Mục lục
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà Nội là vùng có truyền thống rau từ lâu đời. Nghề trồng ra của Hà Nội gắn liền với lịch sử xây dựng và phát triển thủ đô qua nhiều thời kì và cho đến nay vẫn giữ một ví trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của thành phố. Sản xuất rau đã và đang đem lại nguồn thu nhập quan trọng cho nông dân vùng ngoại thành. Trong giai đoạn hiện nay, trước những yêu cầu mới của quá trình phát triển kinh tế xã hội đang đòi hỏi ngành trồng rau của Hà Nội
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện tổ chức tiệu thụ sản phẩm rau an toàn trên địa bàn Hà Nội (76tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải có sự đổi mới tích cực, chuyển hướng sang sản xuất các sản phẩm chất lượng cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
Khi đời sống kinh tế và nhận thức của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu tiêu dùng các loại sản phẩm rau xanh ngày càng lớn. Nhưng trong những năm gần đây, đứng trước thực trạng mất an toàn trong tiêu dùng các loại thực phẩm trong đó có rau xanh, người tiêu dùng đã quan tâm nhiều hơn tới các sản phẩm sạch và chất lượng. Do đó việc phát triển sản xuất và cung ứng các loại sản phẩm này hiện nay là rất cần thiết và điều này đang tạo ra một hướng đi mới cho ngành trồng rau của Hà Nội đó là phát triển sản phẩm rau an toàn.
Trong những năm qua, việc phát triển rau an toàn ở Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng kể, qui mô diện tích và sản lượng của sản phẩm tăng lên nhanh chóng, người tiêu dùng đã biết đến sản phẩm rau an toàn. Tuy nhiên những kết quả này chưa phản ánh được hết những ưu thế vốn có của sản phẩm. Khâu tổ chức lưu thông chưa được thực hiện tương xứng, lượng rau an toàn được tiêu thụ bình quân qua các năm đi mới chỉ đạt ở mức thấp, trong khi nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm rau sạch và an toàn ngày càng tăng lên. Đây là một mâu thuẫn lớn đang cần được giải quyết.
Xuất phát từ thực tiễn khó khăn đó và để góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất cũng như cung ứng rau an toàn phát triển, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức tiệu thụ sản phẩm rau an toàn trên địa bàn Hà Nội” để nghiên cứu trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lí luận thực tiễn về phát triển sản xuất và tiêu thụ rau an toàn, đồng thời đánh giá thực trạng tổ chức tiêu thụ lưu thông sản phẩm rau an toàn của Hà Nội trong thời gian qua. Từ đó đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện tổ chức tiêu thụ rau an toàn của Hà Nội trong những năm tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp thu thập số liệu qua sách báo và các phương tiện truyền thông, phương pháp duy vật biện chứng và một số phương pháp khác…
4. Kết cấu nội dung của chuyên đề
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tiêu thụ rau an toàn
Chương II: Thực trạng tổ chức tiêu thụ rau an toàn của điạn bàn Hà Nội
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức tiêu thụ rau an toàn của Hà Nội
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tiêu thụ rau an toàn
1.1. Khái niệm sản phẩm rau an toàn
1.1.1 . Khái niệm rau an toàn
Hiện nay việc cung cấp nông sản thực phẩm, rau an toàn đảm bảo vệ sinh và chất lượng cho con người, trên cơ sở một nền nông nghiệp bền vững an toàn môi sinh là vấn đề quan trọng và ngày càng cấp bách đối với xã hội. ở nước ta, trong những năm gần đây việc phát triển sản phẩm rau an toàn đang phản ánh rõ nét xu hướng đó. Rau an toàn nó là sản phẩm của một nền nông nghiệp phát triển theo hướng sinh thái, lấy việc đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh cho người sử dụng làm mục tiêu phát triển, do đó một số vùng trồng rau đã đạt được những thành công bước đầu với sản phẩm rau an toàn này và đang mở ra những triển vọng tươi sáng cho ngành trồng rau nước ta trong những năm tới. Mặc dù vậy, nhưng trong thực tế sản xuất và tiêu dùng không ít người vẫn còn hoài nghi và đặt câu hỏi: thế nào là rau an toàn? rau an toàn khác các loại rau khác ở chỗ nào? Thực tế này cho thấy vẫn còn khá nhiều những nhận thức không đầy đủ và thiếu đúng đắn về loại sản phẩm này. Phải chăng đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho việc phát triển rau an toàn chưa tương xứng với ưu thế vốn có của nó. Do vậy, việc làm rõ các vấn đề về rau an toàn trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, nó như là một giải pháp trước mắt để thúc đẩy sự phát triển của rau an toàn.
Hiện nay, khi xem xét về khái niệm rau an toàn có khá nhiều những quan điểm và quy định từ các cơ quan và cá nhân khác nhau. Trước đây, khi mà thuật ngữ rau an toàn chưa xuất hiện thì tên gọi “rau sạch” được sử dụng một cách khá phổ biến để chỉ những loại rau đảm bảo một số tiêu chuẩn về vệ sinh nói chung.
Theo Sở khoa học công nghệ và môi trường thành phố Hà Nội thì sản phẩm rau được gọi là rau sạch khi nó đạt được các tiêu chuẩn sau:
Rau thương phẩm phải đảm bảo phẩm chất tươi, không dập nát, héo úa, sạch đất cát.
Hàm lượng Nitơrat (NO3-) kim loại nặng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, vi sinh vật tồn tại trong rau ở mức tối thiểu cho phép.
Vùng rau sạch phải được bố trí trên vùng đất có truyền thống trồng rau, có trình độ kỹ thuật thâm canh cao, có các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ như: Hệ thống giao thông để vận chuyển giống, phân bón, sản phẩm đến nơi sản xuất và tiêu thụ, hệ thống kênh mương nội đồng để cung cấp nước tưới.
Vùng rau sạch phải không nằm trong các vùng quy hoạch xây dựng đô thị trong tương lai và cách ly với khu vực sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm. Vùng rau sạch phải cách xa khu công nghiệp xa đường quốc lộ ít nhất 100 m. Trong đất và nước tưới không chưa các nguyên tố gây độc hại cho sức khoẻ con người như thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng kim loại nặng, đủ tiêu chuẩn vệ sinh...
Theo quan điểm của tiến sĩ Trần Khắc Thi thì sản phẩm rau sạch là những loại rau đảm bảo các yêu cầu sau:
Sạch, hấp dẫn về hình thức: Tươi, sạch bụi bẩn, không tạp chất, rau được thu đúng độ chín (khi có chất lượng cao nhất), không có triệu chứng bệnh, có bao bì vệ sinh hấp dẫn.
Sạch, an toàn về chất lượng: Khi sản phẩm rau không có chứa lượng thuốc bảo vệ thực vật, lượng NO3-, kim loại nặng và lượng vi sinh vật gây bệnh không vượt quá ngưỡng cho phép của tổ chức y tế thế giới.
Trên đây là hai quan điểm điển hình về khái niệm rau sạch đã được đưa ra trong những năm trước đây, từ đó chúng ta phần nào thấy được một số tiêu chuẩn cơ bản của các sản phẩm rau khi chúng được gọi là rau sạch. Tuy nhiên trong những năm gần đây khi mà các tiêu chuẩn về vệ sinh và chất lượng của các loại rau ăn được hiểu một cách cụ thể hơn thì thuật ngữ “rau an toàn” được phổ biến hơn và đôi lúc dùng để thay thế cho tên gọi “rau sạch”.
Theo khái niệm về “rau an toàn” mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra năm 1998 thì rau an toàn được hiểu như sau:
Những sản phẩm rau tươi (bao gồm các loại rau ăn củ, thân, lá, hoa, quả) có chất lượng đúng như đặc tính giống của nó, hàm lượng các hoá chất độc và mức độ nhiễm các sinh vật gây hại ở dưới mức tiêu chuẩn cho phép, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng và môi trường, thì được coi là rau đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là “rau an toàn”.
Cùng với khái niệm về rau an toàn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn còn đưa ra một số yêu cầu về chất lượng đối với “rau an toàn”:
+ Các chỉ tiêu nội chất:
Chỉ tiêu nội chất được quy định cho rau tưới bao gồm:
Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
Hàm lượng nitrat (NO3-)
Hàm lượng một số kim loại nặng chủ yếu: Cu, Pb, Ca, As...
Mức độ nhiễm các vi sinh vật gây bệnh và ký sinh trùng.
Tất cả 4 chỉ tiêu này trong từng sản phẩm của từng loại rau phải đạt dưới mức tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế. FAO/WHO hoặc một số nước tiên tiến: Nga, Mỹ... trong khi chờ Việt Nam chính thức công bố tiêu chuẩn về các lĩnh vực này.
+ Chỉ tiêu về hình thái:
Sản phẩm được thu hoạch đúng lúc, đúng yêu cầu từng loại rau; không dập nát, hư thối, không lẫn tạp chất, sâu bệnh và có bao gói thích hợp.
Như vậy qua một số khái niệm và qua một số khái niệm và quy định về rau sạch và rau an toàn được đưa ra chúng ta có thể hiểu một cách cụ thể về rau an toàn đó là những loại rau thoả mãn đồng thời ba tiêu chí sau đây:
Sản phẩm rau phải đảm bảo về mặt chất lượng: Nghĩa là rau phải có hàm lượng các chất dinh dưỡng cao đúng như đặc tính vốn có của nó, đồng thời hàm lượng các hoá chất độc hại như: hàm lượng NO3-, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hàm lượng kim loại nặng và các vi sinh vật gây hại phải ở dưới mức tiêu chuẩn cho phép.
Việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm rau phải đảm bảo an toàn vệ sinh cho cả người sử dụng, người sản xuất và môi trường sống.
Sản phẩm rau phải có hình thức tươi sạch hấp dẫn và có bao bỳ vệ sinh thích hợp.
1.1.2 . Rau an toàn là sản phẩm mang tính hàng hoá
Hiện nay khi mà cơ chế kinh tế thị trường đang phát triển một cách mạnh mẽ và có tác động tới rất nhiều lĩnh vực thì việc phát triển các hoạt động sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá là điều hết sức đúng đắn và cần thiết. Các quy luật của nền kinh tế thị trường cho thấy sự tồn tại và phát triển của một hoạt động sản xuất nào đó phụ thuộc phần lớn vào tính hàng hoá của sản phẩm và khả năng tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đó. Nếu một sản phẩm được tạo ra có nhiều ưu điểm tốt, thoả mãn được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng thì nó sẽ được tiêu thụ một cách mạnh mẽ, các hoạt động sản xuất tạo ra nó sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao và sẽ phát triển một cách thuận lợi. Trong nền kinh tế thị trường các hoạt động sản xuất luôn gắn liền với việc thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và luôn bị những nhu cầu này chi phối một cách chặt chẽ. Khi các điều kiện kinh tế xã hội thay đổi, nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng cũng biến đổi phức tạp thì đòi hỏi các hoạt động sản xuất và các sản phẩm hàng hoá cũng phải linh hoạt biến đổi sao cho phù hợp.
Đối với các sản phẩm rau ăn – một trong những sản phẩm hàng hoá điển hình của hoạt động sản xuất nông nghiệp, nó cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của quy luật thị trường. Trong những năm gần đây khi mà nền kinh tế và xã hội ngày càng phát triển, mức sống của con người được nâng cao một cách rõ rệt thì nhu cầu tiêu dùng các thực phẩm rau của xã hội cũng có sự thay đổi, chuyển từ việc tiêu dùng các loại rau chỉ thoả mãn về mặt số lượng sang sử dụng các loại rau phải đảm bảo về chất lượng an toàn vệ sinh cho người tiêu dùng.
Hiện nay các sản phẩm rau an toàn ra đời với những ưu điểm về mặt chất lượng và an toàn vệ sinh, nó đang và sẽ đáp ứng tốt hơn những yêu cầu mới của người sử dụng, hay nói cách khác khả năng thoả mãn nhu cầu, tính hàng hoá của rau an toàn sẽ cao hơn so với những loại rau thường trước đây. Rau an toàn là sản phẩm được sản xuất để bán, việc sản xuất nó cần phải tiến hành theo các quy trình kỹ thuật mới với các yếu tố đầu vào có chi phí cao hơn so với các loại rau thông thường, do đó để hoạt động sản xuất này có hiệu quả thì sản phẩm rau an toàn phải là hàng hoá và được tiêu thụ một cách hợp lý. Như vậy xét cả về mặt bản chất và yêu cầu thì rau an toàn là một sản phẩm có tính hàng hoá cao, song để thúc đẩy được điều này và tạo điều kiện để tiêu thụ sản phẩm rau an toàn thì chúng ta cần phải thực hiện nhiều các biện pháp, cách làm đúng đắn và sát thực hơn nữa, đặc biệt là đối với các khu vực mà nhu cầu tiêu dùng thực phẩm chất lượng cao đang tăng nhanh như các khu đô thị và các thành phố lớn.
1.2. Sự cần thiết phải sản xuất và tổ chức tiêu thụ rau an toàn.
1.2.1. Nhu cầu rau an toàn.
Rau xanh là thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của con người, đặc biệt là trong một xã hội có nền kinh tế phát triển. Thành phần rau xanh ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu bữa ăn của mỗi người bởi vì nó có khả năng cung cấp một hàm lượng cao các Vitamin và chất khoáng cần thiết cho cơ thể, đồng thời rau còn có tác dụng làm hạn chế một số bệnh tật của con người. Do đó nhu cầu tiêu dùng rau của xã hội là rất lớn và có xu hướng tăng cao trong những năm tới do nhận thức về tác dụng của rau đối với đời sống của con người ngày càng tăng.
Theo số liệu thống kê của tổ chức Nông lương thế giới (FAO): hiện nay trên thế giới có khoảng 15 triệu ha đất canh tác được sử dụng cho việc trồng rau. Sản lượng rau hàng năm của toàn thế giới khoảng 450 triệu tấn, trong đó 5 nước có sản lượng lớn nhất là Trung Quốc, ấn Độ, Nga, Mỹ và Nhật Bản. Nhưng cũng theo đánh giá của tổ chức này thì với tình hình sản xuất rau như hiện nay cũng mới chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu của toàn thế giới. FAO cũng đã dự báo về nhu cầu rau xanh tăng bình quân hàng năm từ nay đến 2010 là 3,6%. Các nước có nhu cầu nhập khẩu rau lớn là những nước có mùa đông lạnh giá không sản xuất rau được rau như các nước: Đông Âu, Bắc Âu hoặc các nước và khu vực tuy có điều kiện khí hậu cho phép nhưng lại thiếu đất, thiếu lao động do bị thu hút vào các ngành công nghiệp, dịch vụ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, hàng năm phải nhập khẩu hàng triệu tấn rau quả các loại.
Bên cạnh tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu đối với mặt hàng rau quả hiện nay thì xu hướng tiêu dùng trong tương lai của nhiều nước trên thế giới là tăng cường khai thác và sử dụng các chất dinh dưỡng từ thực vật và các loại sinh tố khác có trong rau quả. Điều này lại càng góp phần làm cho nhu cầu về rau quả tăng lên nhanh chóng trong các năm tới.
Đối với Việt Nam nhu cầu rau quả được dự đoán sẽ tăng lên không ngừng. Với quy mô dân số tăng lên, đời sống của người dân cũng được nâng cao làm cho nhu cầu về thực phẩm , đặc biệt là các loại rau xanh ngày càng lớn. Theo một số nhà dinh dưỡng học khi nghiên cứu về khẩu phần ăn cho người Việt Nam đã chỉ ra rằng nhu cầu rau hàng ngày trung bình cho một người vào khoảng 250-300g, tức là khoảng 90-108kg/người/năm. Nhưng trên thực tế, mưc tiêu thụ rau ở người Việt Nam còn ở mức rất thấp và điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Nhu cầu tiêu thu rau an toàn ở Việt Nam
Đơn vị: kg/người/năm
Năm
84-86
87-89
89-91
91-94
94-97
97-99
Dân số (triệu người)
59
64
67
71
76
78
Mức tiêu dùng rau
42,2
45,9
46,9
47,2
48,9
50,1
Nguồn: FAO
Qua số liệu bảng trên ta thấy so với tiêu chuẩn, lượng rau mà mỗi người Việt Nam tiêu thụ trong thời gian qua là quá ít, cao nhất là trong những năm 1997-1999 mức tiêu dùng rau cũng chỉ đạt 50% so với tiêu chuẩn đưa ra. Điều này làm rõ một thực trạng đó là sự đáp ứng nhu cầu tiêu dùng rau ở nước ta còn rất thấp, đây chính là những hạn chế trong việc sản xuất và tiêu dùng rau của nhân dân ta trong những năm qua nhưng đồng thời nó cũng mở ra những triển vọng to lớn cho việc phát triển các sản phẩm rau ăn cả về mặt số lượng và chất lượng trong những năm tới ở nước ta.
Hiện nay, khi mà đời sống kinh tế của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu tiêu dùng các loại thực phẩm rau xanh ngày càng lớn. Nhưng trong những năm gần đây, đứng trước những tình trạng: mất an toàn trong tiêu dùng các loại thực phẩm rau xanh, chất lượng nông sản bị giảm sút và ô nhiễm môi trường gây nguy hại đến sức khỏe và đời sống của con người, người tiêu dùng đã quan tâm đúng mức hơn tới mức độ an toàn của thực phẩm trong đó có sản phẩm rau an toàn. Tuy nhiên việc phát triển rau an toàn hiện nay rau an toàn còn chưa cao, sản lượng rau còn quá thấp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Theo thống kê mỗi năm nước ta phải nhập hàng ngàn tấn rau quả xanh, sạch, an toàn các loại để phục vụ cho việc tiêu dùng trong nước, đặc biệt là ở các nhà hàng, khách sạn cao cấp.
Như vậy phát triển rau an toàn hiện nay có thể coi là xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu của người dân và của toàn xã hội. Đặc biệt khi mà nhu cầu của thế giới thay đổi, người tiêu dùng quan tâm nhiều đến chất lượng và vệ sinh của sản phẩm rau thì chúng ta cần phải thay đổi kịp thời để Việt Nam có thể phát huy tốt hơn lợi thế của một nước nhiệt đới gió mùa, đa dạng về chủng loại rau quả, dần đưa nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng bền vững sinh thái và đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.2.2. Sự cần thiết phải sản xuất rau an toàn
Phát triển sản xuất rau an toàn trong giai đoạn hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết và điều này được thể hiện khá rõ nét trên nhiều mặt: Việc sản xuất rau an toàn không chỉ tạo ra những sản phẩm rau có giá trị dinh dưỡng cao và đảm bảo vệ sinh cho người sử dụng mà nó còn có nhiều ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế xã hội cho các vùng trồng rau và người trồng rau.
* Rau an toàn mang lại giá trị dinh dưỡng và đảm bảo vệ sinh cho người sử dụng
Trong cuộc sống của con người, rau là loại thức ăn không thể thiếu được và có vị trí rất quan trọng đối với sức khoẻ con người. Rau là nguồn cung cấp vitamin phong phú và rẻ tiền mà nhiều thực phẩm khác không thể thay thế được, như các loại vitamin A, B, C, D, E, K; các loại axit hữu cơ và các chất khoáng rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể con người. Không những thế, sản phẩm rau còn có tác dụng chữa và hạn chế một số loại bệnh như: chất xơ trong rau có tác dụng ngăn ngừa các bệnh về tim và đường ruột; vitamin C ngăn ngừa ung thư dạ dày và lợi; vitamin D trong rau giàu caroten có thể hạn chế những biến cố về ung thư phổi. Như vậy có thể nói rau là loại thực phẩm có vai trò rất quan trọng và không thể thay thế được trong đời sống của mỗi con người.
Đối với người Việt Nam ta từ xưa đến nay rau vẫn luôn là loại thức ăn gắn liền với các bữa ăn của mỗi gia đình. Người Việt Nam ăn rau không để chỉ bổ sung các chất cần thiết cho cơ thể mà còn để bảo vệ sức khoẻ và chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ. Theo một số nghiên cứu về dinh dưỡng học thì mức tiêu dùng rau rất cần thiết cho một người Việt Nam là khoảng 90 – 108 kg/người/năm. Song trong thực tế sản xuất và tiêu dùng rau của cả nước hiện nay mới đạt 65,4 kg/người/năm, đáp ứng khoảng 60 – 73% nhu cầu. Do vậy tiếp tục phát triển sản xuất rau trong tương lai và hiện nay là vấn đề rất cần thiết và cấp bách nhằm thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng của người dân.
Nhu cầu tiêu dùng rau của con người thì ngày càng tăng cao cả về chất lượng và số lượng, nhưng hiện nay việc đáp ứng những nhu cầu này đang bị ảnh hưởng. Trong thực tế sản xuất rau ăn do nhiều nguyên nhân: sự ô nhiễm của môi trường sản xuất, sự lạm dụng quá mức trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón, sự thiếu hiểu biết của người sản xuất... đã tạo ra những sản phẩm rau suy giảm về chất lượng, thiếu an toàn về vệ sinh gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ và đời sống của người tiêu dùng. Đứng trước thực tế này chúng ta thấy cần phải có sự thay đổi và chuyển hướng trong công nghệ sản xuất rau để tạo ra những sản phẩm rau sạch, rau an toàn vừa đảm bảo cung cấp hàm lượng chất dinh dưỡng cao cho con người, vừa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Có như vậy thì nhu cầu của con người về rau – một trong những thực phẩm quan trọng không thể thiếu đối với cuộc sống mới được đáp ứng một cách toàn diện.
* Việc sản xuất rau an toàn mang ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế xã hội
Phát triển sản xuất rau có ý nghĩa rất lớn về mặt kinh tế. Cây rau là cây có giá trị kinh tế cao, 1 ha trồng rau có thể mang lại thu nhập gấp 2 – 5 lần so với trồng lúa. Rau lại là sản phẩm có tỷ suất hàng hoá lớn hơn một số cây trồng khác nên hiệu quả kinh tế của việc trồng rau đem lại thường khá cao. Cây rau có thời gian sinh trưởng ngắn, có thể gieo trồng nhiều vụ trong một năm do đó làm tăng sản lượng trên 1 đơn vị diện tích, có những loại rau như: cải canh, cải củ từ khi gieo đến khi thu hoạch chỉ mất từ 30 – 40 ngày, rau cải bắp 75 – 85 ngày, rau gia vị từ 15 – 20 ngày một lứa... cho nên một năm có thể trồng từ 2 – 3 vụ, thậm chí 4 – 5 vụ. Cây rau là loại cây dễ trồng xen, trồng gối vì vậy việc trồng rau tạo điều kiện tận dụng đất đai, nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất.
Hiện nay, phát triển sản xuất rau, đặc biệt là các loại rau an toàn và có chất lượng có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân trên co đường CNH, HĐH. Ngành sản xuất rau tạo ra mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao như: bắp cải, cà chua, tỏi, ớt, dưa chuột... Đóng góp một phần đáng kể vào nền kinh tế chung của đất nước và mở rộng quan hệ giao lưu thương mại quốc tế. Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có mùa đông ở miền Bắc lạnh thích hợp cho nhiều loại rau ôn đới, nếu khai thác tốt rau vụ đông sẽ có khối lượng rau lớn để xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, của vùng.
Sản xuất rau an toàn tạo cơ sở cho việc cung cấp nguyên liệu rau sạch và chất lượng để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng cao thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao trong nước cũng như để xuất khẩu ra nước ngoài. Điều này không chỉ góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm vể rau trên thị trường mà còn làm tăng giá trị sản phẩm hàng hoá của rau.
Đối với khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta khi cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn thì việc phát triển sản xuất rau an toàn có ý nghĩa rất quan trọng. Một khi việc sản xuất rau an toàn được thực hiện một cách hiệu quả, nó sẽ góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất và góp phần tăng thu nhập của người lao động, sắp xếp lại lao động một cách hợp lý, giải quyết việc làm cho nông dân trong những lúc nông nhàn. Trong quá trình thâm canh rau một số khâu như chăm sóc, xới xáo có thể sử dụng lao động phụ cho nên trồng rau không những tận dụng được đất đai mà còn tận dụng được lao động và các tư liệu sản xuất khác.
Sản xuất rau an toàn ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, nó còn có tác dụng rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, góp phần giữ vững cân bằng sinh thái. Trong quá trình sản xuất rau an toàn, người nông dân được đào tạo và tiếp cận với quy trình sản xuất sử dụng công nghệ sạch do đó ý thức của họ trong việc sử dụng hợp lý các loại thuốc trừ sâu thuốc bảo vệ thực vật, các loại phân bón và phương pháp sản xuất đảm bảo vệ sinh được nâng cao hơn. Chính điều này đã làm hạn chế một cách đáng kể việc đưa các hoá chất độc hại và các chất gây ô nhiễm khác vào môi trường thông qua con đường canh tác nông nghiệp. Do vậy, sản xuất rau an toàn đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường, định hướng xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại, sản xuất rau an toàn có vai trò rất quan trong đời sống và xã hội hiện nay. Sản phẩm rau an toàn không chỉ cung cấp thực phẩm chất lượng và đảm bảo vệ sinh cho con người, nguyên liệu chất lượng cao cho chế biến và sản phẩm cho xuất khẩu mà nó còn góp phần làm tăng giá trị sản lượng nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nông dân, giải quyết việc làm cho người lao động, tận dụng đất đai và điều kiện sinh thái. Do vậy phát triển sản xuất rau an toàn trong điều kiện hiện nay là đúng đắn và cần thiết, đặc biệt là ở những vùng có nhiều điều kiện thuận lợi như ở các vùng ven đô và ngoại thành ở nước ta.
1.2.3. Sự cần thiết phải tổ chức tiêu thụ rau an toàn
Theo phân tích ở các phần trên cho thấy, sản xuất rau an toàn có vị trí hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao phát triển hoạt động sản xuất này là một hướng đi đúng đắn và rất cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Rau an toàn là một loại sản phẩm hàng hoá và để phát triển một hoạt động sản xuất hàng hoá thì vấn đề tổ chức tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả có vai trò quan trọng hàng đầu. Sản xuất rau an toàn sẽ không thể phát triển được nếu như hoạt động tiêu thụ sản phẩm không được thực hiện một cách hợp lý, đó chính là quy luật quan trọng của nền kinh tế thị trường mà không riêng gì sản phẩm rau an toàn phải chịu tác động. Do vậy việc phát triển sản xuất rau an toàn luôn gắn với quá trình tiêu thụ sản phẩm và để phát triển sản xuất thì nhất thiết chúng ta phải thúc đẩy hoạt động tiêu thụ diễn ra một cách hiệu quả.
Trong những năm gần đây mặc dù hoạt động sản xuất rau an toàn đã đạt được những kết quả đáng kể bước đầu, sản lượng và diện tích qua các năm đều tăng như khâu tiêu thụ sản phẩm vẫn còn tồn tại những khó khăn không nhỏ. Do thị trường rau an toàn mới hình thành, chưa ổn định do người tiêu dùng chưa tin tưởng rau đảm bảo chất lượng an toàn vì khâu chất lượng sản phẩm làm chưa tốt, thiếu bao bì nhãn mác và phương tiện vận chuyển thô sơ nên lượng rau an toàn được tiêu thụ chưa cao. Hơn thế nữa trong thực tế tiêu thụ rau an toàn hiện nay, giá bán của sản phẩm còn rất thấp (chỉ bằng hoặc lớn hơn các loại rau thường không đáng kể) trong khi chi phí sản xuất đối với loại sản phẩm này lại khá cao do đó hiệu quả của qúa trình sản xuất và kinh rau an toàn còn rất thấp.
Như thế trước những hạn chế đáng kể này của khâu tiêu thụ đang gây ra những ảnh hưởng lớn tới việc mở rộng, phát triển sản xuất rau an toàn và làm cho sản phẩm này không phát huy được lợi thế vốn có của nó trong việc thoả mãn nhu cầu to lớn của người tiêu dùng, do vậy để đẩy mạnh phát triển rau an toàn hiện nay thì việc nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm phải được coi là biện pháp trước mắt và quan trọng hàng đầu bởi vì chỉ khi hoạt động tiêu thụ có hiệu quả thì nó mới thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.3. Đặc điểm của sản phẩm rau an toàn và tiêu thụ rau an toàn.
Ngành sản xuất rau nói chung và rau an toàn nói riêng đều có những đặc điểm riêng nhất định. Điều này đòi hỏi những người sản xuất và người quản lý phải nắm bắt được để có thể khai thác tối đa những lợi thế cũng như chủ động khắc phục những khó khăn nhằm xây dựng ngành trồng rau phát triển tương xứng với tiềm năng và vị trí của nó.
1.3.1. Những đặc điểm của sản phẩm rau
Thứ nhất, sản xuất rau là ngành mang tính hàng hoá cao. Sau khi thu hoạch 85 – 90% sản lượng rau trở thành hàng hoá trao đổi trên thị trường, do vậy ngành sản xuất rau có liên quan chặt chẽ với các ngành khác: thu mua, vận chuyển, lưu thông, phân phối và giá cả... trên cơ sở các ngành trên phối hợp chặt chẽ thì hàng hoá mới được lưu thông và phân phối kịp thời đến tay người tiêu dùng, đảm bảo lợi ích cho cả người sản xuất và người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hơn nữa nhu cầu rau là nhu cầu thường xuyên, liên tục vì vậy ngoài việc quan tâm tổ chức tốt vấn đề tiêu thụ sản phẩm còn phải quan tâm thích đáng đến việc bố trí rải vụ để đáp ứng nhu cầu rau tươi hàng năm.
Thứ hai, rau là sản phẩm dễ hỏng vì đa số các loại rau có hàm lượng nước cao (70 – 90%). Khác nhiều so với các loại sản phẩm khác như ngũ cốc có thể bảo quản được hàng năm, trứng có thể giữ được hàng tháng trong điều kiện bình thường trong khi đó bảo quản rau phải cần kho lạnh và các phương tiện cần thiết khác, rau lại có khối lượng lớn, cồng kềnh nên cũng gây khó khăn cho công tác bảo quản.
Mặt khác sự hao hụt về trọng lượng và sự giảm sút phẩm chất diễn ra nhanh, sáng còn tươi nhưng trưa đã héo và chiều có thể bỏ đi là điều rất dễ xảy ra trong điều kiện bảo quản bình thường. Đặc điểm này đòi hỏi phải bố trí sản xuất tập trung, chuyên canh gắn với giao thông để đảm bảo vận chuyển và tiêu thụ nhanh chóng, kịp thời đồng thời phải tổ chức tốt việc bảo quản chế biến dự trữ để duy trì được phẩm chất của rau.
Thứ ba, sản xuất rau đòi hỏi nhiều công lao động. Hầu hết các loại rau có lá và thân mềm bộ rễ nhỏ, yếu nên cần chăm sóc tỉ mỉ, cẩn thận và thường xuyên nên chi phí lao động trên một đơn vị diện tích thường cao hơn các cây trồng khác. Cây rau đòi hỏi thời vụ nghiêm ngặt vì cây rau rất nhạy cảm với điều kiện ngoại cảnh nhất là các điều kiện thời tiết như nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa, vì vậy người sản xuất phải nắm được yêu cầu của từng loại rau, bố trí thời vụ gieo trồng thích hợp tạo điều kiện tối ưu cho cây trồng phát triển để tạo ra những sản phẩm với năng suất cao và có phẩm chất tốt.
Thứ tư, rau là loại cây trồng ngắn ngày, rất phong phú về chủng loại so với các loại cây trồng khác, vì vậy cần tổ chức tốt các dịch vụ về phân bón, thuốc trừ sâu, chăm sóc kịp thời và phù hợp với đặc điểm sinh lý của từng loại cây, chỉ có như vậy cây mới cho năng suất cao và sản phẩm có chất lượng tốt. Thêm nữa sản xuất rau cao cấp và rau trái vụ đòi hỏi kỹ thuật cao. Đặc điểm này đòi hỏi người trồng rau phải có những kỹ năng và hiểu biết nhất định và phải luôn nắm bắt các kỹ thuật canh tác tiến bộ thì mới nâng cao được năng suất, chất lượng và hiệu quả của cây trồng.
1.3.2. Đặc điểm của sản phẩm rau an toàn.
Đối với rau an toàn do là một loại sản phẩm của ngành rau nên nó cũng mang đầy đủ các đặc điểm cơ bản của các sản phẩm rau và quá trình sản xuất, tiêu thụ rau nói chung. Tuy nhiên rau an toàn là một loại rau sạch được đảm bảo về mặt chất lượng và vệ sinh nên bản thân sản phẩm rau cũng như quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng có những nét riêng so với những loại rau thông thường.
Hiện nay rau an toàn được coi là một loại rau cao cấp cho nên trong sản xuất và tiêu thụ nó đòi hỏi phải áp dụng những quy trình kỹ thuật tiến bộ, người sản xuất phải có những kỹ năng và trình độ hiểu biết nhất định, phải tuân thủ một cách chặt chẽ các quy định về chất lượng và vệ sinh cho sản phẩm. Rau an toàn là sản phẩm hàng hóa do đó để thực hiện quá trình tiêu thụ một cách hiệu quả thì sản phẩm rau không chỉ an toàn trong khâu sản xuất mà còn phải đảm bảo các tiêu chuẩn về phẩm chất và hình thái cho đến khi được tiêu dùng. Điều này đòi hỏi trong tất cả các khâu từ sản xuất , thu hoạch, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ phải có sự phối hợp thống nhất trên cơ sở đảm bảo chất lượng vệ sinh của sản phẩm, tránh tình trạng sản xuất rau an toàn nhưng lại bán ra các sản phẩm rau không an toàn
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ rau an toàn
1.4.1. Các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên
1.4.1.1. Đất đai
Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất. Đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp thì đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động quan trọng. Vì vậy đất đai được coi là yếu tố sản xuất không thể thiếu được đối với hoạt động sản xuất trồng trọt nói chung cũng như sản xuất rau an toàn nói riêng. Vai trò của đất đai được thể hiện ở qui mô của sản xuất, chất lượng đất và các đặc điểm về địa hình và vị trí của ruộng đất. Trong đó chất lượng đất được coi là yếu tố quan trọng nhất đối với các hoạt động sản xuất trồng trọt hiện nay. Chất lượng đất do nhiều yếu tố quyết định như: Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất, độ PH, hoàn lượng NO-3, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hàm lượng các kim loại nặng và các vi sinh vật… Tất cả các yếu tố này có ảnh hưởng rất quan trọng đến năng suất và chất lượng của sản phẩm cây trồng, đặc biệt là đối với các loại cây có nhu cầu dinh dưỡng cao như cây rau an toàn. Ngoài ra chất lượng đất còn có ảnh hưởng tới độ an toàn của sản phẩm, điều này được quyết định bởi hàm lượng các chất hoá học độc hại, các kim loại nặng và vi sinh vật gây hại có ở trong đất.
Như vậy đất đai có vai trò rất quan trọng đối với việc sản xuất sản phẩm rau an toàn. Vai trò đó không chỉ ._.được thể hiện ở qui mô đất đai cho sản xuất mà còn biểu hiện ở sự ảnh hưởng của chất lượng đất tới chất lượng và độ an toàn của sản phẩm. Điều này đòi hỏi trong quá trình sản xuất và khai thác cần phải kết hợp chặt chẽ với việc cải tạo và bồi dưỡng đất đai, người sản xuất cần phải hạn chế việc sử dụng bừa bãi các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học để bảo vệ đất, đồng thời phải tích cực mở rộng diện tích bằng khai hoang, tăng vụ và hết sức tiết kiệm đất trong xây dựng cơ bản, trong quá trình đô thị hoá và phát triển giao thông. Chỉ có như vậy chúng ta mới xây dựng được quĩ đất canh tác nói chung và đất trồng rau an toàn nói riêng hợp lí về qui mô diện tích và đảm bảo về mặt chất lượng và cơ cấu.
1.4.1.2 Những yếu tố khác về điều kiện tự nhiên
Các yếu tố này bao gồm: Vị trí địa lí, địa hình, thời tiết, khí hậu và điều kiện về thuỷ văn… Đây là những nhân tố có ảnh hưởng quan trọng trực tiếp đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nói chung và rau an toàn nói riêng. Điều này được thể hiện thông qua việc người sản xuất căn cứ vào các đặc điểm về vị trí địa lí, địa hình và các điều kiện về thời tiết, thuỷ văn để quyết định việc bố trí các hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, lựa chọn giống cây trồng sao cho phù hợp.
Đối với sản phẩm rau an toàn, các điều kiện về địa hình và thời tiết khí hậu có ảnh hưởng hết sức quan trọng. Nó không chỉ tác động đến quá trình sản xuất mà còn ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Một khi các điều kiện này được thuận lợi thì đó sẽ là điều kiện tốt để sản xuất rau an toàn có hiệu quả cao, tạo ra những sản phẩm rau có chất lượng tốt và giá thành hạ, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lí, nhưng khi điều kiện khó khăn thì sẽ làm giảm năng suất cây trồng, các sản phẩm được tạo ra với chất lượng thấp và giá thành cao hơn, do đó hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ bị hạn chế.
Như vậy có thể nói hoạt động sản xuất và tiêu thụ rau an toàn nói riêng cũng như đối với các sản phẩm nông sản nói chung luôn chịu sự tác động quan trọng của các điều kiện tự nhiên. Để thúc đẩy các hoạt động này phát triển một cách hợp lí thì chúng ta cần phải biết nắm bắt và khai thác những lợi thế cũng như phải hạn chế những khó khăn do điều kiện tự nhiên gây ra. Sản xuất phải theo qui hoạch vùng, đồng thời cần tích cực cải tạo và bồi dưỡng đất, bảo vệ môi trường và thúc đẩy cân bằng sinh thái.
1.4.2. Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế và xã hội
1.4.2.1. Lao động
Nguồn lực lao động có vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động sản xuất, quyết định việc sử dụng hợp lí các yếu tố đầu vào. Đối với sản xuất rau an toàn điều này không phải là ngoại lệ.
Nguồn lực lao động bao gồm hai yếu tố: Số lượng và chất lượng lao động, trong đó yếu tố chất lượng lao động được coi là quan trọng hơn cả. Chất lượng của nguồn lực lao động bao gồm cả về thể lực và trí lực. Thể lực được thể hiện thông qua sức khoẻ, sự dẻo dai của người lao động còn trí lực thể hiện qua trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sản xuất của người lao động.
Trong sản xuất rau an toàn, nguồn lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt số lượng mà còn về mặt chất lượng.
Về mặt số lượng: Như đã biết sản xuất rau an toàn nói riêng và các loại rau nói chung đòi hỏi sự chăm sóc một cách tỉ mỉ và thường xuyên, các công việc thu hái và tiêu thụ rau cần được thực hiện nhanh chóng. Do đó nó đòi hỏi một số lượng lao động đủ lớn để thực hiện các công việc trên một cách kịp thời và hiệu quả.
Về mặt chất lượng: Đối với sản xuất rau an toàn, chất lượng nguồn lao động có vai trò đặc biệt quan trọng, nó có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Để sản xuất được rau an toàn đòi hỏi phải áp dụng các quy trình sản xuất khoa học do đó người sản xuất phải là những người lao động có trình độ chuyên môn cao thích ứng với những đòi hỏi mới trong quá trình sản xuất. Khi trình độ chuyên môn của người sản xuất được nâng cao làm cho hoạt động sản xuất diễn ra một cách hiệu quả, chi phí sản xuất được tiết kiệm, giá thành của sản phẩm được hạ thấp và điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến khâu tiêu thụ. Ngoài ra trong quá trình sản xuất rau an toàn, nó cũng đòi hỏi người sản xuất phải cần cù, chịu khó và có sức khoẻ dẻo dai nên yếu tố thể lực của người lao động cũng có vai trò rất quan trọng. Như vậy việc sản xuất rau an toàn một cách có hiệu quả luôn gắn liền với đội ngũ lao động có chất lượng cao. Nguồn lao động ở đây không chỉ là những người sản xuất trực tiếp mà còn bao gồm cả đội ngũ cán bộ kĩ thuật và quản lí của ngành rau. Do vậy một trong những giải pháp quan trọng trước mắt hiện nay để thúc đẩy phát triển rau an toàn đó là cần phải nâng cao chất lượng của nguồn lao động và coi đây như là động lực để kích thích sự phát triển của sản phẩm.
1.4.2.2. Vốn
Trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn được hiểu là giá trị của các yếu tố đầu vào và đó chính là điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành các hoạt động này. Đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và rau an toàn nói riêng cũng vậy, vốn ở trong các khu vực này là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất và nó có vai trò đảm bảo cho quá trình sản xuất được bắt đầu và tiến hành một cách liên tục. Ngoài ra vốn còn là yếu tố quyết định quy mô và cơ cấu của sản xuất. Vì vậy vốn là một yếu tố không thể thiếu của mọi hoạt động sản xuất của con người.
Đối với sản xuất rau an toàn, là một hoạt động sản xuất cần nhiều vốn đầu tư, chi phí sản xuất cao hơn so với các loại cây rau khác do đó vốn có vai trò rất quan trọng. Sự thiếu vốn có thể làm ảnh hưởng đến khả năng đầu tư thâm canh, trang bị các máy móc thiết bị, nghiên cứu và sử dụng các giống rau mới nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của sản phẩm. Do vậy việc giải quyết vấn đề vốn để phát triển sản phẩm rau an toàn là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
1.4.2.3. Nhu cầu thị trường
Nhu cầu thị trường cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng sản phẩm nói chung cũng như rau an toàn nói riêng. Khi nhu cầu tăng lên, sẽ kích thích người sản xuất mở rộng qui mô sản xuất và nâng cao năng suất để sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và như vậy sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu nhu cầu tiêu dùng giảm đi thì nó sẽ hạn chế sản xuất và gây khó khăn cho hoạt động tiệu thụ sản phẩm.
Nhu cầu thị trường về rau an toàn hiện nay đang là vấn đề rất được quan tâm của các nhà sản xuất. Qui mô và diện tích sản xuất rau an toàn phụ thuộc trước hết vào khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Khả năng tiêu thụ rau an toàn lại phụ thuộc trước hết vào chất lượng giá thành của rau. Do đó khi rau an toàn đảm bảo được các yêu cầu của người tiêu dùng và đem lại niềm tin cho họ thì nhu cầu rau an toàn sẽ tăng cao, thúc đẩy tích cực đến quá trình sản xuất và tiêu thụ của sản phẩm.
1.4.3. Những yếu tố thuộc về tổ chức quản lí và kĩ thuật
1.4.3.1. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Trong nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, khoa học công nghệ thực sự đã trở thành yếu tố trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy yếu tố này đang có vai trò quan trọng và được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với sản xuất rau an toàn thì điều này cũng được thể hiện một cách rõ nét.
Không giống với các loại cây trồng bình thường, sản xuất rau an toàn đòi hỏi sử dụng công nghệ sản xuất khoa học, từ khâu chuẩn bị đất trồng giống rau đến các công việc chăm sóc, tưới nước, bón phân, người sản xuất đều phải tuân thủ chặt chẽ những yêu cầu của qui trình sản xuất riêng. Vì vậy yếu tố khoa học công nghệ quyết định đến đặc tính của sản phẩm rau an toàn và luôn gắn liền với quá trình sản xuất chúng.
Đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất rau an toàn nói riêng yếu tố khoa học công nghệ được thể hiện ở công nghệ giống, các cách thức gieo trồng và chăm sóc cây, con và trình độ cơ giới hóa của quá trình sản xuất. Khi khoa học công nghệ phát triển nó sẽ đưa các yếu tố mới vào quá trình sản xuất làm nâng cao hiệu quả của sản xuất, tạo ra những sản phẩm với năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn và chi phí thấp hơn đúng như mong muốn của con người. Đó chính là lí do tại sao con người luôn nỗ lực đầu tư công sức và của cải để phát triển khoa học công nghệ, phục vụ cho quá trình sản xuất và đời sống.
1.4.3.2. Các chính sách của nhà nước
Trong các nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường sự quản lí và định hướng của nhà nước có vai trò rất quan trọng. Trong quá tình quản lí nhà nước sử dụng các công cụ của mình (các văn bản chính sách, pháp luật…) để điều chỉnh và định hướng đối với các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện để các hoạt động này phát triển một cách vững chắc và đúng hướng trong môi trường nhiều biến động.
Trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ rau an toàn, sự quan tâm và chỉ đạo của nhà nước có vai trò không thể thiếu. Trên cơ sở thấy rõ lợi ích của sản phẩm rau an toàn các chính sách của nhà nước đã tạo ra môi trường pháp lí và các điều kiện cần thiết để phát triển sản phẩm này. Các chính sách đó bao gồm các qui định về tiêu chuẩn chất lượng rau an toàn, các phương hướng và biện pháp để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đây được coi là các yếu tố dẫn đường cho sản phẩm rau an toàn phát triển.
Nếu sự quản lí của nhà nước chặt chẽ và hợp lí, các chính sách sát thực và hiệu quả, nó sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy các hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi phát triển và ngược lại. Như vậy trong thực tế việc không ngừng nâng cao vai trò của quản lí nhà nước và tính đúng đắn của các văn bản chính sách là rất cần thiết bởi vì điều này ảnh hưởng quyết định đến hướng đi của các hoạt động sản xuất.
Chương II: Thực trạng tổ chức tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
I. Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn Hà Nội
1. Vị trí địa lí
Thủ đô Hà Nội có một ví trí địa lí – kinh tế – chính trị cực kì quan trọng. Trong Nghị quyết 15 – NQ/ TW ngày 15/12/2000 đã xác định: Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng bắc bộ, tiếp giáp với 5 tỉnh: Thái Nguyên ở phía bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông, Vĩnh Yên và Hà Tây ở phía nam. Hà Nội có 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành là: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, và Từ Liêm, với tổng diện tích tự nhiên 920,97 km2 trong đó diện tích các huyện ngoại thành khoảng 836,67 km2.
Hà Nội là một đầu mối giao thông vô cùng quan trọng của cả nước. Tại đây là nơi đi qua của các trục đường quốc lộ chính, nối liền với tất cả các tỉnh trong nước. Ngoài ra trong địa bàn thành phố còn có sân bay quốc tế Nội Bài, hệ thống đường sắt và hai con sông lớn là sông Đuống và sông Hồng chảy qua cho nên đây là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán hàng hoá với các tỉnh trong nước và quốc tế.
Ngoài ra Hà Nội còn một số đặc điểm về vị trí địa lí khác nữa và tất cả điều này đang tạo ra những lợi thế to lớn cho sự phát triển kinh tế của thủ đô hiện nay và trong những năm tới.
2. Thời tiết khí hậu
Do nằm trong khu vực đồng bằng bắc bộ nên Hà Nội mang đặc điểm khí hậu rõ nét của vùng này, đó là vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa hè nóng ẩm, mùa đông lạnh và khô hanh. Nhiệt độ trung bình trong năm là 24,20C, vào mùa đông nhiệt độ xuống khá thấp (nhiệt độ xuống thấp nhất là 5, 60C), vào mùa hè, nhiệt độ lại tăng cao và đây là thời điểm nắng nóng, nhiệt độ cao nhất là 42,80C. Độ ẩm trung bình là 85% cao, cao nhất là 100 % và thấp nhất là 77%. Lượng mưa trung bình trong một số năm gần đây là 1.704,9 mm. Mùa mưa ẩm, nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trong mùa mưa chiếm khoảng 80 á 85% tổng lượng mưa của cả năm, trong khi đó mùa khô lượng mưa chỉ chiếm 15 á 20%. Do lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm như vậy nên thường gây ra các hiện tượng hạn, úng gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống và sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt là đối với người nông dân ngoại tỉnh vì sản xuất của họ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu. Mỗi năm có khoảng 166 ngày mưa. Lượng mưa bốc hơi trung bình hàng năm là 710 mm.
Hà Nội là khu vực có lượng bức xạ ánh nắng mặt trời lớn, với tổng lượng bức xạ khoảng 130 kcal/cm2/ năm, thời gian bức xạ tập trung chủ yếu trong các tháng từ tháng 5 đến tháng 10. Số ngày nắng bình quân của Hà Nội trong năm là 220 ngày với khoảng 1640 giờ/ năm. Tháng 1, 2, 3 là những tháng có ít nắng nhất chỉ có 1,3 – 1,4 giờ nắng/ ngày.
Nhìn chung, thời tiết, khí hậu của thành phố Hà Nội cho phép sản xuất rau quanh năm. Trong mùa đông khi nhiệt độ xuống thấp là điều kiện thuận lợi để các loại cây rau có nguồn gốc ôn đới có giá trị kinh tế phát triển. Trong mùa hè khi nhiệt độ nhích lên thì lại tạo điều kiện cho các loại rau nhiệt đới phát triển như rau muống, các loại rau canh… Đây là một thế mạnh về tài nguyên khí hậu rất cần khai thác để phát triển ngành trồng rau nói chung và rau an toàn nói riêng.
3. Đất đai và nguồn nước
3.1. Đất đai
- Về mặt số lượng: Theo số liệu thông kê 1/1/2000 Hà Nội có khoảng 92.097 ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp là 43.612 ha chiếm 47,4%, đất lâm nghiệp 6.783 ha chiếm 7,4%, còn lại là đất chuyên dùng, đất ở đô thị, đất ở nông thôn, và đất chưa sử dụng chiếm 45,2%.
Trong đất nông nghiệp, diện tích đất canh tác có 39.066 ha chiếm 89,5% đất vườn tạp 511 ha chiếm 7,3%, còn lại là đất trồng cây lâu năm 746 ha và đất trồng cỏ dùng vào chăn nuôi 101 ha chiếm 2%. Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa diễn ra hết sức nhanh chóng. Vì vậy quỹ đất nông nghiệp của khu vực ngoại thành giảm bình quân 1% / năm. Việc hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp cao, việc mở rộng các quận nội thành càng làm cho diện tích đất ở các huyện ngoại thành thu hẹp nhanh chóng.
- Về mặt chất lượng: Đất đai ở khu vực Hà Nội có thể được chia làm 3 loại, bao gồm đất đồi núi vùng Sóc Sơn chiếm 6,4%, đất bạc màu phân bố ở phía Bắc và Nam sông Cà Lồ, phía nam sông Cầu thuộc huyện Sóc Sơn và Đông Anh chiếm tỉ trọng 36,4% vùng đất phù sa còn lại chiếm 57,2%.
Nhìn chung, chất lượng đất đai ở các huyện ngoại thành có điều kiện chất lượng khá tốt rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất các loại rau, đặc biệt là rau an toàn theo đúng qui định kĩ thuật. Các vùng đất ở đây không chỉ đảm bảo về mặt số lượng, chất lượng mà còn thuận tiện cho việc cung cấp nước tưới và vận chuyển rau thương phẩm đi tiêu thụ. Tuy nhiên đất ở đây chưa được phân loại và qui hoạch rõ ràng, tình trạng ô nhiễm đất còn phổ biến. Điều này làm ảnh hưởng đến sản xuất và chế biến rau an toàn.
3.2. Nguồn nước
Nguồn nước là điều kiện rất quan trọng phục vụ cho tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp, do đó nó đang là vấn đề rất được quan tâm để khai thác và sử dụng.
Hà Nội có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc với mật độ khoảng 0,5 km sông ngòi/ km2. Trong đó có nhiều con sông chính chảy qua như sông Hông, sông Đuống, sông Nhuệ, sông Cầu và sông Cà Lô. Các con sông của Hà Nội có hai mùa rõ rệt về chế độ thuỷ văn: Mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ cũng là mùa mưa, từ khoảng tháng 6 đến tháng 10, cao nhất là vào tháng 8 lượng nước mưa chiếm 70 – 75% tổng lượng nước cả năm. Mùa cạn thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 với mức nước và lưu lượng thấp nhất vào tháng 3.
Hệ thống sông ngòi Hà Nội có vai trò cung cấp nước tưới rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp ở đây. Đối với con sông Hồng nó là nguồn cung cấp nước chính cho nông nghiệp ngoại thành với hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước khá cao, hàm lượng phù sa trung bình trong nước có thể đạt tới 1,4 kg/m3, phù sa của sông Hồng rất màu mỡ, độ PH từ 7,7 – 7,8, lượng đạm khoảng 1 kg/m3 và lượng mùn từ 2,8 – 3,5 kg/ m3. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng như rau. Ngoài ra còn một số con sông khác như sông Đuống, sông Cầu, sông Nhuệ cũng có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nước tưới và tiêu nước cho khu vực sản xuất rộng lớn ở ngoại thành Hà Nội.
Ngoài hệ thống sông ngòi, thì việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp còn trông chờ khá nhiều vào nguồn nước ngầm. Theo số liệu ước tính khả năng về trữ lượng cho phép khai thác nước ngầm có thể đạt 1 triệu m3/ ngày đêm. Đây được coi là nguồn nước quan trọng cho sản xuất nông nghiệp của thành phố Hà Nội đặc biệt là nguồn nước tưới cho các vùng bãi, nước tưới trong mùa khô hạn và tưới cho sản xuất rau an toàn.
Với nguồn nước phong phú như trên có thể đáp ứng hoàn toàn cho sản xuất nông nghiệp trong đó có rau an toàn. Tuy nhiên trong mùa mưa bão vấn đề úng lụt cần được quan tâm giải quyết hợp lí. Một số vùng như Thanh Trì, Từ Liêm còn bị ảnh hưởng của nguồn nước thải gây ô nhiễm ngày càng nặng do khu vực đô thị thải ra chưa dược sử lí, làm ảnh hưởng rất sấu đến chất lượng vệ sinh thực phẩm, nhất là đối với các loại nông sản được trồng ở các khu vực này.
4. Hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp
4.1. Hệ thống thuỷ lợi
Hà Nội có 4 con sông lớn chảy qua (sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu và sông Nhuệ), điều này nó có ảnh hưởng quyết định đến đặc điểm về hệ thống thuỷ lợi của thành phố đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu nước cho sản xuất nông nghiệp của Hà Nội khá hoàn chỉnh, bao gồm hệ thống các trạm bơm, kênh mương tưới tiêu và đê điều. Hiện nay toàn thành phố trong đó chủ yếu là khu vực ngoại thành có tới 68 trạm bơm tập trung, 327 trạm bơm nhỏ lẻ; hệ thống hồ đập bao gồm 23 chiếc lớn nhỏ các loại chủ yếu làm nhiệm vụ cung cấp nước tưới tiêu cho các vùng cao vùng hạn. Còn đối với hệ thống kênh mương thì Hà Nội có khoảng 645 km trong đó có 52,6 km kênh loại I, 217,1 km kênh loại II và 376,1 km kênh loại III. Với cơ sở hiện có, hàng năm hệ thống thuỷ lợi của Hà Nội có thể đảm nhiệm tưới chủ động cho 75 – 80% diện tích canh tác, tiêu chủ động cho 60 – 65% diện tích thường bị úng lụt.
Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm thuận lợi thì hệ thống thuỷ lợi của Hà Nội vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định. Hầu hết các trạm bơm của Hà Nội đã được đầu tư khá lâu rồi, thời gian sử dụng đã hết nhưng chưa có điều kiện để nâng cấp, cải tạo nên một số trạm bơm đã bị xuống cấp. Thêm vào đó là hầu hết hệ thống kênh mương đều bằng đất, chưa được kiên cố hoá bằng bê tông. Do đó trong thời gian tới đòi hỏi cần phải có sự quan tâm đầu tư và nâng cấp kịp thời các hệ thống cơ sở để phục vụ nhu cầu sản xuất ngày càng cao.
4.2. Hệ thống giao thông
Hà Nội là đầu mối giao thông lớn của đất nước, tại đây là nơi đi qua của nhiều tuyền đường giao thông quan trọng của cả nước và quốc tế trong đó có cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không. Điều này rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các vùng, các địa phương với Hà Nội và cũng là điều kiện thuận lợi để vận chuyển, lưu thông hàng hoá nông sản trong đó có sản phẩm rau an toàn từ Hà Nội đi các tỉnh, các miền khắp trong nước và xuất khẩu.
Hà Nội ngoài việc là trọng điểm trong hệ thống giao thông chính của quốc gia, cần có hệ thống giao thông nông thôn khá hoàn chỉnh và thuận lợi. Hiện tại hệ thống giao thông nông thôn của thành phố bao gồm 290 km đường liên huyện, 300 km đường liên xã, 1.500 km đường liên huyện, 80% đường liên xã và 70% đường liên thôn đã được đổ nhựa và bê tông hoá. Đây chính là điều kiện rất thuật lợi cho việc tăng cường khả năng giao lưu hàng hoá giữa các khu vực của thủ đô, đồng thời nó cũng kích thích quá trình hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Hà Nội trong những năm tới.
Đối với vấn đề phát triển rau an toàn ở Hà Nội thì các điều kiện giao thông thuận lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một mặt giao thông thuận tiện cho phép thực hiện việc cung cấp các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất một cách dễ dàng và hiệu quả, mặt khác nó cũng góp phần quan trọng giải quyết khâu đầu ra của sản phẩm được nhanh chóng. Đó chính là lợi thế của Hà Nội so với các khu vực khác, để phát triển sản phẩm rau an toàn cũng như các nông sản khác.
5. Tình hình dân số và lao động
5.1. Mặt số lượng
Dân số trung bình năm 2002 của Hà Nội là 2.847.000 người trong đó dân số ngoại thành là 1.325.800 người chiếm 46,56% dân số toàn thành phố. Dân số nông nghiệp là 675.300 người chiếm 23,72% dân số toàn thành phố, trong đó số lượng lao động nông nghiệp là 329.810 người chiếm 48,8% dân số nông nghiệp. Điều này cho thấy Hà Nội là khu vực có số lượng dân cư nông nghiệp và lao động nông nghiệp rất dồi dào, đây chính là điều kiện thuận lợi cho việc huy động nguồn lao động để phát triển nền nông nghiệp thủ đô trong những năm gần đây. Song hiện nay khi mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm do quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh thì việc đông dân cư và nguồn lao động trong nông nghiệp sẽ dẫn đến sự mất cân đối lớn và làm cho sức ép về giải quyết việc làm ngày càng trở nên gay gắt. Hơn nữa thực tế này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao trình độ và năng lực của người lao động do đó làm hạn chế sự phát triển của nền nông nghiệp ngoại thành theo hướng sử dụng công nghệ khoa học tiến bộ. Như vậy tình hình về mặt số lượng dân cư và lao động của Hà Nội hiện nay vừa thể hiện những ưu điểm đáng kể song nó cũng tạo ra những khó khăn không nhỏ, do đó cần phải có các biện pháp và hướng đi đúng đắn đối với vấn đề số lượng và cơ cấu lao động dân cư thủ đô hiện nay trong đó đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp nông thôn.
5.2. Mặt chất lượng
Như đã nói ở trên, thủ đô Hà Nội là trung tâm về kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội của cả nước do đó những người dân thủ đô nhìn chung là có trình độ văn hoá khá cao so với các khu vực khác trong nước. Theo kết quả điều tra cứ 100 người thì, có tới 87 người tốt nghiệp phổ thông cơ sở trở lên, đây là một kết quả đáng mừng về mặt chất lượng của dân cư nói chung và lao động Hà Nội nói riêng. Hơn thế nữa Hà Nội còn là trung tâm tập trung một số lượng lớn đội ngũ lao động có trình độ kĩ thuật và tay nghề cao về mọi lĩnh vực, trong đó kinh tế nông nghiệp là một lĩnh vực điển hình. Như vậy có thể nói, chất lượng nguồn lao động và dân cư là một ưu thế điển hình của thủ đô Hà Nội và ưu thế này sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nói chung của thành phố cũng như thúc đẩy phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn ngoại thành nói riêng.
Đối với sản xuất rau an toàn – một sản phẩm đòi hỏi trình độ sản xuất cao thì chất lượng nguồn lao động của Hà Nội thực sự là một ưu thế lớn và đó là điều kiện quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của loại sản phẩm này. Ngoài ra khi nói đến chất lượng của nguồn lao động đối với sản xuất rau an toàn thì không thể không nói tới kinh nghiệm và truyền thống sản xuất rau lâu đời của người dân Hà Nội. Ngành trồng rau nơi đây có truyền thống khá lâu đời do vậy kinh nghiệm sản xuất rau của người dân có vai trò rất quan trọng. Khi yếu tố kinh nghiệm sản xuất được kết hợp với việc tiếp thu những thành tựu tiên tiến của khoa học công nghệ thì đó sẽ là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định tới việc tạo ra những sản phẩm rau chất lượng cao như rau an toàn. Như vậy có thể nói chất lượng của nguồn lao động ở Hà Nội là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển sản phẩm rau an toàn.
6. Nhu cầu thị trường
Hà Nội hiện nay là một khu vực có số lượng dân cư thuộc vào loại đông nhất nước ta hiện nay với khoảng 3.500.000 người, thu nhập đầu người của dân cư thành phố tương đối cao, đặc biệt là ở khu vực nội thành. Vì vậy đây là thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản lớn, đặc biệt là đối với các sản phẩm cao cấp và cần thiết như rau an toàn. Rau an toàn hiện nay có nhu cầu tiêu thụ rất lớn, nhưng do tâm lí của người tiêu dùng còn chưa tin tưởng vào chất lượng của sản phẩm, giá thành của rau an toàn lại cao hơn so với rau thường, hơn nữa các cửa hàng bán rau hầu hết không đủ quy mô như đảm bảo vệ sinh để đáp ứng nhu cầu và niềm tin của khách hàng. Do đó việc tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội đang gặp nhiều khó khăn nhất định. Nhưng nhìn chung thị trường tiêu thụ rau an toàn ở Hà Nội có tiềm năng khá lớn và do vậy những người quản lí và người sản xuất cần phải có những điều chỉnh kịp thời để khai thác một cách hiệu quả lợi thế này.
Ngoài ra nhu cầu thị trường ở Hà Nội đối với sản phẩm rau an toàn còn được thể hiện ở nhu cầu về nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm của thành phố. Hà Nội không chỉ là nơi đã tập trung nhiều nhà máy chế biến rau, chế biến thực phẩm mà còn là khu vực rất thuận tiện cho việc xây dựng các nhà máy chế biến mới. Do đó nhu cầu về nguyên liệu rau chất lượng là khá lớn và không ngừng tăng qua các năm. Như thế đây cũng được coi là lợi thế về thị trường tiêu thụ rau an toàn.
7. Vai trò quản li của nhà nước
Đối với các hoạt động sản xuất nói chung và sản xuất rau an toàn nói riêng, quản lí của nhà nước có vai trò rất quan trọng. Trong những năm gần đây, các chương trình phát triển sản xuất sản phẩm nông sản chất lượng và an toàn phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân đang được các cơ quan Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức. UBND thành phố Hà Nội đã ra thông báo số 26/TBUB ngày 27/02/1998 về việc sản xuất rau sạch, rau an toàn trên địa bàn Hà Nội và đề ra mục tiêu phân đấu đến năm 2010 toàn bộ rau được sản xuất ra phải đảm bảo tiêu chuẩn rau an toàn. Năm 1998 UBND thành phố cũng đã giao nhiệm vụ cho sở Nông Nghiệp & PTNT, sở khoa học Công Nghệ và môi trường, sở thương mại thiết lập qui trình sản xuất và tiêu thụ rau an toàn. Trên cơ sở đó cho đến nay thành phố Hà Nội đã có một số văn bản mang tính chất pháp qui quản lí nhà nước về sản xuất và lưu thông rau sạch:
Quyết định số 563/ QĐ - KHCN ngày 2/5/1998 của sở Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường Hà Nội về qui định tạm thời về chất lượng rau an toàn và tiêu chuẩn cửa hàng rau an toàn.
Quyết định số 565/ QĐ - KHCN ngày 2/5/1998 của sở KHCN – MT Hà Nội qui định tạm thời về đăng ký kinh doanh rau an toàn.
Ngoài ra còn một số văn bản về qui định kỹ thuật khác đối với rau an toàn.
Như vậy trong thời gian qua, việc phát triển sản phẩm rau an toàn đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan nhà nước. Điều này đã tạo ra những tiền đề quan trọng giúp xây dựng và định hướng hợp lí cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, do đó vai trò của quản lí nhà nước đã góp phần không nhỏ vào kết quả mà sản phẩm rau an toàn đạt được trong thời gian qua và tạo ra tiền đề quan trọng trong thời gian tới. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề liên quan cần có sự tham gia điều chỉnh của các cơ quan nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển của sản phẩm rau an toàn như: vốn, lao động, giống, khoa học kĩ thuật và công nghệ… Do vậy chúng ta cần phải không ngừng nâng cao vai trò quản lí nhà nước đối với việc phát triển sản phẩm rau an toàn trong thời gian tới và coi đây là điều kiện cần thiết không thể thiếu đối với hoạt động đó.
II. Thực trạng tổ chức tiêu thụ sản phẩm rau an toàn trên địa bàn Hà Nội.
1. Khái quát quá trình sản xuất và chế biến sản phẩm rau an toàn ở Hà Nội.
1.1. Tình hình sản xuất rau an toàn
Trong những năm qua, từ khi sản phẩm rau an toàn được đưa vào sản xuất, nhờ được sự định hướng và chỉ đạo hợp lý của các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và cơ quan trong ngành rau nói riêng mà hoạt động sản xuất của loại cây trồng này đã đạt được những kết quả nhất định. Điều này đang được thể hiện ở nhiều phương diện:
+ Về diện tích:
Những kết quả về mặt diện tích sản xuất rau an toàn trong thời gian qua của Hà Nội được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 2: Diện tích rau an toàn của Hà Nội qua các năm.
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
1. Tổng diện tích rau của Hà Nội (ha)
- Diện tích canh tác
2774
3026
2857
2759
2792
2573
2425
2749
- Diện tích gieo trồng
6943
7684
8188
8059
7986
7460
7812
9351
2. Diện tích rau an toàn của Hà Nội (ha)
- Diện tích canh tác
159
233
503
612
675
776
776
962
- Diện tích gieo trồng
400
591
1440
1785
1947
2250
2500
3273
- Hệ số quay vòng (vụ/năm)
2,5
2,5
2,8
2,9
2,88
2,9
3,2
3,4
- Tỷ lệ so với tổng diện tích rau (%)
5,3
7,6
17,5
22,0
24,0
30,0
32,0
35,0
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội.
Qua bảng số liệu ta thấy: Trong các năm mặc dù diện tích canh tác cũng như diện tích gieo trồng rau nói chung không thay đổi nhiều và tương đối ổn định nhưng diện tích canh tác và diện tích trồng rau an toàn lại tăng lên khá nhanh, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích trồng rau. Năm 1996, diện tích gieo trồng rau an toàn của Hà Nội đạt 400 ha, chiếm 5,3% so với tổng diện tích trồng rau. Đến năm 2003, diện tích trồng rau an toàn đã tăng lên 3.273 ha và chiếm tới 35% diện tích trồng rau của toàn thành phố. Tuy tỷ trọng của rau an toàn còn chưa lớn nhưng việc không ngừng tăng lên về diện tích cũng như tỷ trọng đang cho thấy dấu hiệu phát triển mạnh mẽ của loại cây trồng này trong những năm qua và hứa hẹn trong những năm tới rau an toàn sẽ có vị trí quan trọng trong ngành trồng rau của thành phố.
+ Về năng suất và sản lượng:
Cũng giống như về mặt diện tích, trong những năm qua năng suất và sản lượng của sản phẩm rau an toàn cũng có những kết quả khá tích cực:
Bảng 3: Năng suất và sản lượng của rau an toàn Hà Nội.
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Năng suất bình quân (tạ/ha)
120
135
140
130
150
167
158
158
Sản lượng
(tấn)
4800
7978
20160
23205
29789
37575
395.00
51713
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội.
Nhìn chung, trong thời gian qua năng suất của rau an toàn có tăng lên nhưng chưa ổn định. Cụ thể là trong các giai đoạn 1996 – 1998 và 2000 – 2001 năng suất bình quân rau an toàn có tăng lên nhưng rồi lại giảm đi vào các năm1999, 2002 và 2003. Điều này cho thấy sản xuất rau an toàn của Hà Nội còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Các vùng trồng mới chỉ chú ý tới diện tích nhưng đầu tư thoả đáng cho cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất rau an toàn. Ngoài ra còn một thực tế nữa đó là những năm gần đây năng suất của rau an toàn thấp hơn so với các loại rau thường khác. Trong năm 1996 năng suất rau an toàn bình quân đạ._.Hợp tác xã dịch vụ. Nguồn vốn vay này cần đầu tư cho việc mua sắm vật tư sản xuất và để xây dựng nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng của vùng trồng rau.
- Hợp tác xã dịch vụ có thể đứng ra vay vốn ngân hàng và tổ chức quản lý việc cho vay cũng như việc sử dụng vốn của người trồng rau sao cho có hiệu quả và thu hồi dần thông qua việc thực hiện tiêu thụ sản phẩm rau an toàn của người sản xuất.
1.2. Đối với hoạt động chế biến rau an toàn
Hoạt động chế biến có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết đầu ra của sản xuất rau an toàn. Hoạt động chế biến không chỉ làm tăng giá trị, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm mà còn là biện pháp nhằm tạo ra các sản phẩm rau đa dạng phục vụ cho tiêu dùng quanh năm. Ngoài ra chế biến còn tạo điều kiện dễ dàng cho việc vận chuyển rau với số lượng lớn bởi vì qua chế biến khối lượng rau sẽ giảm hơn và tăng tính vận chuyển. Vì vậy, việc nâng cao và phát triển hoạt động chế biến đối với sản phẩm rau an toàn là rất cần thiết.
Trong thời gian tới về hình thức, chế biến sản phẩm rau an toàn cần được thực hiện theo 2 khâu: sơ chế và chế biến
+ Đối với khâu sơ chế
Các sản phẩm rau an toàn trước khi đến tay người tiêu dùng cần được thực hiện qua 2 lần sơ chế nhằm giảm bớt lượng rác thải chuyển vào thành phố, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và độ tin cậy của người tiêu dùng.
- Sơ chế đơn giản: Hoạt động này cần được thực hiện tại nơi sản xuất do các HTX, các nhóm sản xuất thực hiện: cắt bỏ gốc rau, lá già, lá úa, rửa sạch, đóng thùng hoặc sọt to có gắn tên địa chỉ nơi sản xuất, chủng loại rau số lượng cân... Lần sơ chế này cần được áp dụng cho tất cả các diện tích rau an toàn kể cả ở vùng tập trung hay không tập trung. Đây là một biện pháp nhằm gắn trách nhiệm của người sản xuất với người tiêu dùng.
- Sơ chế chi tiết: Khâu này được thực hiện tại một số xí nghiệp và các điểm sơ chế . Để làm tốt được khâu này chúng ta cần:
Xây dựng thêm các xí nghiệp sơ chế rau tại vùng trồng rau với hệ thống trang thiết bị bảo quản sơ chế hiện đại, có hệ thống vận tải chuyên chở chuyên dụng, có các loại bao bì gắn thương hiệu riêng cho từng xí nghiệp.
Xây dựng và nâng cao các điểm sơ chế tập trung tại một số chợ đầu mối lớn ở các huyện Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh...
+ Đối với khâu chế biến: Để thực hiện khâu này một cách hiệu quả hơn trong thời gian tới cần phải tổ chức tốt một số vấn đề sau:
Duy trì và nâng cấp 2 HTX chế biến đã có ở xã Đông Xuân - Sóc Sơn và xã Đông Dư - Gia Lâm: cần đầu tư thêm các thiết bị bảo quản và chế biến phù hợp nhằm tăng công suất chế biến, phong phú đa dạng chủng loại sản phẩm chế biến, có bao bì, nhãn mác hấp dẫn.
Xây dựng thêm một số HTX hay nhà máy chế biến rau quả ở một số vùng trồng rau tập trung ở ngoại thành. Đồng thời phải tổ chức tốt quy hoạch các vùng trồng rau nguyên liệu để phục vụ cho chế biến, đảm bảo về số lượng, chất lượng và chủng loại để các nhà máy chế biến hoạt động được hiệu quả.
2. Nghiên cứu xây dựng và mở rộng thị trường tiêu thụ rau an toàn
Như đã phân tích ở phần thực trạng, hiện nay thị trường tiêu thụ rau an toàn của Hà Nội còn rất nhỏ bé và mất cân đối lớn giữa các khu vực (giữa tiêu thụ trong nước với xuất khẩu và giữa các vùng ở trong nước với nhau). Điều này dẫn đến hiệu quả của hoạt động tiêu thụ rau an toàn của Hà Nội còn thấp, giá trị và sản lượng rau an toàn tiêu thụ được chưa cao. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm rau sạch và chất lượng của người dân ngày càng cao đặc biệt là ở khu vực thành thị và ở các nước có nền kinh tế - xã hội phát triển. Do vậy, trong thời gian tới việc nghiên cứu xây dựng và mở rộng thị trường tiêu thụ rau an toàn là rất quan trọng và cần thiết.
Để xây dựng và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm rau an toàn một cách hiệu quả thì chúng ta cần tập trung nghiên cứu một số hướng đi sau:
+ Đối với thị trường trong nước
- Do rau an toàn hiện nay vẫn được coi là loại sản phẩm mới đối với nhiều người tiêu dùng và ngay cả đối với người tiêu dùng Hà Nội cũng vậy, nên để mở rộng thị trường một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất hiện nay cần phải tăng cường mạnh mẽ các hoạt động quảng cáo, tuyên truyền về sản phẩm rau an toàn tới toàn xã hội, cho người tiêu dùng biết lợi ích của việc dùng rau an toàn và tác hại của việc ăn rau không sạch. Đồng thời phải làm cho người dân biết được và tin vào chất lượng cũng như vệ sinh của các loại rau an toàn đang được sản xuất và bày bán hiện nay. Nếu làm được những điều này sẽ không chỉ tạo ra lớp người tiêu dùng mớimà còn giúp củng cố lòng tin của người đang sử dụng sản phẩm rau an toàn.
- Đối với các địa điểm đang bán rau an toàn thì cần duy trì các cửa hàng bán rau an toàn, thực phẩm sạch đã có của các công ty rau quả, và của các thành phần kinh tế khác, có chính sách hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất mở rộng quy mô kinh doanh để làm nòng cốt mẫu mực cho các cửa hàng rau an toàn được phép mở tiếp theo. Tuỳ theo chủng loại sản phẩm để đầu tư phương tiện phục vụ bán hàng tương ứng.
- Khảo sát, lựa chọn, quy hoạch các cửa hàng, các siêu thị kinh doanh rau an toàn để có kế hoạch đầu tư, cải tạo, nâng cấp trang thiết bị phục vụ các bước mở rộng mạng lưới kinh doanh rau an toàn hàng năm. Nghiên cứu mở các cửa hàng rau an toàn tại các khu dân cư tập trung, đặc biệt cần quan tâm đến các khu đô thị sẽ hình thành.
- Các cơ sở sản xuất, các HTX tiêu thụ ở Hà Nội cần mở rộng liên kết hợp tác với các công ty rau quả, các cửa hàng rau ở các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, trong đó trước hết là các tỉnh, thành phố lân cận để thực hiện cung cấp sản phẩm rau an toàn phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư đô thị ở các nơi đây. Tuy nhiên, để làm tốt việc này thì phải tăng cường thực hiện công tác quang cáo và thông tin rộng rãi (qua các phương tiện thông tin đại chúng) về sản phẩm rau an toàn tới các tỉnh thành phố trên cả nước.
+ Đối với thị trường xuất khẩu
Hiện nay, thị trường rau quả của thế giới đặc biệt là ở các nước và các khu vực phát triển, đang tập trung chủ yếu vào các loại sản phẩm có chất lượng cao và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thậm chí tại một số khu vực như ở Bắc Mỹ, Tân Âu hay Nhật Bản trên thị trường không còn xuất hiện những sản phẩm rau quả thông thường, người dân ở đây đã được tiếp cận hoàn toàn với các sản phẩm sạch và an toàn. Điều này cho thấy, hiện nay nhu cầu về các sản phẩm rau quả an toàn của thế giới là rất lớn. Tuy nhiên, cũng tại một số nơi do điều kiện thời tiết, khí hậu và đất trồng không cho phép nên việc sản xuất và cung ứng các loại rau quả sạch không đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Để giải quyết tình trạng này,một số nước và một số vùng đã thực hiện nhập khẩu một khối lượng lớn các sản phẩm rau quả an toàn từ các nước khác.Như vậy từ thực trạng về cung cầu rau quả của thế giới hiện nay ,cho thấy việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu rau quả sạch và an toàn ở các nước có điều kiện sản xuất thuận lợi như nước ta là rất phù hợp . Việc xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở nước ta không chỉ cho phép khai thác các điều kiện lợi thế ở trong nước mà còn nâng cao giá trị của sản phẩm, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho người sản xuất và vùng sản xuất. Điều này đang mở ra một hướng đi mới trong việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm rau an toàn của Hà Nội trong những năm tới, đó là cần phải đẩy mạnh việc mở rộng thị trường xuất khẩu và coi đây là một trong những mục tiêu quan trọng của phát triển sản xuất cũng như tiêu thụ rau an toàn cần đạt được. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này không phải là việc dễ dàng, nguyên nhân không chỉ xuất phát từ những điều kiện còn hạn chế trong vùng sản xuất rau an toàn của Hà Nội mà nó còn ở yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh sản phẩm của người tiêu dùng nước ngoài. Do đó trong thời gian tới để khắc phục được những tồn tại và hạn chế, thúc đẩy phát triển hoạt động xuất khẩu thì đối với Hà Nội cần phải có những giải pháp thiết thực:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất rau an toàn không chỉ về sản lượng diện tích mà còn về chất lượng và chủng loại sản phẩm để tạo ra các sản phẩm rau an toàn đảm bảo tuyệt đối về chất lượng và vệ sinh, đa dạng về chủng loại và số lượng. Đây là điều kiện đầu tiên cần phải có để tạo ra sản phẩm rau an toàn đủ điều kiện làm hàng hoá xuất khẩu.
- Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến rau an toàn. Việc phát triển công nghiệp chế biến, cần phải tập trung mở rộng các cơ sở chế biến hợp với nâng cao thiết bị kỹ thuật và công nghệ chế biến. Đây là điều rất quan trọng bởi vì các sản phẩm phục vụ xuất khẩu phải là các sản phẩm có hàm lượng chế biến cao, đảm bảo thuận tiện cho việc vận chuyển và tiêu dùng. Để thực hiện phát triển công nghiệp chế biến có hiệu quả thì vai trò của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng. Một mặt Nhà nước tự đứng ra đầu tư xây dựng và hoạt động các nhà máy chế biến, mặt khác phải có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến, Ngoài ra nhà nước cũng phải thực hiện việc quy hoạch thống nhất giữa phát triển chế biến và phát triển các vùng trồng rau an toàn nguyên liệu. Chỉ có như thế thì việc chế biến các sản phẩm rau an toàn mới thực sự có hiệu quả.
Tiến hành hợp tác với các công ty, tổ chức nước ngoài về sản xuất và chế biến rau an toàn. Biện pháp này có vai trò rất quan trọng để thúc đẩy việc xuất khẩu sản phẩm bởi vì nó không chỉ cho phép tận dụng được vốn và công nghệ của nước ngoài để phát triển sản phẩm rau an toàn mà còn là điều kiện thuận lợi để đưa các sản phẩm ra nước ngoài thông qua chính các công ty và tổ chức nước ngoài đã đầu tư phát triển ở trong nước. Để làm tốt được điều này đòi hỏi Nhà nước cũng phải có hệ thống chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các dự án về sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau có sự tham gia của nước ngoài.
- Tăng cường tiếp thị quốc tế về sản phẩm rau an toàn của vùng. Thực hiện việc giới thiệu sản phẩm thông qua các phương tiện thông tin quốc tế (báo, đài, mạng internet...); tham gia các kỳ hội chợ trong và ngoài nước; giới thiệu sản phẩm rau an toàn Việt Nam với khách du lịch nước ngoài... các hoạt động này nhằm quảng cáo và giới thiệu hình ảnh sản phẩm rau an toàn trong nước tới thị trường tiêu thụ nước ngoài.
- Các nhà sản xuất và cung ứng rau an toàn trong nước cần liên kết hợp tốt với các công ty cung ứng rau quả ở nước ngoài để đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới.
- ở trong nước cần phải thực hiện chặt chẽ việc kiểm tra chất lượng sản phẩm rau an toàn từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, cấp giấy phép chứng nhận chất lượng cho những sản phẩm có đủ điều kiện, để tăng lòng tin của người tiêu dùng ngày từ trong nước.
Ngoài ra, để thực hiện việc mở rộng thị trường xuất khẩu thì người sản xuất, các cơ sở chế biến cần phải quan tâm hơn đến việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, chứng tỏ ưu thế của sản phẩm từ cơ sở mình, từ nhà máy mình, trên cơ sở đó xây dựng hình ảnh của sản phẩm rau an toàn trong lòng người tiêu dùng trong nước cũng như ở nước ngoài.
3. Hoàn thiện các hình thức tổ chức tiêu thụ rau an toàn
Các hình thức tổ chức tiêu thụ rau an toàn ở Hà Nội hiện nay gồm có: HTX tổ chức tiêu thụ; người sản xuất tự thực hiện tiêu thụ; các công ty, cửa hàng ký hợp đồng tiêu thụ rau an toàn với người trồng rau. Trước những thực trạng về kết quả cũng như tồn tại của các hình thức tổ chức tiêu thụ rau an toàn trong những năm qua, để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ rau an toàn trong thưòi gian tới chúng ta cần phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao và hoàn thiện các hình thức tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
+ Đối với hình thức HTX tiêu thụ sản phẩm
- Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động của các HTX tiêu thụ hiện có. Các HTX tiêu thụ sản phẩm đảm nhiệm các hoạt động thu gom, sơ chế và hoàn thiện sản phẩm, đóng gói các sản phẩm đủ tiêu chuẩn tiêu dùng rồi thực hiện bán buôn cho các cửa hàng, các nhà buôn. Với các hoạt động này, HTX phải tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả.
Với hoạt động thu gom các HTX phải liên kết chặt chẽ với người sản xuất, ký hợp đồng đảm bảo tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất song người sản xuất phải cung ứng các sản phẩm rau an toàn đảm bảo về chất lượng và vệ sinh. Phương tiện thu gom của HTX cần được nâng cấp hiện đại và phù hợp để đảm bảo chất lượng và vệ sinh sản phẩm.
Với hoạt động sơ chế và đóng gói, các HTX nên tổ chức thực hiện tại nơi tập trung rau sau khi đã thu gom để đảm bảo rau được sơ chế và đóng gói một cách thống nhất. Sơ chế và đóng gói phải đảm bảo duy trì chất lượng và sắc thái của rau . Sau khi sơ chế và đóng gói trên sản phảm cần phải co nhãn mác ghi rõ nơi sản xuất, người sản xuất và khối lượng rau.
Với hoạt động cung ứng rau cho các đơn vị kinh doanh khác, HTX cần phải có sự liên kết ràng buộc với họ, bán sản phẩm rau với giá cả hợp lý, đảm bảo lợi ích của người sản xuất, lợi ích của HTX và người kinh doanh rau có thể chấp nhận được. Đồng thời HTX phải tích cực mở rộng mạng lưới cung ứng rau an toàn cho các nhà hàng, khách sạn, trường học... không ngừng gia tăng sản lượng tiêu thụ sản phẩm.
- xây dựng và mở rộng thêm một số HTX thực hiện tiêu thụ rau an toàn cho các vùng trồng rau: Đây là việc làm rất quan trọng để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ rau ngày càng cao của người sản xuất, tạo điều kiện để người sản xuất có thể mở rộng sản xuất rau an toàn. Việc mở rộng HTX cần được thực hiện trên cơ sở xây dựng các HTX vừa thực hiện sản xuất và sơ chế, vừa tổ chức tiêu thụ sản phẩm, bởi vì với mô hình tổ chức HTX này thì việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm sẽ được thực hiện một cách thống nhất, khâu sản xuất gắn với khâu tiêu thụ... Đặc biệt khi thực hiện điều này các HTX sẽ có điều kiện xây dựng uy tín và khẳng định hình ảnh của sản phẩm rau an toàn do nó tạo của mình , do đó sẽ thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm rau an toàn trên các khu vực thị trường.
+ Đối với hình thức người sản xuất tự thực hiện tiêu thụ
Hình thức tổ chức tiêu thụ sản phẩm rau an toàn này hiện nay đang bộc lộ nhiều hạn chế: Giá trị của sản phẩm rau an toàn đươc bán thường không cao dó bị ép giá hay chất lượng sản phẩm không được đảm bảo. Do đó, lợi ích của người sản xuất không cao. Để khắc phục được điều này cần phải thực hiện một số cách làm sau đây:
- Những người sản xuất cần phải hợp tác theo nhóm với nhau để tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Điều này giúp cho người sản xuất không phải cạnh tranh với nhau và họ có thể tạo thành tập thể thống nhất làm hạn chế sự ép giá của các tư thương buôn bán rau.
- Những người sản xuất nên bán rau cho HTX tiêu thụ và các cửa hàng có ký hợp đồng. Việc này sẽ giúp cho người sản xuất tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn với giá bán được đảm bảo và số lượng bán được ổn định.
+ Đối với hình thức các công ty, cửa hàng kinh doanh ký hợp đồng tiêu thụ rau cho người sản xuất.
Đây là hình thức tiêu thụ khá tiến bộ, giúp cho việc bao tiêu sản phẩm rau an toàn được thực hiện một cách hiệu quả. Để nâng cao hình thức tổ chức tiêu thụ này thì cần:
- Tạo ra sự ràng buộc giữa các công ty và các cửa hàng rau với người sản xuất thông qua các hợp đồng cung ứng. Các công ty, cửa hàng đảm bảo việc thu mua sản phẩm với số lượng và giá cả như đã giao ước, người sản xuất cung cấp các sản phẩm đảm bảo chất lượng.
- Đối với các bản thân công ty và cửa hàng kinh doanh rau: Cần xây dựng ban hành và từng bước hoàn thiện các tiêu chí đối với các cửa hàng rau an toàn gồm các điều kiện như: nơi giao nhận, chứa đựng, sơ chế bao gói, có nước sạch, thông thoáng, thoát nước, có giá kê, quầy mát để trưng bày, bảo quản rau sạch. Quầy phải có biển hiệu, bảng giá, niêm yết đăng ký kinh doanh rau an toàn. Đội ngũ nhân viên kinh doanh phải có kiến thức về thương phẩm..., các cửa hàng tư nhân cũng phải có các điều kiện tối ưu kể trên mới được cấp giấy đăng ký kinh doanh rau an toàn. Các sạp kinh doanh trong chợ cần phải trang bị phương tiện để trưng bày bán rau an toàn, bảng giá, biển hiệu kinh doanh.
Như vậy, trên đây là một số giải pháp để hoàn thiện hình thức tổ chức tiêu thụ sản phẩm rau an toàn.
4. Hoàn thiện các kênh tiêu thụ sản phẩm rau an toàn.
Như ở phần thực trạng đã cho thấy sản phẩm rau an toàn của Hà Nội được thực hiện tiêu thụ 4 kênh.
Kênh 1: Hội sản xuất HTX tiêu thụ Cửa hàng bán lẻ người tiêu dùng
Kênh 2: Hội sản xuất Người tiêu dùng
Kênh 3: Hội sản xuất Chợ đầu mối Người bán lẻ người tiêu dùng
Kênh 4: Hội sản xuất Cửa hàng bán lẻ Người tiêu dùng
Với điều kiện của việc sản xuất rau an toàn, và thị trường tiêu thụ hiện nay, mỗi kênh tiêu thụ cho thấy những đặc điểm riêng của mình. Trong đó kênh 1 và kênh 4 thể hiện nhiều ưu điểm nổi bật hơn, tuy nhiên kênh 2 và kênh 3 cũng có vai trò nhất định riêng của mình. Do vậy, trong thời gian tới để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ phát triển thì việc hoàn thiện các kênh tiêu thụ cần được tiến hành theo hướng sau:
Với mục tiêu phát triển sản xuất hàng hoá tập trung và quy mô lớn, cần phải chuyên môn hoá khâu sản xuất và lưu thông bởi vậy, cần nâng tỷ trọng rau an toàn qua kênh tiêu thụ có tổ chức (HTX, hiệp hội trồng rau) và thu hẹp kênh tiêu thụ trực tiếp đến mức tối thiểu.
- Mở rộng thành lập các HTX tiêu thụ rau an toàn tại các vùng trồng rau nhằm tăng lượng rau an toàn được tiêu thụ qua các tổ chức này. Đồng thời phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX tiêu thụ đã có để kênh tiêu thụ rau an toàn có sự tham gia của HTX hoạt động một cách hiệu quả.
Khuyến khích mở rộng mạng lưới các cửa hàng bán rau an toàn, tước mắt là tại khu vực nội thành Hà Nội và tập trung vào khu vực đông dân cư. Các cửa hàng kinh doanh rau cần được hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ bảo quản sản phẩm và thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo đảm vệ sinh chất lượng.
- Thành lập các công ty kinh doanh rau an toàn ở Hà Nội. Đây là việc làm rất có ý nghĩa để mở rộng và hoàn thiện kênh tiêu thụ rau an toàn. Các công ty này đứng ra thu mua sản phẩm từ các Hợp tác xã, từ người sản xuất thông qua hợp đồng bảo đảm bao tiêu sản phẩm ổn định, sau đó cung ứng các sản phẩm rau an toàn cho mạng lưới các cửa hàng bán lẻ trên địa bàn, đồng thời có thể liên hệ tiêu thụ sản phẩm tới các tỉnh khác và kể cả thực hiện xuất khẩu. Để làm được điều này thì Nhà nước phải có chính sách ưu đãi tạo điều kiện để thành lập và hoạt động các công ty kinh doanh rau an toàn, Nhà nước có thể đứng ra thành lập công ty, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia vào việc này.
- Đầu tư xây dựng và nâng cấp chợ đầu mối tiêu thụ rau an toàn để làm nơi tập kết sản phẩm và thực hiện các hoạt động mua bán giữa những người thu gom và người bán buôn, bán lẻ trong và ngoài thành phố. Đồng thời với việc xây dựng chợ đầu mối, cần phải tổ chức tốt các hoạt động ở các chợ này, sản phẩm rau an toàn được bán tại chợ phải là những sản phẩm đảm bảo chất lượng, những người bán rau ở chợ phải là người có đăng ký kinh doanh (ít nhất là với ban quản lý chợ). Còn đối với ban quản lý chợ thì cần tiến hành kiểm tra chất lượng, số lượng và chủng loại của sản phẩm rau an toàn nhằm đảm bảo các hoạt động buôn bán tại đây được thực hiện một cách lành mạnh và hiệu quả.
- Các công ty kinh doanh, các HTX, các cửa hàng rau cần phải đầu tư để hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển chuyên dùng, các thiết bị sơ chế và bảo quản sản phẩm. Thực hiện điều này giúp cho việc lưu thông hàng hoá được dễ dàng và hiệu quả giữa các đơn vị tham gia trong các kênh tiêu thụ.
5. Tăng cường các hoạt động thông tin quảng cáo và xây dựng thương hiệu cho sản xuất rau an toàn
Đối với các sản phẩm rau an toàn mặc dù có những ưu điểm về chất lượng và vệ sinh so với các loại rau đại trà khác, song nó vẫn được coi là một loại sản phẩm mới của thị trường trong nước bởi vì vẫn còn khá nhiều người chưa biết về loại sản phẩm này. Do vậy các hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tới rộng rãi người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng để kích thích tiêu thụ sản phẩm. Trong thời gian qua công tác quảng cáo và thông tin tiêu thụ sản phẩm rau an toàn ở Hà Nội cũng như ở nước ta còn được thực hiện kém hiệu quả. Vì vậy, việc tăng cường công tác này trong thời gian tới là rất cần thiết.
Để đẩy mạnh được các hoạt động quảng cáo và giới thiệu sản phẩm và rau an toàn cần phải có sự kết hợp từ nhiều phía: Từ những người sản xuất và tổ chức tiêu thụ sản phẩm cho đến các cơ quan quản lý Nhà nước. Do vậy, việc xây dựng các giải pháp để nâng cao các hoạt động về quảng cáo và thông tin sản phẩm phải xuất phát từ chính các chủ thể trên và được thực hiện theo các hướng sau:
- Trước hết những người sản xuất và tổ chức tiêu thụ sản phẩm rau an toàn phải hiểu rõ về sản phẩm của mình, về tính năng và lợi ích của sản phẩm. Để làm được điều này thì các cơ quan khuyến nông phải phối hợp với các tổ chức chính quyền địa phương tuyên truyền rộng rãi cho người dân biết về sản phẩm rau an toàn, các tiêu chuẩn của rau an toàn, quy trình sản xuất rau an toàn và lợi ích của việc sản xuất cũng như tiêu dùng rau an toàn. Đây là một giải pháp rất cần thiết bởi vì chỉ khi những người sản xuất hiểu được về sản phẩm của mình thì họ mới có khả năng tự giới thiệu, tự quảng cáo tới những người mua.
- Bản thân những đợn vị tổ chức thực hiện kinh doanh về rau an toàn cần phải chủ động thực hiện các hoạt động giới thiệu sản phẩm thông qua việc nâng cao nghiệp vụ tiếp thị của những người bán hàng; đưa sản phẩm rau an toàn ra giới thiệu tại các hội chợ trong nước và quốc tế, trên các trang web của mạng truyền thông quốc tế (mạng Internet). Thực hiện giải pháp này sẽ giúp nâng cao hình ảnh của sản phẩm rau an toàn tới rộng rãi người tiêu dùng trong nước và nước ngoài.
- Để thực hiện tốt các hoạt động quảng cáo và giới thiệu về sản phẩm rau an toàn thì cần phải phát huy vai trò của các cơ quan Nhà nước. Đây là điều rất quan trọng. Các cơ quan Nhà nước phối hợp chỉ đạo việc thực hiện các hoạt động thông tin tuyên truyền về rau an toàn trên các phương tiện thông tấn báo chí. Đồng thời hỗ trợ kinh phí sự nghiệp không thu hồi cho việc tuyên truyền, nâng cao dân trí về sản xuất, tiêu dùng rau an toàn, đào tạo tập huấn nhân viên bán hàng, tuyên truyền thông qua khâu lưu thông bằng việc in tem, nhãn, tờ rơi, bảng chữ to các thông tin về rau an toàn và tiêu chuẩn rau an toàn. Tổ chức các chương trình chuyên mục về rau an toàn trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, kênh truyền hình) ,đưa vào giáo dục trong hệ thống trường lớp. Tổ chức kiểm tra việc áp dụng quy trình sản xuất rau an toàn của vùng sản xuất, kiểm tra chất lượng định kỳ hàng năm.
- Khi thực hiện các hoạt động quảng cáo và giới thiệu sản phẩm rau an toàn trên đài, báo, ti vi thì nội dung quảng cáo cần phải hấp dẫn, phù hợp với đời sống văn hoá của người tiêu dùng. Để rồi qua đó giới thiệu về những ưu thế và lợi ích của việc sử dụng rau an toàn trong cuộc sống hiện nay, tạo ra sự hiểu biết và niềm tin cho mọi người về sản phẩm.
Như vậy trên đây là một số giải pháp mang tính khái quát nhằm tăng cường hoạt động thông tin quảng cáo về rau an toàn trong thời gian tới. Thực hiện các giải pháp này đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc về lợi ích của việc tăng cường các hoạt động quảng cáo và giới thiệu về rau an toàn tới đẩy mạnh tiêu thụ rau an toàn và cần phải có sự quan tâm, hỗ trợ rất quan trọng từ phía các cơ quan ,ban ngành Nhà nước.
6. Nâng cao công tác quản lý thị trường đối với việc lưu thông tiêu thụ rau an toàn
Công tác quản lý thị trường đối với hoạt động tiêu thụ rau an toàn có vai trò rất quan trọng. Thực hiện công này một cách chặt chẽ và hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để khâu tiêu thụ được thực hiện một cách bền vững, bởi vì khi công tác quản lý chất lượng sản phẩm lưu thông, quản lý việc thực hiện các quy định về kinh doanh rau an toàn được thực hiện tốt thì thị trường sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm rau an toàn thực sự và người tiêu dùng sẽ tin tưởng vào chất lượng của rau an toàn đang được bán trên thị trường hơ. Do đó sẽ kích thích việc tiêu thụ các sản phẩm rau đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh hơn.
Chính vì lợi ích của công tác quản lý thị trường như thế nên việc nâng cao hoạt động của công tác này có ý nghĩa rất quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm rau an toàn ở Hà Nội cũng như ở các nơi khác. Trong thời gian tới việc nâng cao hoạt động quản lý thị trường đối với tiêu thụ rau an toàn cần tập trung vào những vấn đề sau:
+ Hoàn thiện và ban hành hệ thống các quy định về kiểm tra chất lượng sản phẩm và chế độ đăng ký kinh doanh của các chủ thể tham gia tiêu thụ rau an toàn, các quy định này được ban hành phải dựa trên việc đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng của rau an toàn.
+ Thực thi kiểm tra nghiêm ngặt các quy định về chất lượng sản phẩm rau an toàn trong lưu thông và các điều kiện kinh doanh của các cơ sở kinh doanh đã được ban hành, cụ thể là:
- Tổ chức kiểm tra liên ngành định kỳ hoặc đột xuất để phát hiện xử lý những vụ việc vi phạm. Đồng thời thực hiện việc cấp giấy chứng nhận chất lượng và giấy đăng ký kinh doanh cho các đơn vị kinh doanh đã đủ tiêu chuẩn và chỉ cho phép các đơn vị đã có các giấy phép mới được hoạt động.
- Kiểm tra cả các sản phẩm rau trước khi đưa ra tiêu thụ. Đối với sản phẩm tham gia xuất khẩu, cần thực hiện ngay việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hàng nông sản theo tiêu chuẩn của HACCP – Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu yếu và ISO. Đối với sản phẩm tiêu dùng trong nước cần được kiểm tra theo các quy định đã ban hành.
- Đối với các cửa hàng kinh doanh rau an toàn và các chợ đầu mối đòi hỏi các cơ quan chủ quản phải có sự quản lý chặt chẽ về tổ chức hoạt động cũng như lợi nhuận, để góp phần giúp các đối tượng này hoạt động trong khuân khổ một cách thường xuyên ngay cả khi không có sự kiểm tra của các cơ quan quản lý chuyên trách.
+ Khuyến khích việc thành lập các HTX, hiệp hội sản xuất và tiêu thụ rau an toàn, đồng thời thực hiện tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng kinh tế giữa người sản xuất và người tiêu thụ. Điều này tạo điều kiện để thực hiện việc quản lý quá trình lưu thông rau an toàn được dễ dàng hơn, các cơ quan dễ kiểm soát về chất lượng sản phẩm cũng như việc tuân thủ các điều kiện kinh doanh của các đơn vị.
Trên đây là một số các giải pháp về vấn đề quản lý thị trường đối với tiêu thụ rau an toàn cần được thực hiện trong thời gian tới. Các giải pháp này cần được các cơ quan chuyển trách thực hiện một cách thống nhất và triệt để làm lành mạnh thị trường tiêu thụ rau an toàn.
Như vậy với 6 giải pháp đã nêu trên, mặc dù còn mang tính khái quát song cũng là cơ sở để đề ra các cách làm cụ thể góp phần hoàn thiện tổ chức tiêu thụ sản phẩm rau an toàn của Hà Nội trong thời gian tới. Để thực hiện được các giải pháp này cần phải có sự nỗ lực từ nhiều phía: Từ chính những người tham gia sản xuất và tiêu thụ rau an toàn và từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, trong đó những người tham gia trực tiếp là những người quyết định trên cơ sở được tạo điều kiện thuận lợi từ phía cơ quan, ban hành Nhà nước.
Kết luận
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này đã cho thấy:
Hiện nay việc phát triển sản phẩm rau an toàn là rất hợp lí và cần thiết, đặc biệt là ở các vùng ven đô và ngoại thành như ở Hà Nội. Phát triển rau an toàn một mặt nâng cao hiệu quả kinh tế của những người trồng rau, vùng trồng rau, mặt khác tạo điều kiện để người tiêu dùng được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm rau chất lượng và đảm bảo vệ sinh, góp phần nâng cao đời sống xã hội.
Trong những năm qua, việc phát triển rau an toàn của Hà Nội đã đạt được những kết quả tích cực, qui mô sản lượng và diện tích rau an toàn tăng lên không ngừng qua các năm, người tiêu dùng đã có điêu kiện để tiêu dùng loại sản phẩm này. Tuy nhiên những kết quả mà sản phẩm rau an toàn đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của nó. Khâu tổ chức lưu thông tiêu thụ còn gặp nhiều khó khăn: Người tiêu dùng chưa tin tưởng vào chất lượng của sản phẩm, số lượng rau an toàn được tiêu thụ còn ít hơn so với sản lượng sản phẩm được sản xuất ra, các hình thức tiêu thụ và các kênh tiêu thụ rau an toàn hoạt động chưa hiệu quả trong khi nhu cầu tiêu dùng các loại sản phẩm đảm bảo về chất lượng và vệ sinh của người dân ngày càng tăng.
Trước thực trạng yếu kém này cần đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện tổ chức tiêu thụ rau an toàn của Hà Nội trong thời gian tới. Các giải pháp này phải xuất phát từ chính khâu sản xuất – khâu quyết định chủ yếu tới chất lượng, chủng loại và số lượng của sản phẩm, đồng thời phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức tổ chức tiêu thụ, các kênh tiêu thụ rau an toàn; tăng cường hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm rau an toàn để phát triển và mở rộng thị trường tiệu thụ. Thực hiện các giải pháp hoàn thiện tổ chức tiêu thụ rau an toàn sẽ thực sự không hiệu quả nếu như không tăng cường vai trò quản lí của nhà nước đối với việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy các giải pháp đúng đắn và hiệu quả cần phải được phối hợp thực hiện thống nhất giữa những người sản xuất rau, cung ứng rau trên cơ sở định hướng và giúp đỡ của các cơ quan nhà nước. Chỉ có như vậy thì mới có thể thành công trong việc nâng cao hoạt động tiêu thụ cũng như phát triển sản xuất rau an toàn trong thời gian tới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đề án tổ chức sản xuất và sơ chế rau an toàn giai đoạn 2002 – 2005 trên địa bàn Hà Nội (Sở Nông Nghiệp và PTNT – 2002).
2. Báo cáo chuyên đề “Xây dựng và triển khai mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn Hà Nội” (Sở Nông Nghiệp và PTNT – 2003).
3. Dự án qui hoạch vùng rau an toàn thành phố Hà Nội (Sở Nông Nghiệp và PTNT – 1996).
4. Báo cáo tổng kết sản xuất rau an toàn của 5 huyện ngoại thành Hà Nội từ 1996 – 2001.
5. Các qui định tạm thời về sản xuất rau an toàn (Bộ Nông Nghiệp và PTNT – 1998).
6. Quy hoạch phát triển nông nghiệp Hà Nội thời kì 2001 – 2010 (Sở Nông Nghiệp và PTNT – 2001).
7. Tiềm năng và thách thức của việc phát triển rau quanh năm và rau an toàn ở các vùng ngoại vi của Việt Nam (GS. TS Trần Văn Lài – 1999).
8. Báo cáo khoa học “xây dựng và triển khai mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn thành phố Hà Nội (Sở Nông Nghiệp và PTNT – 2004).
9. Nghiên cứu một số yếu tố môi trường và giải pháp phát triển rau an toan (PGS.TS Trần Khắc Thi).
10. Dự án rau an toàn huyện Thanh Trì
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT251.doc