Lời nói đầu
Việt Nam đang thực hiện cam kết của ASEAN, chương trình hành động chung(CAP) của APEC cũng như việc đàm phán gia nhập WTO, có nghĩa là chúng ta đã cam kết thực hiện hàng loạt các nghĩa vụ về cải cách sâu, rộng trong cơ câú và luật lệ hiện hữu, mở cửa kinh tế cho mọi đối tác.
Trong quá trình này, các doanh nghiệp Việt Nam phải là những đội quân tiên phong để có thể dùng hàng Việt Nam nói thay uy tín Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên để đạt tới mục tiêu đó, các doanh nghiệ
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1523 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p Việt Nam không thể không quan tâm tới hoạt động đầu tư – yếu tố quyết định sự phát triển và cũng là chìa khoá mở cửa vào thị trường nước ngoài.
Thực hiện đầu tư theo dự án đang ngày càng khẳng định tầm quan trọng của nó, bởi nó quyết định đến kết quả thực hiện dự án cũng như quyết định tính khả thi của dự án về vốn, kỹ thuật,...Một dự án đầu tư được thực hiện hay không không những tác động đến nhà đầu tư mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế, đến quy hoạch phát triển ngành, vùng của Chính phủ và đôi khi ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của một quốc gia. Vì vậy công tác thẩm định dự án là rất quan trọng, nhất là đối với các dự án nhóm A và các dự án vốn đầu tư nước ngoài.
Do nhận thức được tầm quan trọng của quá trình thẩm định dự án và nhận thấy quá trình thẩm định dự án ở Việt Nam còn một số hạn chế, đề tài này xin phân tích thực trạng cũng như nguyên nhân của công tác thẩm định các dự án đầu tư ở nước ta, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam.
Do đề tài còn mới mẻ và thời gian nghiên cứu không được nhiều, đề án này không thể không có những thiếu sót, mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Qua đề án, tôi xin gửi lời cám ơn TS. Nguyễn Bạch Nguyệt cùng các thầy cô giáo khác trong Bộ môn đã giúp tôi hoàn thành bài viết này.
Phần I
Lý luận chung về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư
I. Đầu tư và dự án đầu tư.
1. Một số khái niệm đầu tư.
ở tầm vĩ mô, đầu tư được nhìn nhận là hoạt động chi dùng vốn vào một hoạt động nào đó, có mục tiêu rõ ràng, thời gian đầu tư dài, tính bất ổn định và rủi ro cao.
Trên góc độ tài chính, đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu hồi vốn và sinh lời.
Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư là một hình thức hạn chế hoặc hy sinh tiêu dùng ở hiện tại để thu về một mức tiêu dùng cao hơn ở tương lai.
ở tầm vi mô, cũng có nhiều quan niệm về đầu tư.
Theo các nhà kinh tế, đầu tư là một dòng vốn dùng để thay đổi quy mô dự trữ đang có.
Theo các nhà quản lý, đầu tư hay chi phí của doanh nghiệp phải tạo ra được những dòng lợi ích mới.
Nói tóm lại, đầu tư có thể được hiểu là việc bỏ vốn hay tiêu dùng vốn cùng các nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm tạo ra hay thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
Đầu tư tạo tài sản cố định
Đầu tư vào hàng tồn trữ
Đầu tư phát triển nhân lực
Đầu tư vào tài sản vô hình
2. Dự án đầu tư và sự cần thiết đầu tư theo dự án
2.1. Khái quát về dự án đầu tư
Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư được thuận lợi, đạt được những mục tiêu như mong muốn đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. Có nghĩa là phải xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế- kỹ thuật, điều kiện tự nhiên- xã hội, môi trường... có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư , đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư , đồng thời dự đoán được các yếu tố bất định sẽ xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư, ảnh hưởng đến sự thành bại của công cuộc đầu tư ...Mọi tính toán, xem xét này nằm trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư và kết quả của nó là dự án đầu tư.
Một dự án đầu tư bao gồm bốn thành phần chính:
Mục tiêu của dự án: gồm mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế – xã hội do thực hiện dự án đem lại và mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần thiết để thực hiện được các mc đích cụ thể của việc thực hiện dự án.
Kết quả: đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng được, được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án.
Hoạt động: đó là những nhiệm vụ hay hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra các kết quả nhất định. Các hoạt động này cùng với lịch biểu và trách nhiệm hình thành kế hoạch làm việc của dự án
Các nguồn lực: vật chất, tài chính và con người cần thiết để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này tạo thành vốn đầu tư của dự án.
Trong bốn thành phần trên thì các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu sự thành công hay thất bại của dự án. Vì vậy, công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính nói riêng là cần thiết đối với các dự án để có thểe thu được các kết quả khả quan.
2.2. Đặc điểm của dự án đầu tư
Dự án đầu tư vừa mang tính tổng hợp vừa mang tính chi tiết: dự án là sản phẩm của sự tổng hợp rất nhiều yếu tố được xem xét tính toán trong quá trình lập dự án đầu tư, song dự án cũng mang tính chi tiết vì dự án đòi hỏi phải có sự cụ thể để thuận lợi cho việc quản lý sau này.
Dự án đầu tư có mục tiêu, mục đích rất rõ ràng: mỗi dự án thể hiện một hoặc một nhóm nhiệm vụ cụ thể cần được thực hiện với một bộ kết quả xác định nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó, đó là mục tiêu thời gian, chi phí và việc hoàn thành với chất lưọng cao nhất.
Dự án đầu tư có chu kỳ phát triển riêng và tồn tại hữu hạn: nghĩa là giống như các thực thể sống, dự án cũng trải qua các giai đoạn: hình thành, phát triển, có thời điểm bắt đầu và kết thúc.
Sản phẩm hay dịch vụ do dự án tạo ra mang tính đơn chiếc, độc đáo và mới lạ: khác với quá trình sản xuất liên tục, kết quả của dự án không phải là sản phẩm hay dịch vụ được sản xuất hàng loạt, nó có tính cá biệt cao và là sản phẩm hay dịch vụ mang tính duy nhất.
Tính bất định và độ rủi ro cao: hầu hết các dự án đầu tư đều được thực hiện trong một khoảng thời gian dài với lượng tiền vốn, vật tư và lao động rất lớn. Do đó, các dự án đầu tư (đặc biệt đối với các dự án đầu tư phát triển) thường chứa đựng nguy cơ rủi ro cao.
2.3. Sự cần thiết đầu tư theo dự án
Dự án đầu tư vừa mang tính tổng hợp vừa mang tính chi tiết. Do vậy, dự án đầu tư đặc biệt quan trọng để thực hiện những mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới chiến lược phát triển dài hạn của doanh nghiệp, đồng thời dự án đầu tư cũng là một trong những công cụ thực hiện kế hoạch thành hành động cụ thể và đem lại lợi ích kinh tế – xã hội cho địa phương, cho đất nước, lợi ích tài chính cho chủ đầu tư. Nhìn chung, tất cả các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư đều bị giới hạn về nguồn lực để thực hiện. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên cứu,o xem xét, tính toán để lập dự án đầu tư, chủ đầu tư đã tạo ra cho mình cơ hội được xin vay vốn của các định chế tài chính trong và ngoài nước kèm theo các điều khoản ưu đãi đặc biệt khác. Như vậy, việc lập dự án đầu tư và thực hiện đầu tư theo dự án là căn cứ quan trọng để chủ đầu tư có cơ hội khắc phục những hạn chế về nguồn lực phục vụ đầu tư.
Dự án đầu tư là kết quả của một quá trình phân tích cẩn thận và chính xác các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện đầu tư. Tiến hành đầu tư theo dự án sẽ giúp chủ đầu tư tiết kiệm được các nguồn lực nhờ những dự toán chính xác về tiến độ và vốn đầu tư trong dự án đầu tư.
Bên cạnh đó, thực hiện đầu tư theo dự án tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, tổ chức quản lý và bộ máy quản lý để theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Trên cơ sở đó, phát hiện những sai sót trong thực hiện đầu tư so với dự án đầu tư hoặc những yếu tố bất hợp lý giữa dự án đầu tư với thực tế thực hiện, để nhanh chóng đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm kịp thời đưa dự án đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Dự án đầu tư cũng là cơ sở, căn cứ có ý nghĩa quyết định để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
Một đặc điểm quan trọng của dự án đầu tư là tính bất định và độ rủi ro cao; trong khi đó, hoạt động đầu tư lại đòi hỏi vốn lớn và thời gian khê đọng dài. Vì vậy, dự thành bại của một công cuộc đầu tư có thể sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực kéo theo hàng loạt yếu tố khác thay đổi; giải quyết việc làm, giải phóng nợ, chiến lược phát triển dài hạn của chủ đầu tư phải điều chỉnh và có thể bị thay đổi hoàn toàn…Thực hiện đầu tư theo dự án có thể giúp hạn chế được những rủi ro này bởi một dự án đầu tư khả thi phải là khả thi khi mà các yếu tố quan trọng củâ dự án thay đổi theo hưóng bất lợi( giá đầu vào tăng, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp…) vẫn đạt được các mục tiêu đã đặt ra của dự án.
Như vậy, dự án đầu tư là kim chỉ nam, là tiền đề vững chắc việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế – xã hội như mong muốn. Đầu tư theo dự án là cần thiết tới sự thành bại của công cuộc đầu tư cũng như sự thành bại của công cuộc đầu tư cũng như sự thành bại của chiến lược phát triển doanh nghiệp trong dài hạn.
3. Phân loại dự án đầu tư
3.1. Căn cứ vào cơ cấu tái sản xuất.
Căn cứ vào cơ cấu tái sản xuất dự án đầu tư được phân thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.
3.2. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể phân chia các dự án đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng( kỹ thuật, xã hội,…) Các hoạt động này có quan hệ tương hỗ với nhau.
3.3. Căn cứ vào bản chất của dự án đầu tư.
Căn cứ vào bản chất của dự án đầu tư có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư thương mại, dự án đầu tư sản xuất và dự án đầu tư tài chính.
3.4. Theo thời gian thực hiện hay phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
Theo thời gian thực hiện hay phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra các dự án đầu tư được phân chia thành dự án đầu tư ngắn hạn và dự án đầu tư dài hạn.
3.5. Theo nguồn vốn được huy động để thực hiện đầu tư.
Theo nguồn vốn được huy động để thực hiện đầu tư có thể chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư có vốn huy động trong nước và dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài.
3.6. Theo cấp quản lý dự án đầu tư.
Theo cấp quản lý dự án đầu tư, các dự án đầu tư được phân thành dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án.
II. Tổng quan về thẩm định dự án đầu tư
1. Khái niệm
Thẩm định dự án là quá trình thẩm tra, xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các vấn đề cơ bản của dự án nhằm đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án từ đó ra các quyết định đầu tư hay cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án.
2. Mục đích thẩm định dự án
Khi một lượng vốn lớn đã bỏ ra đầu tư thì việc sửa chữa sai lầm là rất khó.Vậy mà đa số các dự án được thiết lập thường mang tính chủ quan, nhất là khi xem xét lợi ích cộng đồng. Chính vì vậy quá trình thẩm định dự án đầu tư là cần thiết để phát hiện và điều chỉnh các khiếm khuyết, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các đối tượng tham gia dự án. Mục đích của quá trình này nhằm:
Là cơ sở để các tổ chức tài chính- tiền tệ, cơ quan quản lý nhà nước đánh giá tính hợp lý, kết quả các dự án trên các giác độ khác nhau; từ đó lựa chọn các phương án tốt nhất.
Đánh giá tính phù hợp của dự án; tính hợp lý của các tài sản tài chính hình thành nên vốn đầu tư.
Giúp các tổ chức tài chính ra quyết định chính xác về cho vay hay tài trợ vốn cho dự án theo các quan điểm khác nhau.
Giúp các bên liên quan nhìn nhận những hại, lợi của dự án trên các quan điểm khác nhau để có biện pháp phối hợp, khai thác, khống chế, hạn chế dự án.
Xác định quyền hạn và trách nhiệm của các đối tác tham gia thực hiện dự án.
3. Vai trò của thẩm định.
2.1. Đối với chủ đầu tư
Công tác thẩm định sẽ đi sâu phân tích, làm rõ các khía cạnh, các chi tiết của dự án, giúp lựa chọn, phân tích tốt nhất, mang lại hiệu quả cao nhất hay thậm chí có thể đưa đến việc loại bỏ tất cả các phương án và đưa ra phương án khả khi hơn.
2.2. Với ngân hàng và các tổ chức tài chính tiền tệ.
Ngân hàng với tư cách là nhà tài trợ hoặc nhà cung cấp vốn cho dự án chỉ đầu tư khi biết chắc dự án có hiệu quả, có khả năng hoàn trả( vốn và lãi) đúng thời hạn. Vì vậy công tác thẩm định dự án đầu tư đối với ngân hàng là không thể thiếu. Mặt khác, công tác thẩm định dự án là cơ sở để ngân hàng xác định tương đối chính xác số tiền vayvà thời hạn cho vay. Thẩm định dự án đầu tư giúp cho ngân hàng ra quyết định có nên tài trợ vốn hoặc cho vay vốn hay không, nếu có thì theo phương thức nào. Thẩm định giúp cho hoạt động kinh doanh vốn của ngân hàng an toàn và có hiệu quả, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất mà vẫn thu được lợi nhuận.
2.3. Đối với Nhà nước và xã hội.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trước khi phê duyệt dự án sẽ quan tâm nhất đến vấn đề dự án đầu tư có phù hợp với mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội chính trị của quốc gia hay không. Chính vì thế, bên cạnh việc xem xét tính hiệu quả của dự án thông qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội, Nhà nước còn quan tâm đến sự phù hợp của dự án đối với chiến lược, định hướng phát triển kinh tế, xã hội và các lợi ích về kinh tế xã hội của dự án.
Các dự án đầu tư đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới môi trường mà dự án tồn tại. Với bản chất công quyền, Nhà nước phải đảm bảo tối ưu hoá các hoạt động chung của xã hội. Công tác thẩm định dự án đầu tư giúp loại bỏ những dự án không hợp lý trước khi nó có tác động xấu đến sự phát triển chung của toàn xã hội.
Bên cạnh đó, cần thấy rằng đối với một đất nước mà cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn, nguồn vốn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì việc ra quyết định đầu tư cho dự án nào là rất khó khăn. Việc ra quyết định không đúng sẽ gây những hậu qủa lâu dài, lãng phí thời gian và nguồn lực, làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Chính vì vậy, các cơ quan Nhà nước tiến hành thẩm định dự án đầu tư, so sánh các dự án với nhau và đem lại dự án hiệu quả nhất, tối ưu nhất tuỳ thuộc và từng dự án cụ thể.
Như vậy có thể nói rằng công tác thẩm định đóng vai trò quan trọng ở tầm vĩ mô và vi mô.
4. Phương pháp thẩm định DAĐT.
Để đạt được hiệu quả cao trong công tác thẩm định DAĐT, các dự án phải được nghiên cứu, phân tích và kiểm tra theo phương pháp khoa học, các kinh nghiệm quản lý thực tế và theo một trình tự nhất định.Thông thường có ba phương pháp được sử dụng trong quá trình thẩm định DAĐT.
3.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu.
Đây là phương pháp phổ biến và tương đối đơn giản. Những nội dung có thể định lượng được trong dự án thường được tính toán và thể hiện bằng các chỉ tiêu này. Có thể sử dụng phương pháp so sánh các chỉ tiêu của dự án với các chỉ tiêu chuẩn, các hạn mức, định mức được sử dụng để đánh giá tính hợp lý của dự án.
3.2. Phương pháp phân tích độ nhạy của dự án.
Các chỉ tiêu hiệu quả của một dự án đều được tính toán dựa vào các dữ liệu đã thu thập được và các số liệu dự báo. Do đó có thể bị sai lệch nhất là trong một tương lai xa khi tình hình khách quan mà chủ yểu là các yếu tố thị trường có những diễn biến không phù hợp với những điều mà ta đã dự đoán. Vì vậy khi cần xem xét tính chất ổn định của các chỉ tiêu đó trước tình hình thay đổi của thị trường, chúng ta phải phân tích độ nhạy của các chỉ tiêu đối với sự thay đổi đó và mỗi một dự án có độ nhạy cảm khác nhau đối với từng yếu tố tác động tới nó .
3.3. Phương pháp triệt tiêu rủi ro.
DAĐT biểu hiện một tập hợp những kế hoạch, những dự kiến trong tương lại và thời gian từ khi dự án còn bắt đầu hoạt động đến khi hến hạn thường không phải là ngắn. Do đó có nhiều phát sinh ngoài ý muốn và khó tránh khỏi những rủi ro không dự đoán trước được. Để đảm bảo tính vững chắc, hiệu quả của dự án người ta thường xác định một số loại rủi ro có thể xảy ra. Từ đó sẽ đưa ra được biện pháp về kinh tế hoặc hành chính thích hợp để hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro hay phân tán bớt rủi ro cho các đối tượng có liên quan đến dự án.
3.4. Phương pháp thẩm định theo trình tự
Thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, lấy kết trước làm tiền đề cho kết luận sau.
4.4. Phương pháp dự báo
Phương pháp này sử dụng số liệu dự báo, điều tra thống kê để kiểm tra cung cầu của sản phẩm dự án trên thị trường, giá cả, chất lượng của công nghệ, thiết bị, nguyên liệu,… ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, tính khả thi của dự án
4. Nội dung của thẩm định DAĐT.
4.1. Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật.
Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật là việc kiểm tra, phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ chủ yếu của dự án. Để đảm bảo tính khả thi về mặt thi công và xây dựng dự án cũng như việc vận hành dự án theo đúng các mục tiêu đã dự kiến. Việc thẩm định này được dựa trên các nội dung chính như quy mô của dự án, công nghệ và trang thiết bị, thẩm định việc cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào; thẩm định các điều kiện về nhân lực, cơ sở hạ tầng, môi trường; thẩm định về kế hoạch triển khai của dự án.
4.2. Thẩm định về nội dung thị trường của dự án.
Đây là một nội dung quan trọng và có ý nghĩa sống còn của dự án. Bởi lẽ thị trường là nhân tố cuối cùng quyết định sự thành bại của dự án đối với chủ đầu tư.
4.3. Thẩm định về phương diện tổ chức sản xuất và quản lý.
Trong nhiều trường hợp, mức độ thành công hay thất bại của dự án không phải do yếu tố thị trường hay kỹ thuật mà lại do chính năng lực tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện của các cơ quan có liên quan đến việc thực hiện và vận hành dự án. Vì vậy, đối với các dự án có yêu cầu đầu tư lớn và yêu cầu kỹ thuật cao cần phải xem xét năng lực thực tế của các cơ quan cũng như quan hệ phối hợp giữa chủ của dự án, các tổ chức thiết kế thi công cung ứng thiết bị, nguyên vật liệu và đội ngũ công nhân kỹ thuật chịu trách nhiệm vận hành dự án.
4.4. Thẩm định các chỉ tiêu kinh tế- xã hội của dự án.
Trên giác độ nhà đầu tư, mục đích cụ thể có nhiều nhưng quy tụ lại là yếu tố lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lợi đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét đánh giá việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, có nghĩa là phải xem xét khía cạnh kinh tế - xã hội của dự án.
Các chỉ tiêu thẩm định: Giá trị gia tăng thuần tuý NVA
Giá trị sản phẩm thuần tuý gia tăng quốc gia
Số lao động tăng thêm và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị vốn đầu tư
Tác động đến phân phối thu nhập và công bằng xã hội
Tiết kiệm và tăgng nguồn ngoại tệ
Khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm
Một số tác động khác
4.5. Thẩm định các chỉ tiêu tài chính dự án đầu tư.
Thẩm định tài chính nhằm đánh giá tính khả thi của dự án về mặt tài chính. Kết quả của quá trình thẩm định này là căn cứ để quyết định dự án có được thực hiện hay không, nhất là đối với dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Bởi một dự án hoạt động không thể không đem lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá thấp không đủ bù các chi phí cơ hội khác bị mất đi.
Trong giai đoạn hiện nay, hàng năm thu ngân sách từ các doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 45% tổng thu từ thuế. Vì vậy, đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước thì quá trình thẩm định tài chính là đặc biệt quan trọng.
Vì vậy nghiên cứu công tác thẩm định tài chính các dự án sử dụng vốn trong nước nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, từ đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả thẩm định là cần thiết.
Các chỉ tiêu thẩm định tài chính: Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư
Tỷ số lợi ích – chi phí (B/C)
Lợi nhuận thuần, thu nhập thuần (NPV,NFV)
Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T)
Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR)
Điểm hoà vốn
5. Phân cấp thẩm định dự án
5.1. Phân cấp thẩm định dự án vốn trong nước(theo luật đầu tư trong nước)
Thủ tướng chính phủ
Bộ KHĐT
Dự án đầu tư nhóm A
Dự án đầu tư nhóm B
Sở KHĐT
Các bộ, ngành, Tổng công ty
Dự án đầu tư nhóm C
UBND cấp tỉnh
Ghi chú: Có thẩm quyền xem xét
5.2. Phân cấp thẩm định các dự án đầu tư vốn nước ngoài (theo luật đầu tư nước ngoài)
5.2.1. Thủ tướng Chính phủ
Có thẩm quyền quyết định đối với dự án nhóm A
5.2.2. Bộ Kế hoạch và đầu tư
Đối với các dự án nhóm A, lấy ý kiến của các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh liên quan đến Chính phủ xem xét, trường hợp có những ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự án thì lập hội động xem xét trước khi trình chính phủ.
Đối với các dự án nhóm B, bộ Kế hoạch Đầu tư lấy ý kiến của các bộ ngành có liên quan trước khi xem xét quyết định.
5.2.3. UBND cấp tỉnh.
Tổ chức tiếp nhận hồ sơ dự án, thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư nước ngoài trong phạm vi được phân cấp.
5.2.4. Ban quản lý khu công nghiệp.
Được uỷ quyền cấp giấy phép cho các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, với điều kiện được quy định cụ thể trong các quyết định uỷ quyền của bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư cho các ban quản lý khu công nghiệp trên cơ sở đề nghị củâ UBND cấp tỉnh.
5.2.5. Chủ đầu tư.
Thẩm định những dự án tư nhân, nếu là công trình xây dựng phải xin giấy phép của chính quyền địa phương.
Phần II
Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư ở Việt Nam
Các cơ quan có chức năng thẩm định bao gồm: Thủ tướng chính phủ, Bộ và Sở Kế hoạch - Đầu tư, UBND cấp tỉnh và các bộ ngành có liên quan.
I. Về tổ chức thực hiện
Việc tổ chức các hoạt động thẩm định dự án tại các văn phòng thẩm định tương đối linh hoạt phù hợp với các đặc điểm riêng của từng dự án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Đã có sự phối hợp tốt giưã Văn phòng Thẩm định và các cơ quan hữu quan (Bộ quản lý ngành, UBND, Ban quản lý KCN, KCX, chủ dự án, tổ chức cho vay vốn, các đối tác,…) trong việc thẩm định, hoàn thiện, rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng thẩm định.
2. Về chất lượng công tác thẩm định
Nhìn chung công tác thẩm định đánh giá các dự án nhóm A và các dự án đầu tư nước ngoài là những dự án tương đối phức táp, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, đã được thựuc hiện một chách nghiêm túc chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu về thủ tục pháp lý và chuyên môn đồng thời thựuc hiện tương đối kịp thời đảm bảo thời gian theo quy định hiện hành và yêu cầu cảu lãnh đạo Bộ và cập có thẩm quyền phê duyệt. Nhiều dự án đã được đánh giá một cách nghiêm túc, đua vào thực hiện thể hiện được tính khả thi, phát huy tốt hiệu quả đối với nền kinh tế, điều này thể hiện tính hiệu quả của công tác thẩm định, trình độ chuyên môn của các cán bộ chuyên viên thẩm định.
Sau nhiều năm thực hiện quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, cán bộ thẩm định cũng có thêm nhiều kinh nghiệm và thông tin để đánh giá dự án. Việc thẩm định, đánh giá dự án không chỉ dựa vào các quy định, chính sách hiện hành của Nhà nước mà còn dựa vào kinh nghiệm của bản thân về các dự án tương tự đã được thực hiện trước đó và khả năng nắm bắt, tìm hiểu thông tin thực tế trong nước và quốc tế. Nhờ đó mà đánh giá được một cách tương đối chính xác các thông tin nêu ra trong dự án làm căn cứ cho việc ra quyết định. Cán bộ thẩm định cũng tập trung hơn vào các khâu cơ bản, không đi sâu vào các tình tiết dự án để rút ngắn thời giam thẩm định. Một số nội dung được chú ý đi sâu xem xét là ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, vốn đầu tư, hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội của dự án tương đối hợp lý và đem lại hiệu quả cao trong đánh giá, lựa chọn dự án. Cụ thể là nhờ đó mà các dự án được đưa vào hoạt động ngày càng cao sau đợt giảm đầu tư vào những năm 1998-1999, đưa lại lợi ích kinh tế xã hội ở nhiều lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, khoa học giáo dục, thông qua đó mà GDP tăng ổn định, đời sống kinh tế xã hội của nhân dân được nâng cao.
Bảng 1: Số dự án đã qua thẩm định tại Bộ Kế hoạch và đầu tư
Năm
1998
1999
2000
2001
Số dự án nhóm A
82
90
97
145
Số dự án ĐTNN
45
51
54
82
Tổng cộng
127
141
151
227
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 2: Số dự án đã trình TTCP
STT
Ngành
Năm 2000
Năm 2001
Số dự án
Tổng mức ĐT
Số dự án
Tổng mức ĐT
1
Công nghiệp
39
51439.2
38
72109
2
Nông nghiệp
17
13288.5
14
15501
3
Giao thông vận tải
19
28630.9
24
59027
4
Y tế giáo dục
16
22149.8
18
24514
5
Môi trường đô thị
9
2013.3
14
10416
6
Các lĩnh vực khác
22
42359.1
67
123975
Tổng cộng
121
160010.8
169
305542
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Về nội dung thẩm định
Những nội dung thẩm định tại các văn phòng thẩm định tương đối đầy đủ và phản ánh được những nội dung cần thiết trong đánh giá dự án. Thông qua các nội dung trên thì các văn phòng Thẩm định có thể đánh giá một cách toàn diện, khách quan các mặt cảu dự án. Việc xác định mục tiêu dự án phần nhiều là phù hợp và không có nhiều sai sót đáng kể, đặc biệt là xác định hiệu quả kinh tế xã hội về mặt định tính khá đầy đủ là cơ sở vững chắc cho đánh giá dự án.
1.4. Về mặt chuyên môn
Công tác thẩm định dự án đã huy động được sự đóng góp tham gia ý kiến của các Vụ, viện trong Bộ Kế hoạch và Đầu tư, những bộ ngành có liên quan, các tổ chức tài trợ, cho vay vốn, các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu và quản lý Nhà nước, các tổ chức tư vấn độc lập, các chuyên gia trong nước và ngoài nước tham gia đóng góp ý kiến về các vấn đề chuyên môn có liên quan. Các ý kiến của các chuyên gia phản biện, các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực được mời tham gia thẩm định hoặc đóng góp ý kiến có chất lượng chuyên môn cao là những đóng góp có giá trị và là căn cứ quan trọng để có quyết định cuối cùng về tính khả thi của dự án. Nhiều dự án được xét duyệt và quyết định đầu tư đã phát huy tốt hiệu quả và giữ vai trò quan trọng trong việc đạt được những mục tiêu chung của nền kinh tế do Nhà nước đặt ra.
Kết quả thẩm định các dự án nhìn chung là mang tính khách quan, khoa học, các nội dung kinh tế kỹ thuật và những đề xuất có tính khả thi tốt. Các kết luận và ý kiến đề xuất của cán bộ thẩm định về cơ bản là trùng khớp với ý kiến của tổ chức cho vay hoặc tài trợ vốn.
Nhìn chung, công tác thẩm định dự án trong những năm qua đã thực hiện được tương đối tốt, phần nào đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, đạt được những mục tiêu quan trọng và là một trong những công cụ hữu hiệu để quản lý tốt hoạt động đầu tư trong và ngoài nước.
II. Những hạn chế và nguyên nhân
1. Hạn chế.
1.1. Về quy trình thẩm định.
Quy trình thẩm định hiện nay tuy chặt chẽ nhưng còn phức tạp, phải qua nhiều khâu và tốn thời gian. Hơn nữa nó quá rắc rối nên có xu hướng làm cho các cơ quan có trách nhiệm chính trong việc thẩm định trở nên thụ động; việc thẩm định phải qua nhiều khâu trung gian làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định và kéo dài thêm thời gian của quá trình gây chậm trễ cho việc thực hiện dự án.
1.2. Về tổ chức thẩm định.
Công tác thẩm định chưa thức sự khẩn trương, thời gian thẩm định nhiều khi còn kéo dài hơn so với quy định, nhất là các dự án có độ phức tạp cao.
1.3. Về nội dung thẩm định.
Một số nội dung thẩm định chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Trong việc thẩm định mục tiêu dự án, các cơ quan thẩm định vẫn còn có những quyết định thiếu chính xác trong việc lựa chọn các lĩnh vực đầu tư của dự án phù hợp với mục tiêu phát triển. Việc thẩm định thường chỉ thiên về các chỉ tiêu mang tính định tính của dự án, ít chú ý đến các chỉ tiêu định lượng trong phân tích tài chính cũng như kinh tế xã hội của dự án, các chỉ tiêu này thường thiếu chính xác hoặc chưa đầy đủ, chủ yếu dựa vào các thông số được nêu trông dự án mà chưa có điều kiện kiểm tra tính chính xác của các thông số này. Việc sử dụng phương pháp tỷ suất chiết khấu xã hội tuy có nhiều ưu điểm song không phản ánh được giá trị thực thu, thực chi của dự án trong trường hợp có rủi ro và không sử dụng được để lựa chọn các dự án có nội dung kinh tế xã hội giống nhau. Thêm vào đó việc xác định các giá trị kinh tế thiếu nhất quán và phụ thuộc nhiều vào kỹ năng của người phân tích do hiện tại Việt Nam chưa quy định mức giá kinh tế để tính chuyển trong phân tích kinh tế dự án.
Chưa có biện pháp xác định tính khả thi trong phương thức tổ chức thực hiện dự án như các phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức đấu thầu nên nhiều dự án sau khi được phê duyệt gặp nhiều khó khăn trong những khâu đầu tiên này. Mặc dù phương thức tổ chức thực hiện dự án là một nội dung bắt buộc trong hồ sơ đề nghị thẩm định dự án song đã không được chú ý trong khâu thẩm định do đó không đảm bảo tính khả thi.
Việc thẩm định hiện nay chú ý nhiều đến thời gian thẩm định mà chưa coi trọng đến chất lượng và nội dung thẩm định.
2. Nguyên nhân của những hạn chế.
2.1. Công tác lập dự án chưa đảm bảo tính khả thi.
Chất lượng và hiệu quả của công tác thẩm định dự án phụ thuộc khá nhiều vào nội dung, chất lượng của dự án trình duyệt. Dự án được lập với đầy đủ nội dung và chất lưọng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định dự án. Các ý kiến đánh giá, nhận xét và kết luận về dự án sẽ đầy đủ và khoa học. Ngược lại nếu chất lượng dự án không cao, không đầy đủ những nội dung cần thiết sẽ gây khó khăn cho công tác thẩm định.
Hiện nay, công tác lập dự án đôi khi còn chưa đạt được những yêu cầu cơ bản, hồ sơ dự án thiếu một số yêu cầu tối thiểu khiến cho công tác thẩm định không tiến hành suôn sẻ được. Trong hồ sơ dự án nhiều khi có những nội dung không đáp ứng được những yêu cầu như năng lực tài chính, các chỉ tiêu cơ bản tính toán không chính xác. Một số dự án nêu về phương án thực hiện và giải phóng mặt bằng không hợp lý. Rất nhiều dự án phải bổ sung hồ sơ dự án theo yêu cầu của các bộ, ngành.
Việc lập dự án, chỉ căn cứ vào các điều 23, 24 của nghị định 52/1999/NĐ chính phủ, các điều này chỉ quy định những nội dung chủ yếu cần quan tâm của báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi. Do quy định này quá vắn tắt nên khi lập dự án, mức độ cụ thể và nội dung dự án được các chủ dự án và các Bộ, ngành, địa phưong vận dụng tuỳ tiện.
Về nội dung dự án, các điều 23, 24 của nghị định 52 chỉ quy định những nội dung chủ yếu cà quy định chung cho tất cả các loại dự án. Trong thực tếcó rất nhiều ngành kinh tế kỹ thuật và rất những lĩnh vực khác nhau, có những đặc thù riêng, đòi hỏi phải có nội dung và phương pháp lập dự án cụ thể, phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực. Các Bộ quản lý ngành và cơ quan liên quan không có những hướng dẫn cụ thể về nội dung và phương pháp lập dự án phù hợp, do đó nhiều dự án trình duyệt có chất lượng thấp gây khó khăn cho công tác thẩm định.
Về tư cách pháp nhân của chủ đầu tư: đối với các nhà đầu tư nước ngoài,các tài liệu xác nhận tư cách pháp nhân của họ chủ yếu là các bản chụp vì các cơ quan công chứng trong nước không nhận công chứng cho tài liệu của người nước ngoài nên không đảm bảo độ tin cậy.
Về năng lực tài chính của chủ đầu tư: trong rất nhiều trường hợp chủ đầu tư có đầy đủ tài liệu chứng tỏ n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35323.doc