tuyệt đối từ phía khách hàng.
Tổ chức hội nghị khách hàng: IBS có thể định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng bởi vì đây sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa các nhà đầu tư với công ty. Và hơn thế nữa, hội nghị khách hàng sẽ có lợi cho cả hai bên, khách hàng và công ty.
Về phía khách hàng, trước hết họ sẽ được cung cấp những văn bản pháp lý mới nhất liên quan đến chứng khoán và TTCK, tránh được những sai phạm không đáng có khi tham gia đầu tư trên TTCK. Tiếp đến, họ có thể tham khảo những bài phân tích, đánh giá của các chuyên gia trong công ty về tình hình TTCK, tình hình hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết. Cái lợi mà khách hàng có được chính là ở chổ: dựa trên các thông tin có được, họ tự biết điều gì nên và không nên làm, đầu tư như thế nào trong thời gian tới để có hiệu quả cao nhất.
Về phía công ty, hội nghị khách hàng là một dịp tốt để tăng cường mối quan hệ với các nhà đầu tư, là một dịp để các nhà đầu tư hiểu kỹ hơn về công ty ty thông qua các loại hình dịch vụ mà công ty đang cung cấp cho họ. Hội nghị khách hàng sẽ giúp cho công ty tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía các nhà đầu tư và công chúng. Hơn nữa, thông qua hội nghị khách hàng, công ty còn cho thấy khách hàng là tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh của mình, là mối quan tâm hàng đầu của mình để từ đó khách hàng có niềm tin vững chắc vào công ty.
3.2.4 Hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh.
Cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật và công nghệ phần mềm là những yếu tố hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của công ty diễn ra suôn sẻ, đạt hiệu quả cao. Vì vậy, Công ty cần chú trọng đầu tư vào lĩnh vực này. Sau đây là một số gợi ý đối với Công ty về vấn đề này:
- Thường xuyên nâng cấp trang thiết bị hoạt động kinh doanh cho cán bộ công nhân viên của Công ty, đảm bảo cho mọi người có đủ điều kiện làm việc theo tác phong công nghiệp, phát huy tối đa khả năng làm việc của mình.
- Để phục vụ khách hàng tốt hơn, Công ty cần có một màn hình tốt, chỗ ngồi cho khách hàng rộng rãi thoải mái. bảng điện tử hiện nay của Công ty phần nào chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Công ty cần trang bị bảng điện tử tốt hơn.
- Thực hiện đặt lệnh trực tiếp qua Internet giúp cho các nhà đầu tư không phải trực tiếp đến Công ty để đặt lệnh, tiết kiệm thời gian và chi phí cho nhà đầu tư.
Tóm lại, giải pháp về công nghệ thông tin cần tập chung vào các mặt sau:
- Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin khách hàng bao gồm nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, phân loại thông tin để phục vụ cho các mục đích khác nhau.
- Thiết kế và cài đặt mạng cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn.
- Có chương trình dự phòng kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng vị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp.
Cùng với sự phát triển và sôi động của TTCK, công ty chứng khoán IBS cũng buộc phải có sự phát triển không ngừng và việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện kinh doanh là một tất yếu đang được quan tâm hiện nay. Với tình hình của công ty như hiện nay, công ty nên tập trung các giải pháp về công nghệ thông tin, đó là: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng, bao gồm nhiều dữ liệu khác nhau, hình thành ngân hàng dữ liệu phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng và khai thác khác nhau. Thiết kế và cài đặt cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng, kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. Trước mắt, IBS cần hoàn thiện trang Web, đồng thời triển khai xây dựng một hệ thống tin học mạnh, đảm bảo vi tính hoá toàn bộ các nghiệp vụ chứng khoán, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, xây dựng trước một bước cơ sở vật chất để tạo điệu kiện cho khách hàng kinh doanh qua mạng.
3.2.5 Tăng cường xây dựng các mối quan hệ công ty chứng khoán nước ngoài.
Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của IBS, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các công ty chứng khoán nước ngoài. IBS cần củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có, chọn các công ty chứng khoán, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Đồng thời, IBS cần mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển mối quan hệ chặt chẽ với công ty chứng khoán các nước ASEAN, đặc biệt với các công ty chứng khoán của các nước láng giềng như: Thái Lan, Trung Quốc...
3.3 Một số kiến nghị.
Để CTCK Công thương thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian hoạt động có hiệu quả trên TTCK, phát huy tích cực vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK nói riêng và của nền kinh tế nói chung, chí với sự nỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có thẩm quyền liên quan. Dĩ nhiên, sự quan tâm của chính phủ cũng rất cần thiết. Trên cơ sở những tồn tại và những hạn chế nhữgn nhu cầu chưa được đáp ứng của công ty trong qúa trình hoạt động , bài viết xin được đưa ra một số kiến nghị đối với cổ phiếu, Uỷ ban chứng khoán nn cũng như các bộ ngành liên quan nhằm tạo điều kiện cho công ty phát triển một cách toàn diện.
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ.
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
TTCK là một thể chế đặc biệt bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của một đất nước khi có những biến động. Với cơ chế vận hành phức tạp, nên các quá trình từ phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho đến các giao dịch trên thị trường thứ cấp đòi hỏi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của luật pháp về chứng khoán và TTCK. Ngoài các quy định nêu trên, hoạt động của TTCK còn chịu sự chi phối của các văn bản luật khác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, đầu tư nước ngoài, phá sản...vv. Hoạt động của TTCK nói chung, bên cạnh những đặc tính ưu việt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, còn chứa đựng những hạn chế, khuyết tật có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Vì vậy, sự điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK này nhằm tạo ra những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của nền kinh tế thị trường và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình hoạt động thị trường. Giữa các chủ thể của thị trường hình thành những mối quan hệ kinh tế-xã hội đan xen. Công ty chứng khoán là một chủ thể quan trọng của thị trường, hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả tốt hay không, một mặt phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường.
Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu của nó đã được hình thành, bao gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và TTCK. Tuy nhiên, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và nhiều quan hệ trong TTCK chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức TTCK của nước ngoài mà chưa được hay còn ít được kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh và các văn bản ở các ngành, lĩnh vực liên quan khác nhằm tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của TTCK Việt Nam.
Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện những văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động của TTCK cũng như các công ty chứng khoán để phù hợp với tình hình phát triển thực tế của TTCK Việt Nam. Mặt khác, với tình hình và xu hướng của thị trường hiện nay, Chính phủ cũng cần có các quy định cụ thể về giao dịch điện tử trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Điều này rất quan trọng vì đó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch sẽ rất phổ biến trong tương lai này.
3.3.1.2 Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán
Ưu đãi thuế cho TTCK là chính sách quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các công ty chứng khoán. Hiện nay ngoài việc hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm hoạt động, các công ty chứng khoán còn được giảm 50% số thuế doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, quy định ưu đãi thuế như vậy đối với các công ty chứng khoán vẫn chưa thoả đáng do các công ty này mới đi vào hoạt động, doanh số chưa nhiều, TTCK chưa sôi động, chưa phát triển nên hiệu quả hoạt động còn thấp. Chắc chắn các công ty chứng khoán đều bị lôc trong những năm đầu hoạt động. Do vậy, hết thời hạn được giảm thuế như trên các công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn khi tính đến hiệu quả kinh doanh.
Chính vì thế cần phải có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các công ty chứng khoán mới có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào TTCK. Cụ thể, mức ưu đãi trong thời gian tới nên là miễn thuế cho 5 năm đầu hoạt động và giảm thuế còn 50% trong 3 hoặc 5 năm tiếp theo.
Đối với thuế giá trị gia tăng, mặc dù Bộ tài chính đã cam kết sẽ chính thức đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào diện không chịu thuế VAT được ghi tại điều 4 luật thuế này, nhưng các công ty chứng khoán đã không mấy hứng khởi vì việc đưa vào diện không chịu thuế VAT đồng nghĩa với việc sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cho nên, các công ty chứng khoán nên được áp dụng thuế suất VAT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là 0%. Với thuế suất này, các công ty sẽ được hoàn thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra và đây chính là điều mà không chỉ IBS mà các công ty chứng khoán khác đều mong đợi.
3.3.2. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán.
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán còn phải chấp hành về đạo đức kinh doanh, quy định về hạn mức áp dụng đối với kinh doanh... do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán quy định.
3.3.2.1. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với công ty chứng khoán
NOC
NOCR = x 100 > =100%
Tổng rủi ro
Trong đó:
NOC: chỉ tiêu vốn hoạt động ròng
NOC = Tài sản ròng (Tổng tài sản - Tổng nợ) -Tổng các khoản gia tăng
+ Tổng các khoản giảm trừ.
Tổng rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro cơ bản
+ Rủi ro tập trung tín dụng - Phần bù rủi ro
Quy định về việc trích lập dự phòng vốn điều lệ: Quy định này yêu cầu công ty chứng khoán trong quá trình hoạt động phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của công ty. Việc thực hiện quỹ này được thực hiện theo những quy định hiện hành đối với các loại hình công ty cổ phần và TNHH.
3.3.2.2.Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin
Quy định này được áp dụng ở các TTCK trên thế giới, theo đó các công ty chứng khoán phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và Sở giao dịch chứng khoán nếu công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, công ty chứng khoán phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của công ty chứng khoán phải được công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận.
Mặt khác, thông tin về TTCK là cơ sở hoạt động của TTCK, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành công ty. Các thông tin sai lệch trên TTCK có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Ngay từ đầu xây dựng TTCK tại Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên TTCK. Các quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, bên cạnh tờ tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy.
3.3.2.3. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó.
Theo số liệu điều tra của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất.
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng công Thương Việt Nam.
3.3.3.1 Tăng vốn điều lệ.
Tăng vốn lên 200 tỷ vào năm 2005, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần tăng vốn điều lệ cho công ty.
3.3.3.2 Về cơ chế chính sách
Như đã đề cập ở phần trên, hiện tại IBS trong quan hệ với Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn chưa được cư xử như đối với chi nhánh Ngân hàng cấp I, chưa đáp ứng hết tinh thần của điều lệ công ty là một công ty TNHH một thành viên.
Chính vì vậy, Ngân hàng Công thương Việt Nam cần cho các Ban chuyên môn phối hợp với IBS xây dựng các cơ chế, chính sách về vốn, kế hoạch, tài chính, nhân sự cho đúng với tinh thần của điều lệ và luật định đối với công ty TNHH một thành viên.
3.3.3.3 Đào tạo nước ngoài.
Đề án thuê tư vấn và đào tạo nước ngoài do các đối tác Thái Lan đảm nhiệm là cơ sở cho việc phát triển và cạnh tranh bền vững của IBS về lâu dài. Do vậy, Ngân hàng Công thương cần sớm đưa đề án vào trong chương trình đào tạo của mình.
Hoạt động của IBS được lộ trình hoá cho một khoảng thời gian dài, trong đó năm 2003 là năm bản lề giữa hai giai đoạn. Kết quả đạt được của thời gian vừa qua là rất đáng khích lệ và đã tạo tiền đề cho quá trình phát triển thành công trong những năm tới. Việc sử dụng và nghiên cứu đồng bộ các giải pháp và kiến nghị trên sẽ góp phần giúp công ty ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh cũng như củng cố vị trí của mình trên TTCK Việt Nam.
Kết luận
ở Việt Nam hiện tại các CTCK đang còn trong giai đoạn đầu và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào TTCK cho dù gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình nhưng các công ty cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để có thể phát triển tốt trong tương lai không xa.
Từ những buổi đầu thành lập CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và tạo được lòng tin noi khách hàng như lòng tin ở công chúng đầu tư. Tuy nhiên, chặng đường trước mắt đỗi với công ty là rất khó khăn và đầy thử thách. Do đó, công ty cần phải có những bước đi cụ thể để tự mình vượt qua nhứng khó khăn thử thách hướng tới sự phát triển bền vững.
Qua thời gian nghiên cứu và thực tập tại CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam, em đã hiểu phần nào các hoạt động kinh doanh và mạnh dạn đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến của thầy cô và cán bộ công ty để em có thể hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
tài liệu tham khảo
Giáo trình thị trường chứng khoán
Trường Đại học Kinh tế quốc dân. NXB Tài chính, 2002.
Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
NXB Chính trị quốc gia
Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Tạp chí đầu tư chứng khoán.
Bộ Kế hoạch và đầu tư
Tạp chí Chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Thông tin chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Luận văn tốt nghiệp khoá 41
9. Giáo trình tài chính doanh nghiệp
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29183.doc